Khất đại phu, Trưng Nhị về tới Dương-bình quan vào buổi trưa. Quần hùng Lĩnh Nam tụ họp đầy đủ. Người người đều có vẻ mệt mỏi. Có lẽ họ vừa trải qua một cuộc hành trình khẩn cấp dưới tuyết về đây hội họp. Hoàng Thiều-Hoa mặt tái nhợt ngồi bên cạnh Đào Kỳ, Phương-Dung. Ngoài ra còn thấy có đám anh hùng Thiên-sơn như Công-tôn Khôi, Công-tôn Thiệu, Điền Sầm, Triệu Khuôn, Tạ Phong v.v... Tất cả đang ngồi uống trà. Thấy Khất đại-phu, Trưng Nhị người đầy tuyết bước vào. Họ đứng dậy hỏi tin tức Nghiêm Sơn. Hoàng Thiều-Hoa run run hỏi: – Sư muội Nghiêm đại ca và Phật-Nguyệt đâu? Trưng Nhị ngồi xuống uống một ly trà cho ấm rồi đáp gọn lỏn: – Nghiêm đại-ca bị giam ở Trường-an. Còn Phật-Nguyệt có việc phải làm chưa về đây được. Rồi Trưng Nhị tường thuật chi tiết chuyến đi Trường-an cho quần hùng nghe. Hoàng Thiều-Hoa ngắt lời: – Theo sư muội nghĩ, liệu Quang-Vũ có giết Nghiêm đại-ca không? Trưng Nhị lắc đầu: – Quang-Vũ là người khôn khéo, không cố chấp. Nếu chúng ta khởi binh phản Hán. Chắc chắn y phải giữ Nghiêm đại-ca để điều đình. Chuyện Quang-Vũ bắt Ngiêm đại-ca chưa lộ ra ngoài. Sư muội Phật-Nguyệt với Thứ-sử Nam-trịnh Đô Thiên đang phục kích bắt sứ giả của Quang-Vũ, hầu đề phòng y truyền chiếu chỉ đến Ngô Hán, Đặng Vũ, Mã Viện. Dù các sứ giả có thoát được lưới của Thứ-sử Nam-trịnh với Phật-Nguyệt, chúng ta cũng còn chán thì giờ để hành động Ngưng một lát Trưng Nhị tiếp: – Đối với các đạo Lĩnh-nam, Hán-trung, Kinh-châu, các Thái-thú của Lĩnh Nam, Ích-châu, Đông-xuyên, Tây-xuyên, Trường-an, Tây-lương thì Nghiêm đại-ca vẫn còn là Lĩnh-nam vương thống lĩnh binh mã. Vì vậy chúng ta dùng binh phù của Nghiêm đại-ca, đem quân phản Hán. Phương-Dung quyết định: – Phải cẩn thận, Nghiêm đại-ca tuy là Lĩnh-nam vương song các vùng Kinh-châu, Hán-trung, Tây-lương, Trường-an vẫn do Mã Viện, Ngô Hán, Đặng Vũ thống lĩnh trực tiếp. Chỉ có đất Lĩnh Nam là ta nắm được mà thôi. Vậy đối với Lĩnh Nam chúng ta sai Thần-ưng đem thư cho Long-biên hầu Lưu Nhất-Phương cùng các thái-thú, đô-úy, đô-sát giữ vững địa phương. Chuẩn bị quân mã chống cự nếu Quang-Vũ cử binh đến, còn những vùng đất Đông-xuyên, Tây-xuyên, Ích-châu, Kinh-châu chúng ta giả lệnh Ngiêm đại ca nắm lấy binh quyền loại Ngô Hán, Đặng Vũ, Mã Viện. Những thành trì đó giao cho Thục. Nam-hải nữ hiệp hỏi Công-tôn Tư: – Công-tôn thái tử, bây giờ chúng ta làm việc chung, không biết người của thái-tử có nghe theo chúng tôi không? Công-tôn Tư khẳng khái: – Các vị anh hùng Lĩnh Nam phản Hán, chiếm đất để làm gì, nếu không phải trao cho chúng tôi? Vì vậy tôi quyết trên từ phụ-hoàng xuống đến các tướng đều sẵn sàng tuân lệnh sư bá. Khất đại phu nói: – Trước kia mọi quyết định do Nghiêm Sơn. Bây giờ Nghiêm Sơn bị bắt rồi, ta phải có người cầm đầu, vậy là ai đây? Phương-Dung nói: – Từ cổ đến giờ phàm người cầm đầu cần có đức. Bàn về đức ngoài Thái sư-thúc ta phải kể đến Nam-hải sư-bá. Nhưng Thái sư-thúc là một tiên ông trong cõi trần, người không chịu dính bụi thế gian. Chúng ta đề nghị Nam-hải sư-bá làm thủ lĩnh. Mọi người đều đồng ý. Nam-hải nữ hiệp khảng khái nhận lời. Bà bảo Vĩnh-Hoa: – Con vốn thân với Thục lại nhiều mưu lắm mẹo. Con hãy định kế hoạch, còn hành quân phải để Phương-Dung. Vĩnh-Hoa vâng dạ, thưa: – Bây giờ chúng ta chia làm ba đạo đánh cho giang sơn nhà Hán nghiêng ngửa một phen. Thứ nhất đạo Hán-trung sẽ xuất ra Dương-bình quan qua ngả Hán-trung, chiếm Trường-an. Đạo này chắc chắn gặp đại quân của Quang-Vũ. Xin sư bá chỉ định người thủ lĩnh của đạo này. Nam-hải nữ hiệp nói: – Đạo này do Hoàng Thiều-Hoa thống lĩnh. Còn những người phò trợ thì do cháu đề cử. Vì cháu hiểu nhiều hơn ta. Vĩnh-Hoa tiếp: – Đạo Kinh-châu đánh chiếm vùng Giang-nam, Kinh-châu. Xin sư bá chỉ định người cho. Nam-hải nữ hiệp chỉ Vương Nguyên: – Xin Vương tiên sinh đảm trách cho. Vĩnh-Hoa hỏi: – Còn đạo Lĩnh-nam trước đây là Đào tam lang. Không biết sư bá có thay đổi gì không? Nam hải nữ hiệp nói: – Đúng ra cháu Đào Kỳ đủ tài thao lược, làm đại tướng được, cũng tự làm quân sư được. Võ công cháu cao làm chiến tướng cũng được. Nghiêm Sơn thực là người có tài xét đoán. Trong ba đạo quân đạo nào cũng phải có đại tướng, quân sư, chiến tướng, riêng đạo Lĩnh-nam chỉ có một mình cháu. Thế nhưng sự thế bây giờ đổi khác. Cháu là sư đệ Thiều-Hoa. Thiều-Hoa là Lĩnh-nam vương-phi triều Hán. Cháu lại là Trấn-viễn tướng-quân, làm việc chung với tướng sĩ Hán đã lâu, mà bắt cháu trở mặt với họ thực là khó khăn. Vậy đạo Lĩnh-nam để Đinh-hầu thống lĩnh. Đinh-hầu thao lược, tài kiêm văn võ, điều khiển binh tướng đã quen. Xin Đinh-hầu nhận cho. Đinh Đại khẳng khái nhận lời. Vĩnh-Hoa hỏi Phương-Dung: – Sư muội, chị chỉ nhiều mưu mẹo, chứ về hành quân thì phi sư muội, không xong. Vậy sư muội điều động dùm chị. Phương-Dung đem tấm bản đồ treo trước mặt mọi người nói: – Hiện giờ Quang-Vũ chưa kịp chuyển lệnh cách chức Nghiêm đại ca. Như vậy đối với tướn'height:10px;'>
– Ngưu hổ tranh phong, Loa thành nguyệt ảnh. Trưng Nhị đang đấu với Trương Linh thấy Thái sư thúc hô như vậy, nàng dùng hết sức ra chiêu Ngưu hổ tranh phong trong Phục ngưu thần chưởng. Hai chưởng đánh mạnh về phía trước. Trương Linh chụm hai tay đỡ. Hai chưởng của nàng và y chạm nhau. Người nàng vọt lên cao. Từ trên cao nàng chuyển chưởng thành chiêu Loa thành nguyệt ảnh của Cửu-chân đánh xuống. Trương Linh tưởng nàng đưa ra chưởng dương cương như trước, vung chưởng đánh lên, thì chiêu Loa thành nguyệt ảnh chụp xuống người. Bốn chưởng chạm nhau. Chưởng pháp Cửu-chân khắc chế võ công Trung-nguyên. Chưởng của Trưng Nhị đánh xuống, khiến Trương Linh bị bật vèo về phía sau đến mấy trượng, chân tay bủn rủn lảo đảo chực ngã. Trưng Nhị là người thông minh mưu trí bậc nhất thời Lĩnh Nam. Nàng thấy Trương Linh bị tuyệt căn bản, bước xéo về phải đánh chiêu Thiết kình thăng thiên, tiếp theo chiêu Kình ngư quá hải, đều là hai chiêu thuộc võ công Cửu-chân mà Đào phu nhân dạy nàng. Trương Linh thấy hai chiêu chưởng bao hàm khắc tinh với mình, sát thủ ác liệt. Y vội hít hơi đẩy ra một chưởng đỡ. Chưởng của y chạm vào chưởng của Trưng Nhị, y cảm thấy như tay đẩy vào quãng không. Biết nguy hiểm, y nhảy vọt lên cao, thì chiêu Kình ngư quá hải đã bao trùm khắp người. Cả triều thần thấy vậy đều kêu thét lên kinh hoàng. Những cao thủ bậc nhất muốn ra tay cứu cũng không kịp. Thiết kình phi chưởng là chưởng pháp đánh ra kình lực như mũi dao đâm vào. Trương Linh nhắm mắt chờ chết, Trưng Nhị thấy giết y thì gây oán thù không nhỏ với triều Hán. Nàng nhảy lùi lại đến bốn bước để giảm bớt sức mãnh liệt của chưởng này. Trương Linh chỉ còn bị có hai phần công lực đánh vào đầu gối. Y rơi xuống đất đầu gối nhũn ra, người chúi về phía trước, giống như quỳ lạy Trưng Nhị. Trưng Nhị nhanh trí, thu chưởng, rồi nhảy lại đỡ y dậy. Nàng cười tủm tỉm: – Trương hiệu-úy! Đa tạ ngài đã nhẹ tay. Trên từ Quang-Vũ xuống đến các quan đều nghĩ rằng lời nói của Khất đại-phu chắc bao hàm một bí ẩn gì giúp Trưng Nhị thắng Trương Linh. Nhưng họ không có chứng cớ đành im. Trưng Nhị hướng Quang-Vũ bái rồi nhảy ra khỏi vòng đấu. Nghiêm Sơn tâu với Quang-Vũ: – Tâu bệ-hạ Trưng cô nương là quân-sư đạo Kinh-châu, chứ không phải là võ tướng. Sở dĩ Trưng cô nương biểu diễn được mấy chiêu vì cô nương học phòng thân mà thôi. Cuộc đấu vừa qua Trưng cô nương được Trương hiệu-úy nhường cho mấy chiêu. Quang-Vũ kết huynh đệ với Nghiêm Sơn. Đã từng ăn cùng mâm ngủ cùng giường, y còn lạ gì tính tình