ăn Bình véo đùi. Chàng còn biết đau. Nghĩa là chàng còn sống. Chàng còn xử dụng được bàn tay, nghĩa là chàng còn sống. Chàng cố moi trí nhớ xem chàng hiện ở đâu. Đầu óc chàng vẫn trống rỗng như căn nhà bị dọn hết đồ đạc. Những lùm đen và trắng múa nhảy trước mắt chàng. Chàng bật tìm thấy một mấu chốt thực tại. Mầu đen... mầu trắng... mầu của tang chế nhưng cũng là mầu đặc biệt của những cuộc vũ thâu đêm ở vùng caríb. Đúng rồi... ở những dạ hội gọi là va-van (1) độc nhất vô nhị trên quần đảo Mạc-ti-nít (2), hàng ngàn hàng vạn đàn bà đàn ông đeo mặt nạ, mặc đủ loại áo quần kỳ dị. Kỳ dị về lối may cắt song chỉ gồm 2 mầu độc đáo, mầu đen và mầu trắng. Họ múa nhảy từ sáng tinh sương, kéo dài đến trưa, đến chiều, càng múa nhảy, họ càng say sưa bên những vò rượu rhum uống cạn. Rồi tối. Rồi đêm. Đó là dạ hội Nữ-Thần. Trai gái vũ mê man, điên loạn bên lửa. Rồi một đám tang của Thần được cử hành. Khi ấy đã quá nửa đêm. Đám tang có quan tài đàng hoàng. Có kèn trống đàng hoàng. Có người đưa tiễn, có tiếng than khóc đàng hoàng. Quan tài được khiên đi chôn dưới ánh đuốc. Giữa tiếng gió thoi vi vu qua rặng dương buồn bã. Giữa tiếng khóc nỉ non... Giữa tiếng ca trầm trầm, than thở mối tình tan vỡ, người caríb gọi là điệp khúc đu-đu (3).... À.... giờ đây chàng đang sống trong vùng caríb.... Tiếng hát đu-đu tiếp tục rền rĩ trong hơi lạnh buốt hồn. Văn Bình lẩm bẩm đu-đu.... Chàng bật tỉnh. Chàng vừa ngửi thoáng được một mùi hương quen thuộc. Mùi thơm của nhang, mùi thơm của quế chi, mùi thơm của nhiều vị thảo mộc trộn lẫn. Mùi thơm của những buổi lễ ma quái vu-đu. Tiếng hát đu-đu... Phù thủy vu-đu (4).... Trí nhớ của chàng dần dần trợ lại minh mẫn. Chàng bị chặn bắt trên xe Hồng-thập-tự cùng với Galli và Bạch Hồng trong một đường phố Ha-van tối om. Và bây giờ chàng đang bị nhốt dưới hầm. Một nhà hầm bí mật. Địch đang dùng hắc-thuật (5) để mê hoặc và sai khiến chàng. Như tuần trước địch đã mê hoặc và sai khiến điệp viên xấu số Giắc Tati.... May chàng được học hắc-thuật, nếu không chàng đã biến thành con người máy như Giắc. Có lẽ trong khi chàng bất tỉnh địch đã cho chàng hít thở một chất bột mê nào đó nhằm trấn áp nghị lực, nhân tính và dọn trống óc chàng, sửa soạn cho sự xuất hiện của thầy phù thủy. Tạng phủ chàng đã tập quen nên chàng chỉ mê mẩn trong chốc lát, và chỉ trong chốc lát sức mạnh tinh thần được phục hồi. Chàng thầm cám ơn ông Hoàng. Từ lâu hắc-thuật bị liệt vào hàng mê tín, dị đoan, phản tiến hóa. Nhưng cũng từ lâu ông Hoàng, tổng giám đốc một tổ chức điệp báo hoạt động trên căn bản khoa học đã dùng khoa học để soi sáng hắc-thuật. Ông tuyển mộ một số chuyên viên nổi tiếng, và mở phòng thí nghiệm tối tân: nhờ vậy ông đã tìm ra công thức bào chế nhiều môn thuốc phù thủy. Trước giờ Văn Bình ra sân bay, ông Hoàng giở hồ sơ về hắc-thuật nghiên cứu rồi dặn dò: Vụ Giắc Tati có ít nhiều liên hệ với hồng-thuật. Anh nên đề cao cảnh giác. Nên uống thuốc trừ mê. Và đeo bùa êkêkô. Lên đường qua Tây-bán-cầu, Văn Bình tuân hành đúng chỉ thị của ông tổng giám đốc sáng suốt. Thuốc ngửi mê trong rừng gìà Phi-Châu và Trung-Mỹ thường được làm bằng xương thịt giống vật. Thứ thuốc hiệu nghiệm nhất được gọi là "sừng linh dương". Linh dương là một giống dê sinh sống trên đỉnh núi cao; nhà phù thủy chọn con dê đực còn trẻ, cắt sừng nó, tẩm rượu đem phơi để hấp thụ tinh khí nhật nguyệt. Đoạn làm một chất pom-mát gồm mỡ sư tư cái, máu cá sấu, nọc độc của rắn lục, móng vuốt của con dơi và chất óc người, tống vào sừng. Bào chế thêm một thời gian nữa là thành thuốc mê. Ai ngửi, hoặc ăn phải thuốc này là biến thành người máy. Vì Văn