Khi Hatsumono sung sướng, cô ta cười như mọi người khác, và khi cô ta sắp làm cho người khác đau khổ, cô ta lại càng sung sướng hơn bao giờ hết. Cho nên cô ta đã cười rất rạng rỡ khi nói: - Ôi trời! Cuộc hội ngộ mới tình cờ làm sao! Gặp người tập sự! Thật tôi không nên nói hết chuyện này, vì nói ra chắc sẽ làm con người khốn khổ này bối rối. Tôi mong Mameha cáo từ, đưa tôi ra ngoài, nhưng cô ấy chỉ nhìn tôi, ánh mắt âu lo. Chắc cô ấy nghĩ để Hatsumono ở lại đây với các ông kia mà ra đi tức là bỏ ngôi nhà đang cháy mà chạy, cho nên chúng tôi ở lại để tìm cách làm giảm bớt thiệt hại. - Thật vậy, tôi nghĩ không có gì khó khăn hơn công việc của người geisha mới vào nghề tập sự geisha - Hatsumono nói – cô có nghĩ thế không, Bí Ngô? Bấy giờ Bí Ngô đã tập sự được sáu tháng, tôi nhìn cô ta cố gây thiện cảm, nhưng cô ta nhìn vào mặt bàn, hai tay để trên lòng. Tôi đã biết tính cô ta, khi thấy chóp mũi cô ta nhăn lại là tôi hiểu cô ta đang buồn. - Dạ phải, thưa bà – cô ta đáp. - Đây là thời gian khó khăn nhất đời - Hatsumono nói tiếp – Tôi còn nhớ tôi gặp nhiều chuyện khó khăn hết sức. Cô mới vào nghề à, tên cô là gì? May thay tôi khỏi phải trả lời vì Mameha đã lên tiếng. - Chị nói thời gian mới vào nghề của chị khó khăn là đúng, chị Hatsumono à. Tuy nhiên chị là người vụng về nhất. - Tôi muốn nghe phần cuối câu chuyện - một ông nói. - Và để làm cho cô mới vào nghề này bối rối à? - Hatsumono nói - nếu ông hứa khi ông nghe hết chuyện này, ông không nghĩ đến cô gái tội nghiệp kia, tôi sẽ kể cho ông nghe. Ông phải cam đoan ông sẽ hình dung ra cô gái khác mới được. Ngón đòn độc ác quỷ quyệt của Hatsumono rất tài tình. Đàn ông không thể hình dung được câu chuyện xảy ra cho tôi hồi nãy, nhưng bây giờ chắc thế nào họ cũng hình dung ra được. - Để xem nào, tôi nói đến đâu rồi – Hatsumono tiếp tục - Ồ, phải rồi, tôi nói đến cô mới vào nghề này…Tôi không nhớ tên cô ta nhưng tôi có thể cho cô ta một cái tên để quý vị khỏi lẫn lộn cô ta với cô gái tội nghiệp này. Này cô mới vào nghề, cô tên gì? - Thưa bà, Sayuri - tôi đáp. Mặt tôi nóng phừng phừng vì căng thẳng, đến nỗi nếu đồ mỹ phẩm trên mặt tôi tan ra, chảy thành giọt xuống áo chắc tôi cũng không ngạc nhiên. - Sayuri, tên đẹp quá, nhưng tên này không hợp với cô. Thôi được, chúng ta gọi cô mới vào nghề trong chuyện là Mayuri. Chuyện như thế này, một hôm tôi đi trên đại lộ Shijo với Mayuri, trên đường đi đến nhà chị cả của cô ta. Bỗng có cơn gió thật mạnh nổi lên, loại gió làm cho cửa sổ rung loảng xoảng, và cô Mayuri tội nghiệp chưa có kinh nghiệm trong việc mặc kimono. Cô ta nhẹ như chiếc lá và hai ống tay áo rộng đồ sộ như hai cánh buồm. Khi chúng tôi qua đường, bỗng cô ta biến mất, tôi nghe phía sau có tiếng nho nhỏ thốt lên như là “a…a…” nhưng rất yếu ớt. Đến đây Hatsumono quay qua nhìn tôi. - Giọng tôi không được lớn, cô hãy nói cho tôi nghe tiếng “a…a…” đi nào. Trời, tôi biết làm gì hơn? Tôi cố sức nói. - Không, không, nói hơn thế nữa. Nhưng mà thôi, khỏi cần. – Hatsumono quay sang người đàn ông ngồi bên cạnh thì thào – cô ta không sáng dạ, phải không? – cô ta lắc đầu rồi nói tiếp – khi tôi quay lui, cô Mayuri tội nghiệp bị gió thổi bay lui phía sau tôi độ một khu phố, hai tay hai chân múa may như con bọ nằm ngửa, múa cẳng lên không. Tôi cười muốn bể bụng, nhưng thình lình cô ta chạy ra khỏi lề đường, đi vào một ngã tư đông đúc vừa khi một chiếc xe hơi phóng tới. Nhờ trời, cô ta bị gió thổi bay lên nắp đậy máy xe! Hai chân chổng ngược lên …và không biết quý vị có tưởng tượng được cảnh này không, gió thổi tốc áo kimono cô ta lên! Và thôi, tôi khỏi cần kể cho quý vị biết chuyện gì đã xảy ra. - Cô phải kể ra mới được – một ông lên tiếng nói. - Ông không có óc tưởng tượng à? – cô ta đáp – gió thổi lật ngược áo của cô ta lên khỏi hông. Cô ta không muốn người ta nhìn thấy phần thân thể lõa lồ, cho nên để giữ gìn sự đoan chính của mình, cô ta quay