của Vương nữa. Vương nói câu đó là khiêm nhường, vuốt mặt cho Trương Linh, nhưng đầy kiêu khí. Bảo rằng Trưng Nhị học mấy chiêu phòng thân, mà đã như thế. Nếu nàng học thực, võ công sẽ đi đến đâu? Vương lại vuốt mặt cho Trương Linh bằng câu nhường cho mấy chiêu. Một lão già từ võ ban ra phục xuống đất tâu: – Tâu bệ-hạ, võ công Trưng cô nương cao cường, tinh diệu thì đúng rồi. Thần nghe Vũ Chu kiếm pháp thần thông mà cô nương Phật-Nguyệt thắng được y, thần không tin. Xin bệ-hạ cho phép thần được qua lại mấy chiêu với Phật-Nguyệt. Nghiêm Sơn nhìn ra thì là Thái-sơn thần kiếm Lưu Quang. Lưu Quang nguyên thuộc tôn thất nhà vua. Cha ông nguyên là Sở-vương, ham võ nghệ, đi khắp thiên hạ chiêu mộ những tay kiếm khách về, để học lấy những chiêu thức đặc biệt. Rồi từ đó sắp xếp thành hệ thống, tạo ra phái Thái-sơn. Cha của ông về ẩn ở Thái-sơn, lập môn hộ luyện tập võ nghệ. Đến đời Lưu Quang, Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán. Lưu Quang xách kiếm phò Quang-Vũ đánh Vương Mãng, Ngỗi Hiêu rồi Xích Mi. Xích Mi nguyên là một kiếm khách khét tiếng Trung-nguyên, được tôn hiệu là Bất bại thần kiếm. Bởi vậy lúc đầu y dấy nghĩa ở vùng Lũng-thượng, tranh dành ngôi vua với Vương Mãng. Sau khi Vương Mãng bại, y tự tôn mình làm vua chống nhà Hán. Quang-Vũ sai Lưu Quang mang quân chinh tiễu. Xích Mi cùng Lưu Quang đấu ba ngày, ba đêm không phân thắng bại. Lưu Quang về suy nghĩ nửa tháng, tìm ra cách phá phi kiếm của Xích-Mi, rồi đánh bại y. Kiếm pháp của Lưu Quang được coi là vô địch Trung-nguyên. Bất cứ đấu với ai, y chỉ đánh một hai chiêu là đối thủ mất mạng. Y hiện được phong tước Hoài-nam vương, trấn thủ vùng Lạc-dương, tức kinh-đô nhà vua. Trước đây Nghiêm Sơn đã đấu với y. Chỉ 10 hiệp đã bị đánh bay mất kiếm. Nghiêm đành chịu thua. Bây giờ nghe Lưu Quang nói muốn đấu với Phật-Nguyệt, Vương nghĩ: – Hiện kiếm pháp cao nhất Lĩnh-nam là Nguyễn Phan tiên sinh, thì ông bị tật. Thứ đến Đào Kỳ, Phương-Dung, Phật-Nguyệt, khó biết ai cao, ai thấp. Không hiểu Phật-Nguyệt có đủ công lực đấu với Lưu Quang hay không? Vương nói với Phật-Nguyệt: – Sư muội! Người là thừa kế của Vạn-tín hầu. Vậy người hãy dùng Long-biên kiếm pháp đấu với Hoài-nam vương mấy chiêu. Hy vọng vương-gia dạy cho muội những chiêu kiếm tinh kỳ. Phật-Nguyệt đi theo đạo Kinh-châu, được nghe nói nhiều đến Lưu Quang. Đặng Vũ nói đến Lưu Quang không ngớt lời ca tụng. Nay thấy y thách nàng đấu thì không khỏi lo ngại. Tuy nhiên nàng tự nghĩ rằng. Long-biên kiếm pháp là kiếm pháp của sư tổ Vạn-tín hầu Lý Thân. Mà Lý Thân chế ra để khắc chế với kiếm pháp Trung-nguyên, nàng tự tin phần nào. Phật-Nguyệt bước ra sân với hai tay không, nàng tâu: – Khi tiểu nữ tới đây bệ kiến thánh-hoàng, không dám mang kiếm theo. Quang-Vũ truyền đưa 18 loại kiếm để nàng lựa. Phật-Nguyệt lựa một thanh nhỏ và dài nhất giống như kiếm Việt. Nàng cầm kiếm hướng vào Quang-Vũ bái một bái, rồi lại hướng Lưu Quang hành lễ. Nàng nói: – Hoài-nam vương gia! Tiểu nữ mới được sư phụ truyền nghề. Thời gian luyện tập không được bao lâu. Xin vương-gia nhẹ tay cho. Quang-Vũ bảo Lưu Quang: – Hoàng-thúc xin nhẹ tay với nàng một chút. Lưu Quang vung kiếm lên. Ánh kiếm thành cầu vồng như điện xẹt, mọi người lóa con mắt. Tiếp theo y đánh trên 10 chiêu, kiếm quang bao trùm lấy người Phật-Nguyệt. Phật-Nguyệt là học trò yêu của Nguyễn Phan, chưởng môn phái Long-biên. Ông đã dốc túi truyền cho nàng. Khi nàng thấy Lưu Quang vung kiếm như đe dọa, thì biết đó là những hư chiêu. Nàng không đỡ, không rút kiếm ra khỏi vỏ. Đợi Lưu Quang đánh hết mười mấy hư chiêu, nàng mới xoay tròn kiếm đẩy nhẹ vào ngực y rất nhẹ nhàng. Lưu Quang ngơ ngác, tự hỏi kiếm pháp gì mà kỳ lạ thế này? Y đợi kiếm của nàng tới ngực, mới đưa tay định bắt. Nhưng kiếm nàng bật đánh véo một cái đưa vào cổ y. Lưu Quang tuyệt không ngờ trên đời có kiếm pháp quái dị như vậy. Y bật ngửa người ra sau tránh, thuận đà lộn đi một vòng. Nhưng Phật-Nguyệt di chuyển thân hình. Khi y đáp xuống đất, mũi kiếm lại đâm vào ngực y. Muốn đưa kiếm gạt, sợ không kịp, y nín hơi vọt lên không tránh thế kiếm ác liệt đó. Thì nghe tiếng xoạc, áo trước ngực y bị rách một đường dài. Quang-Vũ cùng quần thần kêu lên: – Chết! Lưu Quang ở trên không, khua kiếm dưới chân đề phòng nàng đuổi theo. Nhưng khi y đáp xuống thì Phật-Nguyệt ôm kiếm đứng cách xa chỗ y mấy trượng, thản nhiên như không có gì xảy ra. Phật-Nguyệt là người trầm tĩnh, ít nói, mặt hơi lạnh lùng, nhưng dáng người xinh đẹp. Qua mấy chiêu kiếm vừa rồi, ai cũng tưởng nàng sẽ hò hét hay tấn công tới. Nhưng nàng chỉ cầm kiếm đứng tần ngần, kiếm vẫn chưa rút ra khỏi vỏ. Bấy giờ Lưu Quang mới nhớ lời phụ thân khi ông dạy kiếm pháp cho y: – Cách nay hai trăm năm, một kiếm khách Âu-lạc sang đấu với võ sĩ của Tần Thủy-Hoàng. Y đấu trong một tháng liền, thu thập các chiêu thức của Trung-nguyên rồi tước bỏ bớt đi, chế ra một thứ kiếm pháp khắc chế lại. Vì vậy sau này Đồ Thư sang đánh Âu-lạc. Bất cứ các tướng sĩ dùng chiêu thức gì đấu với ngươi Âu-lạc chỉ một hai chiêu là mất mạng. Nghĩ vậy y lên tiếng hỏi: – Cô nương, phải chăng cô nương là con cháu của Vạn-tín hầu Lý Thân? Phật-Nguyệt lễ phép: – Vạn-tín hầu là sư tổ của tiểu nữ. Lưu Quang bấy giờ mới tỉnh ngộ, tự nhủ: – Chết thật, thì ra thế. Hèn chi những chiêu thức của con bé này đánh ra, chiêu nào cũng bao hàm sát thủ, khắc chế với kiếm pháp của ta. Ừ thì Vạn-tín hầu là người, ta cũng là người, ta không nghĩ ra chiêu thức để thoát vòng kềm chế của Lĩnh-nam kiếm pháp ư? Nghĩ vậy Lưu Quang vận sức vào kiếm, phóng ra những chiêu thức cực kỳ hùng hậu, kiếm chiêu veo véo. Phật-Nguyệt chuyển thân vung kiếm đánh lại. Có điều chiêu thức Lưu Quang dũng mãnh, đánh là đánh. Còn chiêu thức của Phật-Nguyệt hư hư, thực thực, đâm bên phải đấy nhưng bất thần vọt lên trên. Đang bên trên lại chuyển ra phía hông. Thành ra Lưu Quang cứ phải nhảy nhót tránh né, hao rất nhiều chân lực. Các võ quan đứng ngoài lúc đầu còn phân biệt được Lưu Quang, Phật-Nguyệt công hay thủ. Nhưng dần dần họ chỉ thấy hai quả cầu bạc bao trùm lấy hai người. Lưu Quang vọt lên cao, nhảy xuống đất. Còn Phật-Nguyệt phiêu phiêu, hốt hốt, khi phải khi trái. Đấu với nhau trên 200 hiệp, Phật-Nguyệt đã tìm ra nguyên lý kiếm thuật của Lưu Quang. Y dùng kiếm khí nhiều hơn kiếm chiêu. Còn nàng thì dùng kiếm chiêu. Lưu Quang dùng dương cương, còn nàng thì dùng âm nhu. Nàng thấy tất cả cái sơ hở của y. Kể ra muốn giết y thật không khó khăn gì. Là đệ tử của Nguyễn Phan tính tình hiền hòa. Nàng thấy Lưu Quang là hoàng-thúc tước phong tới Hoài-nam vương, địa vị y không phải nhỏ, phải làm thế nào cho y khâm phục hơn là làm nhục y. Đánh đến 300 hiệp, nàng nghĩ: Bây giờ ta dùng chiêu thức thật mau, để cho y mệt lử, chịu thua là xong. Nghĩ vậy, nàng lùi lại rồi đâm 10 kiếm thật thần tốc vào vai, cổ, ngực y. Lưu Quang kinh hoàng nhảy nhót tránh né, nhô lên hụp xuống. Nhưng dù tránh né thế nào chăng nữa, kiếm của Phật-Nguyệt cũng theo sát y như bóng với hình. Y nhảy nhót được gần trăm hiệp, công lực đã giảm. Y nhận thấy đối phương không muốn hại mình, thì còn đấu làm gì. Nghĩ vậy, y vọt lên cao đá gió một cái, người bay ra khỏi đấu trường. Y chắp tay: – Lão phu chịu thua cô nương. Đa tạ cô nương nhẹ tay. Phật-Nguyệt chắp tay đáp lễ: – Tiểu nữ vô phép, mong Vương-gia khoan dung, đại lượng. Lưu Quang là đại tôn sư võ học, lại là bậc hoàng-thúc, nên y có cái nhìn xa. Y tâu: – Thần nghĩ Lĩnh Nam là đất