Bình uống thuốc trừ mê, nên chàng không bị mê lâu, và sau khi dậy chàng đã nhanh chóng lấy lại trí tuệ bình thường. Chàng lại còn đeo bùa êkêkô. Bùa êkêkô phát xuất từ nước Bô-li-vi Nam-Mỹ, được làm bằng gỗ, một loại gỗ quý. Dân bản xứ đẽo gọt những tượng gỗ quý đeo lấy phước. Tượng của Văn Bình được phù phép, nhờ vậy, nó có khả năng ngăn chặn sự tác hại cave;n công an, đặc vụ. Đời sống nghẹt thở đến nỗi nửa triệu đã khăn gói ra đi. Lộ trình Đông-Nam không phải là lộ trình ngoạn cảnh của du khách. Đâu đâu cũng thấy đồn bót. Đâu đâu cũng thấy nút chặn. Quân đội. Tự vệ. An ninh. Nhất là G-2, cơ quan tình báo, phản gián, an ninh ghê sợ nhất ở Tây-bán-cầu (6). Hắn nhớ ra rồi. Chiếc cam-nhông rời thủ đô với hắn và một người đàn ông khác. Người này cầm vô-lăng. Hắn ngồi bên, thân thể bất động. Xe chạy qua Vara-dêrô, thị trấn ven biển có bãi tắm thần tiên độc nhất vô nhị, nước thì xanh trong như được pha phẩm lục và lọc bằng máy, cát thì mịn màng, óng ánh như bạc. Trên trán Giắc còn dấu muỗi cắn, người lạ đậu lại cho hắn dầm mình trong nước, những con muỗi khổng lồ tấn công mặt hắn tới tấp. Nghe hắn chửi rủa đàn muỗi hỗn xược, người lạ hé miệng cười. Cười nửa miệng một cách kiêu ngạo. Theo kinh nghiệm, Giắc nhận thấy người Á-Đông thường bịt răng vàng nhiều hơn người phương Tây. Người Á-Đông lại hay kiêu ngạo. Người lạ này có một giẫy răng vàng. Cho nên Giắc đoán y là người Á-Đông tuy tròng mắt y hơi xanh, mũi y hơi lõ, thân y khá cao lớn. Xe chạy qua vùng có 5 ngọn suối nước nóng, các cặp vợ chồng mới cưới đến đó để hưởng tuần trăng mật. Giắc mệt đừ, xin người lạ dừng xe, ăn một bữa no nê vì hắn chỉ được ăn bánh bích-quy khô khan, chiêu với nước ngọt. Người lạ lắc đầu, lạnh lùng. Tỉnh Camagây (7) lừng danh năm châu nhờ phụ nữ đẹp. Khách sạn ở đó thuê những em bồi phòng thơm tho hết chỗ nói. Người lạ tiếp tục lắc đầu. Dưới ánh đèn pha, xa lộ vắng tanh đột nhiên thấy một lớp sinh vật lổm ngổm trên mặt đường, nâu nâu, đen đen. Hàng ngàn, hàng vạn con cua đồng rủ nhau xâm chiếm xa lộ. Cua cứ bò, mỗi lúc một đông đảo, một cách hiên ngang. Chỉ còn nước phóng qua, cán cua giẹp lép. Giắc ghê hàm răng khi nghe tiếng rạo rạo dưới lốp xe cam-nhông. Hắn phải bịt tai, người lạ bèn đập vai hắn, giọng kẻ cả: Bỏ tay ra, tiếng nhạc hấp dẫn không anh? Làm gì có tiếng nhạc. Chỉ có tiếng 10 vỏ lốp ni-lông to tướng nghiến trên nhựa cứng. Tiếng rào rạo của đạo binh cua đồng bị đè bẹp. Âm thanh này có gì hấp dẫn đâu? Giắc đáp: Đau đầu quá, ông ơi. Người lạ gật gù: Anh đang nghe thấy tiếng gì? Tiếng cua rào rạo. Sai bét. Tiếng đàn. Nghe lại coi. Vâng, tiếng đàn. Tây-ban-cầm. Giỏi. Theo anh đó là điệu nhạc nào? Nhạc khiêu vũ. Điệu pa-dô (8) Đầu Giắc nóng rần rần. Tiếng rào rạo kinh tởm được thay thế bằng tiếng ghi-ta trầm bỗng, cuốn kéo, thoạt tiên là điệu pa-dô khiêu khích, rồi đến nhịp phách uốn éo, rập rình. Giắc reo lên: Rumba nữa. Người lạ cười: Pa-dô trộn với Rumba thành điệu gì? Điệp viên Giắc thở phào: Merengue. Ghé trung bộ châu Mỹ không biết nhảy me-rin-gờ là điều bất khả chấp nhận. Giắc vốn khoái mẹ-rin-gờ, me-rin-gờ của Pháp có vẻ thượng lưu, bay bướm hơn, song thiếu tính chất thi vị. Nhảy me-rin-gờ gần giống đi cà-thọt, sức nặng của người nhảy dồn trên một chân. Tục truyền vũ cà-thọt này phát xuất từ những kẻ làm nô lệ, một cẳng bị nhốt trong dây xiềng sắt kèm theo cục sắt tròn nặng chĩu, phải lê bằng một chân. Trai gái vũ me-rin-gờ dể áp má, kề môi, và... Xe bất thần tốp lại. Cuống họng khô cháy, trời đêm u uất, gió nóng vù vù làm Giắc càng khát nước. Giắc xin người lạ Uống được chưa ông? Nước ngọt của người lạ được chứa trong cái phích lớn, kiểu hai lít. Gọi là nước ngọt vì nó có đường, thật ra nó không phải nước ngọt đóng chai. Vì nó lờ lợ khó tả. Giá có nước lã thiếu vệ sinh, chắc Giắc uống liền, Giắc đành phải uống cái nước lờ lợ ấy. Phích nước ngọc chỉ được giành riêng cho Giắc. Người lạ không ngó ngàng tới. Khi cần, người lạ ngậm nhân sâm. Giắc trả cái bình thủy cạn rặc cho chủ nhân. Người lạ hỏi: Anh biết đây là đâu chưa? Giắc đáp: Chưa. Ông dặn tôi phải tuân lệnh ông. Luôn luôn tuân lệnh ông. Dầu ông có mặt hay vắng mặt. Giỏi. Tôi sắp xuống xe, để tay lái lại cho anh. Ông cho phép tôi tiếp tục lái. Ừ, đây là Santiagô. Anh hãy lập lại những chỉ thị của tôi. Santiagô là thủ phủ của tỉnh Ori-entê, một vùng mang nặng vết tích lịch sử. Xưa kia, trận đánh quyết định cho nền độc lập Cuba diễn ra trên ngọn đồi ở ngoại ô còn đầy hào lũy và mộ phần ngang dọc. Khi còn chỉ huy du kích, nhà độc tài râu xồm Castro đặt chiến khu trong rừng núi ở đây. Castro trở thành ông vua không ngai, thì những người chống ông lại trở về đây chiêu binh mãi mã, đợi ngày phất cờ khởi nghĩa. Santiagô là cái khâu cuối cùng của hệ thống đường xá tân tiến. Xa lộ trung ương tạc tị. Cũng như đường sắt xe hỏa. Lắm khi chờ mòn gót giầy không thấy tàu hỏa. Chỉ có một đường bay duy nhất nối liền với Ha-van. Phi cơ của nhà nước mà ngày nào cũng chậm. Từ Santiagô trở đi là hoang vu xa vắng, la chết chóc rùng rợn. Hải quân Mỹ còn đồn trú tại Guantanamô, nhà độc tài râu xồm đuổi mãi không đi. Rốt cuộc vòng vây G-2 được thắt chặt, đề phòng dân bản xứ trốn vào căn cứ xin tị nạn. Sự canh chừng này gia tăng tối đa từ khi 88 người nhét đầy một xe cam-nhông liều lĩnh vượt hàng rào kẽm gai, chọn tự do (9)... Thưa, theo chỉ thị, từ đây tôi sẽ chạy thẳng một mạch đến căn cứ Mỹ. Đường xa bao nhiêu? 80 cây số. Anh lái một mình được không? Thưa được. Theo chỉ thị, tôi sẽ không ngừng lại ở bất cứ đâu. Trừ phi bị G-2 chặn lại. Trong trường hợp này, tôi sẽ trình giấy phép. Chứng minh thư hợp pháp đầy đủ đượcc cất sẵn trên băng xe. Giỏi. Cho phép anh nổ máy. Theo chỉ thị.... cho phép ạnh... tuân lệnh ông.... Giắc, điệp viên C.I.A. biến thành người máy ngoan ngoãn. Hắn ngoan ngoãn đeo kiếng hồng ngoại tuyến để lái trên con đường tối đen khỏi mở đèn pha. Hắn ngoan ngoãn giữ đúng tốc độ, 60 cây số một giờ. Mồ hôi chảy đầm đìa, lòng bàn tay hắn ướt mèm. Hắn càng lau khô, mồ hôi càng tháo ra. Đến Guantanamô, cách căn cứ Mỹ khoảng hai chục cây số, mồ hôi chảy nhiều đến nỗi bàn tay hắn trượt trên vô-lăng như bị thoa mỡ. Đồng thời trong óc hắn nồi dậy những cảm giác là lạ. Khi ấy bỗng nhiên hắn bừng tỉnh. Phản ứng tự vệ đầu tiên của Gịắc là chộp vô-lăng, nắm thật vững để chế ngự chiếc cam-nhông đồ sộ đang lắc lư một cách nguy hiểm. Hỡi ôi, Giắc càng giữ chặt, vô-lăng càng vuột khỏi tay hắn. Hắn bèn đạp mạnh bàn chân trái. Mục đích của hắn là dùng ăm-ba-da, hộp số và thắng cùng một lúc để hãm chiếc xe ló mòi bất kham. Người lạ không cho ngừng xe. Điều này có nghĩa là Giắc không còn tuân lệnh mù quáng như trước nữa. Nhưng hắn chỉ nghĩ được trong óc, không thể chuyển thành hành động. Dường như thần kinh hệ có gì trục trặc. Hắn không còn ban lệnh được cho tứ chi. Hắn bắt đầu hiểu rằng tứ chi hắn do một người không phải hắn điều khiển. Người lạ tên là gì? Người lạ kia là ai? Tại sao lại ngồi chung xe đến Santiagô? Tại sao lại biến dạng ở Giắc quyết ngừng xe, quay đầu về Ha-van. Chiếc cam-nhông của hắn thuộc loại Ford, tuy máy đã cũ nó còn vọt nhanh và êm. Hộp số chưa phát ra tiếng kèn kẹt, thế tất nó còn tốt. Giắc khỏi sợ bị hỏng dọc đường. Đến Ha-van mình sẽ vứt cam-nhông