hông như Nuwara Mniyo, các sư cô ở tu viện Gedige có thể dễ dàng truy nguyên sự truyền thừa của hệ phái của họ đến vài thế hệ. Điều này có thể do nhiều yếu tố khác nhau. Trước tiên, việc thọ giới của một số các vị bổn sư ni đã diễn ra trong một khoảng thời gian ngắn (Sư bà Nuwara Mniyo được thọ giới năm 58 tuổi, chỉ hai năm trước khi Mettik Mniyo được thọ giới). Thứ đến, vì các vị sư cô này đặt nặng vấn đề giáo dục trong chúng của họ, nên sự quan trọng của liên hệ thầy trò, nghĩa là sự kế thừa, có thể đã được phát huy. Cuối cùng, phần đông các sư cô được sư bà Nuwara Mniyo truyền giới tiếp tục chung sống với nhau, nên việc họ coi mình là đệ tử của cùng một vị bổn sư được củng cố thêm. Khi tôi viếng tu viện năm 1997, có sáu sư cô sống ở đó, trong đó có năm người thọ giới với sư bà Nuwara Mniyo. Ba người đệ tử không sống ở đó, thì một sống trong vùng lân cận, một hoàn tục, và một do bệnh hoạn và không thể chịu nổi sự khốn khổ do thiếu nguồn nước, nên đã rời bỏ tu viện Gedige. Hiện nay, có vẻ Mettik Mniyo thuộc về một hệ phái đã tàn lụi. Tôi hỏi bà sao không rèn luyện hay truyền giới cho các sư cô khác nữa. Bà đã trả lời, “Sự thể là thế này: nếu tôi huấn luyện đệ tử (golayas)…. Tôi sẽ rất buồn. Như tôi đây, đệ tử của bổn sư tôi, và tôi đã khốn khổ rất nhiều. Nếu tôi có đệ tử, tôi phải ở nơi có nguồn nước, chỗ ở khả dĩ… Vì vậy, tôi không có ý muốn huấn luyện đệ tử”. Bà giải thích thêm rằng không thiếu các sư cô muốn được truyền giới: “Có nhiều sư cô chờ đợi để được truyền giới ở đây, nhưng vì vấn đề nước nôi, họ phải đi tìm nơi khác”. Tôi gợi ý rằng tu viện của họ có thể bị người khác chiếm đoạt vì không có các sư cô trẻ kế thừa. Bà đồng ý, “Thí dụ, nếu các sư cô này rèn luyện các golayas trẻ…, nếu có những mniyo trẻ đến đây tu tập… thì chúng tôi có thể tồn tại trong tương lai… Nhưng một khi không còn vị sư cô nào, thì một vị tăng nào đó cũng có thể lấy chỗ này… không ai biết được [điều gì sẽ xảy ra]”. Bà đã bày tỏ một cách chân thành rằng do thiếu khả năng để tìm được một trú xứ thích hợp hơn mà sự kế thừa của hệ phái của bà sẽ không được vẹn toàn. Rõ ràng là bà nghĩ sự khó khăn đó không có cách chi sửa đổi. Dầu các sư cô ở tu viện Gedige cũng có những khó khăn như với Nand Mniyo (thiếu nguồn nước sạch, tranh chấp với các tăng, không có sự kế thừa vững chắc), họ vẫn có thể chung sống với nhau, duy trì được một cộng đồng tu chúng và cơ ngơi vững chãi qua nhiều thế hệ. Tuy nhiên, sự thành tựu của họ không trọn vẹn, vì họ không biết sử dụng quyền làm chủ một cách hiệu quả, cũng như chứng tỏ quyền sở hữu pháp lý của miếng đất mà họ đang sống trên đó. Tu Viện Aligoda Giống như tu viện Gedige, tu viện Aligoda được xây dựng khoảng giữa những năm 1950. Từ đó đến nay, tu viện đã phát triển và giờ đây bao gồm tổng cộng 5 lô đất, nhưng chỉ có hai có giấy chủ quyền. Dưới đây tôi sẽ tóm tắt qua lịch sử của tu viện, xác định các lô đất liên quan đến tu viện và các chủ nhân pháp lý của chúng. Sau đó tôi sẽ triển khai về mối tương quan giữa đất đai và sự kế thừa. QUYỀN SỞ HỮU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẤT ĐAI Tu viện đã sử dụng năm lô đất. Chỉ trừ một lô, tất cả các lô còn lại liền kề bên nhau. Lô số 1: Một thửa ruộng nhỏ. (Năm 1977, người ta lấp ruộng, xây tháp thờ xá lợi tại đây). Hai mươi thành viên của gia tộc Silva là chủ phần đất này. Lô số 2: Một phần đất và một ngôi nhà, được cúng dường cho vị ni sáng lập tu viện và những người kế thừa nhiệm sở năm 1974 để làm