anh hùng. Kỳ này các hào kiệt Lĩnh Nam tùng chinh đông đảo, lập được nhiều công lao. Qua sớ tâu về triều, thần đọc thì thấy, nếu không có hào kiệt Lĩnh Nam. Hán quân chưa chắc đã thắng được Thục mau như vậy. Thần dám xin bệ-hạ theo chuyện Tần Thủy-Hoàng phong tước Vạn-tín hầu cho Lý Thân, mà phong tước cho hào kiệt Lĩnh Nam. Để sáng cái đức coi con dân bốn bể là con dân của triều đình. Nghiêm vương chỉ dẫn về đây có hai người, tuổi còn trẻ, mà võ công đã dường ấy. Xin bệ-hạ nên trọng dụng họ hơn là nghe lời dèm xiểm. Quang-Vũ truyền chỉ: – Trưng cô nương và Phật-Nguyệt cô nương đã hiển oai thần võ, còn Trần tiên sinh, xin tiên sinh cho quả nhân được chiêm ngưỡng võ công của Lĩnh Nam đệ nhất nhân. Khất đại-phu bước ra tâu: – Thần năm nay đã 80 tuổi rồi. Từ nhỏ chí của thần là làm sao cho bớt sự đau khổ của chúng sinh. Cho nên thần chuyên chú nghiên cứu y học. Ở Lĩnh Nam thần phiêu bạt thất thường, chữa bệnh cho người, cho thú, cho cây cỏ. Không bao giờ thần đòi tiền ai. Nhưng ai cho gì thần cũng nhận. Gặp đường, ngủ đường, gặp chợ ngủ chợ. Chữa bệnh cho vương, hầu thì vương, hầu đãi cho những miếng ngon, vật lạ. Chữa bệnh cho khỉ, khỉ cho thần hoa quả ăn. Uống nước suối tắm nước sông... Vì vậy người ta gọi thần là Khất đại-phu tức là thầy thuốc đi ăn mày. Quang-Vũ ngắm nhìn Khất đại phu từ đầu đến chân rồi khen: – Tiên sinh đúng là tiên ông giáng trần, để cứu giúp chúng sinh. Quả nhân có một bệnh hơi kỳ lạ, dám thỉnh tiên sinh dạy cho. Khất đại phu hỏi: – Xin bệ-hạ cứ kể. – Mấy năm gần đây, quả nhân ăn uống vào thường bị đầy ứ không tiêu. Khi đi ngược gió thì mửa. Mửa ra cả thực vật. Bàn chân, bàn tay lạnh. Đầu căng thẳng, thường thấy như mắc nghẹn mà nuốt không xuống. Khất đại phu cầm mạch, một lúc ông nói: – Bệnh của bệ hạ không do ngoại tà, mà do nội thương. Trong cơ thể thì Tâm thuộc hỏa, Phế thuộc kim, Tỳ thuộc thổ, Can thuộc mộc, Thận thuộc thủy. Ngũ tạng phải điều hợp với nhau. Khi bệ-hạ lo lắng quá, hoặc ẩm thực không tiết độ, làm thương tổn đến Tỳ. Tỳ chủ vận hòa nước ra ngoài cơ thể. Khi Tỳ-dương bị hư tổn, công năng vận hóa thủy thấp kém đi. Do vậy thủy thấp đình lưu trong cơ thể. Tỳ thuộc âm. Vị thuộc dương. Giữa Tỳ với Vị tương thông biểu lý. Khi Tỳ-dương hư không giúp công năng vị tiêu hóa được. Do vậy bệ-hạ ăn vào thấy đầy ứ. Khi đi ngược gió, gió lạnh nhập vào cơ thể, Tỳ-dương đã hư còn thêm lạnh nữa, cho nên Vị không thể làm nóng thực phẩm, nên bệ-hạ mới nôn ra thực phẩm. Ngừng một lúc ông nói: – Tỳ chủ vận hóa chân khí, khi Tỳ dương hư, thì chân khí không được chuyển ra khắp chân tay. Do chân tay bị lạnh. Bụng bệ-hạ ngày càng chướng lên là do thủy thấp đình lưu. Khi Tỳ dương hư thì dương khí không lên được đầu, thành ra đầu nặng, càng khó chịu. Vì bị lạnh, kéo theo thực quản lạnh, nên bệ-hạ tưởng như mắc nghẹn, kỳ thực là do Vị. Quang-Vũ nhìn Thái-y rồi nói với Khất đại-phu: – Tiên sinh luận bệnh quả-nhân, thật không sai tí nào. Không biết tiên sinh có chữa cho quả-nhân được không? Khất đại-phu nói: – Tâu bệ-hạ, việc chữa bệnh Tỳ, Vị thật dễ dàng. Nhưng cần phải bỏ ra những ưu tư làm thương tổn Tỳ mới dứt được. Có hai phương thức điều trị: Một là dùng dược, hai là dùng nội công thượng thừa đẩy vào kinh mạch tống thấp ra, xin bệ-hạ chọn lấy một. Quang-Vũ gật đầu: – Trẫm muốn dùng cả hai. Xin tiên sinh trị cho quả nhân. Khất đại-phu nói: – Thần sẽ dùng Lĩnh-nam chỉ pháp. Chỉ pháp này do Chinh-viễn đại tướng quân Đào Kỳ với thần hợp nhau chế ra. Thần vận khí dương về Đốc-mạch, chuyển qua kinh Tam-tiêu, sau đó phóng chân khí vào các huyệt Trung-uyển, Lương-môn, Thủy-phân, Quang-nguyên, Trung-cực, Âm-lăng tuyền, Tam-âm-giao, Thái-khê cuối cùng là các huyệt Can-du, Thận-du, Tỳ-du, Cách-du. Như vậy chỉ trong một ngày, bệ-hạ sẽ đi tiêu ra ngoài 10 cân nước: Thủy tà được trục ra hết. Sau đó chỉ việc uống vài thang thuốc bổ dưỡng nữa là xong. Quang-Vũ hỏi: – Tiên sinh có thể trị ngay tại đây, cho triều đình được chiêm ngưỡng thủ thuật của thần tiên chăng? Khất đại-phu cười: – Thưa được. Trong khi hạ thần dồn chân khí vào người bệ-hạ. Xin bệ-hạ không nên vận khí chống lại, cũng không nên chuyển động thân hình. Quan Thái-y hỏi: – Thưa tiên sinh, tại sao tiên-sinh dùng kinh Tam-tiêu mà không dùng kinh khác? Khất đại-phu lắc đầu: – Lý ngũ-hành là Hỏa sinh Thổ. Tam-tiêu thuộc Hỏa. Tỳ thuộc Thổ. Vì vậy lão phu mới dùng kinh Tam-tiêu để trị Tỳ, Vị. Ông vận khí rồi hướng lên không điểm đến vèo một cái. Khiến quần thần đều kinh hãi. Ông giảng: – Đầu tiên thần điểm huyệt Trung-uyển. Trung-uyển là mộ huyệt của Vị. Phụ thêm có Lương môn, là huyệt gần nhất của Vị, để làm ấm Vị. Vị ấm thì sẽ đủ khí vận thủy thấp ra ngoài. Ông chĩa ngón tay giữa, hướng ngực Quang-Vũ điểm hai cái chỉ lực kêu lên véo, véo. Mặt Quang-Vũ đang tái, hồng hào hẳn lên, há miệng ợ liền bốn năm lần. Y nói: – Thực là khoan khoái. Xin tiên sinh tiếp tục. Khất đại-phu giảng: – Bây giờ thần điểm huyệt Thủy-phân. Thủy-phân là huyệt ngăn cách giữa Trung-tiêu và Hạ-tiêu. Mục đích để thông thủy thấp Tam-tiêu, thì thủy mới dễ trục ra. Tiếp theo là huyệt Quan-nguyên để bổ nguyên khí. Khi bệ-hạ bị Tỳ, Vị hư, thì nguyên khí bị suy nhược. Thần điểm luôn huyệt Trung-cực là mộ huyệt của Bàng-quang, có vậy Bàng-quang mới khí hòa, dễ thông tiểu tiện. Giảng đến đâu, ông vung tay điểm đến đấy, chân khí tiết ra kêu veo véo. Ông lại giảng tiếp: – Bây giờ thần điểm tới huyệt Thái-khê. Thái-khê là nguyên huyệt của Thận. Thận chủ thủy. Dùng nguyên huyệt của Thận, để Thận tống nước ra ngoài. Kế tới là huyệt Tam-âm-giao, để điều hòa Túc tam-âm kinh Can, Tỳ, Thận. Thần còn dùng thêm Túc tam-lý là Hiệp-huyệt của Vị. Âm-lăng-tuyền là Hiệp-huyệt của Tỳ. Hiệp-huyệt để kích thích công năng tạng phủ. Như vậy Tỳ, Vị làm việc, đẩy thủy thấp ra ngoài. Khất đaị-phu nói đến đâu, điểm đến đó. Ông định bảo Quang-Vũ quay lưng để ông điểm vào các Du-huyệt trên lưng, thì Quang-Vũ vẫy tay đứng lên. Ông biết Quang-Vũ muốn đi tiểu. Vì ông điểm bằng ấy huyệt, thì thủy thấp bị kích động, thoát ra đầy Bàng-quang của y. Khất đaị-phu cầm bút ghi một toa thuốc, đưa cho Quang-Vũ: Bạch-truật 4 tiền, Thượng-truật 4 tiền, Hậu-phác 3 tiền, Quế-chi 3 tiền, Cam-thảo 2 tiền, Phục-linh 5 tiền. Quang-Vũ đưa cho Thái-y. Thái-y đọc nhưng không hiểu, hỏi: – Trần tiên sinh! Tiểu nhân tối tăm lắm, xin tiên sinh dạy cho. Tại sao lại không dùng Sâm-thang, Lộc-nhung? – Đại-nhân hỏi câu này thực phải. Rõ ràng Tỳ, Vị hư nhược, phải ôn bổ Tỳ, Vị, dùng Nhân-sâm là đúng. Dương hư dùng Lộc-nhung là đúng. Nhưng trường hợp Thiên-tử bị thấp ứ đọng quá nhiều. Nếu dùng Nhân-sâm, Lộc-nhung bổ Tỳ, Vị, thành ra bổ luôn thủy thấp. Hàn thấp hóa nhiệt thấp, càng khó khăn. Vậy lão phu mới dùng Hậu-phác, Thượng-truật trục thủy-thấp ra. Hai vị này công năng vừa ấm, vừa thông tiểu, thủy thấp sẽ ra ngoài. Thêm Bạch-truật, Phục-linh là hai vị vừa trục thủy thấp, vừa bổ Tỳ, Vị. Riêng Quế-chi là vị thuốc là để thông dương, hành thủy. Tức đưa dương khí chạy khắp cơ thể, làm cho nước chuyển động. Thiên-tử sẽ hết nặng đầu, chân tay ấm áp. Như vậy thang thuốc này 7 phần tả chỉ có 3 phần bổ. Sau khi uống ba thang, thủy thấp tống ra hết rồi, bấy giờ mới đổi thuốc. Ông ngừng một lát, nói tiếp: – Sau đấy mấy ngày thấp trong người bệ-hạ đã tống ra hết, bấy giờ mới cần bổ Tỳ, Vị. Thái-y có thể dùng thang thuốc như sau: Bạch-truật 4 tiền, Phục-linh 4 tiền, Nhân-sâm 2 tiền, Nhục-quế 3 tiền, Cam-thảo 2 tiền, Xuyên-khung 