người, giang hai chân ra, và phần kín đáo áp vào kính chắn gió trước mặt anh tài xế… Đám đàn ông bây giờ rất háo hức, kể cả ông Giám đốc, ông ta gõ cái tách rượu trên bàn như súng máy. - Đúng, thưa ông Giám đốc – Hatsumono nói – cô gái chỉ là người mới vào nghề. Tuồng như anh tài xế không thấy gì hết. Tôi muốn nói quý vị có thể tưởng tượng ra phần kín của cô gái đang ngồi ở bên kia bàn không? – Dĩ nhiên cô ta nói đến tôi – Có lẽ cô ta không khác gì một em bé. - Con gái nhiều lúc mới có 11 tuổi đã có lông rồi - một ông nói. - Cô mấy tuổi rồi bé Sayuri? – Hatsumono hỏi. - Mười bốn tuổi, thưa bà – tôi đáp, giữ thái độ rất lễ phép – nhưng đã gần tròn 14. Các ông có vẻ rất thích chuyện này và nụ cười của Hatsumono trở nên gay gắt. - Mười bốn à? Hoàn hảo biết bao. Và dĩ nhiên là cô không có lông… - Ồ có chứ, có rất nhiều – Tôi đưa tay vỗ lên mái tóc trên đầu. Tôi nghĩ làm thế là một hành động khôn ngoan, nhưng xem ra không phải thế. Các ông cười to hơn cả khi họ cười vì nghe câu chuyện của Hatsumono. Hatsumono cũng cười, tôi nghĩ vì cô ta không muốn tỏ ra chuyện cười đùa này nhắm vào cô ta. Khi mọi người hết cười, tôi và Mameha ra về. Chúng tôi không cần phải đóng cửa vì khi đó chúng tôi cũng nghe Hatsumono cáo từ ra về. Cô ta và Bí Ngô đi theo chúng tôi xuống cầu thang. - Này chị Mameha – Hatsumono nói - chuyện quá vui! Tôi nghĩ tại sao chúng ta không cùng nhau giải trí thường xuyên nhỉ. - Phải, chuyện thật vui – Mameha đáp – tôi cũng thích cảnh cùng nhau ta vui chơi sau này. Nói xong Mameha nhìn tôi với ánh mắt rất thoải mái. Cô ấy vui thích khi nghĩ đến cảnh Hatsumono bị làm cho đau khổ. Tối đó, sau khi tắm rửa lau chùi hóa trang xong, tôi ra đứng ở hành lang trước để trả lời các câu hỏi của bà Dì về công việc trong ngày. Thì Hatsumono từ ngoài đường đi vào, cô ta đến đứng trước mặt tôi. Thường khi cô ta không về sớm như thế, nhưng khi tôi thấy mặt cô ta hằm hằm là tôi biết ngay cô ta về để đụng độ với tôi. Thậm chí cô ta không thèm cười nụ cười nham hiểm nữa, mà hai môi mím lại trông rất dữ dằn. Cô ta đứng trước mặt tôi một lát, rồi giang tay đánh vào mặt tôi. Trước khi cô ta giang tay đánh vào mặt tôi, tôi chỉ thấy hai hàm răng cô ta nghiến vào nhau như chuỗi ngọc. Tôi quá kinh ngạc, không nhớ chuyện gì đã xảy ra sau đó. Nhưng tôi nhớ là bà Dì và Hatsumono cãi nhau, vì câu sau cùng tôi nghe Hatsumono nói là: - Nếu con này còn làm mất mặt tôi trước mặt mọi người nữa, tôi sẽ đánh vào má bên kia của nó. - Tôi làm mất mặt chị như thế nào đâu? – tôi hỏi cô ta. - Mày quá hiểu điều tao muốn nói rồi, khi tao nói tao không biết mày có lông chưa, thì mày đã làm cho tao trông như đồ điên. Tao mang ơn mày một việc, bé Chiyo à. Tao hứa tao sẽ trả cho mày trong một ngày gần đây thôi. Hình như Hatsumono đã bớt giận khi đánh được tôi, cho nên cô ta bỏ ra khỏi nhà, Bí Ngô đang đợi cô ta ở ngoài đường để cúi chào cô ta. Chiều hôm sau tôi kể lại chuyện này cho Mameha nghe, nhưng cô ấy không quan tâm đến. - Có gì khó khăn đâu? – Mameha nói - nhờ trời Hatsumono không để lại dấu gì trên mặt cô là được. Cô tin là cô ấy sẽ rất đau đớn khi nghe cô nói, phải không? - Em chỉ sợ những chuyện sẽ xảy ra sau này mà thôi. - Đừng lo, nếu gặp cô ấy chúng ta sẽ bỏ ra về. Chắc bà chủ sẽ ngạc nhiên khi thấy chúng ta mới vào tiệc mà đã về liền, nhưng làm thế tốt hơn là tạo cho Hatsumono có lợi để làm nhục cô. Vả lại, nếu chúng ta đụng phải cô ta, đấy cũng là điều may mắn. - Thật không, chị Mameha? Em không hiểu tại sao đụng phải cô ta lại là điều may mắn. - Nếu Hatsumono buộc chúng ta phải rời vài phòng trà, thì chúng ta sẽ ghé vào các tiệc vui khác. Cô sẽ được mọi người ở Gion biết đến nhanh chóng hơn. Lời khuyên của Mameha làm cho tôi yên tâm. Thật vậy, sau đó mỗi khi chúng tôi đi đâu ở Gion, tôi hy vọng sau một đêm dài vui chơi giải trí, tôi sẽ được hân hoan sung sướng khi lau chùi mỹ phẩm trên mặt đi. Nơi ghé vào