Sau đây là những trích dẫn từ những tác giả đã đưa ra giả thuyết rằng, với các kích thích kinh tế mà Hoa Kỳ hỗ trợ, Hồ Chí Minh có thể chấp nhận một chính sách đối ngoại không liên kết, hay ít nhất là chống Bắc Kinh. [Nếu] ngược lại, hệ quả là Hồ sẽ buộc phải chấp nhận sự phụ thuộc vào Moscow và Bắc Kinh bởi vì sự chống đối hay thờ ơ của Mỵ Khái Quát Không ai tranh luận rằng Hồ không phải là cộng sản hay một nước Việt Nam sẽ thành cộng sản dưới sự lãnh đạo của Hồ. Thay vào đó, họ đã chỉ ra rằng Hồ đã chứng minh sự sẵn sàng phục tùng các mục tiêu và hình thức cộng sản để đạt được mục tiêu dân tộc. Họ chấp nhận một nước Việt Nam cộng sản, thực sự thậm chí còn ủng hộ nó, trên cơ sở chỉ có một chủ nghĩa cộng sản quốc gia đứng đầu là Hồ có đủ mạnh để duy trì sự độc lập của mình đối với Trung Quốc. Họ nhấn mạnh về sự ác cảm đối với Trung Quốc trong lịch sử Việt Nam như là một trụ cột của chủ nghĩa dân tộc Việt và chỉ ra việc Hồ đã nỗ lực trong năm 1945 và 1946 để có được sự ủng hộ của phương Tây. Không có một gần gũi thực sự song song có thể được rút ra từ nguồn gốc của Hồ Chí Minh và Tito, vì không giống như Tito, Hồ đã chiến đấu suốt con đường của mình lên nắm quyền trong sự cô lập hoàn toàn không có sự can thiệp của một quyền lực cộng sản bên ngoài. Tuy nhiên, có thể nói một cách chính xác rằng chính sách của Mỹ ở Âu Châu thường được hướng vào việc mở rộng sự chia rẽ giữa Tito và Moscow, trong khi ở Á Châu, chính sách của chúng ta đã có xu hướng là gắn buộc Hồ vào mối quan hệ gần gũi hơn giữa Bắc Kinh và Hà Nội. Vấn đề "Tito" đặt ra nhằm vào câu hỏi liệu chiến lược của Mỹ ở Á Châu là chống cộng Sản hay chống Trung Quốc. Từ khi để ngăn chặn sự bành trướng của Liên Xô ở Âu Châu, Mỹ đã gạt qua sự ghê tởm của mình đối với cộng sản của Tito, đã có lập luận rằng Mỹ cũng nên làm điều tương tự là nên từ bỏ sự chống đối của mình với Hồ để phục vụ cho lợi ích chiến lược lớn hơn ở Á Châu. Tóm Tắt Isaacs Harold; trong cuốn “No Peace for Asia” Năm 1947, Hồ đã được thúc đẩy bởi một chủ nghĩa dân tộc sâu sắc chính yếu là nhằm mục đích độc lập, và đã vô cùng thất vọng với chủ nghĩa cộng sản vì đã nhận được giúp đỡ rất ít hoặc không khuyến khích từ các đảng [cộng sản] nước ngoài. Thẳng thừng mà nói, chỉ có Mỹ là cường quốc duy nhất mà người Việt dân tộc chủ nghĩa có thể tìm đến với hy vọng, nhưng kể cả những lúc mà các hành động hỗ trợ của Mỹ cho Pháp đứng trái ngược với tuyên bố có tính nguyên tắc của mình là đặt sư ủng hộ lên quyền tự quyết [dân tộc] và chống lại chủ nghĩa thực dân..... c-11 Shaplen, Robert; trong “The Lost Revolution” Đã có một khả năng mạnh mẽ trong năm 1945 và 1946 rằng chính sách Pháp và Mỹ có thể biến Hồ Chí Minh thành Tito, Việt Nam - mặc dù theo lãnh đạo cánh tả nhưng có thể là một bức tường thành chống lại sự bành trướng của Cộng sản Trung Quốc.Tuy nhiên, viễn ảnh khả năng Việt Nam trở thành một Nam Tư từ nay là xa vời ….. c-14 Zinn, Howard; Vietnam: “The Logic of Withdrawal” Một chính phủ Cộng sản tại Việt Nam là con đường tốt nhất để cải thiện rất nhiều cho Việt Nam, Chế độ độc tài dưới Hồ Chí Minh sẽ thích hợp hơn bất kỳ chế độ độc tài [thuộc tầng lớp] ưu tú nào ở Nam Việt Nam. Nếu Mỹ muốn ngăn chận Trung Quốc, Hoa Kỳ.phải công nhận rằng Hồ Chí Minh sẽ phấn đấu để duy trì sự độc lập của mình, và do đó sẽ thực hiện những gì lực lượng quân sự của chúng ta không thể làm được …. C-18 Bator, Victor; Vietnam: “A Diplomatic Tragedy.” 1954: Trung Quốc là vấn đề quan trọng nhất mà Việt Nam phải đối mặt. Mối quan hệ chư hầu cho hai nơi tiềm năng cho phép VNDCCH dành được Độc Lập. Diệm đã ép buộc một cách cuồng tín ….c-20 Sacks, Milton; "Marxism in Southeast Asia." 1946-1949: Hồ đã cố gắng để bảo vệ tính trung lập, mặc dù điều này mâu thuẫn với mong muốn quốc tế hỗ trợ và công nhận cho VNDCCH ………. C-21 Buttinger, Joseph; “Vietnam: A Dragon Embattled” 1946-1947: Hồ nhận ra rằng ông không thể tập hợp người Việt đấu tranh cho độc lập với các biểu ngữ của chủ nghĩa cộng sản. Do đó, bộ mặt dân chủ mang lại chính nghĩa cho các chiến dịch cộng sản mạnh mẽ để đưa mọi người vào hang ngũ của Việt Minh và VNDCCH ……………..c-23 Kennedy, John F., quoted in Schlesinger, Arthur M., ed., “A Thousand Days.” 1951: Mỹ đã tham gia với Pháp trong một nỗ lực tuyệt vọng để bảo vệ đế chế [thực dân Pháp]. Mỹ không chỉ dựa trên vũ khí để ngăn chặn lực đẩy về phía nam của chủ nghĩa cộng sản, nhưng đã lo khai thác chủ nghĩa dân tộc •…………. c-24 Schlesinger, Arthur M.; “The Bitter Heritage” Bức tường thành hiệu quả nhất chống lại nhà nước cộng sản hung hăng cũng có thể là một chủ nghĩa cộng sản dân tộc. Chính sách hợp lý của Mỹ nhằm ngăn chận Trung Quốc có thể là đã phải công nhận Việt Nam cộng sản vào năm 1954, thay vì ủng hộ một chế độ Sài Gòn run rẩy đứng đầu là là những quan lại hay tướng lãnh thuộc cánh hữu ….. c-25 Fall, Bernard B. “Viet-Nam Witness” Cộng sản Việt Nam đã tiến hành cuộc cách mạng của họ mà không cần viện trợ từ nước ngoài, ngay cả từ Cộng sản Pháp........ c-26 Eden, Anthony, Earl of Avon; “Toward Peace in Indochina.” Mối quan hệ Hồ-Bắc Kinh không phải là một hình ảnh song song của Tito-Moscow. Tuy nhiên, Hồ có nhiều điều để thắng nếu đạt được sự trung lập, và có nhiều nguy cơ nếu không duy trì các liên kết với Moscow, hoặc mở một con đường rút quân cho Mỹ …c-27 Fulbright, Senator J. William; “The Arrogance of Power” Hồ Chí Minh là lãnh đạo duy nhất thực sự dân tộc của Việt Nam, ông ta cũng là một người cộng sản. Cộng sản Việt có lẽ là bức tường thành tiềm năng duy nhất chống lại sự thống trị của Trung Quốc. Do đó, Hoa Kỳ nên cố gắng đạt đến …. C-28 Reischauer Edwin 0.; "What Choices Do We Have In Vietnam?" Hoa Kỳ đã có thể có một lập trường chống lại chủ nghĩa thực dân vào năm 1945, từ chối ủng hộ Pháp vào năm 1950, ủng hộ việc giải quyết Giơ-ne-vơ năm 1954, và từ chối tăng cam kết quân sự của mình vào năm 1961. Bốn Tổng Thống đã từ chối giải pháp để thúc đẩy chính nghĩa của Hồ Chí Minh xa hơn nữa, mà kết quả là có thể có được một nước Việt Nam dân tộc mãnh liệt độc lập đối với Trung Quốc. Hơn nữa, sự thân mật trong mối quan hệ của Hồ với Mỹ trong Thế Chiến II cho thấy một tiềm năng một mối quan hệ Mỹ-Việt Nam theo kiểu Tito và không có những hậu quả không may cho khu vực Đông Nam Á so với các quốc gia đang bị chiến tranh tàn phá hiện nay. Nhưng một Việt Nam dân tộc chủ nghĩa đến nay xem như tốt hơn, từ quan điểm lâu dài của Mỹ, hiện trạng.. … c-29 Trích dẫn từ cuốn “No Peace for Asia” bởi Harold Isaacs, 1947, Trích dẫn cuốn “Viet Nam: History Documents, and Opinions on a Major World Crisis”, của Marvin E. Gettleman, ed., 1965, trang. 