- Trà Thất. - Chưa ngủ sao? Thế mà nằm yên lặng từ nãy đến giờ bắt người ta cũng phải yên lặng theo. Giọng người đàn ông tỉnh táo trách vợ, âu yếm, một thứ âu yếm quen thuộc, nói lên sự hạnh phúc bình yên, không hề gợn sóng của một gia đình may mắn trên nhiều phương diện. - Còn anh? Em cứ tưởng anh cũng ngủ rồi, hơi ngạc nhiên, sao ngủ mà ngoan thế, không nghe tiếng ngài ngáy như mọi khi. - Tại em đấy, ai bảo đã chiều rồi mà còn dụ dỗ người ta uống trà, bắt người ta thức. - Dụ dỗ, nói nghe đến phát ghét, tại mình đòi uống cho được, không tự kiềm chế nổi, còn đi trách người ta. - Kiềm chế gì, ma vương cám dỗ Bồ Tát. - Sao Bồ Tát không giỏi từ chối đi, làm anh hùng thử coi, để em uống một mình, em đã nhường cho, chia đôi chén trà thứ nhất, thế mà không biết cảm ơn. Mấy đời mới có một chén Bạch Trà ngon nhứ thế nhỉ, phải chịu là quá sức ngon phải không anh? Duyên như còn nghe hương vị ngọt ngào, thanh khiết của chất trà thoang thoảng trên môi, trong lưỡi, trong cổ. Nàng nuốt nước miếng, tưởng chừng như đang nuốt hương trà, vị trà thoáng ngọt, thanh khiết. - Thơm chi lạ lùng, đến nước thứ mấy chục vẫn còn thơm... Anh nhỉ? - Ừ khá thơm, phải chịu là đặc biệt. Hai vợ chồng kể tiếp tục câu chuyện, cãi qua cãi lại bằng một giọng cố hạ trầm, sợ làm thức giấc các con ở phòng bên cạnh, chỉ cách có một bức tường. - Nhưng hình như anh vừa nghe Duyên nói gì phải không? Em nói gì vậy? Suỵt, khẽ chứ, em nói gì, em có nói gì đâu? - Có mà, hình như em đang nói trà thất trà thiết gì đó, em có nói anh mới biết là em còn thức. - À... ờ nhỉ, em đang mơ đến một ngôi trà thất. Người đàn bà định trả lời cho qua chuyện rồi bỏ lửng không nói thêm nữa, vì đêm đã khuya, lại thêm sợ nói nhiều sẽ không tránh được sự tố cáo những ý nghĩ riêng tư của mình với chồng chăng. Ấn không chịu thua, tuy rất cưng và chiều vợ, tuy biết rằng đêm đã khuya cả hai đều cần phải ngủ nhưng chàng vốn ghét những câu chuyện, những ý kiến nào nói ra rồi bỏ dở sau đó. Ai nói gì với chàng là phải nói cho hết, làm việc gì cũng phải làm cho xong chàng mới chịu. - Nhưng sao em lại nói lên hai chữ ấy? - Thì em đã bảo với anh là em đang mơ đến một ngôi trà thất mà lạị.. - Nhưng sao lại một ngôi trà thất mới được chứ? - Tại vì... trà thất, tại vì trà thất là cái trà thất... Duyên lúng túng trả lời, chưa tìm ra lối thoát. - Biết rồi cái ghế là cái ghế, cái bàn là cái bàn, cô nầy đến vớ vẩn, ai chẳng biết trà thất là cái trà thất. Người chồng vừa nói vừa kéo dịch chiếc gối của mình lại gần vợ, nhất định bắt Duyên phải giải thích cho hết ý tưởng của mình, nhưng lại sợ nằm hơi cách xa nhau, phải nói cao giọng làm thức giấc các con. Ấn nhận thấy vợ mình mỗi ngày một đặc biệt hơn, độc đáo hơn, không phải như bao nhiêu người đàn bà khác, cậy có chồng con rồi là bỏ bê. Không chịu trau dồi thêm tư tưởng, không chịu học hỏi tìm hiểu, để cùng ngang một nhịp với chồng, không cho chồng được cái hân hạnh kiêu hãnh sung sướng vì vợ. Các bà cứ dùng những đứa con làm hậu thuẫn để rồi sau đó lại đi phàn nàn rằng chồng bỏ bệ.. Duyên biết tính chồng, thôi thì nhượng bộ, giải thích cho ông ấy yên lòng, nếu không thì rồi đến sáng cả hai cũng còn chưa ngủ. Duyên vẫn nói đùa là chồng mình chọn nhầm nghề, chàng đáng phải là công an mật vụ hoặc cảnh sát chuyên lấy khẩu cung mới đúng, chẳng bao giờ tha cho ai một câu. Vẫn bằng một giọng thì thầm, Duyên giảng giải, kể lể bên tai chồng, cho chồng nghe câu chuyện trà thất... Tại Nhật Bản, những gia đình khá giả ngoài ngôi nhà chính là tư thất người ta còn cất thêm một ngôi trà thất trong góc vườn. Nếu không có vườn thì chọn lấy một gian phòng riêng biệt ngay trong nhà dành làm trà thất. Bước chân vào trà thất, tâm hồn sẽ thanh thản, quên hết tất cả mọi sự tranh dành tính toán dơ bẩn của cuộc sống. Khách vào, phải bỏ dép đi chân đất cũng như chủ nhân, vũ sĩ cũng phải cởi bỏ vũ khí. Cửa vào trà thất không xây cao, bắt người phải cúi mình tỏ sự khiêm tốn, đoạn tục. Phần trang trí bên trong cũng phải đơn giản, do những bàn tay chuyên môn có đầy đủ kiến thức đảm nhận. Bình hoa cắm với tất cả nghệ thuật cổ truyền, đi cùng một bức tranh, hoặc hòa nhịp, hoặc tương phản với đầy dụng ý. Âm thanh của trà thất chỉ là tiếng nước sôi reo u ẩn như tiếng suối từ xa vọng về. Câu chuyện trao đổi giữa chủ và khách cũng không phải là thứ chuyện trần tục, một vài chữ, đôi ba lời đủ để hiểu nhaụ.. Được mời đến dự một buổi trà đạo là cả một sự hân hạnh, không phải ai cũng được cái hân hạnh ấy. Ngôi trà thất bé nhỏ không chứa quá năm người, chủ và khách đều ý thức rõ rệt, từng lời nói, từng cử chỉ, từng hành động của mình. Trà thất khơi nguồn từ những ngôi đền thanh bạch của các vị thiền tăng. Con đường từ bên ngoài dẫn vào trà thất là những bước đầu của sự suy tư nhập thiền, dứt bỏ mọi ưu phiền, quên hết mọi hỗn tạp của cuộc thế... - Ngủ rồi saọ.. Duyên ngừng. Tiếng ngáy nhè nhẹ bắt đầu, có lẽ chàng đã đi vào giấc ngủ từ lâu và giọng nói của người vợ như một giọng ru, hay giọng kể chuyện cổ tích mà ngày còn là chú bé, Ấn hay được nghe u già kể những câu chuyện cổ tích thần tiên. Đây cũng là một trong những điểm làm cho Ấn say mê vợ, Duyên khẽ gỡ cánh tay chồng nằm lùi ra xa, Ấn cũng trở mình quay ra phía quen thuộc của thân thể con người trong khi say ngủ. Duyên mừng thầm, thế là yên, chồng đã ngủ, nếu không thì ngày mai làm sao chịu nổi. Ngày mai lại là ngày xem mạch đặc biệt dành cho nhà nghèo mà Ấn đã bỏ ra mỗi tuần lễ một lần. Người nghèo đến đông, Ấn sẽ mệt, Duyên sẽ ân hận đã vô tình không cho chồng ngủ. Tuy nhiên, ân hận thì ân hận, Duyên vẫn hài lòng đã cho Ấn nếm được thứ trà ngon, dùng chữ của Quốc tức là đã "văn hóa" được chồng thêm chút nữa. Duyên vẫn thích được chia xẻ với chồng, cái gì cũng phải hưởng chung, có như vậy câu chuyện mới dồi dào, một bí quyết để bảo vệ hạnh phúc mà hình như có nhiều người đã bỏ quên. Theo lời Quốc, người bạn thân của gia đình thì đây là thứ Bạch Trà đã được Huy Tông Hoàng Đế phẩm định là Thiên hạ đệ nhất danh trà. Ông vua nầy là người đã chịu xuất ra rất nhiều tiền trong kho để tiêu dùng vào việc lùng kiếm những thứ trà quý. Thứ Bạch Trà nầy ngày trước chỉ mọc ở vùng Hổ Khâu, nơi chôn vua Ngô Hạp Lư, người ta mang giống đi trồng khắp các nơi đều không bằng. Ngày nay nhờ có những cố gắng của khoa học, người Đài Loan đã tìm cách gò gẫm ép buộc thiên nhiên chọn một vài vùng có không khí tương tự, cùng với sức lực trí tuệ của các chuyên gia, rồi nào chăm bón, hái trà, sấy trà, để gọi là cố giữ cho đúng cái hương vị của giống Bạch Trà tại Hổ Khâu ấy. Năm nào cũng có những nhà giàu đặt tiền mua hết cả đồi trà để uống riêng một mình chia với các bạn thân, đồng đạo, đồng chí. Của quý nghìn năm một thuở mà Quốc phải là người sành lắm mới được một ông bạn già ở Chợ Lớn nhường cho mấy ấm, chứ đâu phải dễ. Câu chuyện Trà Thất cũng do Quốc đã nhiều lần kể đi kể lại cho Duyên nghe và Duyên đã vui thích, nhớ mãi. Nhận thấy một ý nghĩa sâu sắc mà mọi người đều cần phải suy nghĩ lâu dài mới đủ sức lĩnh hội. Phải đọc, phải học, phải chịu khó tìm kiếm thêm để bổ túc cho sự hiểu biết nhỏ bé của mình. Ngày mai biết trước sẽ dậy muộn, mỗi lần gặp Quốc, uống trà vào là khó ngủ, Duyên đã cắt đặt công việc cho người làm, nấu món gì cho chồng con ăn sáng. Ấn ngủ say lắm rồi, Duyên có thể tự do thả tâm tư lang thang, tìm đến những nơi thầm kín có thể gọi là u ẩn mà ban ngày, hoặc những lúc còn đèn sáng, chưa chắc Duyên đã dám cho mình được với tới, giờ phút nầy Duyên có thể cho phép mình đi tìm ngôi trà thất. Mỗi người ai cũng phải cần một ngôi nhà để che nắng mưa, nhưng giá có thêm được một ngôi trà thất để tìm đến mỗi khi buồn, mỗi khi nghẹn ngào, cho tâm hồn được lắng đọng, gột bỏ mọi ưu tư, thì mới thật là lý tưởng. Cuộc sống sẽ sáng tươi, sẽ bớt nặng nề... Đây cũng chỉ là những ý kiến của Quốc mà Duyên chỉ nhắc lại với mình, hoặc với chồng một vài khi. Quốc như một vị thầy, một đạo sĩ, ra đề tài và Duyên là cô bé học trò, là một tín đồ ngoan ngoãn, chỉ biết theo đó mà làm bài, mà suy tư, hành động, nhắm mắt không dám cãi. Quốc, Nguyễn Kinh Quốc, hình ảnh người đàn ông ấy hiện ra rõ rệt trong đêm tối. Dẫu cho Duyên có đang nhắm mắt hay mở mắt, mà có lẽ khi nhắm mắt hình ảnh như lại càng sáng tỏ hơn, tưởng như chàng đang đâu đây. Duyên có thể nghe, có thể hỏi, có thể nhìn thẳng vào mắt, cho cái nhìn của mình được đắm chìm vào trong đôi mắt kia, dễ dàng như Duyên vẫn làm một vài khi. Mười hai năm trước. Mười hai năm qua rồi, ngày ấy Duyên là một nữ sinh trường bà Sơ. Mười bảy tuổi, tuổi của yêu đương của mơ mộng, mọi người đều bảo thế, nhưng Duyên không chịu tin, không tin cho tới ngày gặp tình yêu. Độ ấy là độ vừa thi xong phần tú tài thứ hai, cô nữ sinh có mái tóc uốn nhẹ, dài ôm bờ vai, hay buộc thêm cái nơ nhung đen như đôi cánh bướm. Mỗi khi trời nóng bức, để lộ chiếc gáy tinh khiết với vài sợ tơ măng. Duyên nổi tiếng là vừa xinh đẹp, vừa chăm học, lại vừa đứng đắn ngoan đạo nhất trường. Những yếu tố mâu thuẫn thường chẳng mấy khi đi cùng trong một người, vì nhan sắc và trí não là một sự sâm thương mà Duyên là một trường hợp đặc biệt để khẳng định cái luật ấy chăng? Hạnh kiểm nhất, học hành nhất, thể thao bóng rổ nhất, cái gì hay là Duyên phải nhất. Mỗi lần nhắc đến Kim Duyên là từ giáo sư đến học trò đều biết, đều hình dung ra được ngay cái dáng dấp đoan trang lại vừa duyên dáng của cô gái. Cô nữ sinh chưa hề làm một cử chỉ, một hành động nào để có thể bị phê bình hoặc mất lòng các Dì, các Mẹ, ngay cả các bạn trong lớp, ai cũng quý mến. Cuộc đời và tâm hồn cũng trong trắng như cánh hoa Huệ ngày chủ nhật trên bàn thờ. Trong khi các bạn gái đồng lứa chỉ thích mộng mơ, gặp nhau không trao đổi bài vở, không nói chuyện học hành mà chỉ khoe với nhau những bức thư hồng thư xanh, đo tầm quan trọng của nhau bằng những cánh thư chồng chất. Bàn bạc khen chê, nói lên những lời rên siết than niềm đau tuổi dại, hời hợt đi tìm những tác phẩm tâm tình dễ dãi đặt làm thần tượng, làm chủ đích của cuộc đời. Các cô cho Duyên là quê mùa. Là chưa biết sống, là thiếu kinh nghiệm, nói chuyện thiếu hấp dẫn, kém về thời trang! Mặc. Ai muốn chê thế nào thì chê, nói gì thì nói, Duyên cần học trước đã, vì tình yêu và học vấn là hai sự kiện khó song song. Hẳn vì tự biết tính mình cuồng nhiệt, học cũng cuồng nhiệt thì khi yêu chắc cũng phải không kém. Hơn nữa, Duyên muốn dành tất cả tình yêu để trao trọn cho một người, chỉ một lần mà thôi. Người ấy sẽ là chồng, là cha của các con mình. Không nên phung phí tình cảm vì Thượng Đế chỉ cho phép mỗi người được một lần yêu. Sau đó chỉ là tạm bợ, sống cho xã hội, đóng kịch cho vui lòng xã hội, vui lòng gia đình mà thôi. Người con gái ấy nhất quyết bước lên xe hoa với tâm tình nguyên trinh. Lý thuyết cả. Đêm văn nghệ ấy, Duyên vẫn như còn hình dung rõ, là một đêm đặc biệt của mấy trường hợp nhau tổ chức, cô gái được đề cử việc tiếp khách. Vì có sự bán quà giúp trẻ em mồ côi nên phải mời loại quan khách ngoại quốc lắm tiền. Cần phải chọn những nữ sinh nào vừa xinh đẹp, vừa biết ăn nói, Duyên được đề cử không còn lý do để từ chối. Mỗi lần nghĩ đến sự đứng đón từng người khách đưa vào tận chỗ ngồi Duyên còn rùng mình, thế mà có những người phải sống bằng nghề đưa chỗ, cũng như có những cô phải sống bằng nhan sắc, tức là lúc nào cũng phải xinh đẹp, như một đóa hoa không được phép tàn, không được phép khép cánh để nghỉ ngơi, thật là phản thiên nhiên. Đêm văn nghệ ấy không ngờ đã định đoạt được cả một đời người con gái. Làm sao quên, những màn kịch, đơn ca do các nam nữ nghệ sĩ trình bày thì cũng như tất cả các buổi đại nhạc hội khác. Độc đáo nhất chỉ có màn ngâm thơ dành cho người Việt và chỉ những người Việt nào biết thưởng thức, không mang tâm hồn đá cuội. Hai giọng ngâm điêu luyện, một giọng nam, một giọng nữ và tiếng sáọ.. Tiếng sáo sao mà tuyệt vời. Bài thơ của một tác giả không đưa tên phỏng theo bài Hạng Vũ biệt Ngu Cơ. Lực bạt sơn hề chí cái thế Thời bất lợi hề truy bất thệ Truy bất thệ hề, hà nại hà Sức phá núi chí anh hùng bao quát Nhưng hôm nay trời đã phụ tình ta Truy mã ngập ngừng, giang sơn đổ nát Ngu Cơ ơi, thôi hết rồi giấc mộng nguy nga Giọng ngâm thơ cảm động nói lên niềm đau của người anh hùng khi thất thế. Nhưng tất cả mọi sự, nếu đạt được kết quả, thu hút được hầu hết khán giả đều nhờ có tiếng sáo đệm. Tiếng sáo thiết tha u ẩn ngay từ khúc tiền tấu làm cho người nghe như tê dại. Khúc tiền tấu đưa đẩy theo giọng ngâm rồi cứ thế có lúc buông thả giọng ngâm mà vút lên, vút lên, lơ lửng trong không gian, có khi nghe như một tiếng thở dài, có khi là những tiếng nức nở nghẹn ngào, như oán, như hờn, hợp với lời thơ. Cuối bài thơ, giọng ngâm đã ngừng mà tiếng sáo vẫn tiếp tục dìu người vào cõi mê, tưởng chừng như đâu đây, Ngu Cơ đang về khóc lóc bên Hạng Vũ hay người anh hùng thất thế đang vuốt mắt cho người yêu được siêu thoát... Đại Vương ý khí tận. Tiện thiếp hà liêu sinh? Chí anh hùng đã đến hồi phải tận Thiếp xin chàng một chết vẹn trung trinh Màn hạ. Các nghệ sĩ ra chào quan khách, một số ở lại chuyện trò với ban tổ chức, với các nam nữ sinh, Duyên chỉ mong được nhìn mặt người thổi sáo nhưng chờ mãi, chờ mãi. Trong đám người được gọi là tài hoa xuất chúng, chẳng thấy bóng dáng nào có thể tạo nên giọng sáo đau xót ấy. Duyên đã thất vọng ra về, suốt đêm chập chờn với tiếng sáo, không làm sao ngủ trọn giấc. Duyên hỏi thăm mãi, quả như thế, ngươi thổi sáo đã bỏ về ngay sau đó, không thèm ở lại để đón nhận những lời hoan hô chúc tụng, những tràng vỗ tay phàm tục vô nghĩa. Duyên cũng nhận thấy sự vỗ tay là phàm tục chỉ dành cho những loại nghệ sĩ còn ngụp lặn trong đám lợi danh. Trái lại, đối với loại nghệ sĩ siêu đẳng như người thổi sáo nầy thì sau khi nghe trình diễn xong, mọi người đều phải cúi đầu như để mật niệm sự linh thiêng của vị thần sáo, rồi lặng lẽ ra về để cho âm thanh quyện quanh mình, theo dõi mình suốt đêm hôm ấy, ngày hôm sau, như thế mới đúng nghi thức của sự ngưỡng mộ. Duyên nhất quyết phải tìm gặp cho được con người nghệ sĩ không cần hư danh ấy, phải làm quen, phải xin nhận mình làm học trò. Con người đã có tiếng sáo điêu luyện như thế tất phải còn nhiều điểm cao siêu khác mà Duyên cần phải học. Hỏi thăm các bạn, càng biết thêm về người thổi sáo, Duyên càng ân hận, càng nóng ruột, tự trách mình sao hôm ấy không chạy ngay vào hậu trường khi màn vừa hạ, có phải không để lỡ mất cơ hội, và biết đâu ngày giờ nầy người ấy đã là thầy của Duyên rồi. - Đây là Kim Duyên, một cây chăm học, và đây là anh Quốc, tự Tiêu Lang, anh họ của tui. Một cây sáo phi chuyên gia nhưng đã từng làm cho bao nhiêu con tim héo hắt rụng rời, "phi" mà con hơn gấp mấy lần "không phi", và rất coi rẻ những tràng pháo tay. Phải không anh Quốc, không ghét pháo tay sao hôm ấy lại bỏ về ngay, báo hại làm cho bao nhiêu người ngơ ngẩn đốt đuốc đi tìm suốt đêm mà "Tìm anh như thể tim trâu, rừng xanh núi đỏ biết đâu mà tìm". Duyên hơi mỉm cười cắn môi để dấu sự ngượng nghịu. Câu chuyện giới thiệu đôi bên quá dài dòng của Phi Lan, em họ Quốc, câu giới thiệu còn được kèm theo câu ca dao lạ lùng khá hợp tình, hợp cảnh mà Duyên chưa bao giờ được nghe. Duyên phục Phi Lan, sao cùng học một trường mà Lan có vẻ thành thạo biết nhiều