Sáng hôm sau tôi dậy muộn. Trời rét. Nhưng vừa xỏ chân vào guốc, đã nghe tiếng người ngoài sân. Tôi lò dò chạy ra cửa. Hai thanh niên lực lưỡng đang khuân sắt. Mẹ tôi đã bán lại hai tạ sắt dư định đổ mái bằng cho nhà ông Tạo ở ngoài phố. Ông ta cơi tầng gác thứ hai thêm một gian và cố làm xong trước Tết để ăn một cái Tết vui vẻ. Mua được mớ sắt rẻ, trông ông sung sướng hể hả ra mặt. Ông chỉ huy đám con khuân vác, điệu bộ tung tăng, cười hớn hở hết cả lũ bốn chiếc răng bịt vàng. Mẹ tôi gánh hàng ra chợ. Trước khi đi, còn quay lại dặn: - Chiều nay nấu cơm sớm Hằng nhé. Ăn xong, mẹ con mình có việc phải đi. Bốn giờ chiều, tôi đã nấu cơm xong xuôi. Cá kho, dưa cải, vài miếng đậu phụ sống. Xưa nay, nhà chúng tôi vẫn sống tằn tiện. mẹ tôi quẩy gánh hàng nặng oằn đòn gánh về. Khi mẹ dỡ lần lượt các thứ hàng ra, tôi thấy mẹ đã sắm sửa đầy đủ vật dụng cho ngày Tết: nào giò, nào chả, nào thịt, nào mỡ, rồi gạo nếp, đỗ xanh, lạc, măng, miến, bánh da nem, bóng bì lợn... Trông mẹ tươi tỉnh hẳn lên: - Lạy Trời, qua năm hết vận hạn, làm ăn khấm khá lên mẹ con mình sửa nhà cũng được. Tôi đáp: Vâng. Chúng tôi ăn cơm xong vừa lúc trời sẩm tối. Đồng hồ chỉ 5 giờ 27 phút. Mẹ tôi nhẩm tính: - Giờ này, chắc cậu mợ Chính sắp ăn cơm. Ta cứ thong thả con ạ. - Vâng, con chạy sang nhà thằng Khang một tí. Tôi chạy sang nhà Khang sứt, rủ nó chơi cờ carô. Nửa tiếng sau tôi quay về, đã thấy mẹ sắp xếp nhà cửa gọn gàng. Một chiếc túi cói lớn, căng phồng chờ trước cửa. Mẹ bảo: Đi đi con. Chúng tôi ra phố, gọi xích lô tới khu nhà tập thể K. Nhà cậu tôi đang sửa soạn chứ chưa ăn cơm. Ở đây, họ ăn cơm muộn hơn đám dân ngoài phố. Mợ Thành đang lom khom thái một cà muối chườm thành các lát mỏng, trộn đường và tỏi. Trên mâm, một đĩa bắp cải xào và vài miếng chả cá thái nhỏ bỏ trong bát đựng nước mắm. Cậu tôi đang ngồi đọc báo. Hai đứa con trai gõ đũa xuống mâm, chờ tới phút được lệnh ăn cơm. Thấy mẹ con tôi vào, cậu Chính ngẩng lên: - À chị Quế. Rồi cậu cau mặt lại tức khắc: - Em đã bảo chị đừng lo gì hết. Chị... rắc rối quá. Mẹ tôi, với vẻ mặt của một kẻ có lỗi muốn được cứu chuộc, đáp ấp úng: - Chẳng là... hai cháu gầy quá, Chị muốn cho các cháu... - Chị buồn cười. Tạng chúng nó gầy. Hồi nhỏ em cũng có béo đâu? Hồi nhỏ... Cái danh từ ấy khơi gợi cả một dĩ vãng thân ái. Mắt mẹ tôi sáng lên, và vẻ mặt mẹ vừa xúc động vừa có gì đó quỵ lụy, như mặt một con chó cưng ngửi thấy hơi hướng thân chủ: - Ôi chao, hồi nhỏ cậu cũng khá lắm, chứ đâu có như cháu Tuấn cháu Tú bây giờ. Bà