đầu tiên của tôi là hai buổi tiệc mừng một diễn viên điện ảnh trẻ, anh ta có vẻ chưa quá 18 tuổi mà trên đầu không còn một sợi tóc, thậm chí không có cả lông mi, lông mày. Anh ta tiếp tục nổi tiếng trong vài năm sau nữa, nhưng nổi tiếng chỉ vì cách chọn con đường chết. Anh ta tự sát bằng gươm sau khi giết một cô hầu bàn ở Tokyo. Nhưng dù sao tôi cũng thấy anh ta rất lạ lùng cho đến khi tôi thấy anh ta cứ nhìn tôi mãi, tôi đã sống rất cô đơn trong nhà kỹ nữ, cho nên thấy anh ta chú ý đến mình, tôi rất sung sướng. Chúng tôi ngồi với nhau hơn một giờ và không thấy Hatsumono xuất hiện. Tôi hy vọng sự mơ ước thành công của tôi sẽ thành hiện thực. Tiếp theo, chúng tôi ghé vào một buổi tiệc do ông Viện trưởng viện đại học Kyoto tổ chức. Mameha đến nói chuyện với một người đàn ông đã lâu cô không gặp, để tôi lại một mình. Còn một chỗ duy nhất nơi bàn tôi phải ngồi là cạnh một ông già mặc sơ mi trắng dơ dáy, có lẽ ông ta khát qúa vì ông ta uống bia liên tục, ngoại trừ khi ông ta ợ. Tôi quỳ bên cạnh ông ta và định tự giới thiệu thì cửa bật mở. Tôi đoán chị hầu vào, nhưng té ra là Hatsumono và Bí Ngô đang quỳ ngoài cửa. - Ôi trời ơi! – tôi nghe Mameha nói chuyện với người đàn ông mà cô ấy đang tiếp – đồng hồ của ông đúng không? - Rất đúng – ông ta đáp – chiều nào tôi cũng so với đồng hồ ngoài ga xe lửa. - Chắc tôi và Sayuri phải chịu thất lễ. Xin cáo biệt thôi. Chúng tôi đã trễ hẹn ở chỗ khác cách đây nửa giờ rồi. Nói xong chúng tôi đứng lên bước ra khỏi phòng ngay sau khi Hatsumono và Bí Ngô vào. Khi chúng tôi rời khỏi phòng, Mameha kéo tôi vào một phòng trống. Trong căn phòng lờ mờ tối, tôi không thấy rõ nét mặt cô ấy, ngoài khuôn mặt trái xoan xinh đẹp và cái vương miện rực rỡ đội trên đầu. Nếu tôi không thấy rõ cô ấy thì cô ấy cũng không thấy rõ nét mặt của tôi, mặt tôi khi ấy thụng xuống bởi chán nản và thất vọng, vì tôi cảm thấy lo sợ không bao giờ thoát khỏi tay Hatsumono. - Sáng nay cô đã nói gì với con mụ quái đản ấy? – Mameha hỏi tôi. - Thưa chị, không nói gì hết! - Thế tại sao mụ ấy biết chúng ta ở đây? - Chính em cũng không biết chúng ta sẽ đến đây, làm sao em có thể nói cho chị ta biết? - Chị hầu của tôi biết mấy chỗ hẹn của tôi, nhưng tôi không tin. Thôi được, chúng ta sẽ đến dự một buổi tiệc khó có ai biết được. Naga Teruomi vừa được chỉ định điều khiển giàn nhạc Tokyo Philharmomic vào tuần trước. Chiều nay anh ta đã đến thành phố để mọi người có cơ hội chúc mừng. Tôi không muốn đi, nhưng Hatsumono sẽ không đến đấy đâu. Chúng tôi băng qua đại lộ Shijo, rẽ vào một con đường nhỏ ngát mùi rượu sake và khoai chiên. Một tràng cười từ trên các cửa sổ tầng hai bay xuống tận chỗ chúng tôi, đèn đuốc sáng choang lên. Vào trong một cô hầu dẫn chúng tôi lên một phòng ở tầng hai, chúng tôi thấy người nhạc trưởng đang ngồi trong đó, mái tóc thưa chải dầu bóng láng, mấy ngón tay mân mê tách rượu sake với vẻ tức tối. Những người đàn ông kia đang chơi trò uống rượu đấu với hai cô geisha. Nhưng người nhạc trưởng không tham gia với họ. Ông ta nói chuyện với Mameha một lát, rồi yêu cầu cô múa một vở múa. Tôi nghĩ là ông ta chẳngo năm 18 tuổi, họ không được đi từ tiệc này sang tiệc khác nhiều nơi. Nhưng họ phải ở lại lâu hơn một giờ, và chỉ điện thoại về cho nhà kỹ nữ của mình để hỏi người chị cả ở đâu, rồi cô ta đến phòng trà khác để được giới thiệu với khách mới khác. Trong khi người chị có thể ghé vào 20 nơi có tiệc trong một đêm, thì cô tập sự chỉ ghé được không quá 5 nơi. Nhưng Hatsumono không làm theo quy tắc này, cô ta đi đâu là dẫn Bí Ngô đi theo đấy. Cho đến khi được 16 tuổi, người geisha tập sự tính nửa Ohana một giờ. Nếu Bí Ngô ở tại chỗ tiệc nào chỉ 5 phút thôi, bà chủ vẫn ghi vào hóa đơn số tiền giống như cô ta đã ở đấy một giờ tròn. Ngoài ra, không ai nghĩ đến chuyện Bí Ngô chỉ ở tại đó có 5 phút. Có lẽ các ông cho qua chuyện Hatsumono đem cô em út đến dự trong chốc lát một đêm, hay