hơn mình, chẳng kém gì các cô học chương trình Việt. Một cảm giác mơ hồ thoáng qua, quan niệm của gia đình mình từ bao nhiêu năm nay đã sai lầm rồi chăng, đâu có phải chỉ vào trường Pháp mới là giỏi. Biết Phi Lan là em họ của người thổi sáo, Duyên đã cố tình làm quen, Phi Lan cũng thấy Duyên thắc mắc, muốn được biết người thổi sáo nên cô gái chịu về năn nỉ ông anh họ. Tuy không quen nhiều nhưng trong trường ai cũng biết tiếng Duyên, nhờ thế Lan mới chịu khó, chứ gặp các cô gái khác thì chưa chắc Lan đã chịu mất thì giờ về ca ngợi bắt ông anh phải xiêu lòng, phải chịu đi gặp cô bạn mình chiều hôm nay. Lan cũng rất mến Quốc, vì tính cô gái hay dùng chữ phi trong câu chuyện nên các bạn đặt ngay thành tên. Lúc làm thẻ kiểm tra cô gái cũng giữ luôn chữ Phi Lan cho nó lạ, khác người. Các bạn có người giảng rằng đó là bông hoa lan biết bay, nhưng cũng có người bảo Phi Lan tức là không phải Lan, mà không phải Lan thì chỉ có thể là Huệ. Lan chỉ cười, ai muốn hiểu sao thì hiểu. Thì ra con người ấy là Quốc. Người đã có tiếng sáo bắt Duyên phải bỏ ăn bỏ ngủ, thao thức, quằn quại cả hai ba tuần lễ nay. Tiếng sáo đã thu mất hồn của cô gái trong trắng, cũng là người mà giờ phút nầy đang bắt Duyên phải cúi mặt chớp đôi mi, lúng túng, thừa tay dư chân, tim đập như trống vào hội. Phải ăn nói thế nào, phải đi đứng làm sao đây, tìm cho được gặp để lúc gặp lại biến thành tượng đá hay sao? Quốc mới chỉ vào độ dưới ba chục tuổi, không lấc cấc, không thời trang, không bắt chước thứ kép chiếu bóng Hoa Kỳ như có một số con trai ngày nay. Anh chàng cũng đang nhìn Duyên, chưa biết nói câu gì, còn phải nhận định, đánh giá xem nên liệt vào hạng nào hạng tiểu thư nhõng nhẽo, hay là hạng búp bê để đưa đi dạo phố, hay là hạng con nhà thầu, sắp sửa bước theo chân bố đi thầu từ tình cảm đến sắt vụn và đống rác ở chợ Bến Thành. Kể cũng khó đánh giá vì ngày nay tiền bạc và các thứ mỹ phẩm đã giúp cho người quá nhiều để dối trá nhau. - Ê, nầy Phi Lan không có xuyên tạc đấy nhé, người ta về là vì người ta không có giấy đi đêm giới nghiêm nghe chưa, làm gì mà trách mãi, các cô thật là rắc rối. Duyên ngước mắt nhìn chàng trai như thầm đặt câu hỏi, còn em có rắc rối không? Cái nhìn đã được đưa vào ống kính của nhà nhiếp ảnh, nếu bảo tâm tư con người là cái máy ảnh. Duyên càng thấy mến Quốc, càng thấy gần và càng muốn gần hơn nữa. Duyên mến sự khiêm tốn, sự trầm tĩnh toát ra từ con người ấy, không cần đếm xỉa đến những phù phiếm bên ngoài. Kể cũng lạ, tại sao mới gặp Quốc, Duyên có thể mến ngay được, hẳn vì quãng thời gian chờ đợi đã xây cho tình cảm một cái đài cao, hay quả thật cái thuyết bảo rằng có những luồng điện là đúng. Hay định mệnh đã xếp đặt vì có thể là con người và tiếng sáo khác hẳn nhau, như những nhà thơ, những họa sĩ, nghe và nhìn tác phẩm thì thanh tao mà sự thực khi gặp con người thì quả là một khối thịt cân được những mấy tạ. Người ta bảo nghệ sĩ cũng giống như rượu có rất nhiều hạng mà thứ hạng nhất quả là khó kiếm, chỉ nhan nhản hạng nhì hạng ba, tuy nhiên khi nghe họ nói thì cứ tưởng như đó là hiện thân của nghệ thuật. Quốc không ở vào thứ hạng nhì hạng ba ấy, có thế nên Duyên mới cảm thấy êm ả, thoải mái ngay. May mắn nhất là cũng không phải như hoàn cảnh của Mỵ Nương và Trương Chi, Duyên mừng thầm, nếu Quốc là Trương Chi để cho Duyên phải đóng vai Mỵ Nương thì khổ tâm biết mấy, mặc dầu nếu xét cho kỹ thì Trương Chi mới quả thật là nghệ sĩ chân chính. Duyên vẫn chưa hết vụng về, lệ thường đâu có tệ quá như vậy, Duyên cũng như ai, cô gái học trường Tây, hoa khôi của vùng mặc đầm, từ thuở bé. Mới năm ngoái mẹ thấy lớn rồi, nếu không tập mặc áo Việt Nam sợ về sau mặc vào sẽ cứng người, khó trông. Nhờ thế mới có áo để mặc đi dạ hội đêm hôm ấy và đi gặp Quốc hôm nay. Nếu Quốc biết rằng Duyên đã sửa soạn, trang điểm từ tâm hồn đến nhan sắc như thế nào, chắc Quốc sẽ thương lắm. May nhờ Phi Lan có lòng đã nói qua về tính nết và ý thích của Quốc cho Duyên nghe, để Duyên còn chuẩn bị. Vả lại, với tiếng sáo ấy thì nhất định là tâm hồn phải khác đời. Qua tiếng sáo, Duyên cũng định được vị trí tâm hồn của chàng trai một phần nào, và sự trang điểm mất rất nhiều công của Duyên từ mấy hôm nay không phải là phí. Trước hết phải gội bỏ cái lối học trường Tây của mình, cái lốt nầy chỉ dành cho những dân tộc quen làm con dân thuộc địa mới ham thích. Thời buổi loạn ly, ở xứ nào cũng thế, chỉ có những anh chị chàng trọc phú, mới nổi lên, giàu trong mấy năm nhờ có chiến tranh, nhờ đi thầu hàng ngoại quốc mà phát lên, mới cần phải mang nó vào để còn mong che dấu những ai không quen phân biệt. - Có người muốn xin làm học trò, anh Quốc nhận không? Bằng lòng thì bảo ngay để mai còn xem ngày ra chợ mua xôi gà mang đến làm lễ khai tâm. - Ai vậy? Quốc đã biết mà cũng giả vờ hỏi. Phi Lan đã thay Duyên nói hộ, mở đầu câu chuyện, lý do của buổi gặp gỡ hôm nay. Trông thấy cô bạn gái của mình có vẻ lúng túng, vụng về đáng tội nghiệp nên Lan đâm thương hại hơn. Mấy hôm rồi Lan phải tả tình tả cảnh mãi, ông anh họ mới chịu đi gặp cô bạn gái. Chàng vốn sợ rắc rối, dính vào đàn bà con gái thường hay làm cho cuộc đời trở nên rắc rối. Kinh nghiệm đã cho biết một vài lần, và chữ rắc rối là chữ mà Quốc dùng để kết thúc cái hoàn cảnh bị yêu hay bị mất thì giờ, bắt phải suy nghĩ, cân nhắc của mình. Quốc cũng đồng ý với cô em họ, Duyên rất xinh. May ra thì cô gái nầy sẽ ít rắc rối hơn chăng, tức là nhan sắc đã làm dịu giùm đi những mối suy tư, Duyên không lộng lẫy, không mang vào mình một tấm nhan sắc búa tạ, ai gặp thì như bị búa giáng vào đầu làm xây xẩm mặt mày. Nhưng Duyên dễ thương, mặn mà, khuôn mặt đặc biệt Á Đông mà không bị những nét khiếm khuyết của người Á Đông. Học trường Âu, trường Tây từ thuở bé, nói tiếng Pháp như gió, ngôi sao bóng rổ, hoa khôi của trường, thế mà vẫn còn giữ được cái dáng dấp dịu dàng của người con gái miền Bắc. lại không có cái lối trề môi, nhún vai của loại con gái tân tiến, mới học đòi thói lai căng của đào chiếu bóng Âu Mỹ, ngỡ rằng phải như thế mới không bị chê là nhà quê. Quốc thuộc phái bảo thủ, tuy xứ Việt Nam sau bao nhiêu năm nô lệ với nội chiến liên miên, có muốn giữ cái vai trò bảo thủ cũng khó, còn gì nữa mà giữ gìn, mà bảo, mà thủ. Còn gì nữa đâu, từ những di sản ở bên ngoài đến những tư tưởng thuần khiết ở bên trong đều đã bị ăn cắp, bị chà đạp, bị mang đi, bị dày vò gần hết, còn gì nữa Quốc vẫn thường tự hỏi. Chiều nay Duyên mặc chiếc áo dài mầu tím than, cổ kính thuần túy, quần hàng trắng, chân đi dép trắng có vài chiếc quai đan đơn sơ, tất cả đều mong manh lả lướt, tơ nội hóa trang nhã mà đẹp vô cùng. Con gái Bắc quả là biết cách trang điểm, hình như mười hai bà mụ đã cầm tay dạy các cô ngay từ thuở mới lọt lòng mẹ hai điểm chính, thứ nhất là trang điểm, thứ hai là làm ăn buôn bán. Cưới con gái xứ Bắc mà số tử vi không bị hãm, hoặc bị những vì sao xấu số nó đóng nó chiếu vào thì tha hồ mà làm ăn nên. Dầu có vừa bị tra tấn ra mà cho các cô lấy một vài phút là các cô vẫn có thể chỉnh đốn y thường và nhan sắc lại ngay, không để cho điêu tàn xốc xếch như những người miền khác. Khi sa cơ lỡ vận, các cô vẫn có thể buôn bảo bán tần, buôn từ ông Tổng Thống cho đến tấm áo cũ, tùy giai cấp, tùy khả năng, hoàn cảnh để rồi phát triển lại, chẳng mấy chốc mà xây cơ đồ, nói gì đến thứ nuôi nổi năm con với một chồng của các bà Tú ngày xưa. Mầu áo mặc trong buổi hẹn đầu tiên tức là mầu gặp gỡ đầu tiên, mang một tầm quan trọng rất đáng kể, liệu có bao nhiêu cô ý thúc được. Tóc Duyên buộc gọn ra sau bằng một khúc lụa mầu tím nhạt, hòa nhịp với mầu tím than của chiếc áo, làm nổi bật làn da trắng hồng và ánh mắt đen ngơ ngác. Một lớp phấn mỏng phủ lên da, một thoáng son nhạt trên môi gọi là tiếp tay với thiên nhiên, chứ không cần thêu vẽ đủ năm sắc như các cô gái làm mẫu của thời đại. Tất cả đều thanh thoát, Quốc chợt nhớ đến thi sĩ Hàn Mặc Tử, đã gọi người yêu là người lụa, thì ra con người lụa vẫn là con người của muôn thuở không phải chỉ được xuất hiện có một lần. Giá Quốc là họa sĩ chàng sẽ nhờ Duyên làm mẫu cho mình vẽ, cố nhiên là vẽ loại tranh lụa. Quốc rất thích loại tranh ấy, nhất là lối vẽ thanh thoát của các họa sĩ Á Đông, lối vẽ mà quãng trắng mang tầm quan trọng không kém gì những quãng có mầu sắc đường nét. - Hai cô xong hết phần thi cử chưa, thoát nạn rồi đấy chứ, còn gì ưu tư nữa không? - Thưạ.. xong cả rồi. Duyên trả lời run rẩy, chưa nén hết xúc cảm, Phi Lan thấy tội nghiệp phải hứng nói đỡ cho bạn. - Nhất định là Duyên sẽ có điểm tưởng lệ đó anh ạ, tha hồ xin đi ngoại quốc. Học giỏi quanh năm, cả trường đều phải nể, nói đến Kim Duyên là phải thêm ba chữ Ngôi Sao Sáng để cho mọi người khỏi lầm. Duyên nhìn Lan, hơi cau mặt như muốn trách, sao đã biết mình đang trong tình trạng bối rối như thế nầy mà còn không tha. Ở vào lúc khác thì Duyên cũng có thể cãi vài ba câu nhưng hôm nay quả thật là Duyên đành chịu thua, và rất thèm được cái thái độ tự nhiên của bạn, người đứng ngoài có khác. - Chiều nay các cô làm gì? Có chương trình gì. Có thì giờ để đi khao với tôi không? Nghe Quốc hỏi luôn mấy câu, Duyên chưa biết phải trả lời thế nào, biết rằng mình chỉ mong có thế, mong cho cánh thời gian đừng bay nữa, để mình sẽ được ở mãi bên con người độc đáo nầy. Chưa quen mà đã thấy yêu, đúng với câu thơ của nhà thơ tiền chiến. Tập thơ mà Lan đã cho Duyên mượn để xem trước, gọi là trang điểm tâm hồn. Sửa soạn cho cuộc gặp gỡ được hoàn hảo. - Hoan nghênh ý kiến độc đáo và rất xây dựng của anh Quốc, đưa chúng em đi khao chiều hôm nay thì còn gì bằng, nhưng khao ở đâu đây? - Tùy đấy, các cô muốn đi đâu cho chọn. Duyên đưa mắt liếc về phía bạn hỏi ý kiến, vì giờ phút nầy thì quả là Duyên hoàn toàn xin đầu hàng, Quốc đưa tay lên nhìn đồng hồ rồi nhìn lên từng người, đợi ý kiến, mới có năm giờ chiều, còn khá nhiều thì giờ. Trời bên ngoài chưa tắt hết nắng, mầu nắng tuy đã nhạt bớt trên mấy ngọn cây, trên mầu lá, nhưng hơi nóng cả ngày vẫn còn hừng hực, từ mặt đường từ những bức tường của hai dãy phố toát ra. May nhờ một vài làn gió nhẹ thỉnh thoảng thổi tới như hơi thở nhẹ của người mẹ hiền, có thế mới làm cho dân Sài Gòn chịu nổi và mặc dầu sức nóng của mùa hè vẫn nhớ thương, vẫn chỉ muốn được trở về nếu có việc phải đi đâu xa. - Em đề nghị tụi mình đi ăn món Huế, có một nơi mới mở ở hẻm Phạm Ngũ Lão gần chợ Thái Bình, ngon dễ sợ, anh Quốc chắc chưa biết chỗ nớ nỉ. Phi Lan nhanh nhẩu đề nghị không cần hỏi ý kiến nhưng Quốc có vẻ ngập ngừng, có ai khao nhau mà mang vào đường hẻm bao giờ, nhất là những con đường hẻm ở Sài Gòn lắm khi phải đi qua nhiều vũng lầy, nhiều đống rác nhỏ, sợ mất phần hào hứng đi chăng. - Cô Duyên chắc thích món chả cá, ở Tân Định có biết hàng ấy không? - Không ạ, đâu cũng... Còn một chữ nữa mà Duyên nói chẳng ra, Duyên còn làm gì dám có ý kiến, ăn gì cũng được, đưa đi đâu cũng đi, chỉ cầu mong cho những giờ phút quan trọng nầy đừng mau chấm dứt. Duyên cũng không thấy cần ăn, một tuần nay Duyên đã ăn rất ít. Duyên không ăn được thức ăn cay, nghe bảo món ăn Huế cay lắm, người Trung làm món gì cũng có bỏ ớt, như người Nam nấu món gì cũng không quên bỏ nước dừa, nhưng Duyên sẽ cố gắng tập ăn cay. Làm sao để có thể giống như Phi Lan, vui vẻ, hồn nhiên, luôn luôn sẵn sàng đưa ý kiến, không có ý muốn dọa ai và không bao giờ sợ ai, giá lúc nầy Duyên cũng được như thế. - Sợ thức ăn Huế cay, cô Duyên không ăn nổi đâu, ăn xong mà khóc cả buổi, về nhà sưng mắt rồi lại oán... - Oán ra tận cửa phòng, nói cho mà biết. Duyên cau mặt nhìn Phi Lan, chẳng hiểu ý cô bạn muốn nói gì, sao lại oán ra tận cửa phòng. Cả ba cùng cười nhưng giọng cười của Duyên như lạc lõng, ngờ nghệch. Duyên hơi thấy mặc cảm, biết mình thua kém, giá Lan nói về Ronsard hoặc Musset hay ai ai đó trong những chương trình học ở nhà trường thì Duyên hiểu chứ những thứ ngôn ngữ nầy sao nghe lạ lùng, gần đấy, tưởng chừng như hiểu cả mà trái lại sao như xa vời không với tới, tuy cũng là tiếng Việt cả. Duyện tự hứa sẽ cố gắng, Quốc như đoán biết, chàng nói thêm có ý muốn giải thích, nhưng, với Phi Lan, câu giải thích đã trở thành một câu hứa hẹn, cô em họ nheo mắt cười chế rễu sau câu nói của Quốc. - Ô hay người ta có làm cho ai phải "sầu lên ngọn ải" đâu mà dọa oán người ta ra tới cửa phòng. - Có chắc không đây, chắc thì đưa tay móc quéo thề đi coi nào, và phải hứa rằng: "tui xin thề, không làm cho ai phải sầu lên ngọn ải" nữa cả. Câu hỏi vặn của Phi Lan cho Duyên một ánh sáng, có lẽ Quốc đã từng làm cho nhiều người khổ vì chàng lắm. - Rắc rối, Phi Lan sao hay rắc rối. Quốc lại trốn sau hai chữ rắc rối cho khỏi phải đi sâu vào vấn đề. Duyên cũng hẹn thầm sẽ tìm người nào để hỏi kỹ tại sao lại có hai câu ấy, tại sao lại có câu sau là oán ra cửa phòng hay đó chỉ một câu đùa mà thôi. Nói xong hai chữ quen thuộc của mình, Quốc đưa tay vẫy gọi người hầu bàn đến để trả tiền, xong đâu đấy, cả ba cùng đứng lên. Duyên liếc mắt nhìn số tiền nước để lại khá nhiều, cô gái càng mến phục Quốc hơn, biết bao nhiêu người đàn ông của thời đại, nuôi mộng làm lãnh tụ cả nước mà tính nết bần tiện, làm sao cho con dân nhờ, đó là một ý nghĩ mà có vài khi Duyên nghe các anh nói chuyện với nhau. Một chiếc xe tắc xi sơn xanh, trần xe mầu vàng, cũ kỹ nhưng vẫn còn chạy được, vừa lướt ngang, Quốc vẫy tay, Phi Lan đưa hai ngón tay lên môi làm bộ ta đây anh chị, biết cách gọi xe theo lối huýt còi làm Duyên bật cười. Xe ngừng, ba người đi vội đến, Quốc mở cửa cho hai cô gái lên ngồi ở phía sau, còn mình thì lên ngồi cạnh tài xế. Phi Lan nói địa chỉ rồi lên mặt thành thạo chỉ đường cho bác tài xể để tránh nạn kẹt xe. Suốt buổi ngồi trong xe cũng như ở quán Huế, Duyên chỉ biết lắng nghe câu chuyện giữa hai anh em Phi Lan. Duyên ăn thật nhỏ nhẹ, thỉnh thoảng lại chống đũa ngước nhìn ra chung quanh, trong lòng rộn ràng, tưởng chừng như ai cũng đoán biết được tâm trạng của mình, mải vui sướng mà quên cả ăn. Bàn nào cũng có từng chồng chén bánh bèo chất cao đợi người đến tính tiền. Tuy Quốc đã dặn bà chủ ngay từ đầu là làm món gì cũng phải có một đĩa, một bát đừng cho ớt, thế mà mấy lần cô gái phải mở ví lấy khăn tay ra chấm nước mắt, hẳn một phần vì xúc cảm, vì thấy mình được người ấy săn sóc đến, không chờ đợi, không hẹn trước. - Duyên khóc đấy ư, uống nước vào đi cho đỡ. - Không sao đâu anh, để Duyên tập dần cho quen. - Ấy chưa gì mà đã khóc rồi sao Duyên? Duyên xấu hổ vì bị bạn trêu, lại thêm có mấy bàn chung quanh hình như ai đang chú ý tới mình, không phải dân Huế mà cũng dám xung phong vào đây. - Tại sao cái dân miền Trung ăn gì cũng phải đòi cho thật cay mới thấy ngon nhỉ? Phi Lan hỏi xong vội tự trả lời, chắc tại trời hành, miền Trung là miền bị đọa đày, kẻ nào kiếp trước có nhiều tội lỗi thì kiếp nầy phải bị đầu thai sinh làm dân miền Trung chăng? Quốc không muốn đề cập đến những câu chuyện mà có lẽ chàng thấy hơi không đúng lúc, ai lại đi khao mà nói những câu chuyện gay cấn ấy bao giờ. - Bao giờ có cơ hội, cô Duyên về Huế mà ăn bánh bèo, phải chịu khó lên tới Nam Giao gần núi Ngự Bình kia, mới thật là chính hiệu. Ngày tôi còn đi học, mỗi lần lết chân lên khỏi hai cái dốc đến được ngã tư bánh bèo rồi là bao nhiêu mỏi mệt tiêu tan hết. - Đố anh tại sao bánh bèo xứ Huế ngon? - Chịu, biết