vợ rỗ hoa của cậu tiến ra, tay bưng bát cà, miệng cười: - Chị Quế ăn cơm với chúng em. Rồi như chợt nhớ ra tôi ngồi phía sau, mợ ta a một tiếng rồi nói thêm: - Cả cháu Hằng nữa. Vẻ mặt tươi tỉnh của người em dâu khiến mẹ tôi hớn hở. Mẹ cười, hai hàm răng lấp lánh: - Mẹ con tôi ăn rồi. Cậu mợ cho các cháu ăn. Đây, quà Tết bác chuẩn bị cho Tuấn, Tú. Mẹ tôi mở chiếc túi cói. Ngay tức khắc, mợ Thành lao ra, khép chặt hai cách cửa. Sau đó mợ ta còn kéo tấm riđô bằng vải hoa Trung Quốc đỏ rực che kín khuôn cửa sổ. Mẹ tôi đặt trước mặt vợ chồng người em trai toàn bộ những thứ đồ vật mẹ đã sắm ngày hôm nay. Một cái Tết trù phú cho tám người chứ không phải bốn người. Đôi mắt người em dâu của mẹ tối tăm lại, trong lúc những nốt rỗ như nở to hơn và trắng ra. Mắt mợ ta hết dáo lên lại dáo xuống. Cậu Chính quay đi, miệng bảo: - Không cần, không cần... chị lãng phí thế làm gì? Những câu nói của cậu không có âm sắc, không nhằm vào ai. Như một đường bóng không địa chỉ trên sân đấu. Hai đứa con cậu hét lên, vươn cổ ra nhìn. Từ trước tới nay, chúng chưa thấy sự trù phú bao giờ. Mợ Thành huỳnh huỵch chạy ra rồi chạy vào, khuân mớ thực phẩm cất vào tủ, vào trạn. Tôi nghe tiếng loảng xoảng, tiếng lục đục gì đó trong buồng, chắc chắn đó là sự va dập khi bà mợ của tôi thu xếp, chứa đựng đám của cải không có trong kế hoạch. Đồng hồ treo tường nhà tren thong thả gõ bảy tiếng. Cậu tôi bảo: - Thành, cho các con ăn cơm thôi. Bà vợ cậu đáp: - Được rồi, em ra ngay đấy. Lát sau, mợ đem ra một đĩa giò, miếng nào miếng nấy thái mỏng như lưỡi mèo. Vậy mà, mợ phải khép kín cả hai cánh cửa sổ. Người đàn bà nói. - Để cho họ khỏi nhòm ngó. Bây giờ, tôi mới hiểu vì sao khi tôi đem quà tới hai con mắt mợ ta cứ đảo lên đảo xuống như mắt kẻ trộm. Hẳn là ở đây, người ta có thói quen rình mò nhau, kiểm soát lẫn nhau, và kẻ nào ăn hơn một miếng sẽ trở thành đối tượng cho cả đám đông nghi vấn. Hai đứa trẻ đã thôi gõ đũa cành cạch vào miệng bát. Chúng ngồi im, mắt châu hẫu nhìn đĩa giò. Mẹ chúng, người em dâu mẹ tôi bắt đầu cuộc phân chia khẩu phần thường lệ. Mẹ tôi, đắn đo, rụt rè một hồi rồi nói: - Mợ cứ cắt thêm cho các cháu. Mợ ta đáp gọn lỏn. - Không được, sinh hoạt phải có kế hoạch, tổ chức. Nói đoạn, mợ ta gắp một đũa rau cải xào, bỏ vào miệng, rồi vừa nhai vừa nói: - Chị ăn cơm. Tôi muốn về. Nhưng mẹ tôi đang ngắm nhìn hai đứa cháu trai của dòng họ Đỗ. Chúng ăn một cách ngon lành, say sưa. Mẹ tôi nhìn chúng, cũng say sưa như thế. Mợ Thành vừa ăn vừa nói: - Hồi nhà em cầm