3 tiền. Uống trong vòng 10 đến 15 thang thì mình rồng khỏe mạnh, không còn sợ gì nữa. Lưu Quang hỏi: – Trần tiên sinh! Còn Tiểu-vương luyện võ từ nhỏ, thân thể cường tráng, mà sao gần đây cứ nhức đầu hoa mắt, không thuốc chi trị được cả. Khất đại-phu bắt mạch, rồi bảo Lưu Quang lè lưỡi ra xem. Ông nói: – Vương gia cũng bị nội thương chứ không phải ngoại tà. Lão phu cầm mạch thấy Trầm mà Xác. Trầm chủ bệnh nội thương, chủ hư chứng. Xác là chủ nhiệt. Như vậy bệnh của Vương-gia là Âm hư nội nhiệt. Trong người Vương-gia thì khí là Dương, huyết là Âm. Trong các tạng phủ đều có Âm, Dương cả. Như Tâm cũng phân Tâm-âm, Tâm-dương. Thận cũng Thận-âm, Thận-dương. Thận chủ âm, chủ thủy. Tâm thuộc Hỏa. Thủy khắc Hỏa, công năng của Thận khắc công năng của Tâm. Khi Thận-âm hư thì, Âm không đủ kềm chế Tâm-hỏa, vì vậy Tâm-hỏa bốc lên. Cho nên vương mới hay nổi giận. Tâm chủ thần chí. Khi Tâm-hỏa bốc lên thì vương mất ngủ. Bây giờ Thận-âm hư đưa đến nhiều bệnh: Thận chủ não, khi Thận hư, thì não không được nuôi dưỡng. Vương gia hay bị mất trí nhớ. Hoa của Thận là tóc. Khi Thận hư thì tóc sớm bạc. Vì vậy tóc vương-gia trắng hết rồi. Thận chủ cốt, chủ tủy. Khi Thận hư thì cốt tủy không được nuôi dưỡng, nên vương-gia thường thấy mỏi mệt đầu gối khớp xương. Thận khai cùng ở tai. Khi Thận-âm hư thì Dương hỏa bốc lên, nên vương-gia thường thấy tai kêu như ve sầu. Lưu Quang bái phục: – Tiên sinh gọi ra bệnh, mà chính Tiểu-vương biết mình, cũng không diễn tả được. Vậy xin tiên sinh cho thang thuốc dùng. Khất đại-phu cầm bút viết: Thục-địa 5 tiền, Hà-thủ-ô 5 tiền, Cam-thảo 2 tiền, Trạch-tà 3 tiền, Kỷ-tử 3 tiền, Sơn-thù nhục 3 tiền, Sơn-dược 3 tiền, Phục-linh 3 tiền, Mẫu-lễ 3 tiền, Đơn-bì 3 tiền. Ghi chú, Bệnh của Hoài Nam vương tương đương với ngày nay là Huyết-áp cao. Người bị chứng này còn bị thêm nạn bất lực sinh lý (Dysfonction érectile). Phương thuốc này nay còn giá trị. Tuy nhiên cần phải uống mỗi ngày một thang, uống liền 10 thang, sau đó mỗi tuần hai thang, trong vòng 8 tuần thì nghỉ. Thái-y xem qua hỏi: – Tiểu nhân có đôi chút thắc mắc. Vương-gia nhức đầu, mất ngủ mà tiểu nhân không thấy tiên sinh dùng những vị thuốc trấn thống và an thần là tại sao? Khất đại-phu cười: – Dùng cũng được, mà không dùng cũng được. Vương-gia nhức đầu là do hỏa-vượng, bởi vậy lão phu mới cho uống Mẫu-lễ để hạ hỏa. Còn lại thì các vị Trạch-tả, Sơn-thù nhục, Đơn-bì, Sơn-dược đều để bổ âm cả. Có thêm Hà-thủ-ô, Kỷ-tử bổ huyết. Vì vương-gia hơi gầy nên lão phu mới cho thêm Phục-linh để vương-gia ăn được. Khi hạ hư hỏa rồi thì làm sao còn nhức đầu? Khi bổ âm rồi, thì Tâm-hỏa không vượng nữa, thần chí yên tĩnh thì ngủ ngon, nên không cần các vị kia là như vậy. Quan Binh-bộ thượng-thư Hàn Song hỏi: – Kính thỉnh Trần tiên sinh! Ty chức năm nay mới 45 tuổi, không hiểu sao cứ mỗi buổi sáng chải tóc thấy rụng hàng búi. Nếu cứ như thế này mãi, một ngày kia sẽ trở thành trọc đầu mất. Xin tiên sinh cứu chữa cho. Khất đại-phu đến bên ông cầm tay chẩn mạch. Một lúc sau nói: – Lão phu xem mạch đại nhân thấy Trầm mà Trì. Như vậy rõ ràng Thận-dương hư suy. Hoa của Thận là tóc. Khi Thận hư thì tóc rụng. Vì vậy chỉ cần mười thang thuốc bổ thận là tóc khỏi rụng ngay. Đại-phu cầm bút viết: Trạch-tử 4 tiền, Đơn-bì 4 tiền, Sơn-dược 4 tiền, Phục-linh 3 tiền, Sơn-thù-nhục 3 tiền, Thục-địa 4 tiền, Nhân-sâm 5 tiền, Quế-chi 3 tiền. Rồi ông nói: – Xin đại nhân uống liền 10 thang thì tóc hết rụng, người hết mệt, ăn uống ngon, phòng sự tốt. Thế rồi Khất đại-phu chữa bệnh cho hầu hết các quan của triều đình Quang-Vũ. Tối hôm đó Hoài-nam vương thay hoàng-đế tiếp đãi Khất đại-phu, Trưng Nhị, Phật-Nguyệt. Còn Nghiêm Sơn thì hội họp riêng với Quang-Vũ. Các quan triều Hán, người này mang kiệu tới đón, người kia mời chữa bệnh cho bản thân, cho thân nhân. Suốt ba ngày Khất đại-phu dẫn theo Trưng Nhị, Phật-Nguyệt chữa bệnh trong thành Trường-An. Sáng ngày thứ tư. Thái-giám đến trao chiếu chỉ triệu Khất đại-phu, Trưng Nhị, Phật-Nguyệt yết kiến Thiên-tử. Hoài-nam vương cho người đi tìm không biết Khất đại-phu ở đâu. Ông hoảng hốt sai 300 thị-vệ đi khắp Trường-an. Đến chiều một thị-vệ thấy ông đang ngồi giữa chợ trị bệnh cho đám... ăn mày. Hoài-nam vương than: – Khất đại-phu đúng là một vị tiên ông. Dù hoàng-đế, dù vương-hầu chúng ta, đức đều không bằng ngài. Trưng Nhị lấy cớ phục thị Thái-sư thúc. Nàng luôn ở cạnh đại-phu, giúp đại-phu chữa bệnh cho dân trong thành Trường-an. Dân chúng nghe đồn có tiên ông giáng trần, ùn ùn kéo đến thỉnh tiên sinh cứu trị. Tiên sinh nhận lời hết. Có người cho tiên sinh là tiên ông dâng đồ chay, tiên sinh nhận. Có người dâng thịt, tiên sinh cũng nhận hết. Hoài-nam vương chắp tay thỉnh ông: – Có chiếu chỉ mời tiên sinhi nữa, chứ đừng xưng là anh hùng Lĩnh Nam! Khất đại-phu xen vào: – Từ trước đến giờ già này có một chuyện không nói với các vị vì đã hứa với Nghiêm Sơn. Vậy Trần Năng, con cho mọi người nghe về nguồn gốc Nghiêm đại ca đi. Trần Năng nhìn Khất đại-phu tủm tỉm cười hỏi: – Sư phụ! Thuật hết mọi chi tiết hay chỉ lược qua thôi? Trần Năng tiếng là học trò Khất đaị-phu, nhưng tình nghĩa như ông cháu. Bởi sự chênh lệch tuổi quá xa. Khất đại-phu là người giàu tình cảm, không câu nệ khách sáo. Trần Năng được thế hay vui đùa trước mặt sư phụ. Ông cũng cười xòa tha thứ: – Kể hết, không bỏ một chi tiết nào. Nàng nhắm mắt ôn lại chuyện cũ rồi thuật: – Trước khi mang quân sang đánh Trung-nguyên, Lĩnh-nam vương nhờ sư thúc Đào Kỳ viết thư mời các vị sau đây về Cối-giang họp mặt. Sư phụ của tôi, sư tỷ Nam-hải, các vị Nguyễn Tam-Trinh, Đặng Thi-Sách, Trưng Trắc, Trưng Nhị, Đào-hầu, Đinh-hầu. Cuộc họp có 10 người. Kể cả Trần Quốc, Lĩnh-nam vương-gia và vương-phi là 13 người. Trong buổi họp vương gia cho biết, người không phải là người Hán mà là người Việt. Quần hùng nghe đến đó đều ồ lên một tiếng đầy kinh ngạc. Trưng Trắc tiếp lời: – Các vị ngạc nhiên, chứ Đặng đại ca với chúng tôi không ngạc nhiên. Này nhé, khi Vương-gia được phong Lĩnh-nam công. Nếu là người Hán phải tổ chức cai trị chặt chẽ. Chứ có đâu ban lệnh cho Lĩnh Nam tự do tập võ. Ban lệnh cho các Lạc-hầu, Lạc-tướng được nhiều quyền hạn như một ông vua con. Vương lại thay thế dần hết các quan lại người Hán bằng người Việt. Những kẻ xu phụ người Hán, đáng lẽ được trọng đãi thế mà Vương-gia lại thải dần như sư thúc Lê Đạo-Sinh và đệ tử của người. Hoàng Thiều-Hoa xen vào: – Khi Nghiêm đại-ca bị Mai-động hầu bắt. Dù chỉ là huyện lệnh thôi, Đại-ca đã đem quân san bằng trang Mai-động. Thế mà đại-ca một người, một ngựa đến trang Mai-động mang trâu, bò thế mạng. Sư bá Nguyễn Tam-Trinh không hiểu hành động này. Vì vậy Nghiêm đại-ca phải thổ lộ nguồn gốc mình. Rồi kết luận: "Biết Mai-động hầu phản Hán phục Việt, nếu tôi là người Hán, tôi tiêu diệt trang Mai-động. Song là người Việt, tôi đã tìm được đồng đạo. Chúng ta phải từ từ mà làm, lộ ra, tính mạng của tôi e khó toàn". Chính vì vậy sư bá Nguyễn Tam-Trinh mới quỳ lạy Nghiêm đại-ca, đứng ra gả tôi cho Nghiêm đại-ca. Trưng Trắc tiếp: – Trong buổi hội ở Cối-giang với chúng tôi, Vương-gia xuất trình hai tài liệu. Tài liệu thứ nhất là một chiếu chỉ của An-Dương Vương truyền ngôi cho con trưởng Phương-chính hầu Trần Tự-Minh là Trần Tự-Anh. Nguyên khi An-Dương Vương bị Triệu Đà lừa trong vụ Mỵ-Châu. Ngài hối hận viết chiếu chỉ sai sứ đến Khúc-giang triệu con trai đầu lòng là Phương-chính hầu Trần Tự-Anh giao cho việc kháng chiến phục