thì Lan nói đi. - Tại tôm sông Hương uống nước sông Hương là con sông trong nhất thế giới. - Thật không Lan? - Đừng tin Duyên ơi, Lan hay đặt chuyện, cũng như câu chuyện dân miền Trung bị trời hành, trời không phải hành đâu mà là trời muốn thử thách đó. - Thử thách để làm gì cơ? Duyên đã bớt ngại ngùng bắt đầu đặt câu hỏi lại Quốc, cô gái như chợt gặp một ánh hào quang đang tuông tràn khắp cả cái quán nhỏ bé nghèo nàn nầy, trước mắt Duyên đây không còn là một cái quán ăn trong hẻm mà đã biến thành một chốn cung điện rực rỡ, câu trả lời của Quốc làm Duyên giật mình. - Thử xem sức chịu đựng của dân miền Trung đi đến đâu, có bền, có kiên nhẫn... - Để làm gì cơ? Duyên hỏi vặn thêm, Phi Lan cướp lời Quốc trả lời thay. - Để trao cho một sứ mệnh quan trọng. Quốc cau mặt, câu chuyện ra khỏi tầm một buổi ăn khao trong một căn nhà quá nhỏ bé. Chàng không muốn nó cứ tiếp tục như thế, đấy là những ý nghĩ mà Quốc như chỉ muốn dành lấy cất riêng một mình, để làm gì, không để làm gì cả, như anh chàng nuôi con bọ ngựa để chơi một mình, nhìn nó bò ra bò vào trong chiếc hộp sắt, thế thôi. - Nầy thôi, ăn đi không nói vớ vẩn, chẳng tại làm sao cả, tại cái dân miền Trung khá khôn ngoan, biết rằng ai ăn được ớt thì sống lâu, vì ớt làm an ninh cái dạ dày. - Thật không anh, thế thì Duyên phải tập ăn thật cay mới được. Nước chè có bỏ chút gừng ngon chi lạ, Duyên uống thử đi mà xem, chịu là ngon chưa? Duyên nâng cốc nước lên uống luôn một hơi rồi đặt cốc xuống bàn trả lời bạn. - Chịu, quả là đặc biệt, ai ngờ nhỉ. Quốc nhìn Duyên, Duyên cũng ngước mắt nhìn lại, cô gái đang thầm phục cái dân mà, như Quốc vừa nói nghèo mà khôn, chẳng biết có phải vì quá nghèo nên trời cho trí khôn để sống chăng. Ngày mai Duyên sẽ dặn riêng chị bếp đi chợ phải nhớ mua thật nhiều ớt cho Duyên ăn, hẳn cả nhà sẽ ngạc nhiên, Duyên sẽ giải thích bảo ăn ớt sống lâu, chắc là rồi cả nhà cũng sẽ dành ăn vì ai chẳng muốn sống lâu mà hưởng sự sung sướng. Phi Lan còn muốn trở lại với cái dân tộc Do Thái được trời chọn và cả dân tộc miền Trung cũng đang được trời chọn nhưng bị Quốc gạt đi. - Thôi xin cô cất cái dân tộc "được chọn" của cô lại để dành vào hôm khác. Phi Lan nhìn Duyên rồi nhìn ông anh họ mỉm cười, nụ cười tinh quái, trêu ghẹo, biết rằng cô bạn gái đã bị ông anh thu mất hết hồn vía, bị ngay từ hồi mới nghe tiếng sáo, Phi Lan quay lại nói thầm với Quốc, một câu mà nếu có nghe được, chắc Duyên cũng không hiểu. - Ba hồn chín vía con về ăn cơm cá cha mẹ... Quốc cau mặt mắng cô em họ. - Nói bậy nhé, người tạ.. Bị mắng, cô em gái lại càng tin chắc hơn là lần nầy ông anh cũng đã cắm câu, không còn dám tỏ ra gỗ đá nữa. Con người nổi tiếng là "Thiên hạ đệ nhất vô tình" mà hôm nay cũng biết kiêng cữ. Câu hú hồn nầy chỉ dành khi nào trẻ con bị ngất đi, bố mẹ mới phải dùng đến để hú hồn về, chứ ngày thường chẳng mấy ai nói. Tiếng sáo mà Lan vẫn gọi là phi chuyên gia ấy, đã từng làm ướt cá chục tá khăn tay của bao nhiêu đàn bà con gái. Thế mà người thổi sáo lúc nào cũng như có bàn tay bịt mắt che tai, không lấy đó làm điều kiêu hãnh như những người khác. Trái lại, Quốc vẫn trốn những buổi văn nghệ, những buổi hội họp của các hội thơ nhà giàu, tổ chức để ăn uống với nhau cho thỏa thích rồi sau đó mới bắt các nghệ sĩ nghèo ra ca ngâm những tác phẩm của mình, bắt mọi người phải thưởng thức, và cố nhiên là phải trầm trồ khen ngợi, nói những lời tâng bốc mà lắm khi chính tác giả cũng biết thừa ra rằng người ta chỉ làm bổn phận sau khi đã ăn bữa tiệc của mình đó thôi. Mấy lần Quốc cũng bị đưa vào tròng, bắt phải thổi sáo để đệm những vần thơ ấy, chẳng khác nào như gấm vá áo vải bố rách. Nhà giàu vốn thích khoác thêm áo văn nghệ lên mình vì sợ người ta biết tông tích của sự giàu sang do từ đâu đến. Sau một vài phen bị mời, Quốc nhất quyết từ chối tất cả mọi buổi họp, thế là khỏi lo. Các bạn la rầy, chê bai, bảo phải đổi tính đi chứ cứ như thế thì ai chịu nổi. Có người đặt tên Quốc là Tiêu Lang, ngôi nhà chàng ở được mang tấm biển kẻ ba chữ Thái Hoa Sơn, là tên ngọn núi của Tiêu Sứ ngày xưa đã từng ở để thổi sáo. Chỉ còn chờ Lộng Ngọc nữa là đủ bộ, hai người có thể cưỡi hạc để bay lên trời, thoát tục. Nhưng đời nay làm gì còn có Lộng Ngọc, Quốc vẫn cãi với các bạn như thế. Nhìn ra chung quanh toàn một thứ sản phẩm của đô thị, rập theo mẫu các tờ báo Âu Mỹ gửi đi bằng đường hàng không. Họ hàng tin rằng Quốc là cốt nhà sư, vì tính chàng hiền lành không bao giờ nghe cãi nhau hoặc giận hờn nhau với ai, lại trốn đàn bà, sợ phiền phức, khác hẳn với các bạn cùng lứa. Được Quốc hẹn cho đi xem triển lãm họa theo lối cổ Á Đông, Duyên mừng lắm, mấy đêm thao thức chờ đợi không ngủ được, lúc nào cũng chỉ mong cho chóng đến ba giờ chiều hôm ấy. Biết rằng sống trong chờ đợi vẫn có một thứ hạnh phúc thi vị khác biệt, không phải là không gợi hứng. Con người phải biết mang ơn Thượng Đế đã cho mình làm người, đã tạo ra thế giới loài người để đặt mình sống vào đấy. Liệu những hành tinh khác có được như quả đất nầy không? Nếu Thượng Đế không buồn tình, ngồi tẩn mẩn nghĩ ra sự sáng chế một thế giới loài người thì sao nhỉ? Làm gì có Quốc? Làm gì có Duyên? Làm gì có tiếng sáo hôm ấy và cuộc đi xem triển lãm hôm nay. Tuy vẫn chưa có dịp để được nghe lại tiếng sáo, nhưng Duyên vẫn đang như ngây ngất, đang vui, đang tràn trề hy vọng. Trong cái nhìn, trong giọng nói của Quốc, như có chất chứa một chút hứa hẹn. Người con gái được trời cho nhan sắc và trực giác để làm khí giới, cũng như người con trai nhận của trời sức khỏe và ý chí, can đảm, để đánh nhau với thiên nhiên. Duyên nghĩ như thế, và lạ lùng chưa, quả là từ ngày biết Quốc, Duyên cũng đâm ra biết suy nghĩ, biết tìm tòi các thứ sách vở hỏi thăm người nầy người khác, một câu ca dao, một vấn đề. Nhờ trực giác, Duyên tin chắc rằng Quốc cũng không thể hờ hững với mình. Lắm khi đang ở cạnh mẹ hoặc đang đọc sách hay làm một việc gì, Duyên bỗng cảm thấy nôn nao, ngỡ rằng Quốc đang nghĩ tới mình đang chờ đợi mình. Nhà lại có chị ở rất hay tin nhảm, từ trước mỗi khi nghe nói đến, đều bị Duyên phê bình là nhảm, dị đoan vì các cha ở nhà thờ hay bảo thế, chị ở có tài nghe chim mà phân biệt được chim nào là chim khách, tiếng chuột rúc cũng là để báo tin vui cho chủ nhà, mắt giật vào giờ nào thì có người xa tới, hoặc có người đang nhắc mình, Duyên rất thích hỏi chị ở để biết thêm những thứ tin nhảm ấy, ngày nay đối với Duyên nó mang một tầm quan trọng lãng mạn khác hẳn. Mẹ Duyên, bà Mỹ Hưng vẫn bảo từ khi sinh Duyên ra thì cả nhà đều gặp may mắn các anh học hành giỏi, bà cũng buôn bán phát đạt, mỗi ngày một phát đạt hơn. Duyên là con cầu tự, bà phải đi lễ cả năm, qùy rục gối mới được Đức Mẹ ban cho, người mẹ tin rằng vì số Duyên may mắn nên mới xui bố mẹ làm ăn phát đạt, như thế có gọi là tin nhảm không? - Sau nầy ai có phúc mới được rước con gái bà về làm vợ, tha hồ mà xây dựng cơ đồ. Đó là câu người mẹ vẫn nói với mình, với chồng con, sự thực thì chỉ có số hồi môn và các món nữ trang bà mua để dành cho con gái cũng đủ sống mãn đời rồi. Số Duyên quả thật là may mắn, tình yêu thứ nhất mà được đền đáp lại, trong khi có bao nhiêu cô gái bước lên xe hoa về nhà chồng với một mối hận dài. Biết bao nhiêu người yêu mà bị hắt hủi, gặp tử địa để rồi sống dở chết dở. Duyên không bị rơi vào những hoàn cảnh ấy, tin rằng Quốc sẽ yêu mình tương đương với tình mình dành cho chàng. Đứng trước cánh tủ gương lớn soi cả người, Duyên quay tới quay lui mấy lần để ngắm xem nếp áo chị ở là có thẳng, đường tà có nhăn nhúm. Duyên cảm thấy hài lòng với chiếc áo mầu cát bể rất phù hợp với ánh nắng chói bên ngoài. Trời nóng mầu cát bể gợi về tiếng sóng, tiếng gió rừng thông và sẽ dìu tâm tư người đi vào đại dương. Quốc sẽ thích lối trang điểm, lối ăn mặc của mình, Duyên tin chắc như thế. Mái tóc nầy được buộc lên bằng một giải nhung mầu nâu đậm thanh tao, tương phản với cái gáy trắng hồng, với những sợi tóc tơ lòa xòa đen huyền. Ngày nào quen thân với Quốc, chắc Duyên sẽ đổi kiểu tóc, đố ai biết được vì sao, một lý do thầm kín, bí mật, nhưng rất dễ hiểu, kiểu tóc ấy chỉ là sự vứt bỏ giải lụa cho tóc sổ tung, xòe ra, che mặt, che cổ. Người quen sẽ không thể nhận biết, không bị ai mách với mẹ và các anh, hoặc dẫu mẹ hay các anh có bắt gặp cũng không ngờ là con em mình. - Duyên hôm nay đi đâu mà ăn mặc, trang điểm xinh quá vậy con? Bà Mỹ Hưng ây yếm nhìn con gái kiêu hãnh hỏi, thầm nhận rằng con gái mình càng ngày càng thêm xinh. Đã có nhiều đám nhắn nhe, nói xa nói gần, đòi làm mai làm mối. Nhưng nhìn kỹ, đám nào cũng không xứng đáng. Lại còn phải so đôi tuổi, phải xem xét gia thế. Con gái bà nào phải ươn thiu gi mà lo tống vội tống vàng, con bà là châu, là ngọc. Không dò xét cho kỹ để đi kết thông gia với cái quân bạc đức, về sau chỉ có con cháu bà khổ, tội vạ gì. Nhất là với mấy chục năm chiến chinh, biết bao nhiêu người đã nên danh nên phận nhờ ăn chặn, nhờ lọc lừa, nhờ dối trá. Ra đường thì oai vệ lắm, tiền hô hậu ủng, mà thử đưa móng tay cạo sơ cái lớp sơn bên ngoài thì nó thòi ngay lớp gỗ tạp, mối ăn rỗng cả ruột bên trong. Một số người con mang tội với dân tỵ nạn từ miền Bắc vào, lấy tiền của dân tỵ nạn, tội ấy rồi sẽ phải trả đến đời con cháu. Một vị linh mục chuyên trông nom cho dân tỵ nạn miền Bắc đã từng phàn nàn với vợ chồng bà, ngài bảo Chúa sẽ không tha đâu. Bà Mỹ Hưng cũng không đồng ý với các bà bạn khác cứ kêu rằng có con gái trong nhà như giữ quả lựu đạn, chẳng biết lúc nào nó nổ, gặp đám nào cũng lo đánh tiếng, tìm đủ mọi cách mà bẫy cho vào tròng. - Con đi xem triển lãm ở khách sạn Continental, vào lối sáu giờ con về, mẹ cho phép nhe. Duyên nói cho có lệ chứ biết rằng mẹ không bao giờ từ chối, ngăn cản vì quả thật là từ xưa Duyên chưa hề dối mẹ, và người mẹ lúc nào cũng tin con gái. - Con bảo tài xế đưa đi chứ trời nắng thế nầy mà ra đón tắc xi ngoài đường thì bụi bẩn hết cả quần áo. - Mẹ không cần xe đưa đi đâu sao? - Không, mẹ ở nhà chiều hôm nay, nhưng ba con cần xe đón vào lối năm giờ, con dặn tài xế đón ba con rồi ra trở lại đón con sau. - Thôi, lúc về có tắc xi ngay đấy. Quốc chờ Duyên ở phía cửa trước khách sạn, Duyên dặn tài xế khỏi cần đón mình, xong rồi mở cửa bước xuống xe, cố ý chậm rãi bước đợi cho xe đi khuất, chẳng muốn cho người tài xế biết có ai đang chờ mình. Người ăn người ở vốn tò mò, ngày xưa thì chẳng sao chứ bây giờ cần phải cẩn thận. Tình cờ không hẹn mà Quốc cũng mặc chiếc sơ mi gần cùng một mầu với tấm áo dài của Duyên, thì ra anh chàng cũng thích mầu cát ướt nầy chăng? Còn sớm, phòng triển lãm chưa có mấy người, Duyên đi sát Quốc, song song bước vào. Quốc kéo Duyên bắt dừng chân lại ở ngưỡng cửa để nhìn một lần bao quát hết tất cả mấy chục tấm tranh treo quanh tường trước khi đi đến gần, nhìn kỹ từng bức tranh. Duyên im lặng nghe Quốc giảng giải, phê bình từng nét vẽ, từng bức tranh. - Duyên nhìn xem, bức tranh nầy, tác giả ăn cắp ý của người xưa, nhưng ăn cắp mà cho biết cách cũng là đáng khyến khích. Quốc vốn kỵ những luồng gió Âu Mỹ, chỉ sợ nó tràn qua xứ mình rồi bao phủ làm ngập lụt chìm đắm hết và cái giống người Việt Nam với cái văn hóa truyền thống bị mất đi để nhường cho một thứ lai căng phi Âu phi Á. Biết rằng những ý kiến nầy đưa ra thường bị một số lời chỉ trích phê bình là lạc hậu, cổ lỗ, bảo thủ nhưng Quốc vẫn lờ đi, không thèm để ý tới. Quốc có thiện cảm với Duyên ngay từ phút đầu vì thấy cô gái biết trang điểm hợp ý mình, không mặc chiếc váy xòe, váy bó, hoặc chiếc quần nứt đùi nứt vế ra mà đến gặp chàng hôm ấy. Theo Quốc người Á Đông mà bị người Âu đô hộ là khó chịu rồi, ngột ngạt kìm kẹp rồi, nếu cùng là dân da vàng với nhau liệu có đỡ bị gò ép chăng. Có người bảo ngược lại da vàng với nhau sẽ bị đồng hóa, nhưng nhìn lại cả nghìn năm bị người Tàu đô hộ mà dân Việt Nam đâu có trở thành Trung Hoa. Dầu sao, người Việt Nam ngày nay đã tạo cho mình được một nền văn hóa vững chắc, một nếp sống, một đường huớng suy tư riêng biệt. Sự gạt bỏ nét mặt của ông cha mình để lại, đi tìm một khúc nhựa độn lên mũi cho giống hệt người dân Âu Mỹ, chẳng những nó không phù hợp với tính chất mà cả với cơ cấu, thể xác của người Á Đông... Nhưng đây chỉ là những ý nghĩ riêng tư, thầm kín của Quốc, và hẳn cũng do những ý nghĩ ấy nên mới đưa đến cuộc đi xem triển lãm hôm nay. Quốc vẫn cáu kỉnh mỗi khi mở quyển lịch sử viết vào thời pháp thuộc, đọc đến trang Nguyễn Ánh đi cầu viện người Pháp, xin giúp tàu bè khí giới để đánh lại quân Tây Sơn, nhất là nhìn bức tranh vẽ Hoàng Tử Cảnh theo Bá Đa Lộc đứng trên chiếc thuyền quả là đáng rơi nước mắt, chỉ muốn lật trang sách qua nhanh để khỏi phải nhìn. Cũng may là khi Quốc khôn lớn thì người Pháp đã đi rồi, nếu còn, chắc suốt đời Quốc sẽ được ăn cơm tháng trong tù, dầu không có chân trong đảng phải nào cả. - Mời Duyên đi xem buổi triển lãm hôm nay mà tôi ngại quá, chỉ sợ Duyên không thích, loại tranh nầy bây giờ ít người biết thưởng thức. - Sao anh lại bảo thế? Em không biết thì anh giảng. Tiếp theo câu nói là cái nhìn âm u trách móc, cô gái tự hứa sẽ cố gắng để chứng tỏ cho Quốc biết rằng mình không đến nỗi nông cạn, tầm thường như chàng tưởng. - Sợ Duyên con quá trẻ, nhất là từ thuở bé học trường Pháp, chỉ được nghe giảng dạy về các vĩ nhân Pháp, văn thi nhân Pháp. Quốc ngừng không nói thêm, tiếp tục nhìn tranh, có lúc chàng đứng dừng lại khá lâu trước một bức tranh. Có lúc đang đi, Quốc bỗng nắm tay Duyên kéo giật lại, làm Duyên ngơ ngác. Quốc muốn bắt cô gái cùng dừng chân ngắm với mình, chia sẽ với mình, chàng gật gù đắc ý, có khi buông tay Duyên để lùi ra xa, Duyên cũng phải lùi theo. - Bức tranh nầy hoàn toàn bắt chước theo bức Tảo Xuân Đồ của Quách Hy, Duyên thấy không? Cũng cảnh sa mù trong núi, những khối đá mạnh mẽ như khảm khắc vẽ bằng mực đậm, trái lại, cây cỏ được vẽ rất nhẹ như bị chìm đắm trong sa mù, ngọn cây trầm mà thân cây thật mạnh, vượt lên... Giọng phê bình rắn chắc, sành sỏi, Duyên chắc Quốc phải từng ngồi hằng giờ trước những tấm tranh để tìm tòi, so sánh, mới có thể nhớ kỹ đến thế. Duyên thành kính đi nép sát vào Quốc, như muốn ăn, muốn uống tất cả từ giáng điệu, cử chỉ đến tư tưởng của người đàn ông ấy. Mọi sự điều mới mẻ, đối với Duyên đều chưa bao giờ được sống qua, chưa bao giờ xảy tới. Thần tiên. - Anh Quốc có vẻ mê tranh cổ lắm nhỉ? - Khỏi phải nói. Nhà anh có mấy cuộn tranh của ông cụ tổ để lại, chạy bao nhiêu lần tản cư mà bố anh bỏ hết chỉ ôm mấy cái bó tranh gia tài tinh thần ấy. Nếu không có bà cụ thì chắc cả nhà chết đói nằm nhìn tranh. Còn bố thì, thà chịu nhìn con cháu chết, chứ nhất định không rời tranh, nhất là mấy bức cổ tự. - Cổ tự? Là gì hở anh? Duyên ngơ ngác, ở trường học chẳng bao giờ nghe nói đến những thứ ấy. - Bao giờ có dịp anh cho Duyên xem, chắc Duyên chẳng hiểu gì đâu. Cổ tự mà nếu ai không phải là chuyên gia thì đành chịu, giỏi mấy cũng chỉ có bập bẹ. Nhưng cổ tự là một nghệ thuật thượng đỉnh của hội họa. Quốc bỗng mỉm cười sau câu nói, biết rằng Duyên đang như kẻ lạc vào đám sương mù, chàng còn muốn trêu thêm cô gái vài câu nhưng sợ Duyên dỗi nên phải vớt vát bằng mấy câu nói sau. Đến trước một bức tranh về cành tre, Quốc lại dừng chân, lại nheo mắt, lại lùi xa đứng ngắm thật lâu. - Tại sao anh phải lùi như thế? - Lui