tiền về, đã bảo mua lấy cái tivi không chịu. Sắm giường tủ, bàn ghế xong, đem gửi hết vào ngân hàng lấy tiền lãi. Bây giờ thành mớ giấy lộn. Cậu Chính đưa mắt lườm vợ: - Thành, ăn nói hay nhỉ! Vợ cậu như sực tỉnh, im bặt. Mẹ tôi đỡ lời: - Thời vận, tính sao được hả mợ? Cũng nhiều người hai thứ tóc còn dại, huống chi cậu ấy. Cậu tôi trừng mắt: - Gửi tiền vào ngân hàng nhà nước, sao chị lại nói là dại? Mẹ tôi ấp úng: - Ấy là... Tôi chỉ nói thế thôi. Vì hai năm nay, tiền mất giá mấy chục lần. Lúc gửi cả lạng vàng, bây giờ mua được hai gói mì chính. Cậu tôi cắt lời: - Lạng với chả hoa. Em có phải dân tiểu thương như chị đâu mà biết mấy thứ ấy. Mẹ tôi cúi mặt, làm thinh. Tôi định kéo mẹ về, nhưng chợt có tiếng gõ cửa. Giọng vui vẻ của một chàng trai. - Thủ trưởng có nhà không ạ? Rồi anh ta xuất hiện tức khắc, không đợi ý kiến chủ nhà. - A ha, giờ thủ trưởng mới ăn cơm. Sao muộn thế? Cậu tôi bỏ đũa bát, bước ra bàn: - Ngồi xuống đây. Thấy nhà có khách, mẹ kéo tôi ra giường ngồi. Chàng trai trẻ nháy mắt với tôi một cách hồn nhiên: - Em gái cứ ngồi đây. Thế giới bình đẳng mà. Anh cũng trạc ngoài 20, người thấp đậm, tóc dày, mắt dài. Khi cười, trông tinh nghịch và lẳng lơ. Anh ta mặc sơ mi xanh chấm đen, quần bó, dáng khỏe khoắn. Gương mặt rám nắng, riêng hai gò má hồng bóng lên. Thấy cậu Chính rót nước vào ấm trà, anh kêu to: - Thủ trưởng cho em uống xái ba hay xái tư đấy ạ? Cậu Chính không đáp, đặt chến nước trước mặt anh nghiêm giọng hỏi: - Có việc gì thế cậu? - Dạ, có việc đây. Chàng trai đáp, đoạn rút từ lưng quần phía sau một cuốn sổ con. Mở cuốn sổ, anh nói: - Báo cáo thủ trưởng, sắp Tết Nguyên đán, lại có đoàn đại biểu công đoàn các tỉnh phía Nam ra họp, chúng em dự định tổ chức buổi lễ kỷ niệm nhà thơ Đồ Chiểu. - Đồ Chiểu nào? - Dạ, nhà thơ yêu nước nổi tiếng nhất những năm đầu thế kỷ, một phần linh hồn của những người dân miền Nam. - Cậu đưa nội dung tôi duyệt. - Chàng trai đưa ra một bản đánh máy lớn, gấp làm 8. Cậu Chính mở rộng tờ giấy, trải gần kín mặt bàn. Cậu đeo kính, cắm đầu đc. Chàng trai đưa mắt nhìn hình cô gái múa ô trên tờ lịch, chờ đợi. Lát sau, cậu ngẩng lên nghiêm giọng: - Không được. Chàng trai sửng sốt: - Sao ạ? Cậu Chính cau mày: - Nhà thơ yêu nước gì mà ủy mị thế? Cậu nghe đây. Cúi xuống, đưa ngón tay lên tìm các dòng chữ, cậu đọc: - Bến Nghé cửa tiền tan bọt nước, Đồng Nai tranh khói nhuốm mày mây. Thế này làm gì có tinh thần xốc tới, liên tục tiến công? Bỏ, bỏ... Đồ Chiểu cũng bỏ. Chàng trai nói: - Thưa thủ trưởng, những năm đó cuộc kháng Pháp của nhân dân ta đang ở trong thời kỳ đen tối. Hoàng Điệu tự sát. Trương Công Định bị xử trảm. Hàng vạn sĩ phu yêu nước bị bức hoặc bị lưu đày, trong hoàn cảnh cụ thể đó... Cậu Chính giơ tay chém ngang. - Tôi biết... tôi biết... nhưng trong bất cứ hoàn cảnh nào người chiến sĩ cách mạng cũng lhông được phép ủy mị, buồn rầu. Ông Đồ Chiểu này không có tinh thần của người cách mạng. Lại còn đây nữa nhé. Cậu cúi xuống, đọc tiếp: - Phan Lâm, mãi quốc, triều đình khi dân... Hỏng. Hỏng. Câu này còn nguy hiểm hơn nữa. Nói triều đình là muốn ám chỉ trung ương hay sao? Mặt chàng trai đỏ như say bia, trên cần cổ vạm vỡ của anh, nổi lên một đường gân căng thẳng, phập phồng: - Nhưng thưa thủ trưởng, trong cuộc chiến tranh chống Mỹ của chúng ta, rất nhiều chiến sĩ đã ngâm thơ Đồ Chiểu, nghe những làn điệu dân ca Nam Bộ phổ thơ Đồ Chiểu trước giờ xuất trận. Bất kỳ người nào chịu khó tìm hiểu và nhận biết đời sống, đều thấy nhà thơ Đồ Chiểu có một chỗ đứng không ai thay thế được trong tâm hồn người dân miền Nam. Đến lượt cậu Chính đỏ cả mặt lẫn cổ. Cậu chòng chọc nhìn chàng trai sau cặp mắt kính: - Không ai thay thế được? Cậu nói thế nghĩa là Đồ Chiểu còn đứng cao hơn Đảng, trong tâm hồn nhân dân miền Nam, đúng không? Bàn tay cậu xòe ra, như lưỡi kiếm. Chắc chắn nó sẽ chén đứt đôi cái cổ chàng trai, nếu nó muốn. Dù đó là một cần cổ vạm vỡ, tràn trề sinh lực. Mặt chàng trai đang đỏ rực bỗng chuyển sang màu xanh xám rồi xanh lẹt, mồ hôi đổ lã lã trên trán. Cậu Chính nói: - Uy tín của Đảng là tuyệt đối trong lòng dân tộc, hôm nay và mãi mãi về sau. Không một ai có thể so sánh với chỗ đứng duy nhất đó. Chàng trai cúi đầu, im lặng. Sự quy phục của anh ta làm cậu nguôi giận. Như con gà chọi đã hả máu sau khi bật mấy cú đá thí mạng vào ức đối pgương, cậu nói tiếp, giọng đã bớt căng thẳng: - Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta làm nên một chiến thắng tuyệt diệu. Do chiến thắng ấy, chúng ta trở thành lương tâm của nhân loại, trở thành ngọn đuốc dẫn đường cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc toàn cầu. Trong ba dòng thác cách mạng của thế giới, chúng ta là một ngọn cờ. Cậu phải luôn luôn quán triệt tinh thần đó. - Thưa thủ trường em nhớ rồi. - Chúng ta, những người làm công tác tư tưởng, đội quân canh gác cho thành trì cách mạng, chúng ta phải luôn luôn cảnh giác với những biểu hiện ủy mị, thiếu tính chiến đấu, suy đồi. - Thưa thủ trưởng, vậy cuộc lễ kỉ niệm có được duyệt không ạ? - Để