hai đêm là cùng. Nhưng sau một thời gian, chắc thế nào họ cũng thắc mắc tại sao cô ta quá bận đến nỗi không ở lại lâu được, và tại sao cô em út không ở lại như nhiệm vụ yêu cầu cô ta phải làm thế. Lợi tức của Bí Ngô có thể cao – có lẽ cao đến ba hay bốn Ohana trong một giờ, nhưng thế nào cô ta cũng phải trả giá về tai tiếng của mình, và Hatsumono cũng thế. - Hành động của Hatsumono như thế thật quá liều lĩnh – Mameha kết luận – cô ta làm thế chỉ hại cho Bí Ngô thôi. Và chắc cô biết lý do tại sao cô ta làm thế, phải không? - Em không biết, chị Mameha à. - Cô ta muốn Bí Ngô có uy tín để bà Nitta nhận làm con nuôi. Nếu Bí Ngô được nhận làm con nuôi, tương lai của cô ta sẽ được đảm bảo, và tương lai của Hatsumono cũng vậy. Nói tóm lại, Hatsumono là chị của Bí Ngô, bà Nitta chắc không đuổi cô ta ra khỏi nhà. Cô có hiểu những điều tôi nói không? Nếu Bí Ngô được nhận làm con, cô sẽ không bao giờ thoát nợ Hatsumono, trừ phi chính cô là người bị tống cổ đi. Tôi cảm thấy lạnh người như sóng biển bị mây che hết ánh mặt trời. - Cho nên tôi mong sao cô thành người tập sự nổi tiếng sớm – Mameha nói tiếp – nhưng chắc có lẽ Hatsumono cản đường chúng ta rất nhiều. - Dạ phải, cô ta sẽ làm thế! - Mà thôi, không lo, ít ra cô đã biết cách làm cho đàn ông vui rồi. Cô may mắn đã gặp ông Nam tước, không biết Hatsumono đã biết chuyện này chưa, nhưng nói thật ra – nói đến đây bỗng cô ấy dừng lại. - Thưa cô sao ạ? - Ồ thôi, Sayuri, không sao. Tôi quả điên khi nói thật cho cô nghe. Tôi rất buồn khi nghe cô ấy nói thế. Có lẽ Mameha đã nhận ra tâm trạng của tôi cho nên cô ấy nói tiếp: - Cô sống cùng nhà với Hatsumono phải không? Bất cứ tôi nói cho cô nghe cái gì, cô ta cũng có thể biết. - Thưa chị Mameha, nếu em có cái gì khiến cho chị nghi ngờ như thế, thì xin chị tha lỗi cho. Chị có thể tin rằng khi em về nhà, em kể hết các chuyện cho Hatsumono nghe sao? - Tôi không lo chuyện cô sẽ làm như thế. Con chuột không bị mèo ăn thịt vì khí nó chạy qua chỗ mèo ngủ và đánh thức mèo dậy. Chắc cô biết Hatsumono có tài xoay sở ra sao rồi, Sayuri, cô phải tin tôi đi. - Vâng thưa chị - tôi không còn biết phải đáp ra làm sao nữa. - Tôi sẽ nói cho cô biết một chuyện – Mameha nói, nghiêng người tới một chút, tôi rất kinh ngạc khi thấy cô ấy làm thế - Tôi và cô sẽ đến một nơi hẹn trong hai tuần nữa tại một nơi mà Hatsumono không tìm ra được. - Em xin hỏi ở đâu được không? - Không được! Thậm chí tôi sẽ không nói cho cô biết khi nào nữa. Chỉ chuẩn bị tinh thần thôi. Khi đến lúc, cô sẽ biết những gì cô muốn. Chiều ấy khi trở về nhà, tôi trốn lên lầu để xem niên lịch. Trong hai tuần sắp đến có nhiều ngày tốt để xuất hành. Một ngày đúng vào thứ tư sắp đến, ngày này hợp cho việc đi về phía Tây, có lẽ Mameha có kế hoạch đưa tôi đi khỏi thành phố. Ngày khác đúng vào thứ hai tiếp theo đó, ngày này đúng vào dịp Đại An – ngày tốt nhất trong tuần sáu ngày của đạo Phật. Cuối cùng, ngày chủ nhật kế tiếp, lịch có ghi một đọan rất lạ lùng “Sự quân bình giữa cái tốt và cái xấu sẽ mở cửa số phận”, câu này nghe hấp dẫn hơn cả. Vào ngày thứ tư, tôi không nghe tin gì của Mameha hết. Mấy ngày sau, cô ấy gọi tôi đến nhà cô – vào ngày cuốn lịch của tôi nói là ngày xấu. Nhưng chỉ có bàn thảo về sự thay đổi trong lớp dạy nghi thức phục vụ trà ở trường. Sau đó, suốt cả một tuần trôi qua tôi không nhận được tin tức gì của cô ấy hết. Rồi vào trưa ngày chủ nhật, tôi nghe cửa nhà kỹ nữ mở ra, tôi để đàn xuống trên hành lang gỗ, nơi tôi đã tập đàn khỏang một giờ rồi và chạy ra cửa. Tôi tưởng sẽ gặp chị người hầu của Mameha, nhưng đấy là người ở tiệm thuốc Bắc mang thuốc đến cho bà Dì chữa bệnh thấp khớp. Sau khi người hầu lớn tuổi của chúng tôi lấy gói thuốc, tôi định trở lại với cây đàn Shamisen thì bỗng tôi chú ý thấy anh chàng giao thuốc có ý muốn nói chuyện với tôi. Anh ta nắm trên tay miếng giấy, nhưng có ý chỉ muốn để cho mình tôi thấy nó thôi. Chị