để nhìn rõ cái thế của bức tranh, đứng gần chỉ nhìn thấy rõ cái chất mà thôi. Duyên cau mặt, cô bắt chước cũng lùi xa nhưng không cảm thấy gì. - Anh giảng cho em đi. Thế là ở đâu? Chất là gì? - Bức tranh nầy bắt chước cả từ cái tên, cũng mang tên Mặc Trúc. Ngày xưa Văn Đổng đời nhà Tống cũng có một bức Mặc Trúc rất nổi tiếng, ông ta chỉ tài tình chuyên vẽ trúc mà thôi. Bức tranh nầy, nếu ai không biết, mới nhìn qua tưởng như là một phức bản của Văn Đổng. Cũng cái điệu vẽ cành trúc ngã cong xuống, giống hệt như cánh cung đang được dương lên, mắt tre như đuôi nhạn, không có nét luân quách và lá tre như những lưỡi kiếm, giận dữ, chen chúc... Quốc say mê giảng, không cần biết là cô bạn gái có nghe và có hiểu hết ý mình. Những điểm nầy Quốc khỏi thắc mắc, không hiểu thì Duyên cũng khắc khám vào tâm trí để còn hỏi lại. - Thế nào để nhận giá trị một bức tranh anh nhỉ? - Cần nhất là bức tranh không tục, tức là không nặng nề với những khối mực thiếu quân bình, trơ trơ ra, và cố nhiên là phải nhìn thấy cái khí vận. Nếu khí vận không tỏa ra thì vứt đi. Duyên nghe thì biết vậy thôi, chứ khí vận là gì quả là Duyên chưa hiểu nhưng không dám hỏi nhiều, sợ Quốc nản vì thấy tầm hiểu biết quá ít ỏi của mình. Đành chờ về nhà mở tự điển tra chữ khí, vận, xem nó là nghĩa gì, Duyên tự hứa như thế. - Sao anh thạo về hội họa dữ vậy? - Chẳng thạo đâu, chỉ họa trong tâm tư thôi, không biết quẹt lên giấy. - Sợ tục phải không? Duyên vừa nói giọng đùa vừa cười, Quốc cũng vui vẻ cười theo, nhận thấy cô gái khá thông minh. - Chắc thế. Thật ra tôi chỉ chuyên về lý thuyết. Chung quanh đã bắt đầu có nhiều người đi dạo qua dạo về, tay còn cầm thiệp mời, người ngoại quốc nhiều hơn người Việt Nam. Chẳng có ai biết nhìn tranh mà tìm hình, tìm thế, vận, tính, của một bức tranh như Quốc. Có những đôi mắt thật hững hờ, đi đến cho có lệ, đi vì chẳng biết đi đâu, đi để chờ giờ vào tiệm ăn thì đúng hơn. Duyên nhận thấy trong đám người đi xem, chẳng có ai được cái may mắn của mình hôm nay. Được đi xem triển lãm với một người chuyên về hội họa, cổ họa, còn đòi gì hơn. - Anh Quốc dạy em nhé. - Dạy gì? Tôi có biết gì hơn ai đâu mà dạy. - Anh dạy em thổi sáo, dạy em hiểu về hội họa, dạy em... Duyên ngập ngừng, đòi gì thêm nữa, tin chắc rằng Quốc còn biết nhiều và mình còn cần phải học nhiều nữa. - Dạy cho Duyên làm người Việt Nam, yêu nước Việt Nam, không vọng ngoại, không trở thành vong quốc nộ.. chịu không? Giọng Quốc nửa đùa nửa thật nhưng thấy Duyên ngơ ngác như từ một chân trời nào lạc tới, nên chàng tha, ngừng, không nói trêu thêm nữa. Gần một tiếng đồng hồ, Quốc và Duyên đi quanh phòng triển lãm, Duyên cảm thấy hơi mỏi chân. Có những bức tranh vừa tới là Quốc đã giữ Duyên lại, bắt dừng chân thật lâu, chỉ cho Duyên xem từng nét, giảng về cách vẽ, thế nào là nét trực lập, nét suân, loại suân nào được dùng nhiều ở thời đại nào, ở lối vẽ nào và tác giả nào. - Duyên thấy không, bức tranh nầy tác giả đã dùng bột mầu để vẽ thân cây, chứ không dùng mực. Lối xử dụng bột nầy do Triệu Can, một họa gia của thời Ngũ Đại đã phát kiến ra, sau đó các họa gia khác đều bắt chước mỗi khi cần để vẽ cảnh núi xa xa. Giọng Quốc giảng giải thầm thì bên tai vừa đủ cho Duyên nghe, không dám làm rộn người khác. Nhìn thấy cô gái hơi có vẻ mệt, Quốc cũng thấy áo sơ mi của mình như sát vào lưng, mặc dầu mấy cái quạt trần vẫn quay tít, mà không khí vẫn nóng bức, Quốc đề nghị sang trà đình uống nước nghỉ chân, và nghỉ cả tâm trí, vì đi xem một cuộc triển lãm với tất cả tâm trí cũng làm mệt tâm trí không kém đọc một quyển sách, đàn một bản đàn, vẽ một tấm tranh. Duyên có vẻ ngập ngừng trước ngưỡng trà đình, nhìn thấy đầy cả người ngoại quốc, thêm vào một vài bóng giáng các cô gái đi săn ngoại nhân. Các cô cũng ngồi cả đấy gọi trà uống để chờ cơ hội, có người nào mới đến là các cô biết ngay, tìm cách chào mời. Món hàng nhan sắc mà lắm khi đã về chiều, hành nghề từ thời Pháp thuộc, bồi bếp của nhà hàng đã nhẵn mặt, gặp nhau chào hỏi như bạn cố tri. Quốc đoán biết sự ngần ngại của Duyên, chàng gạt ngang. - Mặc chứ, Duyên đi với tôi cơ mà, chúng ta là dân một nước tự do chứ đâu phải thuộc địa của ai nữa đâu. Lần thứ nhất đi ra ngoài với một người bạn trai, Duyên hơi sợ có ai trông thấy, nhưng rồi ý nghĩ lo ngại được dẹp bỏ, Duyên cần nghe, cần đặt nhiều câu hỏi và rất ít khi dám nói ý kiến của mình vì thấy nó còn quá trẻ con. Quốc mỉm cười không trả lời câu hỏi của cô gái, chàng đặt một câu khác đi ra hẳn ngoài vấn đề. - Đố Duyên, chữ Duyên nghĩa là gì, Duyên có biết không? Duyên lắc đầu làm rung nhẹ cái đuôi tóc ngắn đằng sau gáy, cả cái nơ cũng rung theo như đôi cánh bướm đang sửa soạn tung bay. - Em không biết, là gì thế hở anh? Học trường Pháp làm sao biết được nhỉ. Duyên tức lắm, biết mình bị trêu, và chắc sẽ còn bị trêu nhiều lần nữa. Tự hứa sẽ cố gắng tìm sách vở học hỏi thêm cho đỡ ngố, sự kiện nầy mới mẻ quá. Trước kia, Duyên đâu có bao giờ bị cái cảm giác ngố như hôm nay. Quốc nhứng ngón tay vào nước rồi viết lên mặt bàn gỗ, chữ Duyên, vừa viết vừa giảng. Một câu mà người ta hay đưa ra làm thí dụ, định nghĩa cho chữ Duyên là câu: "Tiền thế hữu duyên, kim thế kết", tưc là mệnh đã định từ kiếp trước, từ kiếp trước đã có duyên nghiệp với nhau thì kiếp nầy phải gặp nhau. Hẳn vì chữ Duyên có ý nghĩa ràng buộc nên nó được các chú Tàu thời xưa cho nó mang bộ mịch là ôm tơ. Điều đáng chú ý là phải tìm xem chữ ấy gia nhập vào ngôn ngữ nước Trung Hoa trước hay là sau khi Phật giáo gia nhập vàọ.. - Trời ơị.. Anh Quốc, thích quá, sao anh biết nhiều quá vậỵ..? Duyên còn muốn nói thêm nhưng vội vàng ngừng, cảm thấy mình không xứng đáng một tí nào với chữ Duyên của Quốc vừa giảng, mình quả là vô duyên. Học bao nhiêu năm ở nhà trường mà chẳng bao giờ được nghe ai nói, ai dạy cho, giảng cho những điều hay ho ý vị như thế. - Nếu Duyên cho phép thì từ nay anh sẽ gọi Duyên là Duyên Duyên... như thế nó sẽ... - Sẽ chằng qua buộc lại hai ba lần, phải không anh? - Ừ, nó sẽ giống như một ôm tơ vậy. Quốc nhìn Duyên, mỉm cười hài lòng, cô bé không đến nỗi độn căn, tức là người có cái căn u mê, cô bé nầy sáng trí, thông minh, nói gì là hiểu ngay. Quốc vốn sợ những người chậm hiểu, cái gì cũng phải giảng lại cả chục lần, làm mất hết thú vị. Cái nhìn của Quốc, đối với Duyên hôm nay là một lời ban khen, cô gái hân hoan đón nhận với tất cả niềm kiêu hãnh. Duyên chợt nhìn lên đồng hồ rồi đưa tay so với giờ của đồng hồ mình, cắn môi, giọng hốt hoảng. - Chết thật, em phải về, em hẹn với mẹ là đúng sáu giờ em sẽ có nhà, sợ mẹ em đợị.. - Anh đưa em về... Quốc vô tình buột miệng gọi Duyên bằng em, cô gái rùng mình, vừa vui lại vừa lo mà chưa biết rõ lý do. Lần nầy là lần thứ nhất Duyên đi ra ngoài với một người con trai, rủi gặp ai quen thì chưa biết phải nói thế nào. Nét mặt hơi cau, Duyên suy nghĩ một khoảnh khắc rồi từ từ đưa tay lên tháo gỡ cái nơ nhung buộc tóc đằng sau gáy, cố ý để cho tóc xòa xuống che mặt, che cổ. Quốc nhìn theo từng cử chỉ, mỉm cười không phát biểu ý kiến. - Hay Duyên muốn về một mình... - Không phải đâu anh, không phảị.. Cô gái chỉ sợ Quốc hiểu lầm ý mình, chàng sẽ giận và sẽ không thèm đưa mình về nữa. Quốc vui thích khi nhìn thấy thái độ lo ngại cuống quýt của Duyên, mầm mống độc ác, thích bắt nạt của mấy thằng con trai miền Trung đang chớm dậy. Hai người ra đón tắc xi ở góc đường, Quốc hiểu ý cố đi cách xa, sợ Duyên gặp người quen. Bước lên xe, Duyên thầm cảm ơn sự tế nhị của Quốc, chỉ mong cho con đường về làm sao kéo dài ra. Giá con đường như cái kẹo dẻo để tay người có thể cầm kéo dài ra bao nhiêu cũng được thì thích biết mấy. Nhà Duyên ở tận miệt Gia Định, nếu không bị kẹt xe thì chỉ cần mươi lăm phút là tới, nhưng giờ nầy Duyên đang mong cho có sự gì trục trặc, gặp đoàn xe nhà binh qua cầu chẳng hạn, hay một đám ma ông lớn nào để kéo dài quãng thời gian ngồi bên Quốc. Tình yêu rồi đó chăng. Duyên tự hỏi. Chiếc xe tắc xi bốn ngựa bé nhỏ, cũ kỹ, nhưng với Duyên nó là một chiếc xa giá bằng trân châu và Quốc là vị hoàng tử mà Duyên vẫn chời đợi, hệt như những chuyện cổ tích trong sách của trẻ con, Duyên vẫn thường đọc. - Bao giờ Duyên gặp lại anh? - Tùy anh, em được nghỉ hè rồi, tha hồ đi chơi. - Thứ bảy nầy nhé, ra bến tàu ăn cơm chiều luôn, anh sẽ mời cả Phi Lan, như thế lúc về có cả cô ấy đưa về, Duyên khỏi sợ... Duyên đồng ý ngay, chỉ có cách ấy, mặc dầu hai người mới quen nhau, biết nhau, còn bao nhiêu chuyện để nói mà phải chịu sự có mặt của đệ tam nhân sẽ làm mất đi nhiều hứng thú. Quốc đoán được ý Duyên, chàng nói thêm cho cô gái bớt thắc mắc. - Anh sẽ hẹn Lan vào lối năm giờ hơn, chúng mình ra lối ba giờ, ngồi uống nước chờ cô bé. Duyên nhìn Quốc, biết ơn, con người tế nhị như thế, hiểu đời như thế. Sau nầy ai may mắn được làm vợ chàng, được sống cạnh chàng, hẳn cuộc sống sẽ thoải mái lắm. Cái gì cũng được lo, được nghĩ được thu xếp, sắp đặt trước để cho vợ con được yên tâm. Chẳng bù với mấy ông anh của Duyên, ngay cả sự khai thuế, đóng thuế cũng giao cho vợ, các ông chỉ biết đi làm, về nhà nằm gác chân đọc báo. Duyên không biết rồi định mệnh có dành cho mình cái phần số may mắn, tốt đẹp đó không? Về đến nhà đã sáu giờ rưỡi, mẹ Duyên đang tiếp khách, đèn từ ngoài sân vào đến nhà trong, nhà ngoài đều được bật lên sáng choang, Duyên hỏi thăm chị ở từ ngoài cổng xem khách là ai. - Bà nào vậy? - Em không biết, bà khách nầy lạ, chưa tới bao giờ, chắc không phải là khách đặt hàng. - Thế à, thây kệ... Duyên dùng cái giọng nghênh ngang, cố ý nói bắt chước người miền Nam, hai chữ nầy Duyên cho là hay lắm. Nói xong, cô gái bước vào thềm, lúc đi qua phòng khách, cô gái hơi có ý đưa mắt liếc nhìn xem bà khách nào. Thấy bà khách cũng nhìn mình chầm chập, Duyên lễ phép cúi chào, định đi thẳng nhưng bị bà Mỹ Hưng gọi giật lại, bảo vào gọi người nhà pha thêm trà, làm như khách là lạc đà khát nước từ cả tháng hay sao ấy. Duyên ngạc nhiên, ngày thường mẹ có bao giờ hành mình một cách vô lý như thế. Bà khách được dịp tha hồ mà nhìn, mà ngắm như muốn xem tướng xem số từ đầu xuống chân. Duyên gọi người nhà pha nước xong, vội bước nhanh vào phòng mình, nhưng tai vẫn còn nghe được những lời đối thoại giữa hai người đàn bà. Một đằng mẹ Duyên thì có vẻ nhún nhường, giả vờ chê bai con mình vụng dại, một đằng bà khách thì tán tụng: "Ôi dà, trông ngoan đáo để, năm nay bao nhiêu tuổi rồi, ấy tuổi hợi à, tuổi ấy mà con gái thì tốt lắm, nằm đợi mà ăn, không phải làm lụng vất vả. Trông tướng người đầy đặn phúc hậu quá, tướng nầy gọi là vượng phu ích tử đấy bà chị ạ. Xem nào, tuổi hợi, mệnh hỏa, sơn dầu hỏa, thằng cháu ở nhà lại là mệnh kim, kiếm phong im, kim nầy là thứ kim phải được gặp hỏa mới nên hình... Đến đây cả hai bà đều hạ giọng, hình như đang mưu mô tổ chức một cuộc đảo chính, một sự gì quan trọng bí mật, Duyên cố ý lắng tai mà vẫn không làm sao nghe được, chỉ thỉnh thoảng vài tiếng xuýt xoạ.. ối dà, ối dà, thế thì quý hóa quá... Bực mình cô gái bỏ qua, không thèm chú ý lắng tai nghe nữa, Duyên nghĩ thầm, chắc con mẹ nầy phải làm nghề thầy bói. Cô gái quay nhìn vào gương, tự thè lưỡi với mình, làm như người trong gương không phải là Duyên, mà là bà thầy bói ở nhà ngoài, Duyên nói to. - Ý ẹ, vớ vẩn... Nói xong, cứ để nguyên chiếc áo dài, nằm vật xuống giường, nhìn lên trần nhà, hồi nhớ lại tất cả những gì đã xảy ra trong suốt buổi chiều hôm nay. Như người đạo diễn lúc quay xong cuộn phim, đang phải ngồi xem lại để chọn lọc mà cắt mà ráp. Duyên như nhìn thấy trước mắt nụ cười của Quốc. Giá Duyên là đạo diễn thật, giá cuộn phim là mối tình của hai người thì trước khi chấm dứt phải là nụ cười ấy làm cái "image fixe" khi tiếp chiếu ban generique tên của các chuyên viên. - Chưa có ai cười dễ thương như anh. Duyên nói lên thành lời, như đang có Quốc ngay trước mắt... Buổi dạ hộị.. Bài thơ Hạng Vũ biệt Ngu Cơ. Giọng sáo, giọng sáo vút lên... Ngu hề, Ngu hề, hà nại hà... Duyên chợt sa sầm nét mặt. Sao bài thơ mang cái tên gì mà buồn quá vậy "mauvais presage"... Cô gái vội vàng cắn môi để khỏi nói thêm, đã bảo từ nay sẽ tập nói toàn tiếng Việt, không dùng lối lai căng xen kẽ để cho vui lòng Quốc, xứng đáng với con người độc đáo ấy. Duyên tự hỏi sao từ trước đến nay mình ăn nói xen kẽ nửa Việt nửa Pháp như vậy mà không thấy lố lăng. Mà Duyên cũng sẽ không tin dị đoan đâu, presage chắc phải dịch là... gì nhỉ, là điềm chăng. Duyên vùng dậy chạy đến bàn mở tự điển Pháp Việt, từ nay chắc sẽ được cần đến luôn. Buổi chiều trên sông Sài Gòn thật huy hoàng, hay tại khi lòng mình đang huy hoàng thì nhìn đâu cũng thấy thắm tươi rực rỡ cả chăng. Duyên và Quốc hẹn nhau ở bến tàu, cô gái đã dối với mẹ rằng đến chơi nhà bạn, học đàn, ở lại ăn cơm chiều rồi sẽ về sớm. Chúa ơi nói dối, phải tội chết, chủ nhật nầy phải vào nhà thờ đọc kinh xưng tội vậy. Hẳn ở trên trời nhìn xuống Chúa cũng phải hiểu cho cái tâm trạng của đứa con gái mới yêu lần thứ nhất. Mẹ Duyên không tra hỏi văn vẹo, vì chưa bao giờ Duyên nói dối, vả lại từ trước Duyên vẫn thỉnh thoảng xin phép mẹ đi chơi, có sao đâu. Bà Mỹ Hưng không thấy cần phải thắc mắc. Hai người vừa tới nơi hẹn thì vừa gặp nhau, ai cũng muốn đúng hẹn, không muốn bắt người kia phải chờ, mà hình như cả hai cũng đều không muốn bị chờ, vì sợ chờ đợi hay bắt người suy nghĩ. Tình yêu kỵ sự chờ đợi, nhất là khi phải chờ nhau ở ngoài đường, trong quán nước lạ. Trời còn nắng chói, còn sớm, mùi nắng thơm tho và mầu nắng óng vàng như cả một ôm tơ trải lên không gian. Quốc có ý muốn thuê đò đi qua bên kia sông dạo một vòng, rồi trở về, vì còn nhiều thì giờ, Duyên hơi lưỡng lự. - Có gì đâu mà Duyên ngại, bên kia là Tân Thuận, xóm nhà lá, đất nước mình, thì mình phải đến thăm viếng cho biết cho quen nhau chứ. Anh chắc Duyên chưa bao giờ đến những xóm nghèo nầy nhỉ, phải nhìn rõ cuộc sống của họ để hiểu và để thương họ hơn, Lan chưa đến, chúng ta hãy đi một lúc thì Lan đến là vừa. Quốc nói một tràng dài, rồi không chờ ý Duyên, cứ đưa tay vẫy đò rồi dìu Duyên xuống. Hai người ngồi đối diện trên hai thanh gỗ gác trong lòng đò. Bà lái đò xắn quần cao lội xuống nước đẩy con đò ra xa bến, rồi cũng nhẹ nhàng trèo lên ngồi chéo ở đằng đầu, đằng lái đã có cậu bé con ngồi giữ lái. Cả hai người hầu như đã quen với cảnh chèo thuyền cho những đôi tình nhân đi chơi nên rất lạnh lùng không thèm để mắt đến. - Không thể nào bằng con sông Hương được, Duyên phải cố làm sao để về thăm xứ Huế một lần, người Việt nào chưa được biết Huế là còn thiếu sót. Có quyền không biết những xứ khác, nhưng không có quyền không biết xứ Huế, Ai chưa được ngắm cảnh hoàng hôn, lúc chiều về trên sông Hương là người ấy chưa có thể tự cho rằng đã thấu tận cùng, triệt để của chữ đẹp, của thẩm mỹ, thâm trầm, huyền bí, một thứ nhan sắc có chiều sâu. Quốc lại nói một hơi dài nữa, chính chàng cũng ngạc nhiên sao hôm nay đâm ra nhiều lời. Duyên nghe Quốc cứ ca tụng mãi xứ Huế cũng đâm ra nóng ruột, chẳng biết cái xứ ấy nghe bảo nghèo nàn lắm, có gì đâu mà ghê thế. - Sao anh mê xứ Huế dữ vậy, anh người Hà Tĩnh mà. Duyên hỏi vậy thôi, nghe giọng hơi nặng của Quốc thì cũng bắt chước mọi người gọi là cá gỗ, sự thật Duyên cũng chưa biết phân biệt các thứ giọng của mỗi miền. - Sống ở Huế. Lần nầy Quốc chỉ trả lời có ba chữ ngắn