tại một góc đường âm u nào đó, tìm cách móc nối với C.I.A. địa phương hầu khám phá ra người lạ là ai. Song... xe vẫn phóng nhanh, bàn chân hắn không đủ sức điều khiển am-ba-da, bàn tay hắn không đủ sức điều khiển hộp số. Nhiều lùm sáng khác nhau múa nhảy hỗn loạn trước mắt Giắc. Hắn chóng mặt. Lờm lợm ở cổ. Hắn nghe tiếng người nói. Tiếng của người lạ. Lạ mà quen. Rất quen. Người lạ đã ở xa hắn mà giọng nói dõng dạc vẫn nổ bên tai: Giắc... anh là tay sai của tôi, tay sai vô điều kiện của tôi, anh ngước đầu lên, nhìn thẳng mắt tôi, cứ nhìn như thế không được chớp. Tôi có biệt tài sai khiến bằng luồng mắt. Tôi bảo gì anh phải làm nấy. Không được nêu hỏi lý do. Không được phản đối. Khi tôi không còn ngồi bên anh nữa thì luồng mắt tôi sẽ ngự trị trong đầu anh... Giắc... Giắc... anh là gì của tôi? Thưa, tôi là tay sai vô điều kiện của ông.. Bảo chết, anh chịu chết không? Sẵn sàng. Trời sắp sửa bình minh. Đây là con đường dẫn đến thị trấn nhỏ bé Cai-ma-nêra trên bờ biển, gần căn cứ Mỹ. Con đường rộng hẳn ra, và được chia làm ba lối đi riêng biệt. Muốn tới Cai-ma-nêra, phải qua Guantanamô. Cách thị trấn 6 cây số, Giắc nhìn thấy nhà cửa của căn cứ. Dọc con đường này, cứ nửa cây số có một trạm gác. Những đồn canh giàn thành hàng chữ nhất, ngăn chặn căn cứ Mỹ tiếp xúc với đất liền. Sau lưng căn cứ là biển. Phía trước căn cứ là những đồn canh và một giẻo đất bao la, trống trải. Gần đến căn cứ là bờ rào kẽm gai do quân đội Cuba thiết lập. Bờ rào kẽm gai bất khả xâm phạm... Không cần tuần tiễu dọc bờ rào, nhân viên G-2 túc trực ngày đêm trong trạm gác có thể kiểm soát từng phân vuông đất. Hệ thống súng máy của họ giết chết một con chuột như chơi, chứ đừng nói là con người to lớn, năm, sáu chục ki-lô nữa. Động dụng họ chỉ bấm nút điện. Tacata... tacata.... Vượt bờ rào kẽm gai nằm trong tầm đại liên G-2 là chưyện 10 phần chết 9. Giắc chẳng dại gì hy sinh tính mạng vô ích. Hắn bèm mím môi, xử dụng chân phải. Đạp thắng. May quá, giây đồng hồ trọng đại này, óc Giắc lại phục hồi được quyền lực. Xe chạy quá nhanh, kết quả của việc đạp thắng là sườn xe bị nghiêng một bên, tiếng kèn kẹt của vỏ lốp vang động khắp vùng.... Chết rồi, nó không chịu đứng lại. ống dẫn dầu bị bể. Giữa lúc cần tới nhất. Những tia sáng rạng đông mới lấp ló trên mặt biển, chưa lan vào nội địa, tuy nhiên Giắc đã có thể quan sát được vị trí bờ rào kẽm gai của căn cứ Mỹ. Đang bon bon trên nền đường, Giắc bẻ vô-lăng, chiếc cam-nhông rùng mình dữ dội rồi băng xuống ruộng. Từ đây tới bờ rào khoảng một ngàn năm trăm mét. Nếu không gặp trở ngại bất ngờ, Giắc chỉ mất vỏn vẹn một phút. Người lạ đã tính toán kỹ càng. Bánh xe nhảy lập bập trên những ổ gà lớn như huyệt chôn người, tốc độ bị níu chậm lại. Giắc buột miệng: Lạ lùng ghê! Lạ lùng ghê, Giắc đâu muốn thách thức lực lượng an ninh, đâm xe hơi vào căn cứ Guantanamô. Giắc chỉ muốn hãm xe. Giắc chỉ muốn cưỡng lại mệnh lệnh của người lạ. Song mệnh lệnh của chủ nhân vô hình này quá mạnh. Dầu muốn hay không Giắc cũng rơi vào tử địa. Bản năng tự tồn xui khiến Giắc tống thêm ga xăng, gia thêm tốc độ. Vì đầu óc hắn bỗng nhức nhối vô kể. Buồng phổi hắn xoắn cuộn lại, nhịp tim đập ình ình hơn cả nhọp tim phi hành gia đặt chân xuống mặt trăng lần đầu. Trời đang hừng sáng trước mặt hắn, chung quanh hắn trở nên tím ngắt. Màn đêm sập xuống... Nhiều loạt súng đại liên nổ ròn. Nổ liên hồi như thể quân đội hai phe đang giao chiến. Ngay trong giây đồng hồ khai hỏa đầu tiện, các đồn bót G-2 đã bắn trúng mục phiêu. Theo lời người lạ, xạ thủ G-2 không thể bắn trật, vả lại, họ bắn bằng ống nhắm rô-bô điện tử, vấn đề bắn