Dịch và bình chú : Thu Giang Nguyễn Duy Cần
NỘI THIÊN
Tiểu dẫn

 

I. LƯỢC SỬ TRANG TỬ:
Trang Châu, thường gọi là Trang tử (sống trong khoảng 369- 298 trước Tây lịch kỷ nguyên), có lẽ là một nhà Lão học cao nhất trong các nhà Lão học cổ nhất ở Trung- Hoa. Tư- Mã- Thiên trong Sử- Ký, chương Trang tử liệt- truyện nói: "Trang tử, người xứ Mông, tên là Châu ; nhưng không thấy nói là người nước nào.
Phi Nhân trong Tập- giả dẫn Địa- lý- Chí ra mà nói: Huyện Mông, thuộc về nước Lương. Còn Tư- Mã- Trinh trong Sách- ấn dẫn lời của Lưu- Hướng trong Biệt- Lục lại nói: "người xứ Mông, nước Tống".
Như vậy, Trang tử là người nước nào? Lương hay Tống?
Mã- tự- Luân trong Trang tử Tổng nhơn khảo nghiên cứu hai thuyết trên đây rất kỹ, quả quyết rằng Trang tử là người nước Tống.
Theo họ Mã thì Trang tử sống vào khoảng Lương Huệ- Vương nguyên- niên và Triệu- Huệ- Văn nguyên- niên. Lương- Huệ- Văn nguyên- niên thì thuộc về khoảng năm thứ 6 đời Châu- Liệt- Vương, còn Triệu- Huệ- Văn nguyên- niên thì ném vào khoảng Châu- Văn- Vương năm thứ 17. Như vậy, chiếu theo tây lịch kỷ- nguyên, Trang tử sống vào khoảng 370 và 298 trước Tây- lịch kỷ- nguyên, nghĩa là đồng thời với Mạnh- tử, Huệ- tử bên Á, và Aristole, Zénon, Epicure bên Âu.
Sự tích truyền lại về đời sống Trang tử thật là mơ- hồ, không có chi có thể tin là đích xác được. Nhưng, căn cứ vào sách Trang tử, những câu chuyện thuật lại, có một giá- trị đặc biệt về phương- diện học- thuật, tưởng cũng không nên không lưu ý.
Đời ông rất nghèo, gần như cơ hàn.
" Trang tử nghèo túng… sang Giám- hà- Hầu vay lúa. Giám- hà- Hầu nói:" Tôi có cái ấp sắp nộp tiền lúa. Tôi sẽ giúp ông trăm lượng. Có được không?"
Trang tử giận:" Hôm qua, khi Châu đến đây, giữa đường nghe có tiếng kêu. Ngoảnh lại trông, thì thấy một con cá đang vùng vẫy trong cái vết bánh xe. Châu tôi hỏi:" Cá đến đây để làm gì?" Cá nói:" Tôi là Thủy- thần ở bể Đông, ông có thể giúp tôi một chén nước mà cứu tôi không?" Châu tôi nói:" Để tôi qua chơi bên phía Nam nước Ngô nước Việt, rồi khi về, tôi sẽ lấy nước Tây- giang về đón ngươi. Có được không?" Cá giận nói:" Tôi đang cần nước, ông chỉ cho tôi được một ít là đủ sống. Nay nói như ông, đợi đến lúc ông về thì đến hàng cá khô, sẽ thấy tôi nơi ấy!"
 (Ngoại- Vật)
Ở thiên Sơn- Mộc cũng có nói:
" Trang tử bận áo vải mà vá, giày cột bằng dây gai…
Gặp Ngụy- vương. Ngụy vương nói:
" Tiên- sinh khổ não thế ư?
Trang tử nói:" Nghèo, chứ không khổ- não. Kẻ sĩ có Đạo- Đức, Lão bao giờ khổ. áo rách, giày hư là nghèo, không phải khổ. Đó chẳng qua là vì không gặp thời mà thôi. Phàm con khỉ con vượn nhảy nhót đặng thong thả là nhờ gặp được rừng cây to cành dài, trơn tru dai dẻo. Dù cho bậc thiện xạ như Phùng- Mông cũng không sao hạ nó được. Nếu nó rủi gặp phải cây khô, gai góc, thì sự hoạt động ắt khó- khăn chậm chạp. Cũng thời một con thú, mà sự cử- động dễ khó khác nhau, chẳn qua vì gặp phải hoàn- cảnh không thuận làm cho nó không tự- do dùng tận sở- năng của nó. Nay, sanh không nhằm thời, trên thì hôn- má, dưới thì loạn- tặc lại muốn không cực nhọc vất vả, có được không?"
Tuy là nghèo, mà lòng vẫn luôn-luôn thanh- cao, không bao giờ chịu bó thân trong cảnh vinh hoa phú quý. Tài Trí ấy, nếu muốn lợi danh, ắt hẳn đã có lợi danh lập- tức. Nhưng, ông một mực chối từ…
Sở Uy- Vương đã từng nghe danh tài của ông, đã từng vời ông ra làm khanh- tướng.
" Trang tử câu trên sông Bộc. Sở- Vương sai hai quan đại phu đem lễ vật mời ông ra làm quan. Trang tử cầm cần câu không nhúc nhích cũng không thèm nhìn lại, nói:" Tôi nghe vua Sở có con thần quy, chết đã ba nghìn năm. Vua Sở quý nó và cất trên miếu đường. Con quy ấy, chịu chết để lưu lại cái xương của mình cho người sau quý trọng hay lại chịu thà sống mà kéo lê cái đuôi của mình trong bùn?" Hai vị đại- phu nói:" Thà sống mà kéo lê cái đuôi trong bùn còn hơn!"
(Thu- Thủy)
Ở mục Lão Trang Thân Hàn Liệt Nguyên trong Sử Ký, Tư Mã Thiên đoạn bàn về nhân cách của ông:" Uy- vương nước Sở nghe nói Trang Châu là người hiền trong thiên hạ, sai sứ đem hậu lễ đón, muốn mời ra làm Tướng. Trang Châu cười, bảo với sứ giả:" Cái lợi của nghìn vàng quả trọng thật, cái địa vị khanh tướng quả cũng quý thật. Nhưng riêng ông chả thấy con bò tế hay sao? được người ta săn sóc, được mặc đồ trang sức văn- vẻ để đưa vào Thái- miếu. Lúc ấy dù có muốn được làm con lợn côi há còn được nữa hay không? ông hãy đi đi, chớ có đến làm nhục ta. Thà ta dong chơi ở chốn bùn lầy nhơ bẩn còn thấy sung sướng hơn là để cho kẻ làm chủ một nước kia trói buộc được ta…"
" Nước Tống, có Tào- Thương, được vua sai đi sứ nước Tấn. Khi ra đi, số xe vừa đủ đi. Đi sứ nước Tần, đẹp lòng vua Tần, được ban thêm trăm cỗ xe.
Khi về Tống, gặp Trang tử, nói:" Phàm sống trong chốn cùng lư, ngõ hẹp, áo giày xốc xếch, thiếu hụt, khốn đốn cùng khổ như ông, Thương này không thể chịu được. Làm cho bực chủ muôn xe vừa ý, để hậu thưởng trăm xe, đó là chỗ sở trường của Thương này vậy".
(Liệt- ngự- khẩu)
" Huệ- tử làm quan nước Lương, Trang tử tính qua nước Lương thăm. nhưng, có kẻ nói với Huệ- tử:" Trang tử mà qua đây, là để cùng ông tranh ngôi tướng quốc." Huệ- tử sợ, cho kẻ canh chừng suốt ba ngày ba đêm, đợi Trang tử đến thì bắt.
Trang tử hay chuyện, không đi.