ngủi, con người chưa hề kể lể thân thế cho ai nghe, điều làm Quốc sợ nhất là nghe bảo ở xứ cộng sản khi làm đơn xin việc, chẳng những phải khai lý lịch mình mà còn phải khai cả lý lịch của bạn bè thân để cho nhà nước có thể điều tra, từ người nầy bắt sang người khác, không thiếu sót một điểm nào. Ức hiếp con người đến thế, làm sao chịu nổi. Duyên chỉ nghe Phi Lan nói sơ qua, chàng là con nhà quan liêu gì đó, cha ông theo ngành khoa cử, từ khi quen nhau chưa ai kể với ai về gia đình mình. Đặc biệt chăng, vì ở thời buổi nầy hai người mới gặp nhau là muốn hiểu ngọn nguồn, Duyên và Quốc đã thoát ra ngoài lệ, ra khỏi sự tầm thường của mọi người. Con thuyền bồng bềnh, dao động vì mấy cái thuyền máy lướt qua nhanh làm xao xuyến mặt sông. Sóng nổi mạnh, một loạt sóng gò ép giả tạo, cộng với tiếng máy chạy ầm ầm, rất trần tục, âm thanh ô trọc làm bẩn tai bẩn trí và bẩn cả giòng sông. Quốc chép miệng, lắc đầu nghĩ đến trang sách bằng Pháp ngữ vừa đọc đêm qua nói về thành phố Venise của nước Ý, một thành phố đang bị định tội. Một ngày nào đó sẽ bị chìm xuống nước nếu không tìm ra phương thế nào để cứu chữa cho kịp thời. Lỗi cũng chỉ vì mấy cái thuyền máy đầy ô nhiễm nầy, cứ tung các thứ dầu nhớt làm mục nát phần xây cất bên dưới. - Phí quá... thật là uổng... - Anh bảo gì cơ? - Duyên cẩn thận, coi chừng những cái thuyền máy quái ác ấy mà lướt tới gần thì... Ấy coi chừng... Quốc hét lên, chưa kịp nói hết câu thì một làn sóng giả tạo do những chiếc thuyền máy ấy tung ra, làn sóng nhào tới, con thuyền chòng chành thật mạnh, bắn tung nước vào làm ướt tấm áo Duyên, mầu áo trở nên thẫm hơn, sát vào thân hình hơn. Hai tay cô gái bám vào mạn thuyền, không sợ mà còn có vẻ vui thích, vì biết có người đang lo lắng cho mình, được trải qua những giây phút căng thẳng bên cạnh người mình kính yêu, còn gì hơn. Quốc nhìn Duyên, thêm thiện cảm, không có vẻ yếu đuối bệnh hoạn, loại người khách hàng quanh năm của các vị bác sĩ. Quốc chợt nhớ đến mấy thằng bạn, nếu chúng nó gặp được hai đứa đi chơi hôm nay thì thế nào Duyên cũng được mang tên là Lộng Ngọc, cái tên cũng xứng với người, chẳng có gì phải thẹn, không như những trường hợp mà tên với người phản bội nhau. Định nói với Duyên nhưng lại sợ cô gái nghĩ ngợi nhiều quá chăng. Chuyện đâu còn đó, chẳng bao giờ nên vội vàng, con người có cuộc sống rất trầm tĩnh, không chạy theo tiền bạc, danh vọng, ngoài sự nghiên cứu về cỏ cây, đi dạy học, dịch ít sách cho nhà Khai Trí, Quốc chẳng thấy cần phải làm việc thêm, để thì giờ cho cây sáo, cho thiên nhiên. Đi dạy học để khỏi mang tiếng là trốn lính, vì dạy học tức là đã đưa những ý nghĩ tốt đẹp vào đầu óc những người học trò nhỏ, đào tạo những người lính cho quốc gia, Quốc tự bào chữa cho sự trốn lính của mình. Ai cũng bảo rằng số Quốc may mắn, mà quả thật như thế chăng? Thuyền cập bến sang phía Tân Thuận, Quốc dặn bà lái đò chờ, chàng đưa Duyên đi thăm cái khu phố chợ bé nhỏ nằm dọc bờ sồng, những dãy nhà mái tôn lụp xụp. Duyên có sợ nghèo không? Em chưa biết nghèo nên chưa biết sợ. Sự thật đúng như thế, cô gái chẳng có một ý niệm gì về sự nghèo nàn, từ bé sinh ra trong gấm lụa. Hai người vừa bước đi vừa liếc nhìn chung quanh, Quốc còn thấy các thứ chứ Duyên chỉ thấy có mỗi mình Quốc trước mắt mình. Có những nơi mà nhà sát đường quá, Duyên nhận rõ những đôi mắt, những cái nhìn nghèo nàn đang bám sát vào mình, cô gái hơi sợ, nắm chặt tay Quốc đi sát vào Quốc để tìm sự trấn tĩnh, Quốc để cho Duyên nắm tay mình rồi tự buông ra, không giữ lại. Duyên hơi xấu hổ vì thái độ sợ hãi vô lý của mình, nàng nói khẽ: - Về thôi anh, sợ Lan chờ chúng mình chăng. - Còn sớm mới có 4 giờ, Lan nó chưa đến đâu. Nói thế nhưng Quốc cũng đưa Duyên quay trở lại thuyền, bà lái đang mơ mộng chờ, mỉm cười hỏi thăm: - Thầy cô có mua được gì không? Duyên lắc đầu, sự thật thì ở đây có gì để cho Duyên mua được đâu. Bận về không gặp thuyên máy, mặt trời cũng bớt gay gắt,thuyền lướt nhẹ nhàng, giá là một đêm trăng hay là muộn hơn một tí chắc còn thơ mộng hơn nữa. Thuyền ghé bờ, Quốc nhảy lên trước, đưa tay cho cô gái nắm để bước lên, móc túi trả tiền một cách kín đáo rồi cùng Duyên đi lên chỗ hẹn. Vụ du thuyền bất ngờ, nếu biết chắc Duyên sẽ không mặc áo dài, nhưng hình như Quốc không thích Duyên ăn mặc gì khác hơn là những chiếc áo dài, mặc dầu nó vướng víu. Qua cái nhìn của chàng trai, Duyên đoán biết được mỗi khi nàng vừa đến, và Duyên chỉ mong được chiều theo. Đố Duyên biết mầu áo của Duyên mang tên hoa gì, nó là mầu gì? Mầu hoa Iris phải không anh? Tên Á Đông của nó là Duyên Vỹ. Thích nhỉ, sao cũng có tên Duyên vào đó. Nó còn tên là Xương Bồ, là Đoãn Kiếm nữa. - Tên nào cũng đẹp anh nhỉ. Hoa nầy lúc còn tươi hơi ngả xanh, càng héo càng đổi sang tím, có một vài hoa Hồng cũng thế. - Tại sao ít hoa xanh anh nhỉ, chỉ toàn mầu đỏ, mầu vàng, đi mãi mới gặp một bông hoa xanh. - Có một ý kiến rằng vì con mắt của lũ bướm chuyên đi truyền phấn để cho cây có thể sinh sôi nẩy nở, chúng nó không nhìn thấy mầu xanh mà chỉ thấy rõ nhất là mầu vàng nên lúc nào thấy hoa vàng là chúng nó sà tới trước, hút nhị, ướp phấn. - Em biết rồi, trong khi đó những bông hoa xanh không có con bướm nào nhìn thấy nên tuyệt giống dần, phải thế không anh? Quốc gật đầu, không trả lời, chàng vẫn ít nói. - Anh thích mầu tím? Lần nầy Duyên đặt câu hỏi mà không đợi câu trả lời. Từ nay Duyên sẽ may toàn áo tím, đủ mầu từ đậm đến nhạt cho vui lòng người yêu. - Lệ thường mầu sắc không đẹp lắm khi đứng một mình mà đòi hỏi sự hòa âm cân đối, nhưng riêng mầu tím là mầu của điềm lành. Các vị tướng trước khi xuất quân mà gặp áng mây tím là thế nào cũng thắng trận, nếu không thắng cũng tránh thoát được những sự bất tường. Cũng như khi trên trời có mây tím ở vùng nào là vùng ấy sẽ có thánh nhân hiện tới, Duyên biết không? - Thế sao anh, thế mà em cứ tường mầu tím là mầu sắc của sự không vui. Quốc có cảm tình với Duyên ngay từ khi cô gái đến gặp mình lần đầu tiên với Phi Lan trong chiếc áo mầu tím. Đời Quốc hầu như đã bị cái mầu ấy ám ảnh. Anh chàng vẫn say mê những buổi hoàng hôn ngả tím, nhuộm tím lên cảnh vật. Hình như trời miền Trung hay khoát mầu nầy, Quốc mê những đồi hoa sim, những mặt ao đầy hoa bèo Lục Bình, và cố nhiên là những tà áo tím. Ngày còn đi học Quốc vẫn nói với các bạn sẽ yêu cô nào mà lần đầu tiên gặp gỡ cô ấy biết mặc áo tím, gọi là mầu Tử La Lan. Tình cờ hay là định mệnh xếp đặt, hôm ấy Duyên đã mang mầu tím, ngay phút đầu tiên nhìn cô gái, Quốc tưởng như bản án định mệnh đã tuyên lên cho cuộc đời mình. Cũng có vài trường hợp mà áo với người không đi đôi với nhau, nhưng Duyên với mầu tím thì trái lại, có lẽ Duyên sinh ra cho mầu ấy hay là mầu tím ấy cho Duyên. Dáng dấp e ấp của Duyên lúc ban đầu thật là y hệt như những bông hoa Tử La Lan bé nhỏ, tỏa mùi hương kín đáo, cũng e ấp như những bông hoa ấy. Quãng thời gian ngồi đối diện với Duyên trên chiếc thuyền ban nãy, đủ cho Quốc phân tích kỹ dáng dấp, nét mặt của cô gái, nhất lại là dưới ánh nắng chân thật của mặt trời, không phải dưới ánh đèn giả tạo mờ ảo thường vẫn được các bà các cô tìm đến để che dấu những nét tàn phá của thời gian trên mặt mình. Duyên có nụ cười tươi, đôi mắt dài, mầu da hồng không gian dối. Một lần nữa ý nghĩ lại trở về, giá là họa sĩ, Quốc sẽ bắt Duyên làm người mẫu cho mình. Hơn năm giờ chiều, hiệu ăn còn vắng khách, vì chưa phải là cuối tuần, hai người chọn phía thành đài, để được gần sông nước. Duyên dành chỗ đối diện với Quốc, bắt Lan sẽ ngồi giữa, làm chủ tọa. - Chiều nay trời đẹp quá... anh có thấy? Có phải tại mình vui nên nhìn ra chung quanh cái gì cũng đẹp, hay tại buổi chiều nay trời có đẹp thật? Sau câu hỏi Duyên ngước mắt nhìn Quốc như chờ đợi câu trả lời, bỗng Duyên đỏ mặt, chợt nhận ra sự táo bạo của mình, câu nói không phải là một sự bộc lộ tâm tư cho Quốc hiểu được ý mình, lòng mình đó sao. Bạo quá, chắc Quốc biết, chàng đưa cái nhìn ra phương xa, một lúc rồi chỉ nói lên hai chữ mà Duyên không hiểu rõ ý. - Càng hay. Cả hai đều cố tránh, không muốn hay chưa muốn đề cập vội đến vấn đề tình cảm, cho đó là một báu vật, thiêng liêng và mong manh, đáng được nâng niu, gượng nhẹ, phải chờ một hôm nào thật đặc biệt, hôm nào mà tất cả những vì sao chỉ huy tình cảm trên trời hội đủ, tỏa ánh sang xuống trần gian, chắc họ mới dám nói với nhau một lời gì, làm một cử chỉ gì để chứng tỏ lòng họ với nhau. - Anh Quốc chơi sáo chắc phải từ lâu lắm rồi nhỉ? - Từ thuở bé, tôi hay trèo lên cây Phượng trước nhà ngồi thổi sáo, vì tiếng sáo bay xa, không thích bị bốn bức vách dồn ép nên phải ra ngoài vói thiên nhiên. Cả hai cùng im lặng sau câu trả lời của Quốc, Duyên đang tưởng tượng ra trước mặt, hình ảnh chú bé trèo lên cây ngồi vắt vẻo thổi sáo. Quốc cũng đang thả tâm tư trôi về quá khứ. - Tại sao anh lại chọn cây Phượng, tại sao không là một thứ cây gì khác. - Nhà có nhiều cây nhưng cây Phượng ấy rất dễ trèo, thấp mà to, cành ngả dài soãi ra mặt nước, không vương cao, có thể ngồi đọc sách, ngủ trưa luôn cũng được. - Không ngã sao? - Ngã rồi, ướt hết quần áo, nhưng biết bơi, vả lại sông cũng không sâu nên chẳng ai sợ.Duyên nhìn Quốc, trìu mến cố vẽ ra cảnh chú bé nghịch ngợm của thời xa xưa ấy. Quốc là con trai út, sinh ra và lớn lên trong sự nuông chiều của bố mẹ. Tính hơi lạc loài, lắm khi tưởng như ích kỷ, thứ ích kỷ của nghệ sĩ, chỉ sợ người khác cướp mất thì giờ sáng tác cấu tạo của mình. Sợ phải va chạm với sự thật biết rằng ngoài đời không có cánh tay và cái nhìn thương yêu của mẹ, vì vậy thằng con trai luôn luôn chỉ muốn thu mình lại bé nhỏ để trốn cuộc đời. Trốn cái gánh nặng mà mỗi người, đến một tuổi nào đều không thoát, xã hội nhất quyết đặt lên vai. Quốc tin rằng mình không gánh vác nổi. - Đố anh Quốc biết em đang mơ gì? - Nói đi, đố mất công phải tìm. - Mơ một hôm nào được anh thổi sáo trên sông. - Dễ, sao mơ đơn sơ thế, đợi hôm nào mát trời, mùa hè buổi chiều sẽ kéo dài, có thể thực hiện được. - Anh hay chơi những bài gì? - Một số khá nhiều, nhưng có lẽ bài Con Thuyền Không Bến gợi nhiều kỷ niệm, khó nhất là bài Phụng Hoàng phải thổi làm sao cho tất cả lũ Phượng và Hoàng bay về cùng múa theo mới gọi là thành công. - Đã có ai thổi đến như vậy chưa? - Có chứ, nhưng người ấy không ở thời đại nầy, mà ở vào thời Chiến Quốc. - Thời chiến quốc là thời gi anh nhỉ? Bao giờ anh dạy em để em có thể biết tất cả những điều nầy, sao em xấu hổ quá, gặp anh, em như sống ở một thế giới khác. - Ấy không nên, phải thực tế, đọc vài quyển sách là biết chứ có gì đâu. - Người thổi sáo ấy là ai vậy anh? Tiêu Lang. - Ô hay Tiêu Lang là tên của anh cơ mà. - Vớ vẩn, sao lại là tôi được, ai bảo với Duyên đấy. - Phi Lan, ngay hôm đầu tiên. - Cô bé ấy đáng đòn, đó là các bạn đùa chứ tôi làm gì được thổi sáo như Tiêu Lang. - Còn bài Con Thuyền Không Bến thì sao anh, hôm nào anh thổi cho em nghe. - Tiếc rằng tác giả chết non, giá trời để cho ông ấy sống thêm vài năm nữa thì mình sẽ có một số bài độc đáo. Trời vẫn hay chơi ác với xứ Việt Nam mình, có ai tài, giỏi là y như bắt chết sớm. Quốc ngừng, nói đến đây Quốc không phải chỉ nhớ đến người nhạc sĩ chết trẻ mà đã nghĩ rất nhiều đến người anh hùng Áo Vải Nguyễn Huệ. Chàng thở dài, nhìn sâu vào đôi mắt của Duyên, như người có ý muốn chết đuối, thả cho buông trôi, rồi lại hối tiếc, cố tìm một cành sậy để bám víu. Quốc hay bị những cảm giác kỳ quái ấy theo. - Ê, Ô, hai người đợi em có lâu không, vừa ra đến cửa thì có điện thoại, biết thế chẳng thèm trở vào. Khiếp các cô gái nhà giàu, các bậc quan quyền, điện thoại của chính phủ, tha hồ mà gọi đông gọi tây. Lại thêm nhàn rỗi tưởng ai cũng nhàn như mình. Em nóng ruột chỉ muốn cắt mà không làm sao cắt được. Phi Lan vừa giải thích vừa kéo ghế ngồi, con người đi đến đâu là làm đình đám nổi. Lan nhìn Quốc với Duyên bằng cái nhìn tinh quái, đoán chừng hẳn họ đã đưa nhau đi một đoạn đường khá dài trên xứ của tình cảm. Cứ trông nét mặt thì đủ biết, mắt Duyên long lanh sáng một cách lạ lùng và Quốc không còn lầm lì như những ngày trước. Cô gái nghĩ thầm, thế là Tiêu Lang đã tìm ra Lộng Ngọc, tương lai rồi sẽ ra sao. Liệu Quốc có sẽ làm khổ Duyên như đã từng bắt bao nhiêu người khác đau khổ. Một điểm làm Lan yên tâm là anh chàng đối với Duyên không như đối với các cô gái khác. Định nhân hôm nay bắt họ phải khai ra, thế là buộc họ lại với nhau, hết đường trốn tránh. Mẹ Quốc sẽ là người vui nhất. Đêm nào bà cụ cũng đốt hương cầu cho thằng con trai gặp được vợ hiền để có người lo quần áo, lo miếng ăn, nhưng số anh chàng quả là lận đận, thầy số bảo không đi tu làm tăng đạo thì cũng phải ở quá đến già. - Tiêu Lang tìm được Lộng Ngọc rồi chăng? Phi Lan hỏi Quốc, nhân lúc Duyên đi vào phòng trong để trang điểm lại, có ý muốn ép Quốc phải khai với mình, anh chàng chỉ cười, trả lời lệch lạc. - Lộng Ngọc, cái tên nghe thích nhỉ. Anh nầy đến là vô duyên, người ta hỏi một đường đi trả lời một nẻo. Em muốn hỏi bao giờ thì anh chị mới chịu cáo với bà con bạn bè. Bảo cho mà biết, lấy vợ phải lấy liền tay đấy, cô nàng đắt hàng lắm chứ không phải thứ "lèo" đâu mà đủng đỉnh. Ô hay, vớ vẩn chưa, đã có gì đâu mà cáo với chồn. Trả lời Phi Lan nhưng Quốc nghe trong lòng như có ai đâm vào một mũi kim nhỏ đâu đây. Câu chuyện chưa kết thúc thì Duyên trở ra nên phải bỏ dở. Trông cô gái tươi mát như một bông hoa mới thức giấc, mọi người đều phải thầm nhận rằng cô gái quả đã biết cách ăn mặc, trang điểm. Có thế mới lọt được vào mắt xanh của con người đá cuội nầy chứ. Chưa bao giờ Quốc gọi nhờ Phi Lan đóng vai đệ tam nhân để đi ăn như thế nầy, cô nào hơi rắc rối, hơi nhõng nhẽo là anh chàng chạy ngay từ buổi đầu. Thế mà kỳ nầy, nào xem triển lãm, nào du thuyền, ăn chiều, kỳ nầy quả là hy hữu, "nan tao ngộ" đáng lạc quan lắm rồi. Cô gái chợt cười lên thành tiếng vì chữ "mắt xanh" của mình. Thời buổi thừa đàn bà nầy, chữ mắt xanh dành cho các ông mới đúng, cũng như chữ mỹ nhân mà thi sĩ Khuất Nguyên đã mang gọi Sở Vương trong khúc Ly Tao. Phi Lan muốn mang những ý nghĩ của mình ra nói cho Quốc và Duyên nghe nhưng thấy cả hai đều có vẻ tự đầy đủ, không thèm biết tới ngoại giới, thôi vậy. - Hai cô uống gì, phải uống trước đã rồi sẽ gọi thức ăn sau, chúng ta còn nhiều thì giờ, còn sớm chán. - Cam tươi. - Nước chanh, còn anh? Quốc định gọi trà nhưng nghĩ lại, ở nhà mình uống toàn thứ trà hảo hạng do tự tay người mẹ ướp lấy, chọn trà ngon từ Đà Lạt Blao xuống để pha chế cho mình. Uống những thứ trà ngoài đường mất cả nghĩa lý thời buổi văn minh lại thêm có trà pha với đường và sữa, quả là chửi bố cây trà, và trêu tức ông Thần Nông. - Tôi cũng uống nước chanh như Duyên mà không đường, Lan gọi hộ. - Eo ôi chua chết, Lan nhăn mặt kêu. - Anh Quốc độc đáo quá. - Có thế mà đã gọi là độc đáo, rồi lúc đứng trước những đấng thiên tài các cô dùng chữ gì đây? Quốc vừa nói vừa cười hơi ngạo nghễ, biết Duyên đang nhìn mình, cái nhìn thán phục làm Quốc khó chịu, con người chẳng muốn ai phục mình, tự thấy mình chẳng có gì, sự thán phục có lẽ chỉ nên để dành cho các chiến sĩ, những người đã hy sinh cuộc đời để bảo vệ đất nước. Anh chàng đưa mắt nhìn ra phía xa, Quốc vẫn hay có cái lối bỏ mặc người khác để đi một mình như thế, cái nhìn về phía xa ấy mỗi khi Duyên bắt gặp là cô gái cảm thấy