hư đứng ở trên một gò cao nhìn về phía có những cột khói đen lớn. Không gian mờ mịt với một khoảng trời u ám, ẩm sũng. Ấp Vĩnh Hựu, cầu chợ Lùng, Đồn Phi Mã và những vùng phụ cận nằm trọn ở đấy.Trận đánh ác liệt đã xảy ra từ hồi đầu tuần đến bây giờ vẫn chưa chấm dứt. Tiếng súng lớn ầm ì vọng lại hầu như liên miên bất tận. Trong bầu trời dầy đặc những đám mây xám xịt mầu chì, tiếng động cơ máy bay rền rĩ suốt đêm ngày. Thỉnh thoảng một dây bom lại được trút xuống làm rung chuyển cả mặt đấùt. Nhìn khung cảnh tàn phá trước mặt, Thư không ngờ mình lại dửng dưng đến thế. Không một kỷ niệm nào đem lại cho nàng đôi chút xao xuyến. Hình như bom càng lớn, cột khói càng lên cao, thì dĩ vãng càng mau chóng thi nhau tan biến trong tâm trạng thờ ơ của nàng. Bởi vì còn gì có thể nhớ tiếc khi tất cả đều đã bị hủy diệt trong khoảnh khắc. Cây đa không còn, mái bếp cũng không, sân đất nhỏ hẹp với chum nước mưa cố hữu mà Thư vẫn thường tắm về đêm cũng đã hoang tàn. Ngay cả những con đường thân thuộc với bụi duối dại mọc hai bên lề cũng bị cầy nát. Sự mất mát xảy ra quá nhanh, quá phũ phàng khiến cho lòng mọi người như trơ lại. Đã có lúc ngồi dưới mái lều trong trại tạm trú, Thư lên tiếng hỏi bà cụ mẹ chị Lầu:- Nhà tan cửa nát, cụ tiếc không?Bà cụ giương đôi mắt gần như mù lòa, hướng về chốn cũ rồi thở dài:- Người còn chẳng tiếc được, tiếc chi nhà cửa, đất cát.Vừa nói bà cụ vừa nâng thằng Hòa lên với vẻ xót xa. Nó bụ bẫm như một thiên thần, thằng thiên thần mồ côi ngay từ khi còn đỏ hỏn. Khi tiếng súng đầu tiên nổ ở ngoài cánh đồng, bà cụ vẫn không có ý định rời bỏ chốn cũ. Ba mẹ con, bà cháu rúc xuống hầm đất dưới gậm giường. Chị Lầu ngơ ngẩn:- Chắc có anh Lầu đi ngoài vuờn.Bà cụ im lặng không nói. Chị trao thằng Hòa cho mẹ chồng rồi bò nhoài lên miệng hầm. Bà túm ngay áo chị, cố kéo lại. Chị cằn nhằn:- Sao má không để con ra đón ảnh. Thế nào ảnh cũng ghé về thăm nhà mà, má!Bà cụ gắt lên:- Nó về sao được. Nó còn mắc đi hành quân. Mày chui ra bây giờ, mũi tên hòn đạn dữ dằn thế kia, làm sao mà tránh.Chị Lầu ngoan ngoãn ngồi vào một góc. Bóng tối lờ mờ từ trên hắt xuống soi thấp thoáng khuôn mặt võ vàng của chị. Ngày xưa chị ít nói, từ ngày anh Lầu bị thằng Đực phục kích chết, chị càng ít nói hơn. Rồi bỗng nhiên chị sinh ra cái tật chỉ đối thoại với chính mình. Chị thủ thỉ như có anh Lầu đang ngồi âu yếm bên cạnh chị. Những lúc đó, hai mắt của chị rực sáng, vẩn lên những tia máu đỏ ngầu. Nhưng cơn điên khùng của chị chỉ ở trong mức độ nhẹ nhàng ấy thôi. Chị lôi quần áo của anh Lầu ra may vá. Nhiều hôm chị kêu anh ở dơ rồi mang tất cả quần áo của anh ra giặt giũ ngoài bờ mương. Một lần ông Năm Điếc đi thăm mộ thằng Dụng trở về, trông thấy bèn ngừng lại hỏi:- Chị Lầu làm chi đó?Chị ngẩng lên cười sung sướng:- Con giặt đồ bác ơi!Lão tiến lại gần chị, chỉ trỏ vào những bộ quần áo đàn ông:- Tổ cha mấy thằng du kích, bắt dân hầu hạ đấy có phải không?Chị Lầu nhớn nhác:- Đâu? Du kích đâu hả bác? Chết rồi! Bác bảo anh Lầu trốn đi.- Mày nói cái gì?- Cháu lậy bác. Bác đừng chỉ chỗ anh Lầu ở đây nghe không.Chị Lầu vùi đống quần áo xuống bùn sâu rồi ngỏn ngoẻn đứng dậy, cầm cái chổi làm bộ quét sân. Lão Năm trố mắt ra nhìn. Bà cụ Lầu từ trên thềm cao bỗng trõ xuống nói:- Nó khùng, đừng có chấp nó, ông Năm.Lão Năm Điếc quay lại nhìn. Trông thấy bà cụ, lão mỉm miệng cúi đầu chào. Bà cụ tiếp:- Ngó vậy mà nó không dữ đâu, ông Năm.Ông Năm gật đầu lia lịa:- Phải, phải.. tôi thấy cả đoàn xe súng lớn đi qua cầu. Nhưng như thế thì không dữ sao được. Liệu mà chạy đi thôi.Rồi ông hấp háy cặp mắt nhìn về phía quốc lộ. Người ông cao lêu đêu, mái tóc bạc trắng gần đụng chùm hoa xoan lả ngọn xuống gần bờ mương. Quần áo của ông đầy bùn và đất, ống quần được xắn lên ngang đầu gối để lộ hai cẳng chân khẳng khiu trắng bệch như hai ống sậy. Một trận gió ào qua lùm cây. Những giọt nước mưa còn đọng lại rớt xuống đất lộp bộp. Ông khẽ rùng mình, vội giương cây dù rách lên cao. Rồi ông vừa đi vừa nói lớn:- Thằng Dụng rồi. Thằng Sách rồi. Thằng Há rồi. Thằêng Lầu rồi. Sao mãi chẳng tới lượt mình đây?