Sau rồi lại đến. Gặp Huệ- tử, Trang tử bảo:" Phương Nam có con chim tên là Uyên- Sồ, ông có biết không? Uyên- sồ từ biển Nam bay qua biển Bắc, nếu không gặp cây ngô đồng thì không chịu đậu; nếu không gặp hột luyện thì không ăn; nếu không gặp nước suối trong thì không uống. Có con chim ụt đang rỉa xác chuột chết giữa cánh đồng thấy Uyên- sồ bay ngang, sợ nó giành miếng ăn nên kêu to lên để dọa Uyên- sồ đừng đáp xuống. Nay, vì sợ cái ngôi tướng quốc của ông ở nước Lương nên ông kêu to lên để dọa tôi sao?"
(Thu- Thủy)
Theo truyền thuyết thì Trang tử giao du rất thân mật với Huệ- tử, tên là Thi, cũng là người Tống, và thường hay biện- nạn với nhau luôn. Trong sách Trang tử có rất nhiều sự tích về sự tranh luận của hai nhà, cho ta thấy nhân- sinh- quan, cũng như lập- trường tư- tưởng của đôi bên, khác nhau xa, mặc dù hai bên cùng chịu ảnh hưởng lẫn nhau.
" Huệ- tử nói với Trang tử: Ngụy- Vương thưởng tôi một giống dưa to. Tôi trồng nó có trái nặng đến năm thạch. Dùng nó đựng nước, nó nặng, không cất nhấc được. Bổ nó ra làm bầu, thì lại không còn dùng được chỗ nào. Đâu phải nó không to lớn, nhưng vì cho nó là vô dụng nên tôi đập bỏ nó đi.
Trang tử nói: Thế là ông vụng về chỗ đại dụng nó. Nước Tống có người khéo chế được món thuốc chữa răn nứt da tay, đời đời chuyên làm nghề ươm tơ. Có người hay biết, đến xin mua phương thuốc đó một trăm lượng vàng. Anh ta bèn nhóm thân tộc bàn rằng: Nhà ta đời đời làm nghề ươm tơ, lợi không hơn số vàng ấy, vậy xin để cho bán.
Người khách được phương thuốc, đem thuyết vua Ngô. Nước Việt có nạn, vua Ngô sai anh làm tướng. Nhằm mùa Đông, thủy chiến với người nước Việt, người Việt đại bại. Vua Ngô bèn cắt đất mà phong thưởng cho anh ta. Cũng thời một phương thuốc trị rạn nứt da tay, mà một người được phong, một người không ra khỏi cái nghề ươm tơ; đó là tại chỗ biết dùng hay không biết dùng mà khác nhau vậy.
Nay ông có trái dưa nặng đến năm thạch, sao không biết dùng nó làm trái nổi mà thả qua sông qua hồ, mà lo chi hồ vỡ bầu tan, không có chỗ đắc dụng? Thì ra vì cái lòng của ông hẹp hòi chưa trực- đạt đó".
 (Tiêu- Diêu- Du)
" Một khi khác, Huệ- tử nói với Trang tử:" Tôi có cột cây to, người ta gọi nó là cây Vu. Gốc nó lồi lõm không đúng dây mực. Nhánh gốc nó thì cong queo không đúng quy củ. Đem trồng nó ở đường cái, người thợ mộc cũng không thèm nhìn. Nay lời nói của ông to lớn mà vô- dụng, nên người người đều không thèm nghe."
Trang tử nói:" Ông riêng chẳng thấy con mèo rừng đó sao? Co mình đứng núp, nhìn vật đi rong, nhảy tây nhảy đông, không hiềm cao thấp, kẹt trong dò bẫy, chết nơi lưới rập. Đến như con thai ngưu, lớn như vầng mây che một phương trời, kể ra cũng là to thật, nhưng không thể bắt được chuột. Nay ông có cây to, lại sợ nó vô dụng. Sao không đem nó trồng nơi tịch mịch, giữa cánh đồng rộng bao la. Khách ngao du không làm gì, ngồi nghỉ dưới gốc nó, khách tiêu diêu nằm nghỉ dưới bóng nó. Nó sẽ không chết yểu vì búa rìu, cũng không sợ vật nào làm hại. Không có chỗ nào có thể dùng được, thì khốn khổ từ đâu mà đến được?"
 (Tiêu- Diêu- Du)
" Huệ- tử gọi Trang tử mà nói:" Lời của ông vô- dụng". Trang tử nói:" biết cái chi là vô dụgn, thì cũng đã biết nó sao là hữu dụng. Như đất rộng, người ta cho nó là hữu dụng, vì nhờ nó mà đi được. Nhưng, nếu trật chân té chìm tận suối vàng, người ta còn gọi nó là hữu dụng nữa không?
Huệ- tử nói: Vô- dụng.
Trang tử nói: Vậy thì rõ vô- dụng là hữu- dụng đó."
 (Ngoại- vật)
Ở thiên Thu- Thủy, thuật rằng:
" Trang tử cùng Huệ- tử đứng chơi trên cầu hào thành. Trang tử nói:" Cá xanh, bơi lội thung dung. Cá vui đó." Huệ- tử nói:" Ông không phải là cá, sao biết cá vui?"
Trang tử nói:" Ông không phải tôi, sao biết tôi không biết!"
Huệ- tử nói:" tôi không phải ông, nên không thể biết được ông, còn ông không phải cá, ông cũng không sao biết được cái vui của cá."
Trang tử nói:" Xin xét lại câu hỏi đầu. Ông hỏi tôi làm sao biết được cá vui? Đã biết là tôi biết, ông mới có hỏi" làm sao mà biết"… Thì đây, làm thế nầy: tôi đứng trên hào thành mà biết được".
(Thu- Thủy)
Về sau, Huệ- tử mất. Một khi Trang tử đi qua mộ ông, tỏ ý thương tiếc:" Từ khi phu- tử mất, tôi còn cùng ai chất vấn, bàn bạc được nữa!"
 Gia- đình ông như thế nào, sử không thấy nói. Chỉ biết ông có vợ, và vợ ông chết.
" Vợ Trang tử chết, Huệ- tử đến điếu. Thấy Trang tử ngồi, duỗi xoác hai chân, vừa vỗ bồn, vừa ca.
Huệ- tử nói: Cùng người ở tới già, có con lớn mà người chết lại không khóc, cũng đã là quá rồi, còn vỗ bồn ca, không phải thái quá sao?
Trang tử nói: Không. Lúc nàng mới chết, tôi sao chẳng động lòng. Nhưng nghĩ lại hồi trước, đó vốn là không sinh. Chẳng những là không sinh, mà đó vốn là không hình, mà đó vốn là không khí. Đó chẳng qua là tạp- chất ở trong hư không mà biến ra mà có khí, khí biến ra mà có hình, hình biến ra mà có sinh, rồi lại biến ra nữa mà có tử. Sinh, hình, khí, tử có khác nào xuân, hạ, thu, đông, bốn mùa hành- vận. Vả lại, người ta nay đã yên nghỉ nơi Nhà- Lớn mà tôi cứ than khóc chẳng là tự nói không thông Mạng ư? Nên tôi không khóc."
(Chí- Lạc)
Trang tử mất vào năm nào, thì không thấy có sách nào ghi chép. Chỉ biết rằng lúc" Trang tử gần chết, các đệ tử muốn hậu táng, nhưng Trang tử không cho. Trang tử nói:" Ta có trời đất làm quan quách, nhật nguyệt làm ngọc bích, tinh- tú làm ngọc châu, vạn- vật làm lễ tống. Đám táng của ta như vậy, không đủ sao? Mà còn thêm chi cho lắm việc!"
Đệ tử thưa:" Chúng con sợ diều quạ ăn xác Thầy!"
Trang tử nói:" Trên thì diều quạ ăn, dưới thì giòi kiến ăn. Cướp đây mà cho riêng đó, sao lại có thiên lệch thế!"
 (Liệt- Ngự- Khẩu)