trật không được đặt ra. Nhưng Giắc đừng lo. Những vỏ lốp được chế tạo bằng cao-su riêng, bị bắn lũng đến đâu chất keo nhựa bên trong sẽ tự động vá kín đến đấy. Thùng xăng được bảo vệ kiên cố bằng thép dầy và ni-lông mềm cản đạn. Bắn vào sườn, vô ích. Kiếng xe cũng thuộc loại cản đạn. Người lạ nghiêm giọng với Glắc: Nhiệm vụ tôi giao cho anh, anh phải làm tròn. Tôi đã bố trí an toàn, anh húc xe qua bờ rào kẽm gai mà da dẻ không bị trầy sớt. Anh tin ở tôi. Đúng, người lạ đã bố trí an toàn. Những viên đạn bắn như tưới vào hông xe cam-nhông song không phá vỡ được động cơ. Bánh xe vẫn quay tròn phây phây. Bờ rào kẽm gai sừng sững trong ánh ban mai mầu sữa loãng. Tacata... chiu chiu... những họng súng lớn nhỏ đủ cỡ vẫn khạc đạn xối xả và chiếc cam-nhông của Giắc vẫn chạy nghênh ngang trên nền ruộng khô. Đến khi hắn nhìn thấy tai nạn thì đã quá muộn. Tai nạn là một cái hào rộng, cách bờ rào gần trăm mét. Hào rộng và sâu, chiến xe còn mắc kẹt, huống hồ xe cam- nhông cồng kềnh và yếu đuối. Dưới hào không có nước mà là những giẫy chông nhọn hoắt bằng thép cứng. Giàn đầu xe hơi đâm xuống hào, chiếc xe bị lật ngửa. Và mui xe, thân xe bị găm vào bàn chông. Hai chiếc díp của G-2 từ hai đồn canh kế cận rầm rộ lái tới, đầy nhóc binh sĩ võ trang tiểu liên Tiệp Khắc. Phía sau bờ rào cao và dầy đồng đều một mét, một toán lính hải quân Mỹ cũng vừa từ xe hơi thót xuống. Giắc chưa vượt qua ranh giới, họ không thể can thiệp. Trước Giắc, nhiều người đã làm liều như vậy, hầu hết đều bị thất bại, kẻ ngồi tù rục xương, người chết thảm thê. Dầu họ can thiệp, họ cũng không giúp Giắc được bao nhiêu. Vì những mũi chông tàn bạo đã xuyên qua vai Giắc. Điệp viên Giắc của C.I.A. chết không kịp trối ngay trên ngưỡng cửa căn cứ Guantanamô. Và sấm chớp điệp báo nổ rền trên đảo Cuba. Chú thích Nhà văn này là José Marti. Tên ông được dùng để đặt cho phi trường thủ đô Cuba. Tức La Ha-vane, Ha-vana, Habana. Tác giả phiên âm Ha-van cho tiện. Pêsô là đơn vị tiền tệ của Cuba. Tục lệ cúng bằng tiền này gần giống ở Việt Nam, chỉ khác là ta dùng tiền mmã còn họ dùng tiền thật. Hối xuất chợ đen năm 1970. Jack, Jacques. Trong những năm đầu của chế độ Castro, người cầm đầu G-2. Phòng Nhì quân lực Cuba là thiếu tá RamiroValdés, khi ấy độ 25, 26 tuồi. Dầu là ai đi nữa thì KGB Sô Viết vẫn là cơ quan có quyền hành nhất. Nhân vật đại diện KGB là Fabio Grọbart. Mọi việc lớn nhỏ, Castro đều hỏi Grobart. Không rõ người thay Grobart hiện thời là ai. Camaguey. Đến Cuba, thấy cô gái nào đẹp là biết ngay nàng sinh trưởng ở Camaguey. Điệu paso doble (2 bước của Tây-ban-nha). Điệu paso bắt nguồn từ kiểu đi đứng và vũ của giới nô lệ da màu bị xiềng chân, như điệu me-ren-gờ hoặc con-ga (Nam-Mỹ) Vụ chọn tự do tập thể táo bạo này xảy ra mùa hè năm 1968, với 113g tiện quá đầy đủ. Người lạ chiếu đèn cho Văn Bình thấy cầu thang đá lên mặt đất. Khí hậu bên trên khác hẳn. Không lạnh buốt xương như dưới hầm. Mà là mát rợi. Trong hơi mát thoang thoảng hơi gió, khiến chàng sảng khoái như đang dạo trên bờ biển buổi sáng đẹp trời. Cách trang trí cũng khác hẳn. Có xa-lông, bàn giấy, ghế ngồi hẳn hoi. Một người đàn ông trung niên cao lớn chờ sẵn. Hắn đứng giữa phòng, bề cao hơn chàng một cái đầu. Đặc điểm của hắn là hàm răng vàng. Hàm trên hàm dưới đều vàng chóe. Chàng thầm nghĩ không lẽ răng hắn bị sâu đục phải trám bít và bọc vàng.... Tất có lý do thầm kín nào đây.... Quan sát mặt hắn, chàng thấy mũi hắn hơi lõ, nhưng hắn không phải là người tây-phương. Những nét Á-đông phảng phất trên gương mặt dài và nước da vàng ệch. Bộ phận trên thân thể hắn làm chàng chú ý nhiều nhất là