quốc. Giòng dõi Trần Tự-Anh giữ chiếu chỉ đã 8 đời. Đến đời thứ 8 là Trần Kim-Bằng cải ra họ Nghiêm lên Trường-sa lập nghiệp. Ngài dự tính với tài trí của mình, có thể làm tới đại-tướng quân, rồi mang quân phản Hán phục Việt. Lĩnh-nam vương là con của tướng quân Nghiêm Bằng, tên thực Vương-gia là Trần Tự-Sơn chứ không phải Nghiêm Sơn. Khất đại-phu nói: – Hôm đó Vương-gia trình chiếu chỉ, ấn, kiếm của An-Dương vương. Vì vậy chúng tôi lậy ngài như lậy Hùng-Vương, An-Dương vương. Vương-gia còn đưa gia phả ra nữa. Theo gia phả tôi là vai thúc phụ người. Còn người là anh của Nam-hải, tức đời thứ 9 kể từ tể-tướng Âu-lạc Trần Tự-Minh. Hoàng Thiều-Hoa chỉ Đào Kỳ nói: – Hôm tiểu sư đệ, Phương-Dung, Trưng Nhị đến phủ Lĩnh-nam công. Trưng Nhị giả xưng đệ tử của sư thúc Đào Thế-Hùng, Nghiêm đại-ca biết rõ. Đại-ca nói: "Các em làm chuyện phục hồi Lĩnh Nam, đó là chuyện ta cầu mà không được, ta nhắm mắt che chở cho chúng". Trưng Nhị nhìn Phương-Dung, Đào Kỳ toát mồ hôi. Vì nếu Nghiêm Sơn không phải là người Việt, không phải là Trần Tự-Sơn, Nghiêm đã đem ba người ra chặt đầu rồi. Khất đại-phu nói: – Có điều, trước đó Vương-gia tìm đến ta, mời ta làm thái-thú Cửu-chân. Vương-gia biết ta là thúc-phụ người. Ta từ chối, Vương-gia kể lý lịch mình cho ta nghe. Hôm đó có Trần Năng ở đấy. Trần Năng! Con kể cho mọi người mọi người biết đi. Cách đây mấy năm, một hôm Trần Năng vào rừng cùng cha săn thú. Nàng thấy con gấu đang bơi dưới ao. Nàng dương cung bắn. Mũi tên sắp đến đầu gấu, thì một sợi dây từ đâu bay lại, kình lực mạnh vô cùng, chụp lên đầu gấu, kéo vào bờ. Nàng thấy có người tranh mất gấu, bèn dùng tên bắn một mũi, đứt sợi dây thắt cổ con gấu. Nàng bắn một mũi nữa trúng đầu gấu chết tươi. Từ trên một cành cây, Khất đại-phu nhảy xuống chỉ nhấp nhô mấy cái, đã túm đầu con gấu nhảy lên bờ. Bản tính Trần Năng nghịch ngợm, ưa đùa phá. Thấy một ông già đầu râu tóc bạc cướp con gấu của mình, thì la lớn: – Con gấu này của tôi sao lão già lại cướp đi. Khất đại-phu dừng lại nói: – Cô ơi! Gấu này là gấu hoang chứ có phải gấu nhà nuôi đâu mà cô bảo là gấu của cô? Trần Năng cãi bướng: – Tuy không phải cháu nuôi, nhưng cháu săn được là của cháu. Luật đi săn xưa nay, ai bắt được thì là của người đó. Nay trên mình gấu có mũi tên, mũi tên đó mang tên cháu, thì con gấu là của cháu? Khất đại-phu rút mũi tên trên mình con gấu thì rõ ràng có chữ Trang Toàn-liệt, Trần-hầu. Ông không cãi được đành nói: – Cô ơi! Ta cần mật gấu cứu người. Vậy cô cho ta cái mật gấu này, ta hứa trả ơn cô. Giữa lúc đó Trần-hầu, thân phụ Trần Năng đến. Thấy con gái trêu tức một ông già, liền xen vào: – Lão tiên sinh, cháu nó trẻ con vô phép với tiên sinh, mong tiên sinh đại xá cho. Con gấu này coi như chúng tôi biếu tiên sinh, xin tiên sinh cứ mang đi. Khất đại-phu định mang con gấu đi, Trần Năng biết mình đùa quá lố, xin lỗi ông: – Lão tiên sinh! Nhà cháu có hàng chục cái mật gấu phơi khô, tiên sinh muốn dùng bao nhiêu xin quá bộ đến trang Toàn-liệt, cháu xin dâng tiên sinh. Trần-hầu với Trần Năng dẫn Khất đại-phu về trang, làm cơm đãi tiên sinh và biếu ông hơn mười cái mật gấu. Tính tiên sinh sòng phẳng, ông nói: – Trần cô nương, ta nhận của cô bằng này mật gấu là món quà lớn quá. Trọn đời ta không muốn nợ ai. Vậy cô nương muốn gì, ta sẽ đền đáp. Trần Năng ngẫm nghĩ nói: – Cháu thấy tiên sinh nhô lên hụp xuống mấy cái bắt được gấu. Vậy tiên sinh dạy cháu phương pháp đó đi. Khất đại-phu nói: – Đêm rằm này, cô nương cứ tới chỗ hồ săn gấu hôm nay ta sẽ dạy cô. Từ đấy cứ đêm rằm Trần Năng tới hồ săn gấu, Khất đại-phu dạy nàng về tọa công, thở hít. Nàng tuyệt không ngờ đó là nội công thượng thừa của phái Tản-viên, cũng không biết rằng Khất đại-phu võ công đệ nhất thiên hạ. Một đêm kia nàng đang luyện công, thấy có một võ quan Hán xuất hiện, tức Nghiêm Sơn. Nghiêm Sơn đấu võ với Khất đại-phu. Hai người ước hẹn nhau rằng: Nếu Nghiêm Sơn thắng thì Khất đại-phu phải ra làm quan cho vua Hán. Ngược lại nếu Khất đại-phu thắng, Nghiêm Sơn phải làm cho ông một điều ông muốn. Hai người đấu với nhau được 6 chưởng. Nghiêm Sơn nhận thua, sẵn sàng làm điều gì Khất đại-phu muốn. Khất đại-phu nói: – Lão phu là thầy thuốc, trọn đời lo cho thiên hạ. Những bệnh tật thì lão phu cứu được. Còn dân chúng lầm than, thì không cứu được. Ngươi hiện là Lĩnh-nam công, lại là anh em kết nghĩa với Hán Quang-Vũ, được trao toàn quyền giải quyết mọi sự ở Lĩnh Nam. Vậy lão phu xin người hãy diệt ba tên thái-thú định đồng hóa người Việt với người Hán, để diệt tuyệt dòng Việt là Nhâm Diên, Tích Quang và Đặng Nhượng. Sau phải giúp cho người Lĩnh Nam phục quốc. Nghiêm Sơn ngập ngừng: – Đó là điều tại hạ nung nấu trong bao nhiêu năm qua, nhưng chưa thực hiện được đó thôi. Khất đại-phu nói: – Nghiêm tướng-quân! Tướng-quân là em kết nghĩa của Quang-Vũ, Quang-Vũ là tướng-quân. Hơn nữa đất Lĩnh Nam đang nằm trong tay Vương Mãng. Tướng-quân một kiếm, một ngựa kinh-lược thì đất này là của tướng-quân. Vậy tướng-quân trả cho dân Lĩnh Nam có gì lạ đâu. Chắc tướng-quân có điều khổ tâm đây chứ không đâu. Nếu tướng-quân thấy lão phu đáng tin cậy, xin cứ nói ra, họa may lão phu có giúp gì được không. Bấy giờ Nghiêm Sơn mới nói: – Tại hạ xin tuân lệnh lão tiên sinh. Tại hạ mong lão tiên sinh giữ kín điều này cho, vì lộ ra ngoài, e sự khó thành. Tại hạ nguyên là người Lĩnh Nam, ở đất Quế-lâm. Thuở nhỏ, gia phụ làm quan với người Hán, lưu lạc sang Kinh-châu sinh tại hạ ra ở đó. Lúc tại hạ được một tháng, gia mẫu bị bệnh không có sữa. Giữa lúc đó gia phụ đi săn gặp một thiếu phụ tuổi khoảng 19-20, đẹp tuyệt trần bị hai võ sĩ Hán định giết ở rừng Trường-sa. Gia phụ động lòng nghĩa hiệp, dùng võ công giết hai võ sĩ Hán, cứu nàng thoát chết. Hỏi thiếu phụ nhà ở đâu để đưa về và uyên nguyên tại sao lại bị Hán binh đuổi theo giết như vậy. Thiếu phụ mới kể rõ sự tình: Nàng tên Hàn Tú-Anh, xuất thân một ca nhi danh tiếng vùng Kinh-sở. Tiếng nàng đồn khắp Kinh-sở, trên từ vương-tôn, dưới đến hàn-sĩ đều say mê. Nguyên vua Cảnh-đế nhà Hán phong con thứ là Phát làm Trường-sa Định-vương trấn thủ 9 quận Kinh-sở, truyền đến nay đã 4 đời. Trường-sa Định-vương đời thứ tư có hai người con. Người con lớn tên Huyền là thế-tử nối ngôi cha. Nhưng thế-tử say mê một ca kỹ nên bị Trường-sa Định-vương phế làm thứ dân truyền ngôi cho con thứ. Người con thứ nhì nối nghiệp cha làm Trường-sa Định-vương. Ông lại say mê một ca kỷ khác là Hàn Tú-Anh. Chuyện lộ ra, làm chấn động hết vùng Kinh-sở, Tthái-phi giận đến nổi điên lên, không biết giải quyết ra sao. Vương tuy năm thê, bảy thiếp nhưng vẫn hiếm hoi, may mắn Hàn Tú-Anh lại có với vương hai đứa con, một tên Lưu Diễn, hai tên Lưu Tú, Thái-phi cho rước Tú-Anh vào vương phủ. Bà thấy hai cháu khôi ngô, mừng lắm, cưng chiều rất mực. Nhưng bà không muốn một ca kỹ như Tú-Anh một ngày kia làm Vương thái-phi. Bà sai võ sĩ đem ca kỹ vào rừng giết. Nhưng Tú-Anh được thân phụ tại hạ cứu thoát. Phụ thân tại hạ thương tình Tú-Anh đem về giấu trong nhà. Tú-Anh đang nuôi con, nay ngưng bị sữa căng chịu không được. Phụ thân tại hạ nhờ bà cho tại hạ bú sữa. Từ ấy tại hạ được Tú-Anh nuôi sữa. Bà thương tại hạ như con. Phụ thân tại hạ sợ chuyện Tú-Anh lộ ra thì mang họa diệt tộc, mới cáo quan từ chức, về sống ẩn dật ở Quế-lâm. Khất đại-phu tỉnh ngộ: – Vì vậy người ta mới ngộ nhận tướng quân là người Hán. Nghiêm Sơn đáp: – Đúng thế! Khi Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, mang quân