49-50, 53-55. Hồ Chí Minh được sinh ra tại Vinh, ở miền bắc An Nam. "Quê hương của cách mạng," người Việt gọi nơi với những rừng núi thưa thớt và thung lũng, với dân số đông đúc dày đặc như thế. Từ một vùng mà đông đúc dân chúng phải bám vào đất đai để sinh sống đã sản sinh ra một tỷ lệ lớn khác thường các nhà lãnh đạo quốc gia lớn nhất Đông Dương. Là một cậu bé mười hai, Hồ bắt đầu sự nghiệp cách mạng của mình như kẻ làm liên lạc mang thông điệp từ làng này sang làng cho những người lớn tuổi đang âm mưu gì đó của mình. Hôm nay, ở tuối 55, ông thích nghĩ rằng mình là một người đã gạt sang một bên các đảng phái và cương lĩnh. Ông không nói bằng ngôn từ chính trị giai cấp nhưng với ngôn từ dân tộc. "Đảng của tôi là đất nước tôi," ông thích nói thế, chương trình của tôi là độc lập. "Trong các cuộc thảo luận dài, chúng tôi đã có một số vấn đề với phong trào Quốc Dân Đảng nói chung và ở Đông Dương nói riêng, ông sốt ruột dẹp sang một bên tất cả các mối nghi ngại." Độc lập là câu chuyện " chuyện gì sau sẽ làm sau. Nhưng độc lập phải đến đầu tiên và nếu còn bất cứ điều gì để làm thì tất cả sẽ sau này làm. " Khi mà ta có thể đếm [Việt Nam]...? Chắc chắn hiện nay không thể đếm được [bao nhiêu] người Trung Quốc. Trung Quốc vô cùng rộng lớn so với nước Cộng hòa Việt Nam bé nhỏ - và có lẽ sẽ đến một ngày khi Trung Quốc đã nhận ra năng lực của mình và đảm bảo vị trí của mình như là lãnh đạo của Á Châu. Vào ngày đó, Việt Nam có thể hưởng lợi,có lẽ, vì là hàng xóm của Trung Quốc.Tuy nhiên, Trung Quốc hiện nay quá yếu và bị tấn công dồn dập, do bởi các cuộc đấu tranh nội bộ và áp lực từ bên ngoài. Nó đã được cai trị bởi các loại của những người như ở miền bắc Đông Dương, bám vào đất như đỉa. Bởi vì họ đã đưa cánh tay kềm giữ người Pháp, họ tạm thời là hữu ích. Nhưng điều đó không thể kéo dài. Trung Quốc đã đàm phán giải quyết việc của mình với Pháp và có thể chỉ quan tâm đạt được kết quả riêng trực tiếp với mình. Từ những kết cuộc đó, chủ nghĩa dân tộc Việt Nam còn rất ít để hưởng. Có gì từ người Nga? Họ đã mang lại bất kỳ hỗ trợ chính trị mạnh mẽ cho người Việt Nam? Tôi đã không gặp bất cứ người Việt nào nghĩ như vậy, và tôi đã nói chuyện với nhiều người Cộng sản An Nam. Những người Cộng sản An Nam, cũng như tất cả các đồng chí quốc gia đều có một cảm giác đáng sợ về sự cô lập của họ. Họ thẳng thắn một cách bất thường và hoài nghi về người Nga. Thậm chí kẻ chính thống nhất trong số đó, như Trần Văn Giàu người tổ chức đảng với mái tóc bờm sờm, đã cho rằng Nga đã "vượt quá thỏa hiệp về ý thức hệ", và cho biết ông không chờ đợi sự giúp đỡ nào từ phía đó, bất kể lời nói xa gần có thể được. "Với người Nga là dân tộc Nga là đầu tiên và trên hết," Một người Cộng sản An Nam khác với những số cay đắng. "Họ sẽ quan tâm đến chúng tôi chỉ nếu chúng tôi phục vụ một số mục đích của họ. Ngay bây giờ, thật đáng tiếc, việc của chúng tôi dường như không để phục vụ bất cứ mục đích nào như thế. " "Với Cộng sản Pháp thì sao?" Tôi hỏi. Anh khịt mũi ghê tởm."Những người Cộng sản Pháp", ông nói, "trước tiên họ là người Pháp và thực dân và sau đó là Cộng sản. Trên nguyên tắc, họ đứng về phía chúng tôi, nhưng trong thực tế? Ô hô, lại là một điều rất khác!" Một trong những người Cộng sản An Nam hàng đầu nói khinh khỉnh với Thorez, trong một bài phát biểu ở Paris đã cho biết ông ủng hộ của ngườiViêt để "cuối cùng đạt được nền độc lập của họ." Anh cười một cách cay đắng. "Một cụm từ cao su tinh vi, phải không bạn? Bạn có thể kéo căng nó vào bất kỳ hình dạng hoặc bất kỳ ý nghĩa nào. Họ là bên đang chiếm ưu thế tại Pháp. Và hãy xem những gì người Pháp đang làm hiện nay ở Đông Dương." "Giữa một số nhỏ người Cộng sản Pháp ở Đông Dương, các đồng chí người Việt đã học được một bài học đáng chú ý trong chính trị. Ở đây chỉ có hai mươi người trong nhóm Cộng sản Pháp ở Sài Gòn. "Trong số những người đó " người bạn Cộng sản Việt Nam đi cùng tôi nói "chỉ có một là đoàn kết với chúng tôi. Phần còn lại đứng sang một bên ". Nhóm Pháp chuẩn bị một.tài liệu của Đảng Cộng sản Đông Dương đề ngày 25 tháng 9 - hai ngày sau khi người Pháp đã bị nắm được quyền kiểm soát trong thành phố. Tôi có thể đọc các tài liệu đó, nhưng không được sao chép, vì vậy các ghi chú mà tôi đã thực hiện ngay sau đó là không đúng nguyên văn. Tuy nhiên, các điều chính yếu là như sau: Nó khuyên Cộng sản Việt Nam trước khi hành động quá vội vàng hãy chắc chắn rằng rằng cuộc đấu tranh của mình phải đáp ứng các yêu cầu của Liên Xô. Nó cũng cảnh cáo rằng bất kỳ "cuộc phiêu lưu hấp tấp” nào về độc lập cho Việt Nam có thể "không nằm trong đường lối" với quan điểm của Liên Xô. “Những quan điểm này có thể bao gồm Pháp như một đồng minh vững chắc của Liên Xô ở Âu Châu, trong trường hợp này, phong trào độc lập Việt Nam là một điều khó xử. Do đó, [chúng tôi] kêu gọi các đồng chí Việt Nam hảy giữ một chính sách "kiên nhẫn." đặc biệt khuyên họ chờ sau khi có kết quả của cuộc bầu cử ở Pháp, đến tháng sau, vào tháng Mười, khi sức mạnh cộng sản được nâng lên có thể đảm bảo cho Việt Nam một cách giải quyết tốt hơn. Trong khi đó, nó tha thiết đề xuất rằng một đặc phái viên được gửi không chỉ để liên lạc với Đảng Cộng sản Pháp mà còn cả [đảng Công Sản] Nga để tự mình làm quen với viễn cảnh của những sự kiện sắp tới ". Tài liệu này được đưa ra với một sự thẳng thừng đáng chú ý và khác thường về khái niệm liên quan đến mối quan hệ giữa phong trào cách mạng và chính sách đối ngoại của Liên Xô. Nó rõ ràng đến như là một cú sốc đối với những người Cộng Sản Việt Nam, những người đã bị ném vào một sự bối rối đáng kể. Đã có một cuộc tranh luận căng thẳng trong nội bộ đảng và kết thúc bằng một quyết định giải thể toàn bộ đảng, chấm dứt hoạt động trong Việt Minh như một đơn vị riêng biệt nhưng có thể làm việc với nó [VM] hoàn toàn ltheo tính cách cá nhân. Bằng cách này dường đảng tìm cách tránh bất kỳ trách nhiệm nào tại một thời điểm mà trách nhiệm của mình là nặng nhất. Tôi không biết những gì đã xảy ra trong nội bộ họ một cách chi tiết nhưng tôi biết rằng những người Cộng sản An Nam mà tôi đã gặp là những người đã bị tổn thương sâu sắc với sự cay đắng khi bị đồng chí ý thức hệ của họ ở nước ngoài bỏ rơi. Từ đó họ kiếm cách ẩn mình trong một chủ nghĩa dân tộc thuần túy và đơn giản. Hồ Chí Minh đã làm cho một cụm từ không thành bất động khi ông nói: "đảng của tôi là đất nước tôi". Họ bị đè nén, cùng chung số phận với tất cả các nhà lãnh đạo Việt Nam quốc gia không cộng sản, bởi một cảm giác sợ hãi của sự cô đơn. Dường không có nơi nào hỗ trợ cho họ chống lại người Pháp, không từ Trung Quốc mà họ có thể cậy vào, cũng hoàn toàn không từ phía Nga mà họ mong đợi, cũng không có gì từ những