cặp mắt. Cặp mắt lớn có đuôi cong và nhọn. Lông mày rậm rì bò sát xuống mí trên tạo cho cặp mắt một vẻ dữ tợn khác thường. Tròng mắt mới thật là kinh hoàng. Nó xanh lè như tròng chim ưng. Trong thế giới súc vật, chim ưng có luồng mắt sáng nhất, và đáng gờm nhất. Nó luôn luôn nhìn thấy kẻ thù trước khi kẻ thù nhìn thấy nó, bất luận ngày đêm. Ban ngày, gặp trời tốt, nó có thể phăng ra con chim bồ câu bay xa nó một kilômét. Ban đêm, mắt chim ưng sáng hơn mắt người 50 lần. Hắn đăm đăm nhìn chàng. Luồng nhỡn quang của hắn như chứa mũi dao nhọn đâm suốt tạng phủ chàng. Chàng giả vờ loay hoay tìm ghế. Hắn cười nhe hàm răng vàng: I Giọng nói nhịp nhàng, lên bỗng xuống trầm của hắn bắt Văn Bình ngước đầu, quan sát lại hàm răng vàng. Và chàng vụt hiểu. Nhiều nganga (8) ở Phi-châu huyền bí cũng có hàm răng bịt vàng loạn xạ như hắn. Giới phù thủy ở đó tin rằng hàm răng càng bịt vàng nhiều họ càng dễ bắt liên lạc với thần thánh và ma quỷ của vũ trụ siêu hình. Đó không hẳn là dị đoan nhảm nhí, hàng trăm người có răng bịt vàng ở các nước khoa học Tây-phương đã thuật lại với y sĩ là nhiều đêm họ nghe có tiếng người thầm thì và những âm thanh này phát xuất từ cái răng bịt vàng. Dường như răng bịt vàng là một loại máy ra-dô... (9) Hắn đẩy về phía Văn Bình cái ly cối đựng đầy một thứ nước vàng sủi tăm: Rhum pha nước trái cây, ngon tuyệt. Anh còn mệt không? Văn Bình đáp: Còn. Mệt nhiều. Không sao. uống một hớp là khỏe lại. Văn Bình ngồi yên, không uống. Hắn chỉ ly rượu: Sợ hả? Sợ thì thôi. Không ép. Anh sợ bị đầu độc hả? Ồ, giết anh thì thiếu gì cách? Một phát đạn xuyên tim, hoặc một viên độc dược, hoặc tiết kiệm hơn, một đòn atêmi vào hiểm huyệt, cần gì bày vẽ, lừa lọc lôi thôi, lỉnh kỉnh. Ly rượu này là thuốc làm quên. Làm quên, nghĩa là uống vào sẽ quên hết? Phải. Thuốc này làm quên dĩ vãng, quên những việc đã làm và sửa soạn làm. Anh là nhân viên C.I.A., trên nguyên tắc, chúng tôi không dung tha, nhân viên C.I.A. sa vào tay chúng tôi là mất mạng. Trừ phi sẵn sàng phục vụ cho chúng tôi. Anh muốn sống hay chết? Làm người ai lại muốn chết? Vậy anh phải uống thuốc làm quên. Sau khi tẩy rửa hết quá khứ, anh sẽ trở thành con người mới, anh sẽ trung thành tuyệt đối với chúng tôi. Tên thật của anh là gì? Thôi, gọi tạm anh là Santa cũng được. Santa, anh hãy ngồi ngay ngắn nhìn thẳng mắt tôi không chớp. Văn Bình có cặp mắt thôi miên, chàng lại có cơ hội hấp thụ bí kíp gia tăng nhỡn điện nên trong cuộc tranh tài bằng mắt chàng ít chịu thua ai. Khi cần chàng có thể nhìn hoài, nhìn mãi một mục phiêu cố định không chớp và không chảy nước mắt sống. Thế mà từ giây đồng hồ đầu tiên nhỡn tuyến xanh lè của gã trung niên đã làm Văn Bình nỗi da gà.... Hắn quả là đối thủ cực kỳ lợi hại về hắc-thuật. Không phải thứ hắc-thuật hạ cấp, sặc mùi lừa lọc của các fa-kia lưu động kiếm ăn từ 700 năm nay trên đất Ấn, tụ tập tại Bê-na-rét, Ala-ha-bát hoặc Cal-cu-ta (10) với những trò nuốt gươm, ăn thủy tinh vỡ, đinh rỉ sét và lưỡi câu sắc nhọn hoặc nuốt nhện độc và cóc nhái còn sống nhăn, hoặc nhảy múa tưng bừng trên đống than cháy đỏ... Bọn hắc-thuật bịp bợm không thể qua mặt chàng, hơn một lần chàng đã lật tẩy dễ dàng những tên thầy pháp giả hiệu nằm trên bàn chông (11), sở dĩ họ bước trên lửa không phỏng da là vì chân họ được ngâm trong một chất thuốc ngăn nhiệt, hoặc được bôi trét mỡ, vét-ni và phấn chì (12), một đứa trẻ ngây thơ cũng nhả được miễng chai mà không bằng mắt. Văn Bình nói: Mời ông đại sứ tự tiện. Chắc là điện thoại của người gác. Văn Bình nói đúng. Người gác cổng kêu vào, trình báo sự hiện diện của một lực lượng an ninh, đặt