đánh xuống Trường-sa. Nhũ mẫu gọi tại hạ vào khóc lóc, xin tại hạ đến cứu hai con bà là Lưu Diễn và Lưu Tú. Tại hạ được nhũ mẫu nuôi dưỡng dạy dỗ lâu ngày, kính yêu bà chẳng khác nào mẹ ruột. Hàng ngày bà nhắc nhở đến hai người con luôn, nên tại hạ coi Lưu Diễn, Lưu Tú như anh em ruột. Bây giờ được nhũ mẫu ủy thác cứu hai người anh nuôi, tại hạ lên đường ngay. Tại hạ mang Hợp-phố lục hiệp đến Trường-sa giữa lúc quân Vương Mãng chiếm được thành. Trường-sa vương bị giết chết. Hai Thế-tử Lưu Diễn và Lưu Tú bị truy lùng rất gắt. Lưu Diễn được bộ hạ hộ vệ trốn thoát. Còn Lưu Tú bị bắt. Giữa lúc Lưu Tú sắp bị hành hình, tại hạ và Hợp-phố lục hiệp xuất hiện đánh chết võ sĩ của Vương Mãng cứu ra. Trên đường chạy trốn, một đêm tại hạ phải đánh 20 trận, bị thương 15 lần, mới cứu được Lưu Tú. Hai người trốn trong một vườn bắp cải, phải hái bắp non ăn sống. Khất đại-phu hỏi: – Thế Quốc-công có nói cho Lưu Tú biết tại sao Quốc-công cứu y không? – Không! Vì nhũ mẫu dặn tuyệt đối không đị trói ném vào trong ngục như một con chó ghẻ? Quang-Vũ tái mặt không biết nói gì. Lý tư-đồ nói: – Bệ-hạ vì giang sơn vạn dặm, phải diệt tất cả những mầm mống nguy hại cho xã tắc. Đất Lĩnh Nam địa linh, nhân kiệt, khí hậu thấp nhiệt, địa thế hiểm trở. Mà cho người Việt phục quốc, chỉ mấy năm sau họ hưng thịnh lên, quay về Bắc chống với Trung-nguyên, thực là nguy hại. Vì vậy hoàng-thượng phải trở mặt với họ. Chẳng qua cũng là vì nước cả. Nghiêm Sơn quắc mắt nhìn Tư-đồ, khiến y sợ quá lùi lại. Vương nói: – Ta đang tâu với hoàng-thượng, chứ có nói chuyện với bọn hèn hạ các ngươi đâu? Vương nhổ toẹt một bãi nước miếng vào mặt y. Kình lực mạnh kêu lên một tiếng véo. Lý tư-đồ ngã ngồi xuống điện. Mặt y tái mét lùi lại hai bước. Vương quay lại nhìn Quang-Vũ: – Cách đây mười mấy năm, lúc bệ-hạ còn là một công tử. Bị Vương Mãng sai võ sĩ bắt, đem về kinh giết. Trên đường từ Hoài-dương về Lạc-dương, bệ-hạ bị bỏ đói, bỏ khát, bị chúng coi như con vật, khốn khổ vô cùng. Bấy giờ hạ thần liều mạng, một gươm đánh nhau với chúng cướp bệ-hạ. Hai chúng ta trốn vào ruộng bắp, bẻ bắp sống ăn để khỏi chết đói. Ngày hôm sau lại phải chạy nữa. Trong hai ngày chạy, hạ thần bị thương đến 15 chỗ, cương quyết cứu bệ-hạ. Rồi khi bệ-hạ khởi binh, có thần là người đầu tiên với 300 đệ tử. Bệ-hạ chả từng nói rằng: Nếu sau này được thiên hạ, chúng ta chia nhau, cùng hưởng phú quý. Hạ thần không nghĩ thế, hạ thần nói ngay bấy giờ rằng, hạ thần giúp bệ-hạ là vì nghĩa hiệp. Sau khi thành đại nghiệp, xin bệ hạ cho hạ thần một thanh gươm, một con ngựa ngao du bốn bể. Vương quắc mắt nhìn Quang-Vũ nói tiếp: – Khi hạ thần diệt được Vương Mãng, nhưng còn Xích Mi, Ngỗi Hiêu, Công-tôn Thuật chiếm cứ các nơi. Thế mà một giải Lĩnh Nam theo Vương Mãng. Thần một người, một ngựa kinh lý Lĩnh Nam mang về cho bệ-hạ. Từ đó đến giờ nào là lương thảo, lừa ngựa, nào là quân lính, cung cấp đầy đủ để đánh Ngỗi Hiêu, Xích Mi. Ngừng một chút vương cười nhạt: – Sau khi Ngô Hán, Đặng Vũ đánh Công-tôn Thuật bị thất bại, bệ-hạ triệu hạ thần về đánh Thục. Hạ thần xuống Lĩnh Nam với hai tay trắng. Nếu không nhờ bạn hữu Lĩnh Nam giúp, làm sao có đạo binh hùng mạnh với hàng trăm hào kiệt giúp bệ-hạ? Nay Thành-đô chỉ giơ tay ra là lấy được. Bệ-hạ nghe lời gian thần, đãi ân nhân cứu mạng. Đãi nghĩa đệ, đãi đại công thần bằng cách trói bỏ vào nhà ngục như con chó ghẻ. Thần đã tâu từ trước: Thần là người hiệp nghĩa mong sự nghiệp thành rồi một người, một ngựa ngao du bốn bể, thế mà bệ-hạ không cho. Vương lại tiếp: – Xưa kia Cao-tổ sợ Sở-vương Hàn Tín công lớn quá, lại là người có tài dùng binh, bất chấp công trạng đem giết cả nhà, còn có lý. Đây thần không hề thích công danh, chỉ mong bệ-hạ đối xử thường tình giữa con người và con người mà thôi; thế mà cũng không được đáp lại. Thần xin ngao du tứ hải cũng không cho. Khi hạ thần vây Thục, bất thần nghe tin bệ-hạ đem quân tới Trường-an. Hạ thần nghĩ: Hạ thần thắng Công-tôn Thuật thế như chẻ tre, chỉ giơ tay là lấy được Thục. Việc gì bệ-hạ phải mang quân tiếp viện? Thần biết bệ-hạ nghi ngờ hạ thần vì nghe lời dèm xiểm của bọn hủ Nho. Bọn người chỉ biết ngồi ăn nịnh bợ, hại những người lăn mình vào gươm đao, thập tử nhất sinh. Bệ-hạ mang quân đến Trường-an, bắt chước Cao-tổ du Vân-mộng bắt Sở-vương Hàn Tín. Ai cũng can thần đừng đi vì sẽ bị hại. Nhưng thần nghĩ, Sở vương ham danh, hám của. Chứ thần chỉ xin một con ngựa, một thanh gươm. Giữa bệ-hạ với hạ thần có tình huynh đệ, sao bệ-hạ có thể hại thần được? Nghiêm Sơn thở dài, nói tiếp: – Khi hạ thần tới đây, thấy bọn mặt dơi tai chuột hạch hỏi. Hạ thần biết chúng được bệ-hạ chuẩn cho. Chứ đời nào chúng dám hạch hỏi một tước vương cầm đại quân trong tay. Lại là em kết nghĩa của bệ-hạ? Là ân nhân cứu bệ-hạ. Nhưng dù chúng bới lông tìm vết cũng không tìm ra được một tội nào của thần. Nghiêm Sơn nói một hơi làm Quang-Vũ ngượng mặt ngơ ngác. Nghiêm Sơn nói tiếp: – Dù sao bệ-hạ cũng cho trói thần rồi. Bây giờ bệ-hạ có tha thần ra, vẫn cảm thấy mình là người vong ân, bội nghĩa. Tất sau bệ hạ sẽ tìm cho ra một vài tội để giết thần, mới lấp được miệng thế gian. Cho nên thần đã cầm cái chết trong tay. Vậy bây giờ bệ-hạ có chuẩn cho thần một ngựa, một gươm ngao du bốn biển không? Hàn-lâm bác sĩ Phạm Thăng tâu: – Tâu bệ-hạ! Bệ-hạ cho Vương-gia đi như vậy, tướng sĩ khắp nơi náo loạn hết. Chắc chắn Vương sẽ về Lĩnh Nam, rồi giúp người Lĩnh Nam tạo phản, thì nguy thay. Nghiêm Sơn cười: – Theo ý Phạm hàn-lâm, giá tôi có một tội gì đó, khả dĩ bệ-hạ có thể đem chém. Rồi ra cái bộ nhân từ, nghĩ đến công lao, tha chết, cách hết chức tước, đuổi ra ngoài dân dã phải không? Tư-đồ, Hàn-lâm bác sĩ, đều nhìn Quang-Vũ cả hai gần như đồng ý với nhau. Nghiêm Sơn cười: – Điều đó dễ lắm, để hạ thần làm một tội, nghĩa huynh bệ-hạ có thể giải quyết cái khó khăn. Vương vẫy Tư-đồ, Hàn-lâm bác-sĩ lại gần: – Hai vị lại đây, tôi nói nhỏ cho nghe phương cách phạm tội của tôi. Hai người ghé sát đầu lại gần Nghiêm Sơn. Bất thình lình Vương túm tóc hai người quát lên như sấm nổ: – Cái tội của tôi để bệ-hạ có thể cách chức, đó là giết đại thần trước mặt bệ-hạ vậy. Vương hít hơi giật mạnh tay, hai người bay ngược lên cao. Vương quật xuống thềm. Hai người bể tan đầu, óc phọt ra nền điện, máu me chan hòa. Quang-Vũ kinh hoảng lắp bắp: – Hiền đệ đừng hại ta. Nghiêm Sơn cười khổ sở: – Bệ-hạ kết huynh đệ với thần, mà giờ này không hiểu thần. Người nghĩa hiệp đã kết bạn với nhau, sống chết có nhau, không vì một lý do gì mà hại nhau. Lưu Tú huynh, đệ không hại huynh đâu, huynh hô võ sĩ bắt đệ để trị tội đi. Quang-Vũ hô lên, các võ sĩ chạy vào. Nghiêm Sơn chỉ vào hai xác Tư-đồ, Tư-không nói: – Các ngươi mau trói ta giam lại. Ta ỷ mình là nghĩa đệ của bệ-hạ giết mất hai đại thần rồi. Các võ sĩ nhìn Quang-Vũ hỏi ý kiến. Quang-Vũ gật đầu. Chúng xúm lại trói Nghiêm Sơn. Quang-Vũ tiễn Nghiêm Sơn ra cửa: – Ta lại cho giam hiền đệ vào nhà lao đây. Hiền đệ đừng giận ta nghe. Nghiêm Sơn bước đi, không quay lại, Vương chỉ cười nhạt. Khất đại-phu vội buông cửa sổ, vọt khỏi điện Vị-ương rời Hoàng-thành ra chỗ trú ngụ. Trưng Nhị, Phật-Nguyệt đón ông. Hai người nhìn nét mặt ông thì đoán có chuyện hung hiểm đã xảy ra. Trưng Nhị hỏi: – Có chuyện không hay xảy ra rồi sao? Khất đại-phu thở dài: – Nghiêm Sơn bị bắt giam. Quang-Vũ định giết hết chúng ta! Ông từ từ thuật lại hết những gì nghe thấy ở điện Vị-ương cho hai người nghe. Ánh mắt Phật-Nguyệt chiếu