người Cộng sản Pháp, những người đã đạt được sức mạnh to lớn trong lần bầu cử tháng mười nhưng không thực hiện bất kỳ thay đổi đáng chú ý nào trong vấn đề Đông Dương. Những gì sau đó là của Hoa Kỳ? Người Việt dân tộc chủ nghĩa nói về Hoa Kỳ như người ta nói về một niềm hy vọng mà họ biết là tuyệt vọng nhưng tất cả cùng tuyệt vọng bám vào. Có thể nào tất cả các cụm từ tốt đẹp của Hiến chương Đại Tây Dương, của thỏa ước Liên Hiệp Quốc, của Tổng thống Roosevelt và những người kế nhiệm của ông thực sự không có nghĩa gì cả sao? Không có gì cả? Vậy thì cho phép chúng tôi [cúi đầu] tuân phục, tuân phục những mưu toan các cường quốc, tuân phục tất cả những thực tế tệ hại đau thương. Hoa Kỳ vẫn còn không thấy là họ sẽ khôn ngoan hơn vì lợi ích của vị trí của họ ở vùng Viễn Đông để chiến thắng giành sự hỗ trợ của nhân dân thay vì cứ bám vào hệ thống đế quốc thối rữa trong quá khứ? Dường như không phải vậy. Những chỉ dấu duy nhất mà người Việt thấy vai trò của Mỹ trong cuộc đấu tranh của họ là qua chuyện các vũ khí cho thuê, mượn mà người Pháp và người Anh đã dùng để chống người Việt và lời tuyên bố kinh hoàng về một thỏa thuận Mỹ cho phép Pháp vay $ 160,0000,000 để mua xe và những dụng cụ công nghiệp linh tinh để dùng ở Đông Dương. Đối với người Việt Nam, chuyện này giống như Mỹ đã đồng ý cho Pháp tái chiếm [Đông Dương]. Người Mỹ, dân chủ trong lời nói nhưng thực ra không một giúp đỡ nào, giống hệt người Nga trong ngôn từ cộng sản nhưng trên thực tế cũng không giúp gì.. "Chúng tôi dường như đứng khá một mình" Hồ Chí minh đơn giản nói. "Chúng tôi sẽ phải phụ thuộc vào chính chúng tôi." Trích dẫn từ cuốn “Cuộc cách mạng bị quên lãng" của Robert Shaplen Chương II – Hồ Chí Minh – Một cuộc chơi chưa thử nghiệm, pp. 27, 46-50 Tôi đã luôn được chia sẻ niềm tin bởi nhiều, nếu không phải là nhiều nhất, nhà quan sát ở Đông Dương cho rằng vào thời điểm này Pháp và Mỹ đã làm một sai lầm nghiêm trọng, đặc biệt là các nhà hoạch định chính sách Pháp đang chiếm ưu thế ở Paris, [sai lầm] đã không xử trí thực tế hơn với Hồ trong năm 1945 và năm 1946, khi có một khả năng mạnh mẽ rằng ông này có thể được "Tito" hóa trước cả Tito và chủ nghĩa Tito và toàn bộ các diễn biến sự kiện lúc đó đã có thể bị thay đổi và chận được rất nhiều máu đổ và ngày nay dù dưới bất một hình thức lãnh đạo tả phái nào, đều có thể là một bức tường ngăn chận [thành lập] bởi một khối trung lập mà các quốc gia Đông Nam Á Châu đã tìm kiếm, trên tất cả, để tránh sự thống trị của Cộng sản Trung Quốc. Một số quan chức Mỹ cao nhất đã nói riêng với tôi rằng họ hiện nay tin rằng nên phải đánh bạc với Hồ, thực tế, đã có một số đáng kể những người đã lần nữa nói về chuyện Việt Nam trở thành một Nam Tư ở Đông Nam Á, một khả năng mà dường như theo tôi bây giờ đã xa vợi Ở Biarritz, nơi ông lần đầu tiên được nghỉ ngơi, ở Paris và sau đó tại hội nghị ở Fontainebleau, Hồ đã hưởng một thành công cá nhân rất lớn.Ông đã quyến rũ tất cả mọi người, đặc biệt là báo chí. Ông đã phân phát hoa hồng với các nữ phóng viên, đã ký tên bằng máu của mình cho một nam phóng viên Hoa Kỳ. Ông đã được so sánh với Khổng Tử, Đức Phật, Thánh Gioan Báp Tít, và với bất cứ ông nội/ ngoại già lẩm cẩm của bất cứ ai, và ông đã được ghi nhận như một nhà tu khổ hạnh, kể từ khi, trong số những chuyện khác, ông đã từ chối uống một ly [rượu]. Bất cứ nơi nào ông xuất hiện, hoặc là một nhạc viện cho đến một buổi tiêp tân hoành tráng, một buổi pic nic, một phiên họp báo ông đều xuất hiện trong bộ quần áo đơn giản với nhiều cúc áo của mình. "Ngay khi người nào đó đến tiếp cận với ông già ốm yếu này thì họ đều được chia sẽ sự ngưỡng mộ của tất cả những người chung quanh ông ta, những người mà ông đã sự thanh thoảng có được từ những kinh nghiệm" một phóng viên đã viết. Ghi nhận của mình là "khuôn mặt dày vò và đôi mắt màu xanh cháy bỏng một ánh sáng bên trong", một phóng viên khác tuyên bố rằng ông "che giấu một tâm hồn thép phía sau một cơ thể mỏng manh." Hóm hỉnh, lịch sự theo kiểu phương Đông, khéo léo, sự sâu sắc hỗn hợp và khôi hài trong quan hệ xã hội, tình yêu không hạn chế cho trẻ em, và trên tất cả là sự chân thành và sự đơn giản của ông dường như đã nắm bắt mọi người ngay tức khắc. Thật không may, thành quả chuyến đi của Hồ là rất ít thành công. Lỗi lầm, nói chung giờ đây được mọi người thừa nhận, chủ yếu là của Pháp, trong khi hội nghị đang tiếp diễn, [Pháp] tiếp tục vi phạm tinh thần của mình bằng cách tiếp tục nuôi dưỡng ý tưởng tách riêng miền Nam ra khỏi Liên Bang Đông Dương.... Cuối cùng khi ông và Sainteny đã bay đi Paris để bắt đầu các cuộc đàm phán, Sainteny mô tả ông như "xanh xao, đôi mắt rực rỡ, và cở họng chặt chẽ " và ông trích dẫn lời Hồ nói rằng, khi chiếc máy bay đang đáp xuống, "Trên tất cả, không, đừng bỏ rơi tôi cho dù ông làm bất cứ điều gì". Khi hội nghị đã thành lãng phí trong bóng tối của thất bại, cho tới nay là bởi kết quả của các hoạt động của những kẻ cực đoan Việt Minh tại Hà Nội cũng như các cuộc diễn tập của Pháp ở Nam Kỳ, Hồ càng ngày càng trở nên mệt mõi. Sainteny đồng ý là ông nên trở về Hà Nội càng sớm càng tốt. "Nhưng tôi có thể làm được gì nếu tôi trở về nhà với tay không?" Hồ hỏi. "Đừng để tôi ra đi như thế," ông cầu xin Sainteny và Marius Moutet thuộc Đảng Xã Hội, Bộ trưởng Bộ Thuốc Địa. "Trang bị tôi dể chống lại những người đang tìm cách thay tôi, các ông sẽ không hối tiếc." Đó là một lời thú nhận đáng kể, đáng kể như những gì Hồ nói với Sainteny và Moutet vào một buổi tối khác, "Nếu chúng tôi phải chiến đấu, chúng tôi sẽ chiến đấu. Các ông sẽ giết chết mười người của chúng tôi và chúng tôi sẽ giết chết một của các, và cuối cùng chính các ông sẽ là những người mệt mõi vì nó." Vào nửa đêm ngày 14 Tháng Chín 1946, dáng đi yếu đuối của Hồ Chí Minh, trong bộ áo chẽn quân sự của mình, bước ra khỏi khách sạn Royal-Monceau tại Paris (các phiên họp ở Fontainebleau đã kết thúc) và tản bộ đến nhà Moutet gần đó. Hồ và Moutet đã ký một giải pháp giữ nguyên trạng (modus Vivendi), trong khi đó nhấn mạnh nhượng bộ của Việt Nam (và một số người Pháp) là để bảo vệ quyền lợi Pháp ở Đông Dương, chỉ trì hoãn thỏa thuận về các vấn đề chính trị cơ bản, ít nhất nó đặt lên Pháp trách nhiệm khôi phục lại trật tự ở Nam Kỳ. Điều này không có gì nhiều hơn những điều đã được đồng ý vào mùa xuân nhưng đã mất hiệu lực từ lâu, nhưng Hồ đã công khai gọi giải pháp giữ nguyên trạng là "tốt hơn là không có gì.". Tuy nhiên, ông đã thì thầm với một nhân viên an ninh đi cùng khi ông trở lại khách sạn vào sáng sớm "Tôi vừa ký giấy tử hình cho tôi." Mặc dù sứ mạng của mình bị thất bại, Hồ, trong tính cách quốc tế thực sự của mình, đã vui sống