nút chặn ở hai đầu đường, cô lập cả khu vực và canh phòng cẩn mật bên ngoài biệt thự. Ông quyền đại sứ tiếp tục hút thuốc như ống khói xe hỏa. Văn Bình an ủi: Giám đốc Nương Nương chỉ sai họ đến đây vây kín chớ không đột nhập. Chờ kết quả của cuộc thương thảo với C.I.A. từ Miami, và chờ bọn thuộc viên lục lọi nhà hầm Tình Báo sở trở về. Bảo đảm với ông đại sứ là sự việc sẽ kết thúc êm thấm.... Bà đại sứ bấm chuông kêu chị bếp. Không thấy ai, bà đích thân xuống bếp. Bà nói không ra tiếng khi thấy chị bếp và bác tài gục đầu bất động. Văn Bình giải thích: Họ vẫn sống nhăn. Tôi chỉ mạn phép bà ru họ ngủ một lát. Bà cần chị bếp dọn dẹp ư? Vâng, tôi xin chiều bà. Chàng thọc ngón tay vào huyệt tỉnh dưới cằm. Chị bếp mở chàng mắt, vươn vai ngồi dậy. Ông quyền đại sứ lấy tay xoa cằm: Té ra là ông đại tá điểm huyệt. Tài điểm huyệt của ông đã tới trình độ cao siêu, tôi chưa thấy võ sĩ nào chỉ dùng một ngón tay mà khiến được đối phương mê và tỉnh trong chớp mắt như ông đại tá. Văn Bình nhìn thẳng mặt ông quyền đại sứ: Ông đại sứ đã rõ tại sao tôi không áp đặt một điều kiện nào cả. Ông quyền đại sứ lắc đầu lia lịa: Ông sẽ điểm huyệt, biến vợ chồng tôi thành tượng đá phải không? Không, tôi sẽ không làm điều gì ông đại tá phật ý. Tôi tin chắc giám đốc G-2 sẽ thông cảm.... Văn Bình cười thân thiện. Chàng chọn tư thất ông đại sứ Mễ không phải là tình cờ. Kế hoạch thoát khỏi Cuba của chàng đã được sắp xếp tỉ mỉ và chu đáo. Chàng hút đến điếu xì-gà thứ 5 thì có điện thoại của giám đốc G-2. Hắn lần lượt trò chuyện với vợ chồng ông quyền đại sứ và không nhắc nhở đến chàng. Chàng phớt lờ ngồi nhắp nước trà đặc. Chàng nghe ông đại sứ thét to nhiều lần "không, không thể được, không bao giờ" hoặc "khó lắm, khó lắm, đồng chí đừng hòng, đồng chí muốn giết gia đình tôi hả". Sau gần 15 phút đồng hồ phản đối, ông đại sứ mới bắt đầu lấy lại nụ cười. Trước khi cắt, ông trao ống nói cho Văn Bình. Giọng của Nương Nương dịu dàng như của đàn bà: Anh làm phiền ông đại sứ Mễ một cách quá vô ích. Chúng ta đã ký với nhau, anh tìm ra đầu mối của vụ Giắc Tati là góp phần siết chặt mối giao hảo giữa chúng ta. Cám ơn anh giám đốc. ông Sì-mít ký, không phải ông Hoàng, vả lại, ký để mời một phái đoàn C.I.A. đến để điều tra tại chỗ, không phải để nhập cảnh lậu. Anh hỏi lại đồng chí Vakin xem, chỉ một Phiu-đin (4) mà Liên Sô đã huy động hàng trăm ngàn nhân viên Phản Gián lùng kiếm làm thịt huống hồ là z.28.... Thôi, anh giám đốc, đòn phép với nhau làm gì nữa.... chừng nào tôi được ra sân bay? Đại tá Pít sắp đến. Bây giờ tôi vào thăm anh được không? Anh đang ở ngoài cửa? Phải. Mời anh. Lúc nào tôi cũng hiếu khách. Anh vào một mình hay mang toàn thể nhân viên vào đây cũng được. Tôi chỉ lưu ý anh một điều: ông quyền đại sứ không muốn sự yên lặng bị phá rối. Con trai của ông bà đang ngủ. Anh bịa. Ông đại sứ đang đứng gần tôi, tôi trao điện thoại cho ông ta nhé! Hừ... anh là tên gián điệp địch nguy hiểm nhất, anh là kẻ thù bất cộng đái thiên của tôi. Nếu bạn tôi không mắc kẹt, tôi đã băm nhỏ anh ra, trộn với thuốc súng.... Anh quên rồi. Cách đây 3 phút, anh vừa long trọng cam kết là có hảo ý với tôi. Ống nghe phát ra những tiếng u u. Giám đốc Nương Nương đã cúp. Chắc Nương Nương tức uất có thể thổ huyết như đại đô đốc Châu Du thời Tam Quốc. Văn Bình cười mỉm một minh. Nhưng tức uất là một chuyện, còn dám làm ẩu hay không lại là chuyện khác. Hắn sẽ phải nghiến răng, nhìn Văn Bình ra đi vì nhiều lý do: chàng đã giúp hắn phanh phui sự thật trong vụ Giắc Tati, cuộc làm lành giữa G-2 và C.I.A. đang tới giai đoạn sáng sủa. Và nhất là sự an toàn của ông bà