hầu định kéo cửa đóng lại, nhưng anh ta nói với tôi: - Thưa cô, tôi xin lỗi làm phiền cô, cô làm ơn ném miếng giấy này giúp tôi được không? – chị hầu thấy việc này có vẻ kỳ quặc, nhưng tôi đã lấy miếng giấy, giả vờ ném vào phòng gia nhân. Tờ giấy có ghi lời nhắn, không ký tên nhưng đúng nét chữ của Mameha “Xin phép bà Dì mà đi. Nói với bà tôi có việc nhờ cô làm giúp ở nhà tôi và đến gấp trong vòng không quá một giờ. Đừng để cho ai biết cô đi đâu”. Tôi nghĩ Mameha cẩn thận như thế này là rất tế nhị, nhưng dù sao thì hiện bà Mẹ đang ăn cơm trưa với một người bạn, còn Hatsumono và Bí Ngô đã đi đến điểm hẹn buổi chiều rồi. Trong nhà chỉ còn bà Dì và gia nhân. Tôi lên phòng Dì, thấy Dì đang trải tấm vải dày lên nệm để ngủ trưa. Trong khi tôi nói, bà đứng run run trong chiếc áo ngủ. Khi nghe Mameha gọi tôi, bà không hỏi đến để làm gì. Bà chỉ vẫy tay cho phép tôi đi, rồi chui vào dưới chăn để ngủ. Khi tôi đến nhà Mameha, cô ấy bận đi đến điểm hẹn buổi sáng chưa về, nhưng chị hầu đưa tôi vào phòng thay áo quần để làm hóa trang, rồi sau đó mang bộ kimono đã soạn sẵn cho tôi. Tôi đã quen cảnh mặc kimono của Mameha, nhưng đây là chuyện hy hữu, vì ít có người geisha nào cho mượn áo của mình như thế. Hai người bạn ở Gion có thể đổi áo cho nhau trong một vài đêm, nhưng hiếm khi một geisha có lòng tốt với em út như thế này. Quả vậy, Mameha rất mất công vì tôi, cô ấy không mặc những cái áo có tay dài như thế này, cô phải lấy áo từ nhà kho cho tôi. Tôi tự hỏi không biết cô ấy có nghĩ đến chuyện đòi trả lui hay không. Chiếc kimono cô soạn ra cho tôi hôm ấy là chiếc áo đẹp nhất – áo bằng lụa màu vàng cam in hình thác nước màu bạc chảy từ đầu gối xuống đến mặt biển xanh ngắt. Cái thác tuôn ra từ mõm núi đá có màu nâu, dưới chân núi đá là cánh rừng thấp nhỏ được thêu bằng chỉ màu. Tôi không biết, nhưng chiếc áo này mọi người ở Gion đều biết, người ta nhìn chiếc áo, có lẽ họ sẽ nghĩ đến Mameha. Tôi nghĩ rằng khi cho phép tôi mặc áo này, chắc cô ấy muốn truyền cái tinh hoa của mình sang cho tôi. Sau khi ông Itchoda buộc dải thắt lưng cho tôi – dải màu gạch và nâu đậm có điểm chỉ vàng – tôi sửa lại mặt hóa trang lần cuối và cài nữ trang lên tóc. Tôi nhét cái khăn tay của ông Chủ tịch – tôi thường mang theo mỗi khi rời nhà – vào dải thắt lưng, rồi đứng soi trước gương lớn. Tôi há hốc mồm kinh ngạc. Tôi quá kinh ngạc khi nghĩ đến chuyện Mameha có ý đồ biến tôi thành người quá đẹp như thế này, nhưng khi cô ấy về đến nhà, cô ấy còn làm tăng thêm vẻ đẹp của tôi lên nữa bằng cách cô thay cho mình chiếc áo kimono bình dị xinh xắn. Cái áo có màu khoai mì, phủ những đường sọc màu xám nhạt, còn dải thắt lưng có hình những viên kim cương màu đen giản dị trên nền màu xanh đậm. Cô ấy có nét đẹp kín đáo của viên ngọc trai như mọi khi, nhưng lúc chúng tôi ra đường, các phụ nữ cúi chào Mameha đều đưa mắt nhìn tôi. Từ đền thần ở Gion, chúng tôi đi xe kéo theo hướng Bắc chừng nửa giờ, đến một khu vực của Kyoto mà tôi chưa hề biết. Trên đường đi, Mameha nói cho tôi biết chúng tôi đến dự buổi biểu diễn đô vật, chúng tôi xem như khách của ông Iwamura Ken, người sáng lập ra Công thấy sản xuất đồ điện Iwamura ở Osaka – công ty đã sản xuất lò sưởi điện làm chết bà ngoại. Cánh tay phải của ông Iwamura là ông Nobu Toshisazu, ông này làm quản lý cho công ty cũng đến dự. Nobu là người hâm mộ môn đô vật và đã tiếp tay giúp tổ chức buổi biểu diễn chiều hôm ấy. - Tôi báo trước cho cô biết – cô ấy nói với tôi – cái ông Nobu ấy…trông đặc biệt lắm. Khi gặp ông ta, cô phải cư xử sao để gây ấn tượng với ông ta – nói xong, cô ấy nhìn tôi như muốn nói rằng nếu tôi không làm được như thế, cô ấy sẽ hết sức thất vọng. Còn về việc Hatsumono, chúng tôi khỏi lo, vì vé vào xem cuộc biểu diễn đã bán hết mấy tuần trước rồi. Cuối cùng chúng tôi xuống xe ở trong khuôn viên của trường đại học Kyoto. Mameha dẫn tôi đi theo con đường đất có hai hàng