trong những ngày ở Paris, một thành phố mà ông đã luôn luôn yêu mến. Nhiều năm trước, đứng trên một cây cầu bắc qua sông Seine, ông đã nhận xét với một đồng chí Cộng sản "thật là một thành phố thật tuyệt vời, những cảnh vật thật tuyệt vời!" Khi người bạn đã trả lời rằng Moscow cũng đẹp, Hồ nói, "Moscow là anh hùng, Paris là niềm vui của cuộc sống." Trong thời gian hội nghị năm 1946, Hồ đã viếng lại một số nơi lai vãng cũ của mình và, giao tiếp xã hội với một số phóng viên nước ngoài, nói chuyện một cách thoải mái về chính mình và về [con đường] chính trị của ông. "Mọi người đều có quyền theo học thuyết của mình," ông nói."Tôi đã nghiên cứu và chọn Marx. Chúa Giêsu đã nói 2000 năm trước đây là ta nên yêu thương kẻ thù của chúng ta. Giáo điều đó đã không được thực hiện. Khi nào chủ nghĩa Mác sẽ thành hiện thực, tôi không thể trả lời.... Để đạt được một xã hội Cộng sản, phải có công nghiệp nặng và nền sản xuất nông nghiệp lớn là cần thiết... Tôi không biết khi nào sẽ được thực hiện [Cộng Sản] ở Việt Nam, nơi mà [trình độ] sản xuất còn thấp Chúng tôi chưa đứng được ở vị thế đáp ứng các điều kiện đó. " Bản tự kiểm của Hồ liên quan đến sự phát triển của Đông Dương là một bản trung thực đáng chú ý về chủ nghĩa Mác. Trong thời gian đầu, chủ nghĩa Mác chưa là chi nhiều cho những kế hoạch của ông ta. Đó là là hợp lý, và một trong những các học giả sắc bén nhất về Đông Dương, Paul Mus, đã chỉ ra rằng nó đã được Hồ thu nhận như một vũ khí quan trọng của phương Tây, một kho vũ khí trong thực tế, như một người Á Châu, ông có thể chống lại ông chủ Pháp của mình. Hồ, như một người Mác-xít, đã nhanh chóng nhìn ra rõ sự việc là đất nước ông đã bị cướp bóc, bị cố tình giữ trong một nền kinh tế cơ hàn thiếu thốn bởi một chính quyền thực dân thiếu óc sáng kiến. Trong khi người Pháp khai thác cao su hoặc gạo hoặc bất cứ món gì khác mà họ muốn và bán nó trên thị trường quốc tế với một lợi nhuận cao, thì người Việt Nam vẫn còn sống trong một hệ thống lao đông chỉ xử dụng tay chân chứ không dùng tiền bạc, trong một ý nghĩa ý thức quốc tế. Thực sự hàng hóa đã được dùng để trao đổi trong sinh hoạt. Những điều kiện kinh tế như thế đã trở thành cơ sở cho sự tức giận của Hồ và đã kéo ông ta trở lại, gần như không thể thay đổi, với chủ nghĩa Mác và từ đó đã đi đến với chủ nghĩa cộng sản. “Hồ đã xây dựng trên những gì mà tất cả người Á Châu đã xây dựng cho mỗi mình tham gia ", Mus nói “Đó là một lối lý luận để theo kiểu phương Tây để đối phó với chúng ta”. Kể cả đó là một nghề chẳng hạn như luật sư, hay bác sĩ hay bất cứ nghề gì như, một người Á Châu phải tìm thấy logic này hoặc phải thua. Trước tiên Hồ tìm thấy lý luận này trong chủ nghĩa Mác và ông trở thành một Lênin, kể từ khi Lenin đã phải đối mặt ở Nga với cùng một vấn đề trống vắng về quyền lực ở nông thôn. Hồ đã thành công vì ông giữ mình thật sự với chủ nghĩa Lênin và Mác. Theo nghĩa này, đơn giản theo quan điểm của ông, ông đã thuộc về một thứ tình huynh đệ chân chính.” Cùng với Sainteny, Mus là một trong những người Pháp người thừa nhận rằng nước Pháp và thế giới phương Tây đã bỏ lỡ một cơ hội thích hợp với Hồ vào năm 1946. Bản than Mus là một nhà thương thuyết Pháp đã gặp Hồ một năm sau đó và ông có cùng sự yêu mến lạ lùng như những người khác từng đã biết ông. Như một người Pháp, tôi không có lý do để yêu mến Hồ, bởi những gì ông đã làm". Mus lâu sau đó nói với tôi "nhưng tôi vẫn thích ông ấy. Tôi không sợ nói như vậy. Tôi thích ông ấy vì cái tâm mạnh mẽ của ông. Mặc dù ông ta là một diễn viên tuyệt vời - người ta không thể có đủ khả năng để ngây thơ với ông - ông ta luôn là người giữ lời. Ông chỉ tin rằng sự thật khi chính ông nhìn thấy nó. Nhưng ông ta là một người theo chủ nghĩa Mác và đó là chỗ khởi đầu khi chúng tôi gặp gỡ.” Ông trích dẫn lời của Hồ nói với ông vào năm 1947 "Vũ khí duy nhất của tôi là sự tức giận....Tôi sẽ không giải giáp người của tôi cho đến khi tôi tin tưởng được các ông". Hồ sẵn sàng để đối thoại với Pháp mà Mus tin rằng ông chủ yếu đã xác định được nhu cầu của mình là được tư vấn Pháp và trên tất cả là cố vấn tài chính. "Học thuyết Mác-xít kêu gọi nhà nước vô sản sử dụng, ít nhất là tạm thời, kế toán của các nước tư bản chủ nghĩa tư sản", Mus nói. Bởi vì nền kinh tế bẩm sinh đã bị Ngân hàng Đông Dương áp đặt, Hồ biết rằng Việt Nam không thể đứng trên chính đôi chân của của mình, hoặc về tiền hay thương mại. Ông cũng biết ông không thể dựa vào thực dân Pháp. Cách tiếp cận chính trị của ông đã được thông qua Thủ Đô Pháp. Ông không tin rằng đây là cơ hội duy nhất của ông, nhưng ông đã xác định là phải chơi hết các khả năng. Ông dao động giữa tình cảm và quan hệ với Pháp, điều đã đưa đến hình ảnh chủ nghĩa Mác của mình và sự vỡ mộng mới mẻ của ông năm 1946. "Nếu chúng ta đã ủng hộ ông mạnh mẽ hơn thì" Mus nói thêm: "chúng ta có thể đã giành được thắng lợi.... Chúng tôi nghĩ rằng chúng ta có thể nghiền nát ông ta phải đi đến chiến tranh Chúng tôi đã không đánh giá khó khăn như thế nào khi phải đánh nhau với ông ta... Nhưng chúng ta không được quên rằng ông ta thực sự muốn một thỏa thuận với Pháp tại thời điểm Fontainebleau bởi vì nó sẽ phục vụ ông ta. Phần động cơ đó của ông sau đó đã bị chết, tất nhiên, nhưng chúng ta nên hiểu rằng nó [đề nghị VN Độc Lập trong Liên Hiệp Pháp] tồn tại vào thời điểm đó và ông ta đã thực sự thất vọng. " Trích dẫn trong cuốn “ Vietnam: The Logic of Withdrawal, 1967”, bởi Howard. Zinn Trang 101-102 Quan điểm lịch sử cho thấy rằng một nước Việt Nam thống nhất dưới thời Hồ Chí Minh là một lợi thế hơn là một chế độ độc tài ưu tú của miền Nam, cũng giống như chủ nghĩa Mao Trung Quốc với dù tất cả các lỗi lầm của mình là thích hợp hơn dưới sự cai trị của Tưởng, và Castro của Cuba thay vì Batista. Chúng ta không có sự lựa chọn tinh khiết nào vào lúc ấyi, mặc dù chúng ta không bao giờ đầu hàng bỏ qua những giá trị có thể định hình trong tương lai. Ngay bây giờ, đối với Việt Nam, một chính phủ Cộng sản có lẽ là con đường tốt nhất [vì nó] có sẵn với một gói toàn bộ các giá trị con người để tạo nên đạo đức chung của nhân loại ngày hôm nay; việc bảo tồn đời sống con người, quyền tự quyết, an ninh kinh tế, chấp dứt sự áp bức về chủng tộc và giai cấp, và.quyền tự do ngôn luận và báo chí mà dân chúng có giáo dục yêu cầu.. Trong cuộc tranh luận về Việt Nam, đã có ít hoặc không có cuộc thảo luận về chính xác là những gì sẽ là những hậu quả tàn khốc nếu người cộng sản thống nhất Việt Nam. Nó đã trở thành một bài viết liên quan đến niềm tin cho rằng những gì tốt hay xấu trong quan hệ quốc tế là vấn đề đếm xem có bao nhiêu nước đứng về phía Cộng sản, và con số khác về phía chúng ta. Có