đó, tôi nghiên cứu đã. - Nhưng, chỉ còn hai hôm, vừa gửi giấy mời, vừa thuê người vẽ panô, trang trí hội trường, mời các diễn giả và nghệ sĩ minh họa. - Thế hả? Cậu Chính chớp mắt, nâng gọng kính khỏi sống mũi: - Kể ra thì... cái tay dồ Chiểu này cũng không đáng ngại lắm, Nhưng sao ít nghe tên ông trên đài, báo? Thơ cách mạng, cứ Tố Hữu ra mà ngâm là yên trí. - Thưa Thủ Trưởng, Đồ Chiểu là nhà thơ của những năm đầu thế kỷ. Và lịch sử... - Gượm đã. Cậu Chính cắt ngang lời chàng trai, đoạn cúi xuống đọc nốt những dòng chữ li ti trên tấm chương trình tổng hợp. Ánh mắt cậu soi lục qua các dòng chữ. Rồi cậu gục gặc đầu: - Theo Đại Việt sử ký toàn thư... tay viết lời bình dẫn cuốn sách này ở đâu ra thế? Chàng trai đáp: - Dạ. Đại Việt sử ký toàn thư là... Cậu bỗng à lên một tiếng thật to, tay vỗ trán đánh đét, rồi nói: - Nhớ rồi, nhớ rồi. Đại Việt sử ký toàn thư của Lê Quí Đôn. Tay này nổi danh lắm đấy. Quê ở Thái Bình. Miệng chàng trai thoạt đầu nhoành ra như sắp cười. Nhưng nửa tích tắc sau thu lại, biến dạng méo mó như sắp mếu. Mặt anh chàng ngây độn. Anh đứng thẳng lưng, chằm chằm nhìn thủ trưởng. Lúc ấy, ông cậu tôi cẫn tiếp tục gật gù vì sự uyên bác của mình. Cậu bảo: - Thôi được, tôi duyệt. Cậu gấp tờ chương trình tổng hợp lại, đưa trả cho chàng trai: - Các cậu bảo nhau mà làm. Nhớ gửi giấy mời ban tuyên huấn các cấp, và các cục, vụ, viện cho đàng hoàng. - Vâng ạ... cảm ơn thủ trưởng. Cháng trai cúi đầu, chào chúng tôi rồi vội vã rút lui. Tôi bảo mẹ tôi: - Con về đây. Mẹ tôi cần túi, chào vợ chồng cậu Chính. Lần này, mợ Thành ra tiễn tận cửa, nghĩa là tận dan gác bằng gỗ sơn màu cánh gián khó coi ấy. Nhưng có điều, mỗi khi gặp người quen, mợ ta lại vùn vụt đi trước, hoặc cúi xuống móc hòn sỏi lọt vào dép, để tụt lại phía sau. Tôi không hiểu điều đó. Bởi vì, đấy là lần cuối cùng tôi tới khu nhà tập thể K. Mẹ tôi ép cách nào, tôi cũng nhất quyết ở nhà. Hơn một năm sau, trong lúc chuyện trò với cô Vị, mẹ tôi phàn nàn: - Mợ ấy không muốn đi cạnh tôi. Làm sao vậy? Tôi có ăn trộm, ăn cắp, cướp của, giết người đâu? Cô Vị bảo: - Tôi không lạ gì chuyện ấy. Trại lính mà. Mẹ tôi ngẩng đầu nhìn cô Vị. Lúc ấy, cả hai người cùng bổ trám để ngâm nước mắm: - Cô nói thế nghĩa là sao? Cô Vị đáp: - Nghĩa là ở đấy người ta sống với nhau theo cách sống của trại lính. Đã là trại lính thì phải ăn như nhau, mặc như nhau, ở như nhau. Khác nhau tấm áo manh quần đã chướng mắt. Hơn nhau đồng tiền bát cơm là sinh sự. Tôi bảo chị nhé. Chị cứ sắm một bộ quần áo y hệt