lo ngại, chẳng hiểu tại sao mình lại lo ngại. Ngay cả những lúc ngồi nhớ lại cũng làm Duyên lo, Duyên vừa muốn trốn tránh nó lại vừa muốn tìm tới gần. Làm sao biết được những lúc ấy Quốc đang nghĩ gì, hay đang nghĩ đến ai, sao con người trông lúc nào cũng có vẻ lạc loài, từ một hành tinh nào đến, bỡ ngỡ, xa lạ. Hay quả thật đúng thế chăng, Quốc là người của một hành tinh khác du lịch đến đây, nên phải học tiếng của người, chung đụng với loài người mà tâm tư vẫn không thể nào giống loài người ở cõi đất nầy được, Duyên biết mình đã bị một vài câu chuyện giả tưởng ảnh hưởng nên mới có những ý nghĩ nầy. Từ lúc có mặt Phi Lan Duyên mới bớt phập phồng, ban nãy chỉ có hai đứa với nhau, Duyên lo sợ, nhỡ gặp ai quen với gia đình thì thật là nguy. Mẹ Duyên rất gắt gao trong vấn đề giao thiệp với bạn bè, nhất là bạn trai. Hôm nọ anh Quốc với Duyên đi coi triển lãm có gì đặc biệt không? Có đáng cho thiên hạ mất thì giờ không? Phi Lan lên tiếng để phá làn không khí quá trầm lặng, nhận thấy cả hai người đang bị mấy con thuyền thu hút mất hồn vía. Duyên không trả lời ngước mắt nhìn Quốc, tự biết mình còn kém. - Tác giả rất chịu khó sưu tầm và nghiên cứu. Anh Quốc thật giỏi, tiếc cho Phi Lan hôm ấy không cùng đi để được nghe giảng dạy. Mình học ở trường cả chục năm chưa bằng đi dự một buổi triển lãm tranh có thầy giỏi đi kèm. Duyên nói xong quay sang Quốc đặt một câu, mà ngay từ hôm đầu tiên đã theo ám ảnh cô gái. - Tại sao ở vào thời buổi nầy mà còn có những người như anh hở anh Quốc, không thèm đi cùng một nhịp với xã hội, hay là anh chỉ muốn tìm về vết xưa. - Khiếp sao cô Duyên văn hoa thế, tại tôi không biết, hay không dám biết đi cùng, hay nói cho đúng người ta gạt bỏ tôi ra, không thèm cho tôi đi cùng đấy chứ. Quốc khiêm nhường cãi lại rồi định đưa câu chuyện đi sang hướng khác chàng cũng hỏi vặn lại Duyên. - Cô Duyên tìm ra hướng đi rồi phải không, thi vào ngành báo chí đi thì vừa, bắt chước cái lối vặn vẹo của ba ông ký giả. Duyên mỉm cười, thôi, tha cho Quốc lần nầy, biết anh chàng muốn lẩn tránh, không thích nói đến mình, không thích cho ai biết về mình, đợi một dịp khác vậy, Duyên sẽ không chịu thua đâu. Mỗi ngày người con gái có cảm giác như được ai hé mở cho nhìn thêm một chân trời mới lạ khác mang một sắc thái kỳ diệu, không giống như hôm trước, một sắc thái khác hẳn. Sắc thái gì? chưa nói được thành lời, chỉ biết rằng mình như đang bơi trong giòng hạnh phúc, thanh thản như người tiền phu đi trên đỉnh núi, dẫm bước trên những cụm mây. Quốc có cuộc sống thanh đạm thoải mái. Ít khi ai nghe chàng nói đến thời cuộc, hoăc than thở, oán trời trách đất, giận ông tổng trưởng, chửi người cảnh sát... Trong khi nếu ai thử lắng tai, chú ý, sẽ nghe thấy quanh mình câu chuyện chỉ qua lại có chừng ấy vấn đề. Kể cả những kẻ đã khoác lên mình tấm áo thoát tục, tự cho mình một địa vị tinh thần cao quý, vẫn không thoát được sự hồng hộc chạy theo cái danh vị, lãnh đạo tinh thần của mình. Nói chi đến những người chưa thoát tục. Sự tô bồi cho cái tôi bằng mọi cách, trực tiếp hay gián tiếp, nghe bảo còn có lắm kẻ tệ hại là đội tên khác để viết sách ca tụng lấy mình. Làm sao cho mọi người phải chú ý đến mình. Những lời thơ của cụ Nguyễn Công Trứ, ngày xưa, ai ngờ mà có tác dụng quái ác. Mọi người Việt đều muốn làm sao để "có danh với núi sông", chữ danh đã được hiểu lệch lạc. Trong giây phút im lặng, Quốc nhìn Duyên và Phi Lan, cả hai cùng xinh nhưng trông Duyên thùy mỵ hơn. Duyên sẽ không phải là loại hổ cái, lúc nào cũng tranh dành với chồng, tranh lời ăn nói, giật điện thoại trên tay chồng. Đã có lần Quốc bị chứng kiến cảnh nầy. Loại đàn bà ấy, ngày nay không hiếm, người của thời đại, tiếng Âu Mỹ là "aggressive", có người dịch là hoạt bát, là xâm lược, là khiêu đoạt, Quốc chẳng biết chọn chữ nào. Quốc vốn kỵ câu châm ngôn: "gái ngoan làm quan cho chồng", không quan thì dân chứ mà về nhà bị bà bắt nạt thì dẫu tài cán đến mấy, chức quan cao đến mấy, Quốc cũng xin đầu hàng. Duyên như một cành trúc thanh tú, mà Lan lại cứng cỏi như cành cây đại nếu mang bông hoa mà ví thì Duyên là đóa ngọc lan e ấp, Phi Lan là cành hoa Đại, hoa Sứ, cứng cỏi, cả hai cùng là thảo mộc, Quốc tự cười với sự so sánh hai cô gái của mình. Những người khách ở các bàn khác cứ liếc mắt về phía bàn nầy, có vẻ thèm thuồng, cố ý muốn lắng nghe xem ba người nầy nói gì mà vui thế, thỉnh thoảng lại vang lên một tràng cười tam tấu, rộn ràng. Thời buổi chiến tranh mà bộ ba nầy hình như không hay biết gì đến, các cô gái khác, hơi tỏ ý không hài lòng, vì thấy trọng tâm của buổi chiều hôm nay không phải là ta. Các ông, những ông đang ngồi chờ người hẹn chưa thấy đến, lại càng có vẻ sốt ruột hơn. - Anh Quốc có nhiều tranh lắm, hôm nào chúng mình đổ bộ đến nhà anh ấy xem, bắt anh ấy giảng cho chúng mình nghe một lần nhé Duyên. Nghe Lan đề nghị, Duyên ngước mắt lên nhìn Quốc hỏi dò, đôi môi hơi hé mở chờ đợi một sự chấp thuận của người đàn ông tài hoa nầy. - Anh Quốc có cho phép không? - Nhà tôi chứ có phải dinh quan lớn đâu mà phải đợi giấy phép mới được đến, chỉ cần báo trước nếu không thì vào nhà chẳng có chỗ đễ chân... Người ta là thiên hạ đệ nhất... đấy. - Đệ nhất gì cơ? - Đệ nhất bừa, cũng là một thứ đệ nhất, hơn người. Đến mà không báo trước thì lúc đi vấp phải các thứ ngổn ngang rán chịu, tôi không biết đâu. - Chẳng sao, Duyên sẽ bước rất cẩn thận, nhưng nhà anh có gì mà phải đến vấp ngã cơ. - Sách báo, bản thảo, chậu cây, giấy tờ, quần áọ.. có vậy thôi, tại thiếu sự dọn dẹp hằng ngày, mỗi lần có mẹ tôi vào thì khả dĩ, hôm vào cụ cũng dọn, để rồi mình lại bày ra cho cụ dọn hôm sau. Duyên mỉm cười theo dõi từng chữ, từng lời của Quốc, giá được ở gần Quốc, Duyên sẽ sung sướng mà làm cái công việc dọn dẹp mỗi ngày ấy, như mẹ Quốc đã làm. Duyên thoáng phát hiện trong trí khung cảnh một mái nhà, một đôi vợ chồng trẻ, có tiếng nhạc, có những lọ hoa trang nhã những búc tranh mỹ thuật, có tủ sách đầy loại sách quý giá. - Duyên nghĩ gì mà thừ ra thế? Phi Lan hỏi, nhận thấy cô bạn đang lờ đờ, như không dự vào cuộc bàn cãi giữa ba người nữa. Duyên vội trở lại với thực tế, với Quốc và Phi Lan, mỉm cười không dám thú nhận những ý nghĩ thầm kín của mình. - Chiều hôm nay trời tím nhỉ, tại sao? Duyên hỏi nhỏ vì nhận thấy những tia nắng cuối đã chìm dần từ phía chân trời xa, hoàng hôn phủ xuống một lớp màn mỏng hơi ngả sang tím. - Duyên không biết tại sao mà trời hôm nay tím à? Vì trời thiếu mầu còn tí xanh với tí đỏ nên phải quẹt đại xuống trần gian. Cả Duyên với Quốc cùng cười, nhưng Quốc lắc đầu cãi lại, lý lẽ nghe chừng vững vàng hơn, làm cho Duyên càng cảm phục hơn. - Phi Lan chỉ nói bậy, mầu tím được gọi là tường sắc, mầu tím báo tin lành đấy, mỗi khi thánh nhân đi đến đâu thì trên trời có những áng mây tím bay đến trước, nói mãi mà chẳng nhớ sao. - Thật không anh Quốc, nếu vậy thì mấy hôm naỵ.. Duyên ngập ngừng e thẹn không dám nói hết ý nghĩ của mình. Duyên muốn nói mấy hôm nay chiều nào trời cũng ngan ngát tím. - Một ngôi nhà lý tưởng đâu cần phải có nhiều tiền mới tạo nên anh Quốc nhỉ. Phi Lan hỏi Quốc, hôm cùng đi với Duyên đến nhà Quốc, lần đầu tiên Duyên được Lan rủ đến thăm Quốc, Lan chỉ sợ Duyên chê Quốc nghèo, sợ cô con gái nhà giàu nầy không đủ trình độ để thưởng thức cái nghèo cao quý của ông anh mình. Nhìn bên ngoài, ngôi nhà cất theo lối xưa, chẳng có gì đặc biệt, nhưng bên trong Quốc cho sửa chữa lại ngăn từng phòng, không để hai hàng cột cái như những ngôi nhà xưa, dùng cột để ngăn cách nhau. Phòng khách có bàn thờ với bộ ghế tràng kỷ, một lọ hoa giữa bàn, vài bức cổ tự trên tường. Một bực tranh phức bản của Mã Viễn, vẽ người ngồi nghe thông reo, cái nhìn ngước lên cành cây. Thấy Duyên nhìn bức tranh Quốc vội giảng giải: - Đây là phức bản, tôi muốn có ai vẽ một thư sinh mặc áo Việt Nam khăn đóng áo dài chứ không thích cái giáng dấp của anh chàng đời nhà Tống nầy. Tôi sẽ tìm người vẽ bức khác để thay bức tranh nầy. - Sau đó anh cho Duyên bức tranh nầỵ.. Quốc cau mặt ngạc nhiên nhìn Duyên, rồi mỉm cười gật đầu. Trong phòng riêng của Quốc chỉ có cái giường ngủ nhỏ, một cái án thư và một tủ sách. Nhà đơn sơ, không phải như nhà của Duyên, bày đầy các thứ tủ chè, sập gụ đôn, sứ, thêm bộ bàn ghế sơn mài đặt ở phía phòng khách, lẫn lộn cổ với kim, nhiều đồ đạc quý giá, bắt người phải bước đi dè dặt, sợ động chạm, rơi vỡ, sợ mang bụi vào những đóa hoa cẩn xà cừ, những chiếc nệm nhung rực rỡ. Nhà Quốc lại quá thanh đạm, nhưng Duyên nhận thấy nó xinh xắn và trang trọng, bắt người phải kính mến chủ nhân, đặc biệt là chung quanh nhà, ở ngoài vườn có nhiều cây, đủ tỏa bóng mát, nhưng không gieo âm khí, để cho người cảm giác lạnh lẽo rùng rợn như một vài nơi khác, trái lại. Ngôi nhà nằm gọn ở giữa, trông như một món nữ trang được đặt trong cái hộp nhung rêu. Duyên đưa sự so sánh của mình ra nói với Quốc làm chàng bật cười, bảo các thứ nữ trang nầy, mang vứt ra đường, chẳng ai thèm nhặt. Duyên không đồng ý, cho là phải ở như Quốc mới đúng, bước vào là có cảm giác dễ chịu, thoải mái ngay. Có phải đây là một tiêu chuẩn để phẩm định một ngôi nhà hay để xét đoán chủ nhân chăng, vì có những ngôi nhà mà, mới đặt chân vào là chỉ muốn quay gót bước ra. Quốc gọi chú bé người nhà bảo đun nước rồi tự mình đi soạn bộ ấm chén trà để dành cho quý khách, thay cái ấm độc ẩm của mình vẫn uống hằng ngày chọn một cái ấm lớn hơn vì hôm nay có những hai người khách. - Quý hai cô lắm mới có uống cái thứ ấm cổ từ thời nhà Minh đấy nhá lại thêm trà nầy là đại hảo hạng, trà hái mùa xuân còn đượm hương ông bạn thân vừa gửi tặng đấy, tôi vẫn để dành chờ quý khách mới dám uống. Lan nheo mắt nhìn Quốc trêu: - Khiếp em đến cả trăm lần mà chưa bao giờ được ông anh cho uống thử cái ấm đời nhà Minh và trà mùa xuân cả, sao hôm nay ông anh tôi tốt và dễ thương thế... - Rắc rối, cô nầy rắc rốị.. Phi Lan vẫn chưa chịu buông tha, tiếp tục nói thêm để trêu Quốc: - Trà ngon không có bạn hiền chứ gì, anh vẫn bảo rằng có những cái lưỡi phàm phu không biết phẩm trà, mang thứ trà quý ra cho chúng uống nó phí đi. Hôm nay Duyên hân hạnh lắm đấy nhé, nhờ đi che tàn cho Duyên, Lan mới được thưởng thức ké, từ trước đến nay anh Quốc vẫn xem Lan là thứ lưỡi phàm phu cơ. Lan vừa nói vừa cười, không hề có ác ý ganh tỵ, trái lại cô em gái chỉ muốn đề cao ông anh họ của mình, muốn Duyên nhận rõ sự được biệt đãi của mình, không phải là điều vẫn xảy ra hằng ngày và với tất cả mọi người. Duyên cắn môi e dè, liệu mình có xứng đáng, có biết thưởng thức hay sẽ làm một cử chỉ gì, một thái độ nào để bị Quốc lấy đó mà đánh giá cái tầm kiến thức hẹp hòi về văn hóa của mình, tức là của gia đình mình, để rồi sẽ bị gạt ra ngoài. Duyên không ngờ đời còn lắm hoàn cảnh khó khăn. Quốc vừa súc ấm trà, đổ nước sôi tràn ngập từ ấm chén lớn, chén nhỏ muốn cho tất cả được nóng đều, tráng chén sạch sẽ, sau đó mới bỏ trà vào chiếc ấm cũng đã được tráng một lần nước sôi, rửa, trà đổ nước ra cái chậu sành bên cạnh rồi đặt ấm xuống, lần nầy chàng dùng cái thìa tre, múc mấy thìa trà cho vào ấm, Duyên không ngờ cái ấm bé thế mà chứa được một khối lượng trà khá nhiều. Sau đó Quốc đổ nước sôi vào ấm, xong rồi lại đặt ấm vào trong cái dầm, mang nước sôi tưới lên gần ngập miệng ấm, cố ý cho cả trong lẫn ngoài đều nhận được độ nóng ngang nhau. Quốc làm mọi cử chỉ để pha trà với thái độ nhẹ nhàng điềm tĩnh, thanh thoát, Quốc vừa giảng cho Lan và Duyên nghe về các thứ trà và cách thức pha trà, tại sao người ghiền lại chỉ muốn uống bình trà độc ẩm hay song ẩm, và tại sao gọi là Hoàng Đế Trà, và phần nhiều chén trà dành cho bố mẹ lại đậm đà hơn cho vua. - Tại sao thế anh, khác nhau chỗ nào anh giảng kỹ đi, thích quá... Duyên nóng nảy giục, chỉ muốn thâu hết những lời giảng dạy của Quốc. - Tí nữa, từ từ tôi sẽ nói, các cô đã nghe nói đến cái gọi là năm khuôn vàng thước ngọc của trà đạo không? - Anh nói đi, sao cái ấm trà bé thế mà vẫn đủ anh nhỉ? Lan cũng muốn tìm hiểu vì ông anh chẳng mấy khi cho mình được cơ hội chất vấn như hôm nay. - Cả một công trình nghiên cứu đấy các cô ơi, nguyên do từ một nhà sư, mang tên Vô Danh, ông nghiện trà nhưng nhận thấy trà pha vào ấm lớn thì chỉ là nước, mất hết cả hương vị, mà nếu muốn hội đủ ba yếu tố hương, vị, và sắc thì sẽ rất tốn trà lại còn quá nặng cho sức chịu đựng của con người, ông bèn đặt ra cái ấm nhỏ và được hoan nghênh ngay. Cả hai cô gái đều kính cẩn nghe những lời nói của Quốc, Quốc pha ra cho mỗi người một chén nhỏ, qua làn khói trà Quốc nhìn thấy nét đẹp của Duyên thật thích hợp. Chàng chợt im lặng, một giây khắc trang trọng mà cả ba đều mơ hồ, hiểu đấy mà không nói lên được thành lời. Riêng Quốc như vừa tiếp nhận một làn khí lạ, ngời sáng, ấm áp từ đâu chợt thổi vào tâm tư, một làn chớp lòe tràn ngập vào không gian bé nhỏ. Duyên nhìn Lan rồi nhìn Quốc cúi đầu an phận, Lan cũng không dám liến thoắng như lúc ban đầu. Duyên thầm cầu nguyện, xin cho mình đừng có nói một chữ, một lời hay làm một động tác gì thất thố. Mỗi người bạn còn phải là một người thầy, Quốc đã trả lời đúng với cái định luật ấy. Càng đi sâu, Duyên càng thấy mình còn khiếm khuyết rất nhiều, cứ ngỡ rằng thi đỗ xong cái bằng tú tài Pháp, nói đúng giọng Pháp khi đóng vở kịch Phèdre, diễn xuất được điệu bộ đau khổ, hối hận của vai trò, biết lỗi mà không dám nhận... Đóng xong vở kịch được cả trường ngợi khen, tưởng như thế là xuất chúng rồi, thì ra, đời không phải chỉ có thế. Quốc định dạy ngay cho Duyên cách pha trà, cho cô gái cầm chiếc ấm trong tay, dạy cho Duyên biết thưởng thức trà nhưng nghĩ lại, thấy còn nhiều thì giờ, đời còn dài, đi đâu mà vội, ý nghĩ tin tưởng vào ngày mai quả là một triệu chứng lạ lùng đối với Quốc. - Uống trà cho đúng là cả một nghệ thuật anh Quốc nhỉ. Quốc gật đầu, vừa chế trà từ chén tống sang mấy chén quân, lại đưa mời hai cô gái một lần nữa. Lần đầu tiên Duyên mới biết uống trà trong cái chén bé, xem như một món đồ chơi trong khi thấy Quốc trịnh trọng lim dim hớp từng ngụm nhỏ, không nuốt vội, như vừa thưởng thức vừa tìm ưu khuyết điểm của thứ trà mới hái đầu xuân nầy. - Trà đượm hương hơn thứ trà hái vào những mùa khác, mặc dầu năm nay cũng đã qua hạ rồi, quyên không thay bộ chén hạ ẩm, thôi để kỳ sau. Ai muốn thưởng thức trà với tôi cho thật đúng điệu thì phải đến vào buổi sáng sớm, vừa tan giới nghiêm mà đến mới thật là tri kỷ của trà. Duyên nhìn Quốc đôi mắt ngời ánh sáng, cho đây là một lời hứa hẹn, một sự ban ơn. - Anh Quốc nói chắc nhé, móc quéo đi. Cô gái vừa nói vừa đưa ngón tay chỉ ra cho Quốc, anh chàng cũng đưa ngón tay của mình ra, cho hai ngón tay móc quéo lấy nhau, Lan mỉm cười hiểu rằng đến đây có thể xem như mọi sự đã gần xong. Sách tình đã viết sang chương hai rồi đó. Cuộc tình duyên nào cũng chỉ có vài trăm hay vài chục trang, chừng ấy lối đi, từ thuở chưa quen, đến quen, đến gần gũi rồi yêu thương. Phần cuối, kết thúc là do định mệnh. Tình yêu vào chương cuối thì hoặc là rực rỡ với tiếng nhạc nhà thờ reo vui, lời nguyện cầu, tiếng chuông chùa trang trọng, tiếng rượu, tiếng pháo, hay là những tiếng nức nở, những tiếng thở dài nghẹn ngào trong đêm khuya, ẩn dấu sau chiếc gối. Những lần sau Duyên đến nhà Quốc thăm một mình, không cần sự có mặt của đệ tam nhân nữa. Phi Lan cũng