kẻ bị vỡ mặt và có kẻ có chum lông nhung trên chóp mũ [ý nói có người thắng người thua]. Và sự khác biệt là giá trị của một núi xác chết…. Chúng ta cần quen với ý tưởng rằng sẽ có hơn một nước Cộng sản trên thế giới, và rằng điều này không nhất thiết là xấu.. Chuyện bảo vệ an ninh “vật lý” của Hoa Kỳ là không hề giảm đi vì bản thân chuyện đó [các nước CS], vì trong mọi vấn đề quốc tế các quốc gia cộng sản cư xử rất giống với bất cứ các các quốc gia nào khác (đây là lý do tại sao họ là như vậy thường xuyên thất vọng về những người có cảm tình với họ), một số thân thiện, một số là thù địch. Mỗi nơi là một kết quả [pha trộn] duy nhất của lý thuyết Mác-xít và điều kiện địa phương. Càng có nhiều quốc gia Cộng Sản, sự đa dạng càng lớn hơn trong số đó. Đã nhiều năm nay kể từ khi các học giả trong lĩnh vực nghiên cứu Cộng sản đã bắt đầu lưu ý về ý niê/m "polycentrism," [đa trung tâm] nhưng các quan chức Mỹ vẫn thường hành động như thể chỉ có một trung tâm cộng sản trong thế giới … Có một điều mà chúng ta đã phải học được cho tới này là các quốc gia Cộng sản cũng có những cảm xúc của dân tộc như bất cứ các quốc gia khác, họ khao khát độc lập và chống lại sự thống trị bởi bất kỳ quốc gia nào khác, dù là tư bản chủ nghĩa hay cộng sản. Điều này có nghĩa là một quốc gia cộng sản nhỏ nhưng họ có thể bảo vệ độc lập của mình bên cạnh một anh hàng xóm lớn hiệu quả và tốt hơn nhiều so với chế độ độc tài không cộng sản, bán phong kiến. Một Việt Nam cộng sản dưới Hồ Chí Minh được dự kiến là có thể giữ được nền độc lập của mình chắc chắn như Tito đã duy trì của độc lập của nước của ông ấy. Ý tưởng "ngăn chặn" đã luôn luôn được xem là mập mờ: Mục đích của chúng ta để kiềm chế Trung Quốc, hay ngăn chận cộng sản? Và là cả hai thì chúng ta sẽ phải làm những gì làm gì nếu hai mục tiêu đó trở thành mâu thuẫn với nhau? Đặt cơ sở toàn bộ chính sách Á Châu của chúng ta trên chuyện "ngăn chận" Trung Quốc [bành trướng] là một nguy cơ tiêu tốn hàng tỷ đô la và hàng ngàn sinh mạng trên ý tưởng rằng Trung Quốc có kế hoạch thôn tính các nước khác bằng quân sự - một giả thuyết không được hỗ trợ, hoặc bằng lời nói hoặc bằng lịch sử hành động của họ cho đến nay, và trường hợp [ngăn chận] Liên Xô hóa ra là sai lầm. Và để làm cho giả thuyết phạm một lỗi lầm gấp đôi, giả định rằng nếu Trung Quốc muốn mở rộng thì họ có thể [làm điều ấy]. Trích dẫn trong cuốn “ Vietnam: A Diplomatic Tragedy by”, bởi Victar Batar, 1965 Trang 226-227 Mặc dù vị trí địa lý cận kề nguy hiểm của Trung Quốc và sự phụ thuộc trước đó của Hồ Chí Minh về hỗ trợ quân sự của Trung Quốc, năm 1954, có khả năng là chính phủ Hồ Chí Minh đã có một số liên lạc ngoại giao nhằm đến một sự ổn định thực sự. Ông đã có trong chính phủ của ông những thành viên không phải là người theo chủ nghĩa Mác xít giúp đỡ cũng như Việt Nam ngàn năm lịch sử lấp đầy với những lần lần thành công trong nổ lực giải phóng đất nước khỏi sự thống trị của Trung Quốc. "Câu hỏi quan trọng nhất đối với cả hai miền Bắc và miền Nam Việt Nam," một người Việt nổi tiếng chống Diệm và chống cả Cộng Sản " là làm thế nào để sống còn. Tương lai của toàn thể dân tộc Việt Nam bị đe dọa bởi con số [hơn tỷ người] và tính năng động lớn lao như vậy (của Trung Quốc). " Mối quan hệ hai mang của Bắc Việt Nam (Moscow và Bắc Kinh) tiềm nằng có thể tạo ra một một thế đứng độc lập hạn chế với cả hai. Cộng Sản Việt Nam đã quay sang Nga và các chư hầu Âu Châu của ho để tìm kiếm những giúp đỡ cần thiết sau [Hội Nghị Geneva] để phục hồi lại từ sự tàn phá của một cuộc nội chiến bảy năm. Với sự giúp đỡ này, Bắc Việt Nam ngày càng có thể độc lập với Trung Quốc. Ngay cả lãnh đạo và hàng không hề mất niềm tự hào độc lập, có thể nói một cách chắc chắn rằng Hồ Chí Minh, bây giờ là chính khách "đàn anh" của thế giới cộng sản, cũng không khác với những nhà lãnh đạo quốc gia khác: chắc chắn ông không muốn mình vui trong vai trò con rối..Dường như ông có đủ tài năng và sự tinh tế để di động giữa Scylla và Charybdis để cùng làm vừa lòng Trung Quốc và người Nga [“giữa Scylla và Charybdis” là thành ngữ Hy Lap chỉ tình trạng “đu giây” giữa hai phe]. Như vậy, một chính sách ngoại giao nhằn đạt đến một Việt Nam thật sự trung lập, ngay cả khi không được Bắc Kinh hoàn toàn chấp thuận, đã có thể đạt được thành công trong những năm 1955-1960. Tất nhiên, đối với sự cuồng tín không thể hòa giải của Diệm, bất kỳ liên hệ nào với Hồ Chí Minh đều sẽ bị nguyền rủa, nhưng chính sách của Mỹ không nhất thiết chỉ phải dành để phục vụ cho hệ thống thần kinh của Diệm, đặc biệt là kể từ khi có rất nhiều chống đối từ các đồng hương của ông ta. Trích dẫn từ cuốn "Marxism in Vietnam" bởi Milton Sacks, trong “Marxism trong Southeast Asia,” bởi Frank N. Trager, ed., 1959. Trang 163-164 Trong cùng khoảng thời gian (1946-1949), chính phủ Hồ Chí Minh đã cẩn thận tìm cách duy trì mối quan hệ thân thiện với Thái Lan và chính phủ Quốc Dân Đảng Trung Quốc. Ngoài ra, một nỗ lực tuyên truyền được xác định là đã được thực hiện để tranh thủ sự cảm thông của các nước Đông Nam Á cho cuộc đấu tranh của Việt Nam. Trong tình hình phát triển chiến tranh lạnh đã đưa đến sự phân cực trong quan hệ quốc tế, lãnh đạo Việt Minh công khai từ chối đứng về phía nào và công bố một chính sách trung lập. Ngay cả khi báo chí Liên Xô và Cộng sản thế giới khẳng định rằng Hồ Chí Minh là Cộng sản hoặc nhấn mạnh rằng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một bộ phận trong "Mặt trận dân chủ thế giới " chống lại "chủ nghĩa đế quốc Mỹ”, chính phủ Việt Nam bản thân lại duy trì một sự im lặng kín đáo. Cộng sản Việt Nam đã không làm nổi bậc việc thân Liên Xô như thường lệ, cũng không đưa ra các cuộc tấn công chưởi rủa chống Mỹ như đã rất phổ biến trong phong trào Cộng sản thế giới. Vào cuối tháng 3 năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục tố cáo về "sự thống trị của cộng sản" trong chính phủ mà ông đứng đầu là "tuyên truyền thuần túy chủ nghĩa đế quốc Pháp." Trên thực tế, chính sách phủ nhận sự liên kết với chủ nghĩa cộng sản gây mâu thuẫn cho chính phủ Hồ Chí Minh giữa việc tăng cường quan hệ giữa các tổ chức quần chúng ở Việt Nam và các cơ quan của cộng sản quốc tế. Những người ủng hộ chính phủ Việt Minh cho rằng thực tế đây là cách duy nhất mà Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa có thể nhận được một số công nhận quốc tế. Dù sao cuộc xung đột đã có mặt, và những tham gia trong các tổ chức phong trào là thêm khó khăn: ví dụ, khi đại diện của các tổ chức thanh niên Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa tham dự cuộc họp khu vực của Liên đoàn Thanh niên Dân chủ tại Calcutta vào tháng Hai năm 