cơ sở giáo dục các sư cô trẻ. Lúc đó, miếng đất có giá trị khoảng hai ngàn rubi. Lô số 3: Một dãy đất trên đó có trồng một cây bồ đề, một chánh điện budug, một hội trường (slva đã bị phá hủy năm 1997) và nội viện cho các sư cô. Nơi này bao gồm khoảng bốn thất nhỏ cũng như nhà bếp và nhà ăn. Khởi đầu ở đây còn có một nghĩa địa gia đình và một billva (giống như bờ ruộng). Hiện tại một số con cháu của gia đình Silva làm chủ đất này. Lô số 4: Một phần đất nhỏ hơn nối liền với lô 3, bao gồm khoảng 7 cây dừa và một thất có hai phòng riêng để các ni sư ở. Đất này không có giấy tờ chủ quyền, do các người hàng xóm làm chủ. Lô số 5: Khoảnh đất rộng bằng phân nửa diện tích cả tu viện (không kể mảnh đất nêu ở lô số 2 ở trên), đã được viết giấy ủy quyền cho ni trưởng và các sư cô kế thừa. Giấy tờ này được làm từ những năm đầu 1990, và giá trị của nó lúc đó là chín ngàn rubi. Một thiền đường lớn, bao gồm mười lăm thất, đã được xây dựng năm 1994. Năm 1997, khi hội trường cũ bị phá dỡ, hội trường mới được xây cạnh bên thiền đường và giờ được các sư cô sử dụng nơi này cho những mục đích như dạy giáo lý cho trẻ em và hướng dẫn các lớp thiền cho cư sĩ. Tôi có đến gặp con trai (ông Silva) và cháu trai của gia đình người cư sĩ là chủ của phần lớn diện tích đất mà tu viện sử dụng. Họ giải thích rằng giữa những năm 1950, một phần rừng được khai hoang (trên lô 3) và một thất làm bằng lá dừa, lá cọ được dựng lên. Nhiều tăng sĩ đã sử dụng thất đó khi họ ghé qua vùng này. Theo ông Silva, “Các vị sư đầu tiên là những vị khất sĩ (piapta), nhưng họ không khất thực được lâu dài”. Dần dà các cư sĩ mang thực phẩm đến cúng dường quý sư. Cha của ông Silva đã xây một công trình vững chắc hơn, với hy vọng là các sư sẽ trụ lại vĩnh viễn. Tuy nhiên, các tăng sĩ địa phương sợ bị cạnh tranh, nên đã phản đối. “Tăng còn chống tăng, nói gì đến các sư cô”, ông Silva nói. Việc các sư không muốn trụ lại nơi này dài lâu đã khiến cha ông Silva thất vọng nhiều. Họ cho rằng trú xứ ‘không thích hợp’, rồi bỏ đi. Ông Silva giải thích rằng có thể cơ sở vật chất cho các sư không được đầy đủ; họ không đảm bảo sẽ nhận được sự hỗ trợ của các cư sĩ hay sự giúp đỡ khi bệnh hoạn. Ông nói, “Chúng tôi đã cố gắng hết sức, nhưng cũng có lẽ vẫn chưa phù hợp với các vị cao tăng. Chúng tôi không thể có đủ phương tiện như ở các tu viện”. Sau đó, cha của ông Silva với lời hứa sẽ xây một cơ sở mới, tốt hơn, đã tìm được một sư cô chấp nhận chuyển về đó sống. Tuy nhiên, trước khi sư cô, Utter Mniyo, có thể đến đó, gia đình Silva phải đảm bảo là các tăng sĩ sẽ rời bỏ nơi đó. Có vị tăng sĩ (người đã lìa chúng ở chùa tổ của mình) cứ trở đi, trở lại nơi này, ông Silva giải thích: “Chúng tôi đã nói ông ta không thể sở hữu đất này. Nhưng sau nhiều năm bỏ đi, ông ta lại trở về… vì nơi này đã được sửa chữa. Chúng tôi cũng đã bảo là muốn các sư cô ở đây vĩnh viễn…. Chúng tôi đã nhắc nhở không thể dành chỗ này cho ông ấy… Chúng tôi cần người ở đây dài lâu”. Vị tăng sĩ cuối cùng đành miễn cưỡng ra đi, và Utter Mniyo chuyển về cùng với sư cô Vimal Mniyo. Khi được phỏng vấn năm 1985, Utter Mniyo giải thích rằng lúc đầu bà cũng ngần ngại không muốn chuyển về, nhất là khi biết rằng dân làng kỳ vọng bà sẽ thành lập được các lớp giáo lý. Bà cảm thấy việc tham gia vào công tác xã hội sẽ có thể ảnh hưởng đến cuộc sống của người tu. Dầu Vimal Mniyo ra đi, các lớp giáo lý của Utter Mniyo dần cũng được thành lập vào cuối những năm 1960 và rất thành công. Lúc tôi đến