đại sứ.... Miami ở sát vách Cuba, phi cơ của đại tá Pít được hâm nóng máy sẵn sàng nên Văn Bình khỏi phải chờ lâu. Trong khoảnh khắc ngoài đường có tiếng kèn xe hơi pin-pin theo một mật hiệu định trước. Cùng đi với Pít là hai đại diện sứ quán Thụy Sĩ và Tiệp Khắc. Họ đã quen mặt Văn Bình. Họ đã từng đón chàng khi chàng đáp xuống Cuba. Họ từng tiễn chàng khi chàng rời Cuba. Lần này chàng ra đi thật sự, họ có mặt để hộ tống chàng lên phi cơ. Phía sau lố nhố một đám người mặc thường phục. Ngoại trừ đại tá Pít vui hơn nhà nghèo trúng số độc đắc, toàn thể đều lầm lì. Không thấy giám đốc Nương Nương, Văn Bình huých ngực Pít: Hắn bị trúng gió? Pít giựt mình: Hắn là ai? À, hiểu rồi, Nương Nương. Anh gớm thật, tại sao anh biết hắn đau? Người ta vừa chở hắn vào bệnh viện. Xây xẩm mặt mày, suýt bị té xỉu. Y sĩ bảo hắn làm việc, suy tư quá độ. Theo tôi, có lẽ anh vừa xài xể hắn. Tôi chỉ móc lò sơ sơ thôi. Nếu không có Vakin, chắc còn lâu hắn mới cho tôi lên đường. Đúng. Hắn tối tăm mắt mũi phần lớn vì Vakin. Vakin chửi hắn như tát nước. Hắn vốn là đàn em trung thành của Vakin. Không hiểu tại sao Vakin lại chường mặt ra ở sân bay và theo tôi đến đây nói là để gặp anh. Trùm K.G.B. của vùng caríb muốn gặp z.28? Thế mới lạ. Hắn đang nhìn anh đó. Đây này, tôi giới thiệu hắn với anh. Trùm mật vụ Sô Viết Vakin phục sức khiêm tốn. Hắn đứng khuất sau thân cây phượng vĩ. Vakin chìa tay ra trước. Siết tay chàng, hắn nói bằng giọng tiếc nuối: Uổng ghê... giá anh hoạt động cùng phe với tôi... Văn Bình đáp: Trong đời tôi, tôi chị phục vụ mỗi một phe. Phe ấy là ông Hoàng.... Anh vừa làm cho C.I.A., cho ông Sì-mít. Ông Sì-mít thuê tôi. Tổ chức của ông Hoàng cần tiền, ai trả lương cao thì tôi làm. Miễn hồ quyền lợi của sở Mật Vụ do ông Hoàng điều khiển không bị va chạm. Chào anh và cám ơn anh. Văn Bình cung kính hôn tay bà đại sứ kiều diễm. Chàng thấy người đẹp Mễ có vẻ quyến luyến. Chàng đành ngoảnh mặt làm ngơ. Chàng đã gây ra một vụ rắc rối ngoại giao, chàng không được phép gây ra thêm một vụ rắc rối khác nữa. Chàng nâng tay áo quẹt mắt. cử chỉ lén lút của chàng bị đại tá Pít bắt chợt. Pít bàng hoàng nhìn bạn. Điệp viên z.28 có trái tim bê-tông cũng biết xúc động nữa ư. Hừ.... mình không tin, không khéo mình quáng gà, mình mơ ngủ cũng nên. Văn Bình chữa thẹn: Thức đêm mắt bị nhặm quá, anh ơi! Đại tá Pít nói: Lạ thật, đêm qua dài ôi là dài, tôi chờ mãi trời không chịu sáng. Văn Bình lẩm bẩm như nói riêng với những nhánh hoa bất tử bị dập vùi: Đêm Cuba còn dài hơn... Cuba... đêm dài không sáng. NGƯỜI THỨ TÁM Chú thích: Y sĩ hữu danh này là André Soubiran. Làm người Việt Nam sướng không, thưa các bạn? Chắc các bà, các cô sẽ hãnh diện lắm. Người Mỹ chạy theo nước trà sau khi nhà tình dục lỗi lạc Howard Seemans xác nhận "phụ nữ uống nước trà thường xuất sắc về kỹ thật làm tình". Tại California (Mỹ) một chiến dịch thăm dò ý kiến của Peter và Frampton cho thấy trong số những bà vợ có đời sống tình dục nghèo nàn và trục trặc với chồng, có trên 58 phần trăm là ghiền cà- phê, và chỉ có 3 phần trăm là ghiền trà, do đó, họ suy luận rằng nước trà tốt hơn cà-phê về phương diện sex. Một nhà tâm lý học Mỹ cho rằng phụ nữ dễ bị lôi cuốn bởi đàn ông hút xì-gà, ống tẩu, hoặc không hút thuốc hơn bởi đàn ông hút thuốc điếu. Phiu-đin tức Philip Fielding. Tháng 3-1960, điệp viên Mỹ Fielding đến Liên Sô với tư cách du khách. 190 ngày sau một điệp viên khác dùng thông hành của Fielding rời Nga Sô. Fielding ở lại, tổ chức một màng lưới dọ thám thần kinh quỷ khốc. Giới điệp báo quốc tế thường dùng chữ Fielding để nói tới những vụ tráo người tương tự.