như quần áo của cô em dâu, mặc vào. Tôi bảo đảm cô ta sẽ cư xử khác. Có sai, cứ đem đầu tôi ra mà chặt. Mẹ tôi cười. Nhưng ít lâu sau, tôi thấy mẹ mua vải may một bộ quần áo mới, theo kiểu của cô em dâu thật. Mỗi lần tới khu K mẹ thay bộ quần áo ấy, và từ đó, mẹ tươi tỉnh nhẹ nhõm hẳn lên. Lại nói chuyện Tết năm ấy, mẹ tôi mua sắm cho gia đình cậu Chính đã cạn tiền, nên chỉ thừa vài chiếc bánh chưng với nửa cân giò. 29 tháng Chạp, cô Tâm từ quê lên. Lần này, bà Đũa gánh theo cô cả một gánh các thức bánh trái, giò, thịt, cam, bưởi, chuối, hồng xiêm... không thiếu thứ gì. Lại còn lồng gà, có một con gà sống hoa trắng và tám con gà mái non. Cô bảo: - Con gà sống hoa này cho mẹ con mày làm lễ cúng giao thừa. Còn đám gà mái chưa ghẹ ổ để hầm dần cho con cháu Hằng ăn. Năm nay qua tuổi dậy thì rồi, phải chịu khó ăn uống cho có da có thịt. Nói xong, cô bước tới bàn thờ, lật tấm lụa trắng phủ ảnh bố tôi xem qua. Rồi cô gọi bà Đũa về. - Cô gửi nhà hàng xóm. Phải về ngay nội nhật hôm nay. Hai mẹ con mày không phải lo cơm nước gì cả. Cô có tiền. Đến đâu ăn quà đó. Cô ôm tôi vào lòng, vuốt ve, rồi bảo: - Xem kìa, càng lớn lên càng giống bố mày như đúc. Thật là rau nào sâu nấy, chẳng lẫn vào đâu. Cô cúi xuống hít tóc tôi. Cô có thói quen ấy. Rồi cô lật mái tóc lên xem có chất trứng không. - Nó giữ tóc sạch đấy. Đừng có phi dê phi bò gì con nhé! - Vâng ạ. - Thôi, cô về. Sang giêng viết thư cho cô. - Thưa cô, vâng. Tôi nắm áo cô, tiễn cô ra tận phố chính. Cô gọi xích lô chở cô với bà Đũa ra bến xe. Chiếc khăn len bay phấp phới trong làn bụi mờ. Cô dướn đầu lên, quay lại nhìn tôi. Tôi cũng nhìn theo cô cho tới lúc xe xuống dốc. Lúc đó tôi trở về nhà, mẹ tôi đang bày bàn thờ. Tôi biết mẹ tôi có ý chờ cô Tâm lo Tết cho tôi, nên mẹ tôi dồn tiền sắm sanh cho gia đình cậu Chính. Mẹ nựng tôi: - Tết nhà mình to ghê. Nhờ lộc của con gái đấy. Tôi không thể chịu được một giọng nói thiếu tự trong đến như thế. Tôi bỏ đi. Tại sao mẹ tôi phải cư xử như vậy? Và cậu tôi, và người đàn bà mặt rỗ hoa vợ cậu ấy, cả hai đứa bé kia nữa, có gì đáng để mẹ phải hạ mình như vậy với tôi? Xích xiềng êm dịu làm sao? Tiếng anh con trai què lại rống lên thê thiết, trong bầu không gian nhộn nhạo của phố xá ngày tất niên: Rồi thu sang lá vàng rơi đầy... Trong những ngày cuối năm, nhịp sống dồn lên, thúc đẩy, xô lấp như dòng lũ, tiếng hát kia càng thê thảm làm sao. Một âm thanh đứt đoạn, một tia sáng lóe lên rồi ngút tắt, một tàn lửa thoi thóp, một âm giai quẫn bách của kiếp người.