1948. Kể từ khi cuộc họp này đã được sử dụng như một phương tiện để công khai nhấn mạnh chiến lược mới của Cộng sản ở Đông Nam Á đã dẫn đến cuộc khởi nghĩa Cộng sản ở Miến Điện, Malaysia và Indonesia, đại diện Việt Nam được đặt ở một vị trí khó xử. Họ có thể và nhấn mạnh trên niềm tự hào về "cuộc đấu tranh giải phóng" mà họ đã tiến hành.Tuy nhiên, cùng lúc, họ đã không phủ nhận những thành công hiển nhiên của chính sách liên minh với "giai cấp tư sản quốc gia" đang theo đuổi tại Việt Nam. Họ chỉ đơn giản là tránh được vấn đề được đặt ra trong chính sách mới nhấn mạnh sự tấn công vào các "tư sản dân tộc" là sự cần thiết của lãnh đạo đảng Cộng sản trong việc đấu tranh giải phóng, và là sự cần thiết trong mối quan hệ trực tiếp với phe Liên Xô. Độ lệch trong chính sách chung của Cộng sản ở Đông Nam Á [đảng Cộng Sản Đông Dương] trong thời gian 1948-1949 có thể được mô tả như là biểu hiện của sự linh hoạt về chiến thuật của tài lãnh đạo của Hồ Chí Minh. Việt Minh đã dẫn một cuộc đấu tranh vũ trang có hiệu quả cao chống lại người Pháp ở Việt Nam và được sự ủng hộ của nhiều người quốc gia Việt Nam đã tin vào những lời tuyên bố không Cộng sản của người phát ngôn cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa. Hơn thế nữa, chính phủ của họ đã đạt được những đánh giá cảm thông và hỗ trợ quốc tế từ những dư luận không cộng sản, chống chống thực dân. Để lãng phí các tài sản này, đơn giản chỉ cần phát ngôn ra những tuyên bố ý thức hệ tương xứng với tuyên bố của khối Cộng sản là sẽ trả một giá cao tại bất kỳ thời điểm nào.Tuy nhiên, xem ra cũng có thể thoải mái mà thấy rằng Hồ Chí Minh và một số nhà lãnh đạo Việt Minh khác đều muốn có biện pháp độc lập theo kiểu không liên kết với bất cứ khối nào, và hy vọng có thể tránh được sự phân cực không tránh khỏi của phong trào dân tộc ở Việt Nam vớ tất cả các hậu quả tiêu cực đang chờ đợi của nó. Trích dẫn từ cuốn " Vietnam: A Dragon Embattled -. (Vol I: From Colonialism to the Viet Minh) " bởi Joseph Buttinger, 1967 Trang 406-408 Nhưng không ai biết tốt hơn so với Hồ Chí Minh rằng cuộc đấu tranh cho độc lập không thể được thực hiện dưới ngọn cờ của chủ nghĩa cộng sản. Việc thành lập một chế độ độc tài công khai của đảng của họ sẽ chỉ mang lại sự sụp đổ của toà nhà chính trị tài tình mà họ đang thống trị kéo theo sự sụp đổ của toàn bộ phong trào toàn dân tộc. Chế độ càng phát triển về hướng độc đảng thì lại càng cần thiết phải có những thuyết phục hùng biện về dân chủ, và một thứ lễ nghi, và một bộ mặt lộng lẫy về dân chủ. Hiến Pháp được trình lên một Quốc Hội đã được tạo dựng cho mục đích này. Nó đã được thông qua với 240 thuận với 2 phiếu chống ngày 8 tháng 11 [1945]. Nếu các nguyên tắc cao cả của Hiến Pháp này đã không ảnh hưởng gì đến sự tiến hóa chính trị của chế độ Hà Nội, sự bùng nổ của chiến tranh vài tuần sau đó không phải lý do mà sự thực hiện những lời hứa như ngay trong tên “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” của nó đã bị ngăn chặn. Những người Cộng sản đã xác định bản chất của chế độ [của họ] thậm chí đã lâu trước khi chiến tranh bùng nổ, và, như đã liên quan đến họ từ lâu, mục đích của Hiến Pháp không phải để tạo ra cơ sở cho một chế độ dân chủ: Theo luận điểm của họ, chế độ dân chủ mà họ thiết lập tại Việt Nam không kém gì so với "nền dân chủ nhân dân" của Đông Âu, trong thực tế, một " hình thức dân chủ cao hơn" hơn bất kỳ [hình thức] nước dân chủ phương Tây nào. Bên ngoài, và đặc biệt là những người tin rằng lý thuyết chính trị Cộng sản về cơ bản là không trung thực, khó tìm thấy, khó khăn để hiểu. Tuy nhiên, các nguyên tắc dân chủ của hiến pháp đã được đặt ra không chỉ đơn thuần là một phương tiện để ngụy trang cho việc tiến hành thiết lập nên một chế độ độc đảng độc tài Cộng sản. Những quyền tự do là dành cho toàn dân, việc chối bỏ chỉ dành cho những kẻ "phản động", "phản bội", "cộng tác viên", "gây rối", và "kẻ thù của nhân dân," hay bất cứ ai, nói một cách ngắn gọn, là "có các hoạt động chính trị mà những người Cộng sản coi là có hại cho sự nghiệp quốc gia, chính trị, tổ chức giám sát của Việt Minh và sau đó là [Mặt Trận] Liên Việt. Ngay cả trước khi xung đột vũ trang lây lan trên cả nước, những người Cộng sản cảm thấy hoàn toàn hợp lý trong việc yêu cầu mà các đối thủ quốc gia thực hiện các quyền chính trị của họ chỉ để hỗ trợ của chế độ Việt Minh. Đối lập với Việt Minh là đồng nghĩa với hành động chống lại lợi ích của nhà nước. Không thể phủ nhận rằng những người Cộng sản đã đưa ra những cải cách cấp tiến dân chủ mà Việt Nam đã chưa bao giờ được biết đến trước kia, và họ thành lập những gì cũng gần như tất cả các loại tổ chức dân chủ được biết đến. Nhưng cũng không kém phần đúng là họ đã không hối hận khi bỏ tù hoặc thậm chí giết hại những người muốn hưởng dụng những cải cách này hoặc sử dụng các định chế này để chống lại Việt Minh. Trích dẫn từ cuốn “A Thousand Days: John F. Kennedy in the White House” bởi Arthur M. Schlesinger, Houghton Mifflin Co., Boston, 1965, trang. 321. 1951: "Ở Đông Dương", Kennedy cho biết, trên đường trở về Washington, "chúng ta đã liên minh mình với những nỗ lực tuyệt vọng của một chế độ Pháp để bám trên những tàn tích của đế chế.... Để kiểm soát chuyển dịch về phía nam của chủ nghĩa cộng sản là có ý nghĩa nhưng không chỉ trông chờ phụ thuộc vào sức mạnh của vũ khí. Việc làm là phải nên xây dựng một tình cảm bản địa không cộng sản mạnh mẽ trong các khu vực này và dựa vào đó như là một mũi nhọn của quốc phòng chứ không phải là dựa trên các quân đoàn của Tướng de Lattre. Làm điều này ra ngoài và bất chấp mục tiêu dân tộc bẩm sinh là đã báo trước sự thất bại." Chuyến đi đã cho Kennedy cả sự cảm thông mới cho các vấn đề của Á Châu và một sự hiểu biết mới về sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc trong thế giới kém phát triển. Trích dẫn từ cuốn “The Bitter Heritage” ; 1967, bởi Arthur M. Schlesinger Trang 75-76 … Hai cú đánh nặng nhất gần đây mà Bắc Kinh phải chịu đựng - sự hủy diệt của Đảng Cộng sản Indonesia và công bố độc lập của Triều Tiên - đã diễn ra mà không cần lợi ích bảo trợ hoặc tài hùng biện nào của Mỹ. Thật vậy,việc Mỹ can thiệp quá công khai thực sự có thể có ảnh hưởng làm nghẹt thở các lực lượng dân tộc địa phương hoặc chạy sang phía bên kia và do đó cuối cùng làm suy yếu việc ngăn chặn Trung Quốc. Trong nhiều thập kỷ tương la không thể dự đoán trước được gì, bức tường thành hiệu quả nhất chống lại một nhà nước cộng sản dân tộc hung hăng, trong một số trường hợp, cũng có thể chính là những nước cộng sản dân tộc chung quanh nó. Một chính sách hợp lý để ngăn chận Trung Quốc đã phải nhận ra rằng một nước Việt Nam cộng sản dưới Hồ có thể là một công cụ ngăn chặn tốt hơn là một chế độ Sài Gòn đang lung lay đứng đầu là các quan lại cánh hửu hay các tướng không quân. Nếu như Hồ đã nắm toàn cõi Việt Nam vào năm 1954, ông ta ngày nay có thể mời gọi Liên Xô hỗ trợ để tăng cường sức đề kháng của mình trước áp lực của Trung Quốc, và tình trạng này, tuy nhiên sẽ là điều kinh hoàng cho người dân miền Nam Việt Nam, rõ ràng lã sẽ tốt cho Hoa Kỳ hơn là tình thế mà chúng ta đang loạng choạng ngày hôm nay. Và bây giờ, than ôi, điều đó gần như đã quá muộn: lực đẩy của toàn bộ chính sách của Mỹ từ năm 1954, và hơn bao giờ hết kể từ khi vụ đánh bom phía Bắc bắt đầu, đã không tách Bắc Kinh và Hà Nội ra xa nhưng lại dẫn họ lại với nhau. Trích dẫn từ “Viet-Nam Witness 1953-1966” bởi Bernard. B. Fall, July 1965 Trang 119-120 Điêu quan trọng phải nhớ rằng, không giống như bất kỳ phong trào cộng sản thành công nào khác, [cộng sản] Việt Nam đã chiến đấu theo cách của mình để nắm quyền cai trị trong sự cô lập hoàn toàn. Ở Đông Âu, quân đội Liên Xô luôn luôn hiện diện ở các nước do cộng sản tiếp quản, trong thực tế, họ là thành phần thiết yếu. Ở Trung Quốc, chuyện bàn giao hàng kho vũ khí to lớn của Nhật cho những người cộng sản bởi các lực lượng của Liên Xô ở Mãn Châu là có tầm quan trọng sống còn cho sự thành công quân sự của đảng Cộng Sản Trung Quốc (CCP), và sự hiện diện quân sự của Nga ở Bắc Triều Tiên đảm bảo việc tạo ra một "nền dân chủ nhân dân" ở đó. Tại Albania, những người theo phe Tito đóng vai trò của quân đội Liên Xô ở những nơi khác. Ở Việt Nam năm 1945, trái lại, VNDCCH đã không hỗ trợ nào như vậy từ Liên Xô hoặc ngay cả từ những người Cộng sản Trung Quốc (đóng dồn cục trên các vùng núi đồi ây BắcTrung Quốc); và kết nối với đảng Cộng Sản Pháp, lúc ấy chỉ mới lộ diện sau bốn năm bí mật, có thể đã không tồn tại với lý do đơn giản rằng những chuyến tàu đầu tiên sau chiến tranh mới từ Pháp sang đi Đông Dương cặp bến Sài Gòn vào cuối tháng 9 năm 1945 -- và đó là những tầu chuyển quân đưa đội lính tiên phong của lực lượng viễn chinh Pháp. Nói cách khác, Cộng sản Việt Nam hoàn toàn phải chơi cuộc cách mạng của họ một mình, và bằng nghe ngóng. Trích dẫn từ “Toward. Peace in Indochina”, 1966, bởi Anthony Ed.en, Earl of Avon Pages 22-24 Nếu Bắc Kinh bị ám ảnh bởi ấn tượng sai lạc của mình về ý định của Mỹ, thì ý kiến của Hà Nội có thể xem như ít khẳng định. Ý kiến của Moscow có ảnh hưởng lên miền Bắc Việt Nam để có thể cân bằng với Bắc Kinh trong một số thời điểm. Nếu sự hỗ trợ của Trung Quốc mạnh bạo hơn và tuyên bố kiên quyết hơn, thì một số nhà lãnh đạo cộng sản Hà Nội ldo Moscow đào tạo, bao gồm cả chính Hồ Chí Minh, hơn nữa, có thể với những bản năng lịch sử mạnh mẽ, tuy nhiên, sẽ rời xa các lãnh đạo. Có thể người Việt Nam sẽ không chấp nhận một số phận nào mà họ bị đưa ra phục vụ như một tiền đồn phía nam của đế quốc Trung Hoa, thậm chí trong chỉ một thời gian. Có những rủi ro cho miền Bắc Việt Nam đứng giữa quan hệ cay đắng Trung-Xô ngày càng tăng. Gần đây, chính phủ Trung Quốc thậm chí đã bỏ qua tất cả các ngày kỷ niệm của tình hữu nghị với Việt Nam,đưa ra một chiến dịch khiếu nại chống lại nước Nga, trong khi làm dây dưa nguồn cung cấp của Liên Xô vào cuộc hành trình của mình. Đó không phải là điều ấm áp cho Hà Nội, họ đã không muốn cãi nhau với một trong hai quyền lực cộng sản lớn, nhưng có thể họ đã thấy rằng họ phải sống với những đòi hỏi cực kỳ của Trung Quốc ngày càng gai góc. Điều song song đôi khi được rút ra giữa Thống Chế Tito với Moscow và Hồ Chí Minh với Bắc Kinh không phải là, tuy nhiên, là gần nhau lặm Miền Bắc Việt Nam đang có chiến tranh và không có vị trí để cãi nhau với nhà cung cấp chính về vũ khí và vật tư. Ngay cả trong điều kiện ít khó khăn hơn, Trung Quốc vẫn sẽ là người hàng xóm lớn, cũng như là như anh lớn, là điều khó mà chối bỏ, nếu đó là một điều còn có thể mơ ước được. Tất cả như nhau, cuối cùng là có nhiều phạm vi có thể thỏa thuận với Hà Nội hơn là với Bắc Kinh, mặc dù các vết đường bi thảm của máu và đau khổ, hoặc có lẽ cũng vì nó… Là Việt Nam, chứ không phải Trung Quốc, đã có những tổn thất về sinh mạng và tài sản, từ trường học đến đường sá giao thông. Một ngày nào đó, bằng cách nào đó chuyện này [chiến tranh VN] phải kết thúc. Hơn nữa, ngay cả miền Bắc có nhiều thắng lợi khi trở thành một phần của một đai gồm các quốc gia trung lập, hoặc ít nhất là trong một vòng đai ở phía nam và tây nam của lãnh thổ của họ. Để có thể có được điều này, Hà Nội phải chấp nhận hai cái thoáng nhìn của thực tế, mặc dù họ không bao giờ tuyên bố công khai..Điều thứ nhất là Hoa Kỳ không thể bị đánh bại, điều thứ hai là việc Hoa Kỳ rút quân theo một biểu thời gian được thỏa thuận, sẽ không có một cơ hội xa xa nào, thậm chí chỉ một cuộc rút một phần quân Mỹ, trừ khi Bắc Việt cũng phải tham gia phần của họ, dù là một tham gia tiêu cực, để làm chuyện đó [rút quân] thành hiện thực. Trich dẫn từ “The Arrogance of Power”, 1966, bởi Senator J. William Fulbright Pages 111-114 Điểm trung tâm của thảm kịch Việt Nam là một thực tế rằng phong trào dân tộc mạnh mẽ nhất tại quốc gia đó lại là cộng sản. Chúng ta thường hay nghe rất nhiều về Hồ Chí Minh không chỉ là một tay sai cho Cộng sản Trung Quốc, mà cũng không ít hơn là một "âm mưu cộng sản quốc tế". Ông ta là một người cách mạng dân tộc chân thật, lãnh đạo cuộc nổi dậy của đất nước ông để chống thực dân Pháp. Ông cũng là một người cộng sản, và đó là lý do quan trọng tại sao kể từ ít nhất 1950 ông đã bị coi như là kẻ thù của Hoa Kỳ. Phác thảo này, dù được viết tắt nhiều, minh họa một thực tế quan trọng nhất - sự hợp nhất của chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa cộng sản trong Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh. Không có ý nghĩa gì để nói về Việt Minh dân tộc chủ nghĩa hơn cộng sản chủ nghĩa hay cộng sản chủ nghĩa hơn so với dân tộc chủ nghĩa, nó là cả hai. Việc hòa nhập [cả hai] là một bất hạnh từ quan điểm lợi ích và sở thích của Mỹ, nhưng nó cũng là một thực tế, một thực tế mà chúng ta có thể và phải theo nó đến tận cùng. Ngày nay thậm chí, sau tất cả những nước Mỹ đã làm để duy trì chính phủ miền Nam Việt Nam, chỉ có một chính trị gia có tên được biết cho đến tận người nông dân trên khắp Việt Nam: Hồ Chí Minh. Điều quan trọng là phải rất rõ ràng ý nghĩa của chữ "dân tộc". Nó đã được mô tả tốt nhất bởi Hans Kohn như một "trạng thái của tâm hồn đối với quốc gia như là hình thức lý tưởng của tổ chức chính trị và tính chất dân tộc như là nguồn gốc của tất cả các năng lượng sáng tạo văn hóa và của cuộc sống kinh tế." Hiểu theo cách này, dân tộc không nhất thiết phải nhân đạo, dân chủ, xã