hiểu, chẳng có gì ngốc bằng đi làm cái vai trò đệ tam nhân, khi người ta đã yêu nhau, hiểu nhau và chỉ cần những phút sống riêng biệt bên nhau. Quốc thường thổi sáo cho Duyên nghe, tiếng sáo có lúc vi vút, nghẹn ngào, có lúc nhẹ nhàng như hơi gió, đưa tâm tư người vào cõi mộng, huyền diệu êm đềm. Tiếng sáo ngừng là một sự đánh thức người nghe, bắt trở về với thực tại, thật đáng tiếc. - Bài gì thế anh... - Chỉ là một đoạn tức tịch, thổi tùy hứng... không gò bó... Có những phút mà nếu không bị ràng buộc vì một lời hứa với chính mình, với mẹ, hẳn Duyên đã để thả buông cho cả thân xác lẫn linh hồn tan biến vào trong vòng tay của người yêu. Cả hai đều cố gắng vùng lên, gượng lại. Mỗi lần nghe sự xúc động quá dồn dập, Duyên vội vã đứng lên, giả vờ đếm sách, hoặc hỏi thăm về những bức tranh treo trên tường. Lắm khi chính Quốc cũng sợ hãi, thấy sự dao động quá mạnh, chàng vùng kéo Duyên ra vườn cho đổi khung cảnh, nhờ cây cỏ ở bên ngoài giúp mình lấy lại sự thăng bằng. Hai người đi thật sát nhau, bước chậm rãi khắp quanh vườn, đến cạnh những khóm cúc già, Quốc giảng giải cho Duyên về cúc. - Chúng nó sống được là nhờ bàn tay của mẹ anh, mỗi khi cụ vào là chúng nó vùng lên như chào mừng, cụ về hai hôm sau là nó xìu xuống, cỏ cây cũng đầy đủ tình cảm chẳng khác gì loài người. - Anh tin thế sao? - Em không tin sao, ngày nay khoa học cũng đã chứng minh như thế. - Em nghĩ tại anh bỏ bê chúng nó, không săn sóc chu đáo, còn mẹ săn sóc tưới tẫm hằng ngày đấy thôi. - Em nghĩ sai rồi, săn sóc như người làm bổn phận để đến cuối tháng lãnh tiền thì đâu có đủ, phải biết thương yêu, chia vui sẻ buồn, phải biết nóng, biết rét với chúng nó, chứ chỉ có tưới suông mỗi ngày thì chúng nó không thể sung mãn được, cây cỏ cũng hệt như trẻ con. Duyên nhìn Quốc nửa ngờ nửa vực, nửa ngạc nhiên không biết chàng có đùa. Duyên chưa bao giờ nghe ai nói những điều kỳ dị như thế. Mẹ Quốc là người đàn bà xứ Huế, chỉ thích sống ở quê hương, bà thường bảo rằng ở mô cũng không hợp với cái tạng của mình và mỗi con người sinh ra để được đặt vào một khung cảnh, nếu đặt đúng thì nẩy nở mạnh khỏe. Nếu không thì úa héo. Hẳn vì sự quen thuộc với mọi người, với phong thổ khí hậu, cả xóm chen nhau như một gia đình, ai cũng biết ai. Mặc dầu năm nào cũng lụt lội mưa bão, đến mùa hè thì nóng nảy oi bức, nhưng bà vẫn không muốn rời xứ Huế, rời ngôi nhà nhỏ trong thành nội. Chỉ vì có thằng con trai cưng, độc nhất, hiện đang ở trong Sài Gòn nên mỗi năm bà phải vào đó vài tháng để săn sóc nhà cửa, quần áo cho con, rồi lại trở về, có đi xa lại càng thấy thương quê hương hơn. Chỉ mình người mẹ mới nhận biết cái tướng kỳ dị, phi phàm của thằng con trai mình mà thôi. Chủ quan chăng? Sự chưa lập gia đình của Quốc cũng là một mối ưu tư, mỗi người đều phải cần một người để trông nom chỗ ăn chỗ ở. Góc nhà, góc vườn nào cần được sửa chữa, bàn ghế cái nào hư hỏng, phải thay đổi. Sự có mặt của một người đàn bà trong nhà thật là quan trọng, nhưng đợi mãi mà Quốc vẫn không chịu lấy vợ, số mệnh cả, bà không dám ép, chỉ sợ sau đó lại không thương nhau lại càng khốn khổ, nào có phải cha mẹ có toàn quyền, và có thể chia được nỗi đau buồn của con. Mẹ Quốc có bệnh yêu hoa, phải gọi là bệnh nếu không thì phải tin rằng có những sự ràng buộc từ tiền kiếp. Mỗi sáng bà dậy sớm hơn mọi người để ra trò chuyện với cỏ cây, hỏi thăm từng khóm cây, ngọn cỏ, như thăm hỏi người bạn vong niên, không cần tuổi tác vẫn hiểu nhau và yêu quý nhau. - Thế nào, sao nhà cô mình muộn màng quá vậy, hôm nay đã sắp vào tiết sương giáng rồi đấy nhé, chờ đến lập đông mới chịu trổ nụ chăng. Đằng kia các cô đã đâm nụ từ tiết hàn lộ cơ đấy, có nơi con trổ từ thu phân. Phải dùng tiếng của hoa để chuyện trò với hoa. Bà vừa trách mấy khóm cúc muộn thì rồi lần nào những khóm cúc chừng như cũng vâng lời, chỉ độ một tuần sau là trổ đầy nụ. Bà yêu Cúc nhất, cho rằng trong tứ quân tử phải đặt cúc vào đệ nhất quân tử, không phải như ý cổ nhân đặt trúc là đệ nhất quân tử. Cúc có hằng mấy trăm thứ nhưng bà chỉ chuộng độ hơn một chục thứ để trồng trong vườn, toàn giống đẹp, mang tên cũng đẹp không kém, bà đã cố lùng cho ra những giống cúc nầy dầu phải lặn lội đường xa, tốn kém khá nhiều, cả công lẫn của. Nào Hoàng Kim Ấn, Tuý Dương Phi, Trạng Nguyên Hồng, Đan Phương Đài, Ngọc Linh Lung, Trầm Hương Phiến, Bạch Phượng Vỹ... Những tên đẹp do những nhà yêu Cúc đặt ra. Cứ mỗi đầu tháng tám hằng năm, tức là cúc nguyệt, thì bà lại vào Nam để chăm bón cúc uyển, tức là cái vườn cúc quý của mình. Ở xứ lạnh tháng nầy hoa đã nở, nhưng miền Nam nóng nên hoa nở chậm, có giống lại không chịu nổi khí hậu thiếu tuyết. Ở với thằng con trai và vườn cúc cho đến sau tết mới trở về Huế. Ăn tết với con để cho cả hai mẹ con khỏi cảm thấy bơ vơ. Chỉ những ngày ấy, con người mới cần sự hiện diện của người thân nhất, chứ quanh năm với những bận rộn hằng ngày, ít ai thấy cần ai. - Mẹ anh thích nhất là giống cúc mang tên Hoàng Kim Ấn, mẹ bảo chỉ mới nghe cái tên thôi, là đã thấy nó trang trọng rồi. Mẹ hơi mắc chứng Bão Hoàng, mang bệnh ấy ở vào thời cách mệnh cộng sản mà sao bà còn được để yên cũng là quá phúc. Nghe Quốc phê bình mẹ, vừa khôi hài vừa âu yếm, chỉ khi thật yêu nhau người ta mới có quyền phê phán nhau. Duyên mỉm cười. Hai người đi song song dạo quanh vườn thỉnh thoảng lại dừng chân trước một khóm hoa, mỗi chậu hoa đều có mang bảng tên cho khỏi bị lầm lạc, Duyên cố nhìn để phân biệt những chiếc lá xem chúng nó có khác gì nhau. Thứ cúc mang tên Ngự Bào Hoàng với thứ cúc mang tên Bạch Phượng Vỹ. - Có chứ, lá cúc có thứ nhọn, có thứ tròn, hoặc dày hơn, hay mỏng hơn, cành có cành lục có cành pha tím... Quốc chỉ cho Duyên xem một khóm cúc mang tên Túy Nguyệt, giảng rằng hoa nầy mang sắc trắng thuần, mỗi khi gặp ánh trăng chiếu tới, hoặc ánh đèn chiếu vào, hoa sẽ trở thành ưng ửng hồng như người say rượu, vì thế hoa được mang tên là say trăng. Nghe những lời giảng giải, Duyên cảm thấy vui sướng mà chẳng biết làm gì hơn là thỉnh thoảng xiết chặt lấy bàn tay Quốc để tỏ sự hân hoan, như thế là đủ lắm rồi có nhà thơ Pháp còn cho rằng sự nắm tay nhau cũng tạo một hình thức ái ân. - Mẹ thích Hoàng Kim Ấn, còn anh? - Túy Dương Phi, Bạch Phượng Vỹ, cả hai cùng đẹp mỗi hoa một vẻ, em chờ mẹ vào gặp mẹ, tha hồ hỏi. Mẹ đang mong có người để cho cụ truyền lại cái kiến thức và nghệ thuật chăm bón. Chỉ sợ chết đi mà phải mang theo mớ kinh nghiệm nầy, không truyền được cho ai thì phí đi. - Sao anh không học của mẹ? - Cũng có đấy, nhưng mẹ còn phổ biến rộng hơn nữa. - Để em sẽ xin làm đệ tử của mẹ nhé. - Ừ chắc mẹ sẽ vui lắm. Quốc chỉ nói có mấy chữ rồi ngừng, Duyên nghe thằng con trai nhắc đến mẹ một cách âu yếm, nàng cảm thấy vui vui, tưởng chừng như mình đã được quen biết người mẹ ấy, đã từng gặp nhau. Nghĩ thế thôi, Duyên chưa dám hỏi kỹ hơn về mẹ, sợ nhỡ có ai biết sẽ cười, mặc cảm ngay với chính mình, sợ lý trí chế riễu tình cảm. - Mà tại sao anh lại thích hoa Túy Dương Phi, hoa ấy mầu gì, Bạch Phượng Vỹ thì chắc phải là mầu trắng rồi, Quốc gật đầu, biết Duyên đã tiến bộ hơn trước. - Hoa nầy ngã hồng như người cung phi họ Dương, lúc say rượu. Hoa nầy chắc phải là hóa thân của Dương Qúy Phi, được vua yêu cho hầu rượu luôn nên lúc nào cũng ngà saỵ.. - Rồi sao nữa anh? Quốc đang nói bỗng ngừng, Duyên phải giục, vì nàng đã say mê, tại sao câu chuyện nào của Quốc, Duyên cũng thấy ý vị, cầu xin để được nghe mãi. - Em đợi đến Cúc Nguyệt mà hỏi mẹ, xem mẹ ươm hoa. Anh sẽ giới thiệu em với mẹ... Duyên thầm thì hai chữ Cúc Nguyệt, ngước nhìn người yêu, đôi mắt sáng ngời chói lòa hạnh phúc. Từ độ quen nhau, từ độ được nghe tiếng sáo, cuộc đời mỗi ngày một tăng thêm thi vị, như bức tranh của người họa sĩ, lạc quan, mỗi ngày một rực rỡ hơn, nhịp nhàng hơn. Duyên hết nhìn Quốc lại ngước nhìn trời, thầm cảm ơn Thượng Đế. Không gian như đang lên men, Duyên nghe trong lòng ngây ngây say. Cảm giác như có linh hồn của Túy Dương Phi đang quanh quất đâu đây. Cây cành tỏa hương, mùi lục diệp tố thanh khiết, Duyên muốn thở thật nhiều cho mùi hương ấy vào phổi, mùi hương vừa lành vừa trong sạch không phải thứ hương sa đọa, giả tạo của những lọ nước hoa pha chế, hóa học đắt tiền. Có những chiều mưa, Duyên mặc áo mưa đến thăm Quốc, mùa mưa Sài Gòn thật dễ thương, mưa đó rồi tạnh đó, không kéo dài lê thê hằng tuần hằng tháng như ở các vùng miền Trung, làm úng rể cỏ cây, lầy lội đường sá, ngập lụt ao hồ, và làm khổ tâm những người đang phải sống dưới mái tranh mục nát. Vào đến nhà bao giờ Duyên cũng bước thật nhẹ, để rình nghe, biết chàng hay thổi sáo trong những cơn mưa, vì không muốn cho tiếng sao bay xa, cố ý nhờ tiếng mưa che lấp giọng sáo. Giọng sáo của Quốc không mấy khi vui, hình như tiếng sáo tre là tiếng sáo dễ gợi buồn, tiếng trống mới làm cho lòng người rộn ràng náo nức, tiếng sáo chỉ làm vấn vương cũng như những cơn mưa chiều hay xui người ta nhớ nhau, tìm tới nhau. Mưa chiều hay mưa đêm, nhất là vào lối nửa đêm, mưa đánh thức người dậy, thức luôn cả nổi cô quạnh ủ ấp trong tâm tư. - Anh thích mưa phải không anh? Duyên hỏi mà không đợi trả lời, biết chắc rằng người như Quốc chỉ có thể yêu mưa, tâm hồn chàng trai có gì mông mênh, không phải thứ mênh mông khô cằn của bãi sa mạc ở Phi Châu mà là thứ mông mênh của những cánh đồng xám, kéo dài tận chân mây, những cánh đồng khi chưa được gieo trồng, gặp những chiều mưa dăng lê thê. Người đi trong mưa có thể nhìn suốt tận cuối trời qua mầu mưa, cũng như có thể nhìn suốt tận tâm tư mình cùng mầu với mưa. Quốc không trả lời Duyên, chàng ngước ra ngoài nhìn mưa, quả thật đôi mắt ấy có gì vời vợi, cũng hệt như mầu mưa bên ngoài. - Thuở bé anh hay đi chơi mưa, mặc áo lang thang khắp nơi để có cảm tưởng được hòa mình vào trong mưa, sau đó có lần anh bị ốm nặng, mẹ cấm không cho đi dầm mưa nữa, nhưng mưa vẫn là bạn thân, nếu phải dọn ở một vùng sa mạc quanh năm trời không ban cho một giọt nước chắc sẽ khổ lắm, điên lên mất. Quốc giảng về mưa cho Duyên nghe, mưa nhỏ hạt được gọi là mạch lộc, mưa mau là sậu vũ, chậm là linh vũ, mưa kéo dài là khỗ vũ hay là dâm vũ, ba ngày trở lên gọi là lâm vũ, cùng với tuyết là tán vũ. - Người xưa lắm trò anh nhỉ, đến mưa mà cũng phải đặt tên. - Người xưa lắm trò anh nhỉ, đến mưa mà cũng phải đặt tên. - Ừ chắc vì thời ấy có nhiều thì giờ nên con người dễ trở nên lắm trò, như em nói. Quốc chẳng có gì giống mọi người, mỗi lần gặp nhau, Duyên lại biết thêm một vài điểm kỳ dị khác, và mỗi lần lại như có gì kéo Duyên lại gần Quốc hơn một chút nữa. Duyên muốn học thổi sáo, bàn tay thuôn dài của cô gái mỗi khi nhắc tới ống sáo lên là cả một bức tranh, một áng thơ. Tiếc rằng chỉ mới là cái đẹp tạo hình mà thôi, chẳng biết đến bao giờ Duyên mới thổi được một câu bằng Quốc, chứ không dám nói đến sự thổi cả bài, càng học càng nản. Duyên chỉ muốn nghe. Im lặng, thành kính ngồi dưới chân người yêu nghe chàng thổi sáo để thả hồn mình chơi vơi trong tiếng sáo, cho mình tan biến vào giọng sáo, không còn thời gian, không gian gì nữa. - Thôi em chẳng học đâu, em chỉ muốn nghe anh thổi, tiếng sáo của em thổi lên nghe trần tục, làm vẩn đục không khí... Quốc mỉm cười lấy cây sáo mình đang thổi đặt vào môi Duyên. Lỗ sáo còn ấm hơi môi, còn ướt nước miếng. Duyên cảm động nâng lấy áp sát môi mình lên không dám thổi thành tiếng, nghe tim mình dồn dập khác hẳn với nhịp tim thương có phải đây là một nụ hôn gián tiếp, vì quả thật từ khi biết nhau chưa bao giờ cả hai dám đi quá hơn sự nắm và xiết chặc bàn tay. - Ai làm ra cây sáo, thông minh quá anh nhỉ. - Có sách ghi là vua Thuấn chế ra cây sáo, chẳng biết ông ta chế nó vào hoàn cảnh nào, sao con người ấy lắm tài thế, nào đàn cầm, nào sáo, biết yêu nhạc, phải tài hoa như vậy mới lấy được một lần những hai công chúa con gái vua Nghiêu. Ngày xưa khi mà Hoàng Đế sai Linh Luân chặt trúc ở Côn Sơn. Duyên hơi ngơ ngác, nàng hoàn toàn xa lạ với những địa danh cũng như tên người, cứ động hỏi một câu gì là Quốc có thể giảng cả giờ. - Nhưng theo anh thì sao? - Anh thấy ở đâu cũng có sự hiện diện của cây sáo, điểm này chắc phải đợi mấy nhà khảo cổ khảo thêm tí nữa. Loài người biết thổi sáo trước khi biết làm thơ, tức là âm điệu ra trước vần điệu, có thể là thuở ban đầu con người chưa đạt tới trình độ uyển chuyển như ngày nay, nhưng chỉ cần một vài âm thanh, lắm khi cũng đủ diễn tả... Người Âu Châu thời thượng cổ tin rằng Thượng Đế, tạo ra con người xong rồi, dùng tiếng sáo thổi bên tai để đánh thức tỉnh. Nghe có hay không? Thơ mộng biết mấy, và như thế thì phải nói rằng cây sáo ra đời trước con người. Duyên chỉ biết ngồi lặng yên nghe như tín đồ nghe mục sư giảng kinh. Có những buổi Duyên lén đến nhà Quốc thật sớm, để được chàng cho dự buổi trà lễ, vào lối tám giờ vì cữ trà năm giờ sáng chắc sẽ không bao giờ Duyên có thể đến, nhưng Duyên vẫn tin rằng sẽ có một ngày nào đó... Đến vào lối tám giờ Duyên có thể nói dối là muốn đi lễ sớm rồi cùng các bạn đi xem tranh, nghe nhạc. Trước Duyên chưa hề nói dối nhưng từ khi yêu Quốc thì Duyên không còn sợ tội nữa, tin rằng Chúa cũng tha thứ vì Chúa biết rằng con người sinh ra cần phải có tình yêu, mà những thứ cấm đoán ngăn ngừa, chỉ là do sự tính toán của con người, chứ Chúa không bao giờ nghiêm khắc đến như vậy. Nhìn Quốc pha trà, giảng giải về các thứ trà, làm sao pha cho đúng để được gọi là ngon, vì cũng một thứ trà mà có người không biết pha thì chẳng ra gì, phí cả trà. Nhờ Quốc Duyên mới biết thế nào là mạt trà, là đoàn trà, là tiễn trà. Tin chắc rằng trong số các bạn cùng lứa ngày nay, chỉ có mình Duyên được cái vốn kiến thức nầy, mặc dầu Quốc thường nhắc rằng những kiến thức nầy không mang lại gì cho ai, nhất là chẳng mang lại đồng nào, ở vào cái thời đại được gọi là "hoàng kim vi tiên" nầy lại càng thêm vô bổ. - Không sao đâu anh, giảng cho em, đoàn trà là gì sao gọi là đoàn. - Có gì đâu, đoàn là đun nấu, ngày xưa chữ đoàn có nghĩa là những hạt sương đọng. Nước đun mà đạy nắp cũng sẽ có những hạt sương nước, do hơi nước bốc lên, đọng trên nắp vung và, với sự phán xét chất phác của con người nguyên thủy, người ta mang hai thứ gọi chung một chữ. - Còn tiễn trà? - Là theo cách thức ngâm vào nước sôi như chúng ta vẫn uống. - Còn mạt trà? - Là lối trà khuấy mà người Nhật Bản vẫn tiếp tục thực hành ở các buổi trà lễ, vì bình thường, họ cũng uống trà bỏ vào bình chế nước sôi. Đặc biệt ở các khách sạn nào cũng thấy có đủ ấm chén và cái bình thủy đầy nước sôi. Chúng ta bắt đầu uống thứ trà ngâm vào nước nầy cũng chỉ mới hơn 500 năm thôi, ngày xưa uống theo lối đoàn trà, và ngay ở các miền quê cũng uống theo lối đoàn trà ấy. Một lần khác Duyên bắt Quốc giảng cho mình biết thế nào gọi là trà ngon, theo Duyên thì trà nào cũng giống nhau, và chỉ có cái giá tiền làm cho người ta biết được ngon hay dở. - Ấy chết, đó là luận điệu của qúy trọc phú ông, phú bà, sao Duyên lại nghĩ như thế. Giọng Quốc hơi thoáng niềm thất vọng làm Duyên cảm thấy nhột nhạt; Ừ nhỉ, đã có nhiều lần Duyên nghe người ta thầm thì hai chữ nầy, hôm nay Duyên phải bắt Quốc giảng rõ thế nào là trọc phú, sao lại gọi là trọc phú. - Trước hết, trọc cũng như tục, là không thanh, trọc là đục, là dơ bẩn. Có nhiều thứ giàu mà đa số giàu thường phải bẩn mới dễ giàu, chẳng mấy ai có