thông nhỏ hai bên. Những ngôi nhà xây theo kiểu Tây phương hai bên đường chúng tôi đi qua đều đóng cửa kín mít, cửa sổ lồng kính nhỏ vuông vức và khung cửa bằng gỗ sơn. Nhìn cảnh nhà cửa ở khu đại học, tôi mới nhận ra Gion là quê hương thân thiết của tôi. Chung quanh tôi có nhiều thanh niên da dẻ láng mướt, mái tóc chải rẽ, có người mặc quần áo dây treo cho khỏi tuột. Họ có vẻ lạ lùng ngạc nhiên khi thấy Mameha và tôi đi qua, thậm chí họ còn nói đùa với nhau nữa. Sau đó chúng tôi đi qua một cánh cổng sắt có một đám người già và một số phụ nữ, có cả vài cô geisha nữa. Kyoto có ít chỗ có thể dùng biểu diễn đô vật ở trong nhà được và ở đại học Kyoto dùng nhà biểu diễn cũ của trường để tổ chức. Nhà này bây giờ không còn nữa, nhưng lúc ấy, nó đứng chen lẫn trong đám nhà xây theo kiểu Tây phương trông giống như một ông già còm cõi mặc áo kimono đứng giữa đám thương gia tân tiến. Ngôi nhà giống cái hộp khổng lồ, mái nhà có vẻ không được vững chãi, nhưng tôi nghĩ nó như cái nắp đậy vừa cái bình trà méo mó. Những cánh cửa khổng lồ nằm một bên đã bị hư hỏng nhiều, gỗ cong queo bung ra khỏi khung sắt. Vẻ hư hỏng xấu xí của ngôi nhà này khiến tôi nhớ lại ngôi nhà ngà say của tôi, và bỗng nhiên tôi cảm thấy buồn. Khi tôi bước lên bậc thềm đá để vào nhà, tôi trông thấy hai cô geisha đi qua sân rải sỏi, tôi cúi người chào họ. Họ gật đầu chào lại tôi, và một cô nói gì đấy với cô kia. Tôi thấy chuyện này lạ lùng quá, bèn nhìn kỹ họ hơn. Bỗng tim tôi đập nhanh, một cô là Korin, bạn của Hatsumono. Tôi cúi chào cô ta lần nữa vì tôi đã nhận ra cô ta, và tôi cố mỉm cười. Khi họ quay nhìn chỗ khác, tôi thì thào với Mameha: - Chị Mameha, em vừa thấy người bạn của Hatsumono! - Tôi không tin Hatsumono có bạn. - Chị Korin đấy, chị ấy vừa mới ở đây, với một số các cô geisha khách nữa. - Tôi biết Korin. Tại sao cô quá lo về cô ta? Cô ta có thể làm gì được? Tôi không trả lời, nhưng nếu Mameha không lo thì tại sao tôi phải lo sợ làm gì. Cái gây cho tôi ấn tượng mạnh nhất khi bước vào nhà biểu diễn là khoảng trống khổng lồ chạy lên tận mái nhà, dưới mái nhà, ánh sáng chiếu xuống qua các khung cửa sổ có màn che nằm cao trên đầu chúng tôi. Tiếng người ồn ào vang lên trong khoảng không gian khổng lồ ấy, với khói từ các lò nướng bánh bột gạo từ bên ngòai bay vào. Giữa nhà có một mô đất vuông vức nơi dùng làm chỗ cho các nhà đô vật tranh tài, trên mô đất có mái che theo kiểu mái đền thờ thần. một ông thầy tu đi quanh trên mô đất, tụng kinh cầu phú,c phất qua phất lại cái phương trượng co ‘trang hòang những dải giấy hình xoắn ốc. Mameha dẫn tôi đến hàng chỗ ngồi ở phía trước, ở đấy chúng tôi tháo giày ra, đi vớ có xẻ ở đầu ngón chân trên một mép ván gỗ nhỏ. Những người tổ chức đã có mặt trong dãy ngồi này rồi, nhưng tôi không biết ai hết cho đến khi có một người đưa tay vẫy gọi Mameha, tôi hiểu ngay đó là ông Nobu. Tôi cũng hiểu lý do tại sao Mameha đã dặn dò trước với tôi về vẻ ngòai của ông ta. Ngay cả khi nhìn ông ta từ xa, tôi cũng thấy mặt ông như cây đèn cầy bị hơ chảy. Ông ta đã bị cháy phỏng mặt đâu đó từ lâu rồi, toàn bộ bề ngoài của ông ta trông rất thê thảm, tôi không t, Mameha là người giỏi xoay sở, cô ấy đã tìm cách liên hệ các nơi an toàn để thỉnh thoảng đưa tôi đến đấy. Hatsumono có thể cô lập tôi ở Gion, nhưng cô ta không thể cô lập tôi khỏi thế giới bên ngoài Gion. Khi Mameha rời khỏi Gion đi xa để thực hiện hợp đồng, cô ấy thường mời tôi đi theo. Tôi đã theo cô ấy đến Kobe bằng xe lửa một ngày, ở đấy Mameha cắt băng khánh thành một nhà máy mới. Vào dịp khác, tôi theo cô ấy để tháp tùng ông Cựu giám đốc công ty điện báo và điện thoại Nippon đi tham quan Kyoto một vòng bằng xe hơi màu đen. Chuyến đi này đã gây cho tôi một ân tượng thật sâu sắc. Vì đây là lần đầu tiên tôi thấy Kyoto rộng rãi nằm ngoài ranh giới quận Gion nhỏ bé của chúng tôi không kể đến lần đầu tiên đi xe hơi của tôi. Trong những