ra những tia hàn quang sáng rực, nàng đề nghị: – Phải viết thư cho Phương-Dung, Vĩnh-Hoa, chúng ta rời khỏi đây ngay đêm nay. Trưng Nhị ngồi viết thư rồi cột vào chân Thần-ưng. Hai thần-ưng bay bổng lên cao, hướng đất Ích-châu bay đi. Phật-Nguyệt bàn: – Bây giờ chúng ta cứu Nghiêm đại ca, rồi hãy đi chứ? Khất đại-phu lắc đầu: – Nghiêm Sơn có một bí mật về thân thế, chỉ có ta mới biết. Y vì tình nghĩa hiệp và vì nhũ mẫu mà giúp Quang-Vũ. Y không muốn phản Quang-Vũ. Mặt khác y muốn phục hồi Lĩnh Nam như chúng ta. Bây giờ giữa chúng ta với Quang-Vũ có chiến tranh. Y không thể giúp Quang-Vũ phản Lĩnh Nam. Y cũng không thể giúp Lĩnh Nam đánh Quang-Vũ. Y đành ở lại cho Quang-Vũ giết. Y muốn dùng cái chết của mình, hầu làm nản lòng binh tướng Hán, khích động lòng hận thù của chúng ta với Quang-Vũ. Phật-Nguyệt bàn: – Vậy thì sáng mai Quang-Vũ sẽ cho triệu chúng ta vào triều đãi yến, rồi nhân đó bỏ thuốc mê bắt chúng ta. Sau đó y gửi chiếu chỉ đi khắp nơi bố cáo việc bắt giam Nghiêm đại-ca. Chúng ta cần trì hoãn việc của y, càng lâu, càng tốt. Trong khi đó chúng ta có đủ thì giờ hành sự. Trưng Nhị quyết định: – Không có gì khó cả. Chúng ta nói với mấy người ăn mày rằng: Khất đại-phu đi Hàm-dương chữa bệnh cho Thái-thú, ba ngày sau sẽ về. Hoài-nam vương ngồi chờ chúng ta ba ngày, rồi mới cho người đến Hàm-dương tìm. Khi biết bị chúng ta lừa, thì đã trễ ba ngày. Bấy giờ Quang-Vũ xuống chiếu. Sai sứ giả truyền lệnh cho Ngô Hán, Đặng Vũ cũng phải mất 10 ngày đi đường. Tổng cộng chúng ta có nửa tháng. Với nửa tháng đó ta dư sức chiếm Kinh-châu, Hán-trung, làm giang sơn nhà Hán nghiêng ngửa. Suy nghĩ một lát, Trưng Nhị tiếp: – Chúng ta đón đường bắt sứ giả giết đi. Rồi giả chiếu chỉ Quang-Vũ gửi cho Ngô Hán, Đặng Vũ truyền lệnh trao binh quyền cho chúng ta, về Trường-an nhận chức mới. Còn ta, ta coi như Nghiêm đại ca còn cầm quyền, dùng binh phù Lĩnh-nam vương, lệnh các nơi phản Hán. Tướng nào nghe thì ta để, tướng nào chống thì ta giết. Mọi việc phải thực hiện trong 15 ngày. Sau 15 ngày chiếu chỉ Quang-Vũ tới các nơi thì sự đã rồi. Mặt khác ta cản trở chiếu chỉ đi chậm ngày nào, hay ngày nấy. Một trong ba chúng ta ở lại rình bắt giết sứ giả Quang-Vũ gửi đi Kinh-châu, Ích-châu, Hán-trung, Lĩnh Nam. Phật-Nguyệt nói: – Việc này em có thể làm được. Trưng Nhị mừng lắm nói: – Gặp sứ giả phải giết ngay, không nhân nhượng. Sau khi giết đốt, hoặc chôn xác để không ai nhìn ra. Nhưng công văn trong người sứ giả đem về cho chị gấp. Phật-Nguyệt khẳng khái nhận lời. Trưng Nhị cùng Khất đại-phu phi ngựa về hướng Dương-bình quan. Đến Nam-trịnh, Trưng Nhị bảo Thứ-sử Đô Thiên: – Tai họa diệt tộc của sư huynh đến nơi rồi! Đô Thiên kinh hãi hỏi: – Tại sao vậy? Trưng Nhị tường thuật tỉ mỉ các việc xảy ra cho Đô Thiên nghe, rồi nàng kết luận: – Quang-Vũ truyền phái sứ giả đi khắp nơi, truyền bắt giam trừ diệt tất cả tướng sĩ, thân thuộc, bằng hữu của Nghiêm đại ca. Vì vậy tôi báo để đại ca biết hầu định liệu. Đô Thiên chết lặng giờ lâu, hỏi Trưng Nhị: – Trưng cô nương, cô nghĩ sao? Trưng Nhị cười: – Người Trung-nguyên của đại ca thì vua muốn bầy tôi chết, bầy tôi chết. Người Lĩnh Nam chúng tôi không thế. Ta giúp người, người phải đãi ngộ ta. Ta giúp người mà người không đền đáp ta, ta đòi. Ta xây sự nghiệp cho người, khi thành công, người giết ta để hưởng tất cả. Ta phải chống lại để tự tồn. Đô Thiên run run đáp: – Trưng cô nương, anh hùng Lĩnh Nam sao thì tôi vậy. Xin cô nương chỉ cho tôi con đường sống nguyện không dám quên ơn. Trưng Nhị thở dài: – Đại ca có hai con đường. Một là, chuẩn bị gia thuộc, tắm rửa ngồi chờ Quang-Vũ sai người tới đem ra chợ chặt đầu, của cải tịch thu. Xác chết đem phơi nắng mưa, đầu đem bêu khắp nơi cho quần chúng coi. Đô Thiên nhăn nhó: – Tôi không chịu được như thế. Trưng Nhị tiếp: – Con đường thứ nhì triệu tập hết chân tay thân tín, uống máu ăn thề. Sau đó gọi các tướng cầm quân, huyện-lệnh, huyện-úy về nói rõ việc mình làm. Ai theo thì để, ai không theo thì chặt đầu. Rồi truyền, lệnh đi khắp nơi đóng chặt đồn ải, hợp với chúng tôi phản Hán. Đô Thiên rút thanh kiếm, chém sạt một góc bàn thề: – Tôi quyết theo kế ng phải là đại cao thủ hiếm có trên thế gian. Chúng ta thử lại gần xem chúng là ai? Là người của Hán hay của Thục. Phương-Dung nói: – Chắc chắn không phải Tế-tác Thục. Vì Tế-tác Thục đâu có dò thám các vị Thiên-sơn. Cũng không phải của chúng tôi. Có lẽ của Quang-Vũ. Phải bắt lấy chúng, nếu không kế hoạch của chúng ta bị lộ hết. Hồ Đề đến gần ba tên quân Hán: – Các ngươi là binh sĩ Hán, chúng ta là chúa tướng. Tại sao các người tò mò? Các ngươi mau bỏ vũ khí. Nếu không ta gọi Thần-phong đến bây giờ. Ba người vội bỏ vũ khí. Hồ Đề vẫy tay ra hiệu, đội Thần-ngao nới rộng vòng vây. Còn đội Thần-ưng vẫn bay lượn trên cao. Hồ Đề, Giao-Chi, Trần Quốc cùng tiến lại bắt ba tên gian tế. Bất thình lình ba tên phân làm ba ngả nhảy vèo đến tấn công Hồ Đề, Giao-Chi, Trần Quốc. Chưởng lực của chúng mạnh kinh người. Ba người hoảng hốt vung chưởng đỡ, song đã muộn, cả ba đều bị bắt. Chiêu thức chúng vừa hùng mạnh, vừa nhanh không thể tưởng tượng được. Một trong ba tên nói: – Các người đứng yên, nếu không ta kẹp tay một cái ba đứa con gái này chết tươi lập tức. Đoàn Thần-ngao, Thần-ưng, Thần-hổ thấy chúa tướng bị bắt, chúng ré lên nhào xuống cứu. Phương-Dung ra lệnh cho Vi Đại-Lâm: – Lão bá cho Thần-ngao lui lại ngay. Thần-ngao, Thần-hổ bao vây phía ngoài như thành đồng, vách sắt. Lục-Sún chỉ huy tất cả 600 Thần-ưng bay lượn trên trời. Thoáng một cái đội Dã-nhân, Thần-hầu hơn 600 mang vũ khí vây vòng ngoài. Thiên-ưng Tây-vu lục tướng tức Lục Sún, cho tới Lục-hầu tướng đều là trẻ mồ côi, được Hồ Đề nuôi dạy từ nhỏ. Tuy chúng gọi nàng là sư tỷ chứ thực sự tình nghĩa còn hơn mẹ con. Chúng thấy Hồ Đề bị bắt, thì dậm chân, múa tay bực tức. Ngũ-long công chúa, Lục-phong quận-chúa cũng đã đến. Trưng Nhị từ từ tiến tới trước gian tế, nàng đã nhận ra họ: – Thì ra Phiêu-Kỵ đại tướng quân Sầm Bành, Chinh-lỗ đại tướng quân Tế Tuân và Trung-lang tướng Lai Háp đây. Chúng ta là người một nhà cả. Tại sao các vị dò thám, rồi bắt người là thế nào?? Trung-lang tướng Lai Háp nói: – Trưng cô nương, ngươi đừng giả nhân, giả nghĩa nữa. Các ngươi họp với bọn Thục. Kế hoạch ta đã biết hết rồi. Khi các ngươi từ Lĩnh Nam về, chúng ta được mật chỉ của Mã thái-hậu theo dõi hành vi của các ngươi. Lục Sún thả Công-tôn Thiệu, cho Thần-ưng ăn gần 20 ngàn quân Hán. Trưng Trắc, Đinh Đại từ Lĩnh Nam sang chủ trương phản Hán thả Công-tôn Khôi, vào Thành-đô họp với Công-tôn Thuật ta biết hết. Các ngươi mau mở vòng vây tha ta ra, bằng không ta giết chết ba đứa con gái này. Hiện diện tại đó có các cao thủ bên Thục như Công-tôn Khôi, Công-tôn Thiệu, Điền Sầm, Tạ Phong, Vương Nguyên, Triệu Khuôn, Nhiệm Mãng. Họ đều có thể đấu ngang tay với ba tướng Hán này. Bên Lĩnh-nam thì Khất đại-phu, Đào Kỳ, Phương-Dung, Cao Cảnh-Minh đều thắng được chúng. Song họ đành bó tay không biết làm thế nào, vì ném chuột sợ vỡ đồ. Phùng Vĩnh-Hoa nghĩ được một kế, ghé tai Đào Kỳ, Khất đại-phu, Phương-Dung dặn dò mấy câu. Nàng gọi Ngũ-long công-chúa lại nói nhỏ. Trưng Nhị nói: – Thôi được, chúng ta mở đường cho các vị đi. Các vị đi về hướng Bắc, ra khỏi cổng thành để người của ta xuống. Này Phiêu-kỵ đại tướng quân, cửa Bắc thành này có đồi Bành-vong. Nghĩa là chỗ chết của người tên Bành. Tướng quân nên cẩn thận. Sầm Bành chợt nhớ trong bản đồ của Thục có