- ồ anh ấy đã tỉnh rồi kìa!- Tỉnh rồi! May quá! Chút nữa lại mang tiếng đảo chìm giết chết một thi sĩ tài năng đang hứa hẹn! - Tư Xồm cười dủm dỉm. - Huy này, mày xem vết thương anh ấy có nguy hiểm không? - Không sao. Bố ấy chỉ bị choáng khi va đập mạnh. Còn xa ruột lắm! - Bây giờ thì ông anh có muốn chết cũng đếch chết được. - Tư Xồm lại cười. - Này, giá như ông anh ngỏm béng luôn ở đảo chìm này có khi lại hay đấy nhé. Biết đâu có người lại thấy tiếc ông anh, lại nói ông anh là một tài năng đang phát triển rực rỡ. Còn ông anh sống ý à... em nói thật, đại ca đừng tự ái nhé, ông anh cũng nhem nhuốc lắm, hoàn cảnh lắm, chẳng hơn đếch gì lính nhọ đít chúng em... Tôi chống tay vào sàn tàu, ngồi dậy. Đầu óc cứ ong ong, váng vất. Bụng vẫn cồn cào, thoáng đặc, thoáng rỗng. May mà con tàu không bị vỡ. Có lẽ chiều qua nó lao vào một vách sóng nào đó. - Hai đâu? - Tôi hỏi. - Tàu đang đi tìm nó mà! Đang về đảo chìm đấy.. - Thế hôm qua đi những đâu? - Xa. Tàu tránh bão thì cứ phải gối sóng, chạy ngoắt ngoéo chữ chi. Chạy xa lắm, cách đảo hàng trăm dặm biển. - Hai ơi! - Tôi thoáng kêu lên. - Không sao đâu, anh Khoa ạ!. Có lẽ nó về lều bạt rồi. Bố Thuận bảo, nếu nó tới được lều, cột chặt mình vào cọc lều thì may ra có thể thoát! - Nhưng đã chắc gì nó vào được lều bạt? - Thì chính anh bảo chiều qua nó đánh xuồng vào lều bạt mà... - Không! Nó trở lại lều để cứu đồ đạc của thằng Thiêm. ừ, mà tại sao chiều qua mình lại không kiên quyết giữ nó lại... - Không sao đâu anh Khoa ạ. Thằng này như qủy biển. Nó bơi bợm lắm. Giả sử chiều qua, cu cậu không vào được lều, thì cứ ôm chặt cái xuồng cao-su, quấn người vào dây xuồng là cũng không thể chết được. Chúng ta sẽ tìm thấy nó... Tôi gượng leo lên boong. Mặt biển bạc phếch. Những đám mây bị chẻ tướp đuôi ngựa, bay vun vút như khói. áp thấp nhiệt đới nảy sinh từ quần đảo bão tố này thường xảy ra bất ngờ và kết thúc cũng rất nhanh. Khi vào đến đất liền, có thể nó quẫy lên thành những trận bão lớn. Còn ở đây, biển đang dần trở lại cái dáng vẻ âm u bí hiểm muôn đời của nó. Con tàu vẫn đang xé sóng lao về phía đảo chìm. ở chân trời xa, đã thấy thấp thoáng những bóng chim biển bay nháo nhác. Mãi đến sâm sẩm tối, con tàu mới buông được neo. Chính trị viên Thuận và tôi cùng với Tư Xồm đánh xuồng vào lều bạt. Nhễ nhại lắm, chúng tôi mới vượt qua được mép san hô. Vùng đảo hoang lạnh một màu khai thiên lập địa. Chiếc lều bị gió cuốn mất tấm bạt, tua tủa giương lên nền trời xám đục những rảnh xương sắt cong queo, nom rờn rợn như một con cá khổng lồ đã bị rỉa hết thịt. - Có người! Thằng Hai! Đúng là thằng Hai kia rồi! Anh nhìn rõ không? Tư Xồm reo to, hồ hởi như người bắt được của. Chúng tôi thấy nhẹ bẫng người, nhìn theo ngón tay Tư. Trong ráng chiều nhập nhoạng, một bóng đen trùi trũi đang lom khom ngồi trước cửa lều... Tư quát lên: - Này...! Bóng đen thoáng rùng mình quay lại. Tôi bỗng sởn tóc gáy. Có tiếng đập đánh rào một cái. Rồi bóng đen bay chéo qua đầu chúng tôi, thả xuống đảo chìm một tiếng kêu khàn đặc, khê rợn: - Goà...goà... Thì ra đó chỉ là một con ó biển. Tôi lập bập bám thang dây, leo lên lều. Căn lều trống hoác, ướt nhoẹt. Đũa bát của Thiêm đã bị gió ném đi. Nhưng chiếc ba-lô lép kẹp sũng nước thì vẫn lủng lẳng chao lắc trên cái kèo sắt cột lều. Như thế có nghĩa là Hai không vào được lều bạt. - Hai ơi! Tư Xồm bỗng nấc lên. Thế là lại thêm một người lính nữa chết ở đảo chìm. Người đó tại sao không phải tôi, mà lại là Hai, con cá kình của đảo chìm? Tôi bỗng thấy chóng mặt. Chính trị viên Thuận vội chạy tới đỡ vai tôi. Tôi níu tay Tư. Còn Tư thì ôm lấy cột lều. Sóng vẫn hắt qua mấy khung giường sắt, phủ lên đầu chúng tôi từng đợt nước mặn chát. Lần đầu tiên, tôi mới hiểu vì sao nước biển lại mặn đến thế. Và có lẽ không ở đâu nước biển mặn như ở đảo chìm. Mặn như máu... (Trần Đăng Khoa) Trường Sa tháng 7/1980