năm sống ở đây, tôi không hề biết là có nhiều người sống rất cơ cực cho đến khi xe của chúng tôi chạy theo bờ sông xuôi Nam, tôi thấy những người đàn bà dơ bẩn cho con bú dưới gốc cây, dọc theo đường rầy xe lửa, còn đàn ông thì ngồi xổm nhổ cỏ dại, chân đi dép rơm rách tả tơi. Tôi không nói ở Gion không có người nghèo, nhưng tôi thấy những nông dân ở đây quá nghèo đến độ không thèm tắm rửa. Tôi không bao giờ tin rằng tôi, đứa nô lệ bị Hatsumono đối xử độc ác rằng khủng khiếp – đã sống cuộc sống tương đối may măn qua giai đọan đại suy thoái kinh tế. Nhưng hôm ấy tôi nhận ra đấy là sự thật. Một hôm tôi ở trường học về đã gần trưa, tôi thấy có tờ giấy báo tôi đem đồ trang điểm đến nhà Mameha gấp. Khi tôi đến nơi, ông Ichoda, thợ may giống như ông Bekku, đang ở trong phòng sau, buộc dải thắt lưng cho Mameha trước tấm gương soi lớn. - Trang điểm nhanh lên – Mameha nói với tôi – tôi đã để sẵn áo kimono của cô ở phòng bên kia rồi. Nhà của Mameha rộng lớn đúng tiêu chuẩn nhà cửa ở Gion. Ngoài phòng chính ra, rộng đến sáu chiếc chiếu cói, cô ấy còn có hai phòng nhỏ hơn, phòng thay áo quần rộng gấp hai lần phòng gia nhân, và một phòng cô ấy ngủ. Trong phòng ngủ, tấm nệm mới trải vải xong, trên nệm, chị giúp việc đã để sẵn chiếc áo kimono cho tôi. Tôi kinh ngạc khi thấy tấm nệm. Vải trải nệm không phải vải mà Mameha đã ngủ đêm trước, vì vải còn láng mướt mịn màng như tuyết mới rơi. Tôi vừa thay chiếc áo vải tôi mang theo đến, vừa phân vân thắc mắc việc này. Khi tôi bắt đầu trang điểm, Mameha nói cho tôi nghe lý do tại sao cô ấy gọi tôi đến. - Ông Nam tước đã trở về thành phố - cô ấy nói – ông ấy sẽ đến ăn cơm trưa tại đây. Tôi muốn cô gặp ông ấy. Tôi chưa có cơ hội để nói về ông Nam tước, nhưng Mameha nói ông Nam tước tức là ông Nam tước Matsunaga Tsuneyoshi – ông danna của cô ấy. Ở nước Nhật chúng tôi bây giờ không còn nam tước, bá tước gì nữa, nhưng trước đại chiến lần 2, chúng tôi vẫn còn, và ông Nam tước Matsunaga này là một trong số những người giàu nhất. Gia đình ông ta làm chủ một trong số những nhà ngân hàng lớn của nước Nhật và rất có ảnh hưởng đến nền tài chính của Nhật. Nguyên thủy, người anh cả của ông ta thừa hưởng danh hiệu Nam tước, nhưng ông ấy bị ám sát trong thời gian làm bộ trưởng tài chính trong nội các của thủ tướng Inukai. Danna của Mameha khi ấy đã ngoài ba mươi, không những thừa hưởng chức Nam tước mà còn thừa hưởng tất cả tài sản của người anh, kể cả ngôi nhà đồ sộ ở Kyoto nằm không xa Gion bao nhiêu. Vì công việc kinh doanh, nên ông ta phải ở lại Tokyo nhiều hơn, và cũng còn nhiều việc khác nữa níu chân ông lại đây –vì mấy năm sau tôi biết được chuyện ông ta có tình nhân khác nữa, ở trong khu geisha tại Tokyo. Vài đàn ông giàu có mới có geisha làm tình nhân, nhưng ông Nam tước Matsunaga Tsunegoshi có đến hai tình nhân. Khi tôi biết ông danna của Mameha sẽ ở chơi cả buổi chiều với cô ấy, tôi mới hiểu ra lý do tại sao nệm trong phòng ngủ trải vải mới. Tôi vội thay áo mà Mameha đã để sẵn cho tôi – chiếc áo lót màu lục non, còn chiếc kimono có màu nâu đỏ và màu vàng, dưới lai có in hình hàng cây thông. Lúc ấy, một chị hầu của Mameha vừa từ nhà hàng ăn trở về, mang theo cái hộp sơn mài lớn đựng thức ăn trưa cho ông Nam tước. Thức ăn đựng trong đĩa và tô, dùng ăn liền như trong nhà hàng vậy. Dĩa lớn nhất đựng hai con cá ướp muối nướng nằm áp bụng lên dĩa như đang bơi theo dòng nước. Một bên để hai con cua nhỏ hấp hơi, lọai cua lột vỏ. Một hàng muối rắc dọc theo mép dĩa sơn đen làm cho người ta nghĩ chúng bò qua mặt cát. Mấy phút sau ông Nam tước đến. Tôi nhìn qua khe cửa hở thấy ông ta đứng trên đầu cầu thang để cho Mameha cởi giây giày. Cảm giác đầu tiên của tôi là ông ấy giống như trái hạnh đào hay là trái hồ đào, vì ông ta nhỏ và tròn quay, với nét mặt thô tháp và nặng nề, nhất là quanh hai mắt. Thời ấy để râu là hợp thời trang, nên ông Nam tước để một số lông dài