địa danh tên Bành-vong. Hôm trước y xin đổi là Bành vạn-thọ. Nguyên đạo làm tướng Trung-hoa tin rằng khi đánh trận nơi nào trùng với tên mình hoặc tên hiệu mình, thì y như là bị chết tại chỗ đó. Sầm Bành nghe Trưng Nhị nói, mặt tái đi. Ba người cặp ba con tin, hướng cửa Bắc mà đi. Vừa qua cổng thành, bất thình lình chân họ bị vướng vào dây, ngã lăn ra. Họ dùng tay gỡ dây, thì vèo, vèo, vèo ba viên sỏi bay đến trúng vào tay. Cánh tay họ tê chồn. Họ buông con tin vọt lên định chạy, thì hai tay, rồi khắp người họ bị dây cuốn lại không cử động được. Những sợi dây tanh hôi kinh khiếp. Bây giờ họ mới biết đó là những con trăn. Chinh-lỗ đại tướng quân Tế Tuân nói: – Các ngươi xưng là anh hùng Lĩnh Nam, Thiên-sơn thất hùng, thế mà bảo thả bọn ta rồi còn dùng trăn bắt. Đồ hèn hạ! Ta không phục! Trưng Nhị! Bấy lâu ta ở dưới trướng người, bây giờ mới biết người hèn hạ thế. Ta cảm thấy tủi nhục. Trung-lang tướng Lai Háp nói: – Các ngươi có giỏi, một chọi một. Nếu thắng, bọn ta mới phục. Chớ các ngươi ỷ đông người. Có chết ta vẫn khinh rẻ bọn ngươi. Hồ Đề là gái nhưng nàng là nữ anh hùng Tây-vu. Nàng huýt sáo cho trăn thả bọn chúng ra. Nàng nói: – Ba vị tướng quân, võ công ba vị cao hơn ta nhiều. Ta bị bắt tức là bị thua. Ta là Hồ Đề, ta ra lệnh cho Thần-ưng, Thần-ngao, Thần-long thả các ngươi. Song ở đây còn anh hùng đất Thiên-Sơn, Lĩnh Nam. Nếu các ngươi thắng được họ, các ngươi có thể thư thả ra về. Sầm Bành nói: – Bọn Thiên-sơn ta chỉ nể mặt tên Vương Nguyên. Còn tất cả chúng ta từng giao đấu qua rồi. Có người hòa ta, có người bại dưới tay ta. Lần này ta muốn đấu với bọn Lĩnh Nam các ngươi. Khất đại-phu nói: – Chúng nó là bọn hậu sinh, ta không muốn ra tay. Các cháu làm sao thì làm. Ta với người bạn già ngồi lược trận được rồi. Thiên-sơn lão tiên! xuất hiện đi thôi! Từ trên nóc nhà, Thiên-sơn lão tiên nhảy cái vèo xuống. Ông móc trong túi ra ba tấm thẻ bài, đưa cho Sầm Bành: – Các ngươi phục trên nóc đại sảnh ta đã biết từ lâu. Các ngươi mải dọ thám bị ta móc túi lấy mất thẻ bài mà cũng không hay. Ba tướng toát mồ hôi lạnh. Với bản lĩnh của họ hiếm có trên thế gian, mà bị Thiên-sơn lão tiên móc thẻ bài mà không hay biết. Nếu lão tiên muốn lấy tính mạng của họ, thì họ đã chết từ lâu rồi. Thiên-sơn lão tiên cầm tay Khất đại-phu, lại ngồi gần bên tảng đá gần đó. Quế-Hoa mang cái điếu đến để trước mặt hai ông, đánh lửa châm đóm. Thiên-sơn lão tiên nói: – Cái món thuốc Lào Lĩnh Nam thực là tuyệt. Này Trần đại huynh, đại huynh là y học danh gia. Đại huynh thử phân tích xem cái lý nào làm người ta say mê thuốc lào đến bỏ không được. Khất đại phu cười: – Trước hết đệ nói về cách chế thuốc lào. Cây thuốc phải trồng trong vùng đất tốt, hơi ẩm thấp một chút. Đợi lá thuốc vàng ngà ngà thì đi hái về. Lá thuốc rửa thật sạch, để cho ráo nước. Dùng dây bó thành từng bó bằng cổ tay hay bắp chân. Thái thực nhỏ. Càng nhỏ, càng tốt. Cho thuốc vào giỏ đậy lại, ngâm dưới nước ba ngày, ba đêm. Nhựa thuốc trôi ra, có như vậy khi hút vào mới thấy bớt nóng, bớt cay, bớt nồng. Thiên-sơn lão tiên hỏi: – Tại sao thuốc lào có cái gì dẻo dẻo, sền sệt, giống nhựa. – Đúng đấy. Thuốc được đem phơi khô, rồi đồ với nước cháo. Dùng gạo tám thơm nấu thành cơm nhão một chút. Cơm cho vào nước sôi, đánh thành hồ. Lấy nước hồ đồ vào thuốc, rồi đem phơi không nên phơi khô quá. Phải âm ẩm, thì hút mới ngon. Bàn về lý âm dương. Lá thuốc lào vị cay, cay nhập phế. Tính chất của vị cay là phát tán. Người hút có thể bị khí hư, hại phổi. Thuốc cay như vậy là dương. Đem ngâm dưới nước, dương bớt đi, hợp với nước là âm, thế là âm dương điều hòa. Hút thuốc không bị hại khí cũng không bị hại phổi. Thuốc đồ với nước cháo. Nước cháo thuộc vị ngọt. Vị ngọt có tính chất cô đọng, chống phát tán, vì vậy hút thuốc lào thấy cay cũng có cay. Ngọt thì cũng có vị ngọt. Nước cháo cháy thành than nên còn vị đắng. Ba vị nhập vào môi, vào lưỡi nên thành mùi vị đặc biệt. Y học nói vị cay nhập Phế, vị ngọt nhập Tỳ, vị đắng nhập Tâm. Y học cũng nói: Tâm tàng thần, Phế tàng phách, Tỳ tàng ý. Nghĩa là Tâm chứa thần khí, Phế chứa phách, Tỳ chứa ý tưởng. Khi bị ba vị trong thuốc làm cho mê mê, say say thực. Nhưng ý tưởng, thần chí, hồn phách cực kỳ khoan khoái. Đại huynh có thấy đúng không? Thiên-sơn lão tiên nói: – Đúng vậy. Thiên-sơn lão tiên lại hỏi: – Từ khi Trần huynh cho đệ hút thuốc đến giờ, đệ ghiền, bỏ không được. Khất đại-phu cười: – Bỏ làm gì? Hút thuốc lào để tiêu khiển, là một nghệ thuật, tại sao lại bỏ? Khói thuốc bị đốt cháy từ ống điếu chạy qua nước. Nước lọc hết khí độc. Khói thuốc từ lửa xuyên qua nước. Thế là Âm, Dương, Thủy, Hỏa điều hòa. Sỡ dĩ hút thuốc vào bị say đến mờ con mắt đi là vì hồ ở trong thuốc. Hồ có tính chất cô đọng, giữ hương vị lâu dài. Phàm hút thuốc, phải say đến mờ mắt, say đến trời đất quay cuồng mới thú vị. Thái-tử Công-tôn Tư đứng hầu cạnh Thiên-sơn lão tiên lên tiếng hỏi: – Lĩnh-nam lão tiên! Đệ tử thấy lão tiên cất thuốc trong cái hộp bằng gỗ. Cất thuốc như vậy có nguyên lý gì không? Khất đại-phu mở cái hộp lớn ra, trong có năm cái hũ đựng thuốc hai cái bằng gỗ, một cái bằng vàng, một cái bằng sành và một cái bằng vỏ con trai. Ông lấy hai cái hộp gỗ ra đưa cho Công-tôn Tư ngửi, rồi hỏi: – Thái-tử thấy thế nào? Công-tôn Tư nói: – Một cái thì hương vị thuốc trầm, một cái thì thơm tho bốc lên thực mạnh, chạy thẳng vào tới tim. Khất đại-phu giảng: – Đúng! Hộp thuốc thứ nhất bằng gỗ cây dừa. Dừa mọc dưới nước thuộc thủy, tính của nó thuộc âm hàn, vì vậy hương vị dịu hơn. Còn hộp này là quế. Tính của quế thuộc nhiệt, thuộc hỏa, nên vị nồng nặc. Ông bỏ điếu thứ nhất rồi châm lửa cho Thiên-sơn lão tiên hút. Xong lại bỏ điếu thứ nhì vào cho lão hút. – Hay thực, điếu thuốc trong hộp gỗ dừa, hút vào ngọt dịu, mát miệng. Còn điếu thuốc trong hộp gỗ quế, hương thơm mạnh chạy khắp cơ thể. Khất đại-phu lại lấy điếu thuốc trong hộp bằng vàng cho vào điếu mời Thiên-sơn lão tiên hút. Lão rít một hơi. Điếu kêu lên những tiếng lách cách vang dội. Lão ngửa mặt lên trời, thở ra, lim dim mắt nói: – Thuốc này giữ nguyên mùi vị. Khất đại-phu gật đầu: – Đúng! Kim loại không hút vị thuốc, cũng không làm đổi vị thuốc, vì vậy không có gì biến đi cả. Ông lấy một điếu thuốc trong cái hộp bằng sành và một điếu trong cái hộp bằng vỏ con trai, cho vào điếu, mời Thiên-sơn lão tiên: Thiên-sơn lão tiên hút xong hai điếu thuốc nói: – Điếu trong cái hũ bằng sành thì nhẹ nhàng. Còn điếu trong cái vỏ con trai thì mát dịu. Khất đại-phu vỗ đùi reo: – Đúng như vậy. Hũ sành thuộc thổ. Thổ sinh ra Mộc là thuốc, vì vậy vị thuốc nhẹ nhàng, hương thơm giữ lâu trong cổ. Còn thuốc đựng trong con trai, tuy cũng thuộc Thổ. Song trai ở dưới nước thuộc Thủy, Thủy tính làm cho thuốc dịu đi là thế. Đến đây Khất đại-phu cũng rít một hơi, thở khói bay tỏa trên không. Thình lình ông thổi vào ống điếu một cái, tàn thuốc bay đến vèo, trúng vào một người nằm dài dưới đất. Người này choáng váng đứng dậy. Công-tôn Tư nhìn lại thì ra y là Trung-lang tướng Lai Háp. Nguyên trong khi Khất đại-phu với Thiên-sơn lão tiên luận bàn về thuốc lào, đám anh hùng Lĩnh-nam bàn định cử người đấu với ba tướng Hán. Hiện ngoài Đào Kỳ, Phương-Dung không ai địch lại ba cao thủ Hán. Phùng Vĩnh-Hoa bàn: – Đào hiền đệ đấu với Sầm Bành. Phương-Dung đấu với Tế Tuân, chắc chắn thắng cả hai cuộc. Vậy cuộc thứ ba ai đấu mà chẳng được. Có thể để Đinh-hầu đấu với Lai Háp. Sầm Bành lên tiếng trước: – Trận đầu do Ch