hội xây dựng để đáp ứng những nhu cầu cá nhân. Nó chỉ đơn thuần là mạnh mẽ - mạnh mẽ trong một cảm giác có thể huy động lòng trung thành và hỗ trợ tích cực của một số lượng lớn những người bình thường. Khi một ai mô tả Hồ Chí Minh, Việt Minh hay Việt Cộng là "dân tộc", nó không phải là thể suy ra rằng họ được coi là thánh. Không phải như thế: " họ đã chứng mình nhiều lần họ là những người cuồng tín và tàn bạo, nhưng họ cũng đã biểu hiện rằng họ yêu nước, rằng họ đã đồng nhất mình với tổ quốc và những huyền bí của nó, với “trạng thái tâm hồn” có những hành xử trung thành, dũng cảm, và hy sinh nhiều hơn bất cứ người bình thường nào khác. Với mục đích của chúng ta, tầm quan trọng của chủ nghĩa dân tộc của Hồ Chí Minh là nó có liên quan với những gì Bernard Fall đã gọi " 2.000 năm Việt Nam không tin bất cứa thứ gì của Trung Quốc." Vì vậy cộng sản Việt Nam là một bức tường thành tiềm năng - có lẽ là bức tường tiềm năng duy nhất chống lại sự thống trị Việt Nam của Trung Quốc. Đó là lý do mà tôi tin rằng chúng ta nên cố gắng, nếu không phải là quá muộn, đến giải quyết việc với miền Bắc Việt Nam và Việt Cộng. Trích dẫn từ "What Choices Do We Have in Vietnam?" by Edwin O. Reischauer Look, September 19, 1967, trang 27 Giải pháp thay thế rõ ràng là cho phép Hồ và Việt Minh bị thống trị bởi cộng sản của ông tiếp nhận toàn bộ Việt Nam. Điều này đã xảy ra sớm nếu Hoa Kỳ đã rõ ràng vào năm 1945 rằng Hoa Kỳ không chấp nhận sự hồi sinh của chủ nghĩa thực dân ở Á Châu và sẽ không hỗ trợ gì cho nó. Điều đó vẫn sẽ xảy ra nếu chúng ta đã không viện trợ rộng rãi cho nỗ lực chiến tranh của Pháp sau năm 1949. Nó sẽ xảy ra nếu chúng ta đã sẵn sàng để hỗ trợ hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 và nếu chúng ta đã không cố gắng xây dựng một chế độ thường trực theo Diệm ở miền Nam Việt Nam. Nó sẽ xảy ra nếu chúng ta đã không đều đặn tăng cam kết quân sự của chúng ta cho Nam Việt Nam trong các năm từ 1960 đến 1963. Nó sẽ xảy ra nếu chúng ta đã quyết định chống lại sự tham gia rộng rãi vào chiến tranh vào mùa đông 1964-1965. Như vậy, dưới mỗi người trong bốn Tổng Thống vừa qua của chúng ta, các quyết định đã rõ ràng, ngay cả khi không hoàn toàn thấu đáo, đã chối bỏ giải pháp hiển nhiên này. Điều gì sẽ xảy ra nếu, tại bất kỳ những giây phút quyết định nào, chúng ta đã lựa chọn giải pháp thay thế trên? Nếu chúng ta đã rõ ràng ủng hộ chủ nghĩa dân tộc Việt Nam thay vì thực dân Pháp vào năm 1945, có vẻ rõ ràng rằng Hồ, trong thời gian ngắn, đã có thể thiết lập một sự kiểm soát hửu hiệu trên toàn bộ Việt Nam. Ông ta có thể đã thiết lập cùng một loại cai trị độc tài, áp bức, Cộng sản, trên tất cả Việt Nam như ông đã thực sự làm ở miền Bắc. Ông có thể sẽ gặp cùng nhiều loại vấn đề ông gặp ở miền Bắc, và sự tiến bộ kinh tế của Việt Nam sẽ bị chậm lại, mặc dù, tất nhiên, không phải là chậm như trong một vùng bị chiến tranh tàn phá.. Xã hội và chính phủ Việt Nam thống nhất có thể sẽ không gì được chúng ta tán thành, nhưng chúng ta cũng không tìm thấy những gì chúng ta có thể chấp nhận được trong một xã hội và chính phủ Việt Nam chia rẽ. Rất có thể, một Việt Nam thống nhất dưới Hồ, tránh được sự tàn phá của chiến tranh, ít nhất về lâu dài có thể tiến đến một xã hội ổn định và công bằng vừa phải, còn hơn là một đất nước bị chia rẽ và chiến tranh tàn phá như chúng ta chúng ta biết ngày nay. Đối với chúng ta, tuy nhiên, câu hỏi là loại hình của Việt Nam sẽ có nghĩa gì trong chính trị quốc tế. Tôi tin rằng ta có thể an toàn mà giả định rằng có một Việt Nam rất dân tộc chủ nghĩa. Thêm vào đó, tôi tin rằng nó đã không còn bị Trung Quốc thống trị. Người Bản năng người Việt Nam là luôn e ngại người hàng xóm khổng lồ phía Bắc của họ. Trong khi họ vẫn luôn ngưỡng mộ và học tập Trung Quốc, trong hơn một ngàn năm, họ đã có một truyền thống dân tộc sâu sắc chống sự thống trị của nó. Nếu họ đã không có lý do cụ thể để sợ hãi hay phẫn nộ đối với chúng ta, nhiều khả năng là họ sẽ tập trung nỗi sợ hãi và oán giận vào Trung Quốc, dù nước này có là Cộng sản hay không. Có khả năng lớn là một chế độ chế ngự bởi Cộng Sản của Hồ, nếu được chúng ta để cho họ chiếm tất cả Việt Nam khi cuộc chiến chấm dứt, sẽ đi đến một vị trí quan hệ với Trung Quốc không giống như Nam Tư của Tito đối với Liên Xô. Hồ, như Tito, đã có quan hệ thân mật trong thời chiến với chúng ta. Ông dường như đã dự kiến sẽ tiếp tục tình bạn với chúng ta và có nhiều hy vọng nhiều về viện trợ kinh tế từ chúng ta hơn là từ Trung Quốc. Ông và cộng sự của ông là những người nhiệt tâm dân tộc chủ nghĩa và có lẽ đã có nỗi sợ hãi và nghi ngờ đối với Trung Quốc sâu sắc hơn so với Tiệp Khắc đối với người Nga. Khi một nước Việt Nam thận trọng và được tôn trọng hơn đối với Trung Quốc so với Tito đối với Liên Xô, nó có thể kiên cường độc lập nhiều hơn. Cách mà Hà Nội đã tìm cách để duy trì sự độc lập đối với Bắc Kinh và Moscow, mặc dù sự phụ thuộc về quân sự với cả hai vì bị buộc vào bởi cuộc chiến tranh kéo dài với chúng ta, cho thấy rằng một Việt Nam Cộng sản đã độc lập mạnh mẽ như thế nào, nếu không bị tấn công, bởi những cần thiết bằng quân sự. Một chế độ cộng sản ở toàn Việt Nam có là mối đe dọa nghiêm trọng cho nền hòa bình các nước láng giềng hoặc thế giới không? Tôi nghi ngờ điều đó. Cộng Sản đã chiếm trọn Việt Nam trong một thời gian ngắn sau khi chiến tranh kết thúc có thể có vẻ đối phần còn lại của thế giới không gì khác hơn là một chiến thắng của phe Cộng Sản trên phe chống cộng sản đã nhiều lần diễn ra tại Việt Nam từ năm 1945. Thật là khó để tin rằng một Việt Nam thống nhất Cộng sản. Sẽ có bất kỳ một ảnh hưởng có hại trên Lào hơn là một Việt Nam chia rẽ bị chiến tranh tàn phá. Lào và Campuchia có thể đã rơi vào ảnh hưởng của Việt Nam, nhưng điều này ít nhất sẽ giữ họ ra khỏi sự kiểm soát của Trung Quốc. Hoặc, có thể, Campuchia với truyền thống thù địch với Việt Nam, sẽ quay lại tách xa khỏi sự iên kết với các quốc gia Cộng sản, nếu miền Nam Việt Nam, cũng đã thành Cộng sản. Thái Lan có thể ít bị ảnh hưởng bất lợi bởi một Việt Nam hoàn toàn cộng sản như nó đã có trong một thời gian dài chiến tranh ở đó. Trong khi đó, một Việt Nam thống nhất, mạnh mẽ dân tộc chủ nghĩa, trong khi ủng hộ trên đầu môi Cộng sản Trung Quốc, có thể được dùng như một đê điều hiệu quả hơn để ngăn ảnh hưởng và sức mạnh của Trung Quốc tiến về phía Nam hơn là buộc Bắc Việt Nam rơi vào thế phụ thuộc quân sự với Trung Quốc cộng với một Nam Việt Nam không ổn định. Và, tình hình chung tại Việt Nam và, Đông Nam Á, sẽ còn ít thỏa đáng rất nhiều so những gì chúng ta đang có ngày hôm nay, có thể đạt được, mà không cần bất kỳ chi phí khủng khiếp đã tăng rất cao.