thể vừa giàu vừa thanh cao. Điểm thứ hai là quý vị nhà giàu mải lo đếm tiền và cất tiền vào túi quá kỹ nên không có thì giờ mà trau dồi các thứ kiến thức, về thẩm mỹ cũng như về tâm hồn, họ trọng hình thức mà thiếu hẳn cuộc sống nội tâm, chỉ thấy giá trị của đồng tiền mà thôi. Người xưa còn chê rằng trọc phú thường thiếu đức độ. Duyên nhắm mắt, hơi cau mặt xấu hổ, chợt nghĩ đến gia đình mình. Quốc biết mình lỡ lời, chàng quay trở lại nói về trà ngay, theo lời Quốc thì sự biết thưởng thức một chén trà cũng cần phải được giáo dục cũng như biết thưởng thức một bức tranh, trừ những bậc thánh, những bậc thiên tài, những kẻ đã được học từ mấy kiếp, nói theo thuyết nhà Phật, ngoài ra ai cũng phải được giáo dục mới có thể hiểu biết. Liệt anh chàng nầy vào thành phần nào? Duyên vẫn còn thắc mắc, thật độc đáo, thật khác hẳn với gia đình Duyên, và khác tất cả những người chung quanh mà Duyên vẫn lui tới. - Trà ngon phải là thứ trà tốt giống, được mọc ở những vùng đất đai tốt, phần nhiều là trên các ngọn đồi cao, có đủ nắng ngày, sương đêm mà không có mây mù. Đây cũng là điểm khác nhau giữa trà và thuốc phiện. Cây thuốc phiện chuộng mây mù trên đỉnh núi. Hái trà còn phải chọn đúng lúc, tức là ngày nào, giờ nào, mùa nào trà đượm, mùa nào trà ngát, mang về còn phải pha chế kịp thời, lệ thường các nhà pha chế phải thức suốt đêm để canh trà không cho khô quá. Sự pha chế quan trọng không kém đất đai, thời tiết, vì cũng giống trà ấy mà hai nhà pha chế khác nhau. Trà khác rượu ở chỗ là không giữ lâu năm, phai hương. Sau đó lại còn cách thức pha trà và thứ nước nào mới pha được ra trà ngon, người xưa cầu kỳ chia ra đến 12 thứ nước, ít cầu kỳ hơn thì chỉ chia ra có 7 thứ nhưng theo vị Trà Thánh... - Là ai vậy anh? - Là Lục Vũ, nhưng thôi không nói nữa, dài giòng lắm để dành kỳ sau chúng mình còn nhiều dịp nói và chắc là nói mãi cũng khó hết, em hãy tập uống và thưởng thức đi đã. - Em cho anh khất kỳ nầy, kỳ tới phải giảng cho em biết về cái nhân vật Trà Thánh của anh, nếu không thì em sẽ đình công. - Đình công thì làm gì? - Thì nằm nhà bắt nhớ anh và bắt anh nhớ em... Quốc cau mặt suy nghĩ rồi nói tiếp: - Thì thôi, để nói nốt cho mà nghe, khỏi đình công bãi thị. Cả hai cùng cười vang, Quốc tiếp tục giảng, say mê như một nhà giáo yêu nghề, theo Lục Vũ thì chỉ một vấn đề hái trà thôi cũng đòi hỏi nhiều công và nhiều kinh nghiệm hiểu biết. Trà hoang mọc trên đồi cao là thượng hạng, trà vườn chỉ là hạng nhì, mầu lá tím là hạng nhất, lá lục cũng chỉ là hạng nhì thôi, lá trà phải hơi cuộn vào mới là hạng nhất, nếu thứ lá mở ra như lá bình thường chỉ là hạng nhì, mầm non gọi duẫn là hạng nhất, nha là mầm già, duẫn là hạng nhất, nha là hạng nhì. Ngày nào mưa cũng như buổi sáng nào nhiều mây, đều không nên hái trà vị trà nhạt, muốn trà ngon trở lại phải chờ trời tạnh ráo vài hôm sau. Nước nấu trà cũng khó khăn, làm sao kiếm được nước trên núi cao mới là thứ nước tốt để pha trà ngon, thứ nhì là nước sông, thứ ba là nước giếng, nước trên núi còn phải tìm thứ nước chảy chậm, rỉ rả như suối sữa, từ trong lòng đá chảy ra, tối kỵ là nước chảy từ những giòng thác lớn ầm ỉ. Ở đây người ta nhận thấy nước của trà cũng đòi hỏi những giòng nhỏ như các chân long mạch. Duyên mở mắt thật to, cô gái lắc đầu cắt ngang: - Chân long mạch là gì hở anh? Quốc biết mình đang giảng hơi ra ngoài đề vội trở về với đề tài chính. - Để kỳ khác anh sẽ nói đến, bây giờ chỉ cần nói đến nước pha trà rước đã, theo người xưa thì uống thứ nước thác ấy sẽ sinh bệnh. Nấu nước cũng phải canh nên vào độ nào, sủi mắt cá, sủi hạt châu, sủi thịnh nộ. Đến độ thịnh nộ thì phải pha một tí nước lạnh vào cho nó trở về nguyên khí rồi hãy chế trà. Chén uống trà, người xưa tin rằng phải dùng chén men xanh mới ngon, nhưng ngày nay uống theo lối tiễn trà, nên chọn thứ men trắng, để trà có thể phô bày được các đức tính cần thiết của trà. - Đức tính gì hở anh? - Trà cần hội đủ ba đức tính mới được gọi là trà ngon, sắc, hương và vị, nếu thiếu một trong ba cái tức là khiếm khuyết, chưa đạt tới. Duyên lắng nghe, thỉnh thoảng chen vào một câu hỏi, không dám hỏi nhiều, sợ làm Quốc mất hứng hoặc thấy mình tệ quá, Duyên cũng sợ mình không đủ sức thâu nhận. Một kỳ nào, Duyên sẽ hỏi xem Lục Vũ là ai, biết đâu chẳng là tiền kiếp của Quốc. Từ độ quen với Quốc, Duyên đâm ra tìm tòi, suy nghĩ, ngày xưa Duyên cũng hệt như những cục thịt đẹp khác, chỉ biết học thuộc bài, các mẹ các dì giảng đâu biết đó, không cần tìm tòi sâu xa hơn, và có lẽ cái lối học ngoan ngoãn như thế lại được chuộng. - Sao anh biết nhiều thế? - Duyên cứ hỏi câu nầy mãi, anh có biết gì đâu mà nhiều, anh còn muốn tìm cơ hội ra xứ ngoài để nghiên cứu thêm. Quả thật đó là chí nguyện của Quốc, cũng như một số thanh niên, mớ có dịp đi vài ba năm để rồi trở về, mang sự hiểu biết của mình ra làm việc phụng sự tuổi trẻ, đất nước. Làm sao bồi bổ thêm vào những gì đã mất đi, những gì đã bị văn minh bóp chết, một số người đi trước, vì quá mơ ước cho nước nhà tiến bộ, đã vô tình chà đạp hết tất cả mọi giềng mối cơ bản. Người Anh có câu châm ngôn: "đổ nước tắm, đừng đổ luôn cả đứa bé trong thùng tắm". Những bậc trí thức hấp tấp nầy muốn cho nước nhà chóng tiến bộ nên lúc đổ thùng nước tắm, đã đổ luôn cả đứa bé... Quốc bực bội nhất là đến nhà ai cũng chỉ thấy mang nước ngọt ra mời, chàng gọi đó là nền văn hóa nước ngọt, không còn được thấy chén trà tỏa hương, tỏa khói nữa. Quốc hơi ngượng vì chính gia đình Duyên ngày nay đang là điển hình cho cái gọi là văn hóa nước ngọt ấy. Duyên nhất quyết sẽ về giảng giải cho người nhà hiểu, thế nào là cái hại của một chai nước ngọt, từ sự đi làm giàu cho ngoại nhân đến sức khỏe của con người. Một thoáng lo ngại, Quốc khác với gia đình mình như thế, liệu cha mẹ Duyên có chịu nhận lời, có cho là môn đăng hộ đối chăng. Người xưa đặt ra cái lệ nầy vì muốn cho hai bên cùng một băng tầng để khỏi bị sự không hiểu được nhau. Với Duyên thì, Quốc là người xứng đáng nhất nhưng với hai ông bà Mỹ Hưng, chắc gì đã hiểu được. Quốc chẳng xem cả đá bóng hay xoa mạt chược là hai thứ tối thiểu để vào làm rễ nhà Duyên. Đó là đối với ông bố, với bà mẹ còn khó hơn, nào bằng cấp, nào con ông nầy bà nọ, phải như thế nào mới vào, cõng được cái gia tài, hồi môn của con gái bà. Nhưng Duyên lo hơi sớm, đã có bao giờ Quốc ngỏ ý gì đâu, ngay cả ba chữ "anh yêu em" chàng cũng chưa hề nói lên. - Anh chưa dạy em làm sao để nhận biết được một thứ trà ngon khi mình uống vào trong lưỡi. - Ừ nhỉ, phải uống nhiều thứ mới phân biệt được. Quốc ngừng, nhìn Duyên lòng nghe vui vui, chưa muốn trả lời vội, nhận thấy cô gái quả đã có tiến bộ, đã thay đổi rất nhiều, trong câu chuyện biết đặt những câu hỏi thông minh để làm sáng vấn đề, chứng tỏ mình theo dõi và quan tâm đến vấn đề, không đến nỗi độn căn. Từ trong căn tức là từ gốc gác đã bị sự u mê đần độn bao vây, có bổ óc nhét cũng lòi ra, khó giáo hóa, đó là những thứ người mà Quốc rất ngại gặp. Không phải họ không được học hành, nhưng là một thứ học của chính sách thực dân, ngụ dân, chỉ muốn nhồi vào óc người những cái bã đã được nhai kỹ. Bắt họ chỉ chạy theo cái bã, cái bã nào đã được nhai nhiều lại càng qúy, tiêu hóa dễ dàng hơn. - Anh trả lời em đi, ô haỵ.. - Giống Petit Prince nhỉ, hỏi câu nào là nằng nặc bắt trả lời. Duyên mỉm cười vui thích, lần đầu tiên Quốc nhắc đến một nhân vật mà Duyên khỏi cần hỏi là ai. - Trà ngon là thứ trà uống xong còn dư vị trong lưỡi, trong cổ, cũng như một khúc nhạc nghe xong mà dư âm còn lưu luyến vấn vương không chịu rời khỏi tâm tư ta. Cái ngon của trà là thế, uống xong mà lưỡi còn giữ lại cái hương vị của ba mùi thơm hoa hồng, mùi ngọt ngào của mật ong và đinh hương, xong lại còn cái đắng, một thứ đắng mà sau đó là thanh tao dịu ngọt của riêng ở lá trà. Hội đủ bốn yếu tố ấy mới gọi là trà ngon. Duyên lẩm nhẩm nhắc lại mấy cái tên ấy rồi hỏi thêm, câu hỏi ngây ngô làm cho Quốc phải bật cười. - Nếu bây giờ mình ngậm cả mấy thứ ấy một lần vào miệng, rồi uống một ngụm trà thường xem nó có giống như thế không, và ngụm trà kia có được gọi là ngon không. - Cũng là một ý kiến, anh chưa bao giờ thử, hôm nào Duyên thử đi rồi nói cho anh biết, độc đáo đấy. Quốc còn giảng cho Duyên nghe về các thứ ấm, loại nào được chuộng nhất, ấm làng Nghi Hưng tại sao lại được nổi tiếng, và tại sao người xưa còn chia ra chén hạ ẩm với thu ẩm. Ngoài ra lại có những tên trà đặc biệt như Ưng Trão là thứ lá cong vào như móng chim Ưng, Tước Thiệt là giống trà lá mỏng như lưỡi con chim sẻ, Ngân Châm là mầu lá nhỏ và nhọn như chiếc kim bằng bạc. Vũ Tiền là trà hái trước tiết Cốc Vũ và Vũ Hậu là sau tiết Cốc Vũ... lại còn thứ trà mang tên là Vân Vụ do một giống chim tha hạt giống bay từ phuong Nam tới, sang đến vùng Lư Sơn, thấy phong cảnh quá đẹp chúng đã cất tiếng hót để ca ngợi, những hạt trà rơi xuống và từ đó mọc từ núi đá lên, mọc trên núi cao, nhiều mây nên được gọi là Vân Tụ trà. Chưa hết, cách gần ba nghìn năm trước người ta còn làm thứ trà đóng bánh để mang đi cho tiện, gọi là Phượng Hoàng trà. Các lễ nghi cưới hỏi ngày nay bỏ vào hộp chứ ngày xưa đều dùng Phượng Hoàng trà. - Tên nghe đẹp quá anh nhỉ. Phượng Hoàng trà. - Ừ cái tên thôi, cách đóng bánh trà cũng cầu kỳ, phải chọn trà tốt không phải loại Bao Chủng hoặc Đông Đĩnh hay Thiết Quan Âm, nhưng là một thứ trà tốt, chọn lá non, mang về sấy, trộn nước rồi đóng bánh. Nếu sấy không đủ độ thì trà có mùi thảo mộc, dễ chìm, mầu hơi xanh, nếu sấy quá độ, mầu sẽ vàng, vị nhạt, uống nghe mùi bùn khô, phải sấy vào lối từ 25 đến 29 độ, sau 10 ngày thì sẽ có sắc kim hoàng, cho một hương vị rất thơm ngon. Mỗi lần muốn pha chỉ cẩn bẻ ra một mẩu trà bỏ vào nước đun độ 5 phút, mỗi bánh trà uống cả trăm người. - Sao anh biết nhiều thế, em muốn ghi lại tật cả những gì anh nói để rồi viết ra thành sách để phổ biến cho lứa tuổi của chúng em. - Phổ biến làm gì, những thứ nầy nói mà nghe chơi cho có một vài ý kiến thay đổi vậy thôi chứ có lợi gì cho ai đâu. Theo Quốc thì không phải chỉ có yêu trà, nghiện trà thôi mà còn phải chấp nhận luôn cả một cái triết lý sống cho mình nữa mới đủ. - Eo ôị.. Duyên nói thầm hai chữ nầy, không dám để cho Quốc nghe, gia đình Duyên chỉ biết uống cà phê sữa, hoặc trà pha sữa với đường, hệt như những ông bà ngoại quốc, Âu Mỹ, ngỡ rằng phải thế mới sang và văn minh, xứng đáng là con dân Âu Mỹ. Từ thuở bé, Duyên và có lẽ đa số những từng lớp cao sang trong xã hội, đã được tẩm mình vào cái văn hóa và văn minh Âu Mỹ nầy, không còn biết đến văn hóa cổ truyền của ông cha là gì nữa. Những cái mà từ khi quen với Quốc, nghe chàng nói, gọi đó là gia tài của đất nước, của tổ tiên để lại. Từ trước đến giờ Duyên đã bình thản bước dẫm lên, mà không hay biết tới. Những con người, đã kiêu hãnh khi biết câu chuyện trong phòng the của vua Louis thứ 14 nói với bà đệ nhất phu nhân nhưng đã không biết Trần Hưng Đạo là ai, Nguyễn Trãi sinh vào thời nào. Biết rõ từng trận chiến thắng và chiến bại của Napoleon nhưng hỏi đến trận nào Nguyễn Huệ thắng quân nhà Thanh hay Lê Lợi bình định được đất nước thì chịu lúng túng. Cũng phải hiểu rằng không phải lỗi của họ, mà là ý đồ của những kẻ đi chiếm nước, chỉ muốn nhồi vào đầu óc người dân những gì lợi cho đường lối chính trị của chúng mà thôi. - Duyên đang nghĩ gì đó? Quốc hơi thắc mắc hỏi. Em thấy tiếc, em biết anh hơi muộn, mười bảy năm trời em đã có một cuộc sống vô nghĩa, giá áo túi cơm. - Thế nào là muộn, thế nào là vô nghĩa, mà Duyên tính gian đấy, làm gì đến 17 năm, thần đồng cũng chỉ được kể mười năm thôi, hồi nhỏ chỉ biết ăn với ngủ chứ đâu có thể làm gì khác. Vả lại mỗi cuộc sống đều có cái nghĩa lý của nó chứ, ngay đến tháng ngày của một cành lau sậy, một ngọn cỏ dại cũng còn mang nhiều ý nghĩạ.. Duyên nhìn Quốc mỉm cười biết ơn, nhận thấy Quốc chẳng bao giờ chê bai hay ruồng bỏ một ai, Duyên đặt câu hỏi tiếp nối cuộc nói chuyện. - Thế anh có đồng ý là mỗi người phải cần có một người bạn nếu không thì phải tự phạt lấy cho mình một lối đường mòn mà đi, nếu ví cuộc sống như một khu rừng rậm... Nhưng Duyên muốn hỏi anh... Lần nầy đến lượt Quốc vui thích, không ngờ cô bé mới hôm nào còn bỡ ngỡ mà bây giờ đã biết góp ý, biết tìm những hình ảnh đẹp, đặt vào câu chuyện. - Hỏi gì? Sao cô rắc rối hôm nay thế, rào đón kỹ quá vậy? - Ai là người bạn của anh? Quốc ngập ngừng đưa bàn tay chỉ lên mấy tủ sách rồi quay sang chỉ cây sáo còn được nằm trên bàn. Duyên ngơ ngác nhìn theo bàn tay của Quốc. Biết Quốc không muốn nói, mà có lẽ với con người cô độc nầy thì cây sáo là bạn không phải không đúng. Làm bạn với sáo, với âm nhạc, biết đâu còn tránh được những sự thất vọng khác. Quốc lơ đãng nhìn ra ngoài vườn, Duyên cũng lặng lẽ nhìn theo, về phía cửa sổ, những cụm hoa sói mọc trồi lên cao vượt quá thành cửa, ngồi trong nhà có thể nhìn thấy. Những bông hoa vừa chín lấm tấm trắng như những hạt cườm bé nhỏ thoang thoảng hương, mầu trắng của hoa bật nổi lên nền lá lục. Hệt như những đôi chân chim, thảo nào hoa được mang tên là Kê Cước Lan. Từ lúc học được của Quốc cái tên ấy, Duyên nhất định Duyên không thèm gọi cái tên Sói nôm na phàm tục cũ kỹ của nó trước nữa. Mấy lần Quốc phải kêu là sao độ nầy Duyên cầu kỳ thế. Kêu ca vậy chứ trong lòng riêng, Quốc rất hài lòng mỗi khi nghĩ đến người con gái đang từ từ đổi lốt, có thể gọi đó là một sự lột xác chăng, vứt bỏ cái tác phong khuôn rập cũ kỹ của tất cả những cô gái con nhà giàu con dân một nước thuộc địa bị trị, để trở thành một người có cá tính có tâm hồn, có tinh thần độc lập, tự trọng và trọng đất nước mình, trí thông minh, nhậy cảm dễ thâu nhận. Nhờ tình yêu, đây mới thật là yếu tố, động cơ chính đã thúc đẩy sự lột xác của con người. Quốc còn muốn tập cho Duyên yêu cỏ cây như mình, trong câu chuyện chàng hay nói đến cỏ cây mang cả những chuyện thần thoại kể cho Duyên nghe, chuyện các Nữ Thủy Tiên Hyades, khóc vì thương ông anh bị thú cắn chết, trời tội nghiệp nên đã cho biến thành những vì sao, nhưng các cô vẫn khóc, và mỗi khi mặt trời lặn mà các cô hiện ra, tức là chòm sao ấy hiện ra là thế nào trời cũng mưa. Câu chuyện làm Duyên thích hơn nữa là chuyện những cô Driades, Sơn Lâm Nữ Thần, đã chọn núi rừng làm nơi trú ngụ, mỗi cô kết duyên với một gốc cây, quanh năm sống trong lòng cây. Những bác tiều phu mỗi lần đốn cây thường ngần ngại vì hay nghe được những lời than khóc xin tha mệnh cho chồng và cho mình. Câu chuyện không phải chỉ quanh quẩn trong lĩnh vực thần thoại mà còn đi vào thực tế khoa học, nếu Quốc không nói, chắc Duyên không bao giờ ngờ rằng những cái chớp sáng lòa trong trên trời mỗi khi có giông tố, đó là những luồng điện quang tỏa lên không gian làm biến thể những chất đạm để chúng có thể đi vào đất mà nuôi cỏ cây. Cũng như loài hoa ăn thịt chỉ vì vùng đất đai nơi ấy thiếu hẳn chất tiêu toan diêm, mà chất nầy vẫn có nhiều trong sinh vật. Những loại cây như cây Hộc hoặc cây Sơn Mao lại rất cần một thứ nấm do từ những rễ cây khác đưa vào mới có thể nẩy nở được, vì thế mà loại như Phong Lan hoặc Tầm Gửi nếu bị loài người gỡ về hết, thì những cây kia sẽ gầy mòn, mất sức. Bao giờ Quốc cũng kết luận một câu rằng cây cỏ cũng cần thương yêu, không phải chỉ có loài người, và nếu ta yêu chúng thì nhất định là chúng cũng sẽ yêu ta.