viếng tu viện của bà lần đầu tiên vào năm 1985, có hơn 300 học sinh tham dự các lớp học này, và tỉ số này khá bình ổn. Tôi được biết là chư tăng cũng có đóng góp trong việc xây tu viện này, (thí dụ, cúng dường tượng Phật, và gần đây là tháp thờ xá lợi và hội trường mới). Chủ quyền đất cũng có được trong thời gian Utter Mniyo làm ni trưởng, rồi trong 30 năm kế tiếp, trừ lô số 2, các phần đất khác cũng được ‘hiến’ một cách không chính thức. Utter Mniyo bảo rằng bà dự định xây một trung tâm tu học cho các đệ tử của mình và các sư cô khác trong vùng. Ở thời điểm đó, giấy tờ đất để sử dụng cho mục đích này cũng chưa được cấp cho các sư cô. Vậy là Utter Mniyo đã không thể hoàn thành ước nguyện của mình trước khi bà mất năm 1985. Các cư sĩ sau này đã thỉnh cầu Vimal Mniyo trở về làm trụ trì. Gia đình Silva và các cư sĩ thuần thành đã giúp đỡ các sư cô trong việc dàn xếp để có được giấy chủ quyền cho lô số 2, nhưng không dễ dàng gì. Người chủ đất đã đồng ý cúng dường cho các sư cô sau khi chính phủ đồng ý trao cho gia đình họ đất khác, tương đương với giá trị của lô đất này. Tuy nhiên, sau khi chính quyền đã giao đất cho họ, người chủ đất lại không giữ lời hứa, vẫn tiếp tục chiếm giữ phần đất mà họ đã hứa giao cho các sư cô. Phải mất nhiều công sức để thương thảo, cuối cùng họ mới đồng ý thực hiện điều giao ước. Dầu không có trường ni nào được xây dựng trên phần đất đó (như ước nguyện của Utter Mniyo), nhưng các cơ sở mới xây dựng sau này cũng được sử dụng chính yếu cho việc hành thiền. Mỗi tháng, các sư cô đều có hướng dẫn thiền cho một số nữ cư sĩ. Nhưng vào những ngày bố-tát, có khoảng 200 cư sĩ đến viếng tu viện để dự thời khóa thiền do chư tăng hướng dẫn. Ngày nay lớp giáo lý và trung tâm thiền vẫn tiếp tục nhận được sự quan tâm, ủng hộ của các cư sĩ. Tòa nhà ở lô 2, cho chính quyền địa phương mướn tạm một thời gian với giá rẻ để họ tổ chức các lớp học may, giờ không còn được sử dụng nữa. Cũng lạ là các lô đất quý sư cô đang ở (lô số 1 và 3) lại thuộc về người khác, trong khi các lô đất mà họ có chủ quyền lại bỏ hoang, hoặc để các tăng hay cư sĩ sử dụng. Ông Silva cho biết hiện tại rất khó làm giấy chủ quyền cho các sư cô ở lô đất số 1 và 3, vì cha của ông không để lại di chúc, nên miếng đất tự động thuộc về ba người con trai và con cháu của họ ở tứ tán khắp nơi. Mấy người anh của ông Silva đã qua đời, nên con cái của họ được kế thừa. Giờ thì miếng đất đó do mười lăm hay hai mươi thành viên thuộc gia tộc Silva làm chủ, nhưng không biết họ ở đâu hay phải liên lạc với họ ra sao. Vào giữa những năm 1980, ông Silva cố gắng liên lạc với các thành viên này để nhờ họ ký tên giao chủ quyền cho các sư cô, nhưng việc này không thành vì chi phí liên quan đến việc nhận được sự đồng ý của mọi người còn nhiều hơn giá trị của miếng đất. Khi viếng thăm tu viện năm 1995 và 1997, tôi hỏi Vimal Mniyo, lúc đó là ni trưởng, về những thay đổi gần đây của tu viện, và việc liệu có lấy được giấy chủ quyền đất cho tu viện không. Bà có vẻ không biết chi nhiều về đất đai mà lý ra thuộc chủ quyền của tu viện. Khi tôi hỏi về miếng ruộng mà các sư cô có chủ quyền (lô số 1), và gia đình Silva trồng lúa trên đó để cung ứng cho tu viện, thì bà trả lời, “Các thí chủ đã cúng dường thực phẩm, thì làm chủ ruộng đất để làm gì?” Có vẻ bà rất tin tưởng vào sự hỗ trợ liên tục của các cư sĩ. Khi thảo luận về tư cách pháp lý của việc có giấy tờ chủ quyền, tôi giải thích có những trường hợp các sư cô đã phải tranh đấu để giữ đất mà họ đang ở, và rằng tu viện Aligoda cũng có thể bị người khác chiếm đoạt. Bà trả lời, “Ai mà lấy [đất này]… Khi người ta chết… đất này, mấy cây dừa này, mấy tòa nhà… cái gì có ở đây… đâu có ai muốn lấy thứ gì, phải không?... Lúc chết thì người ta bỏ mọi thứ lại đây, rồi đi tái sinh ở một nơi nào đó”. Tuy nhiên, khi tôi đặt vấn đề về đất đai với ông Silva và các sư cô khác, thì họ bày tỏ sự nghi ngại về khả năng được ở lại tu viện Aligoda dài lâu. SỰ TRUYỀN THỪA Utter Mniyo, thọ giới năm 1942, lúc bà mới mười ba tuổi, đã truyền giới và rèn luyện chín đệ tử. Bốn người trong số họ trú ở tu viện Aligoda khi tôi thăm viếng nơi đó năm 1997. Trong năm người còn lại, hai người sống ở một tu viện khác, một người nữa lại ở một tu viện khác cho đến khi qua đời năm 1988, người thứ tư dạy ở trường giáo lý, trong khi người thứ năm sống trong một thất, thay vì tu viện. Một số các sư cô này không phải là ni trưởng ở các tu viện họ ở, như thế ta thấy có khả năng sự truyền thừa hệ phái của họ sẽ bị gián đoạn. Các sư cô này vẫn đến viếng Utter Mniyo mỗi năm bốn lần trước khi bà qua đời. Giờ thì một hay hai năm họ mới đến tu viện Aligoda một lần. Việc này cho thấy bất cứ tình cảm nào về hệ phái mà họ có đã ngày càng phai lợt đi. Tôi không có được thông tin gì về vị bổn sư của sư phụ của Utter Mniyo, hoặc các sư cô mà bà đã truyền giới. Vimal Mniyo và Utter Mniyo không có cùng một bổn sư. Vimal Mniyo không biết bổn sư của thầy mình. Bà xuất gia năm 1939 khi được mười lăm tuổi, và sau này truyền giới cho hai đệ tử. Một trong hai người trở thành ni trưởng, và đã tự truyền giới cho ba đệ tử. Dầu đệ tử của Vimal Mniyo mỗi năm thăm bà một hay hai lần, mối liên hệ giữa họ cũng không khắng khít. Tất cả bốn sư cô đang sống ở tu viện Aligoda đều được thọ giới khoảng đầu những năm 1980, từ đó đến nay chưa có thêm sư cô nào được thọ giới ở đó cả. Dầu Utter Mniyo và Vilam Mniyo đã sống chung mấy năm trước và sau khi họ chuyển đến tu viện Aligoda, các sư cô trẻ cho rằng giữa họ có nhiều khác biệt, khiến Vilam Mniyo phải rời bỏ Aligoda. Sau khi Utter Mniyo mất, Vimal Mniyo được các cư sĩ thỉnh về làm trụ trì ở Aligoda. Lúc đầu giữa Vimal Mniyo và bốn cô đệ tử cũng có nhiều căng thẳng, vì họ vẫn rất trung thành với Utter Mniyo. Tuy nhiên, với thời gian mối liên hệ của họ cũng được tốt lên. Rõ ràng là nếu không có người thọ giới mới hay không có sư cô trẻ nào đến tu viện Aligoda, thì nó cũng sẽ ở trong tình trạng giống như tu viện Gedige, nơi mà các vị sư bà phải đối mặt với một tương lai bấp bênh. ĐẤT ĐAI VÀ SỰ TRUYỀN THỪA Ở thời điểm này, tu viện Aligoda đang rất phát triển và rất được ủng hộ. Tuy nhiên, triển vọng dài lâu của ni trường này khó mà đảm bảo. Dãy đất duy nhất được cúng dường và thuộc về tu viện là nơi dành cho các lớp thiền và lớp giáo lý. Các sư cô không có toàn quyền về đất này, vì người hướng dẫn các khóa thiền được nhiều người biết đến trong những ngày bố-tát là một vị tăng, và lớp giáo lý sẽ khó duy trì nếu không có sự hỗ trợ của quý thầy và các cư sĩ tình nguyện. Với sự truyền thừa dường như dứt đoạn, tu viện này một là sẽ rơi vào tay người khác, hoặc là sẽ bị bỏ hoang. Có thể các khóa thiền và lớp giáo lý vẫn tồn tại ở tu viện Aligoda dầu các sư cô có còn đó hay không. Không phải là không có chuyện tu viện Aligoda có thể xoay đảo ngược lại, vì miếng đất được cúng dường ở một thời điểm nào đó theo pháp luật sẽ phải hoàn lại cho các vị tu hành, nhiều khả năng là trao về cho chư tăng.