và mềm trên mặt mà tôi nghĩ ông ta cho đó là bộ râu, nhưng tôi thì thấy số lông ấy giống như đám rau thơm rải trên đĩa thức ăn, hay là đám rong biển nhỏ thường được trộn rải rác vào trong cơm. - Ô Mameha, anh mệt quá! – tôi nghe ông ta nói – anh ghét tàu hỏa chạy lâu như thế này quá! Cuối cùng ông tuột chân ra khỏi giày, đi qua phòng, bước chân ngắn và nhanh. Từ sáng sớm, người thợ may của Mameha đã mang vào phòng chiếc ghế bành lớn và tấm thảm Ba tư lấy từ phòng chứa đồ nằm bên kia hành lang, ông ta đã kê ghế và lót thảm gần bên cửa sổ. Ông Nam tước ngồi xuống đấy, nhưng chuyện gì xảy ra sau đó tôi không thể nói được vì chị hầu của Mameha đã đến bên tôi, cúi chào xin lỗi rồi nhẹ đẩy cánh cửa để đóng lại, ngăn cách phòng chính với phòng thay áo quần. Tôi ngồi trong phòng thay áo quần của Mameha suốt một giờ hay hơn nữa trong khi chị hầu đi vào đi ra phục vụ bữa ăn cho ông Nam tước. Thỉnh thoảng tôi nghe Mameha nói nho nhỏ nhưng chủ yếu là ông Nam tước nói. Có lúc tôi tưởng ông ta nổi giận với Mameha nhưng cuối cùng khi nghe đầu đủ câu chuyện tôi mới hiểu rằng ông ta chỉ phàn nàn về một người đàn ông mà ông ta đã gặp vào ngày hôm trước, yêu cầu ông một sự việc riêng tư khiến cho ông tức giận. Cuối cùng bữa ăn xong, chị hầu đem tách trà ra, và Mameha gọi tôi. Tôi bước ra quỳ xuống trước mặt ông Nam tước, cảm thấy người căng thẳng – vì trước đây chưa bao giờ tôi gặp một nhà quý tộc như thế này. Tôi cúi người chào, xin ông bỏ lỗi, lòng nghĩ rằng có lẽ thế nào ông ta cũng phải nói cái gì với tôi. Nhưng ông ta có vẻ cứ nhìn quanh căn phòng, không mảy may chú ý đến tôi. - Mameha – ông ta nói – bức tranh cuốn mà em thường treo trong góc tường kia ra sao rồi? Đấy là bức tranh tàu vẽ cái gì đấy…xem ra đẹp hơn các bức hiện em đang treo. - Thưa Nam tước, bức tranh cuốn ở đấy là bài thơ do chính tay của Matsudaira Koichi viết. Bức cuốn treo ở đấy đã gần 4 năm nay. - Bốn năm à? Thế không phải bức tranh tàu treo ở đấy khi anh đến vào tháng trước sao? - Không phải…Nam tước đâu có cho em cái vinh dự đón anh đến thăm trong gần ba tháng nay. - Thảo nào mà anh cảm thấy quá mệt mỏi. Anh thường nói anh phải đi Kyoto nhiều hơn nữa, nhưng cứ việc này rồi việc khác níu kéo anh. Nhìn vào bức tranh cuốn anh vừa nói đến, anh không tin bức tranh đã treo ở đấy 4 năm từ khi anh nhìn thấy nó. Mameha gọi chị hầu vào, sai chị lấy bức tranh cuốn ở trong tủ. Tôi có nhiệm vụ mở bức tranh ra, tay tôi run run đến nỗi tôi để bức tranh trượt khỏi tay khi tôi đưa lên cho ông xem. - Hãy cẩn thận, cô em – ông ta nói. Tôi quá sức bối rối đến nỗi sau khi cúi người xin lỗi, tôi không thể nào không nhìn lui nhìn tới mãi vào mặt ông để xem ông có giận không. Trong khi tôi giữ bức tranh cho ông xem, tưởng chừng như ông nhìn tôi nhiều hơn là nhìn bức tranh, nhưng ánh mắt không phải ánh mắt khiển trách. Một lát sau tôi nhận ra đấy là ánh mắt hiếu kỳ, và chính vì thế tôi lại cảm thấy lúng túng hơn nữa. - Bức tranh này trông đẹp hơn bức tranh em treo ở hốc tường nhiều, Mameha à – ông nói, nhưng ông vẫn có vẻ cứ nhìn vào tôi, và khi tôi nhìn ông ta, ông ta không chịu quay mắt đi – dù sao thì thư pháp cũng đã xưa lắm rồi – ông ta nói tiếp – em nên hạ cái bức trên hốc tường ấy xuống và treo bức tranh phong cảnh này lên. Mameha không có lựa chọn nào khác ngoài việc làm theo lời yêu cầu của ông ta, thậm chí cô ấy còn làm ra vẻ như thể cô cho ý kiến của ông ta là chính xác. Khi chị hầu và tôi treo xong bức tranh, và cuốn bức kia lại, Mameha gọi tôi đến để hầu trà cho ông Nam tước. Từ hốc tường nhìn vào, chúng tôi tạo thành cái thế ba chân – Mameha, ông Nam tước, và tôi. Nhưng dĩ nhiên Mameha và ông Nam tước nói chuyện với nhau, còn phần tôi, tôi không làm gì cả ngòai việc chỉ quỳ ở đấy, cảm thấy mình như người ngòai cuộc, như con bồ câu ở trong tổ chim ưng. Trước đây tôi nghĩ tôi có thể xứng đáng ngồi cùng ông Nam tước, nhưng bây giờ tôi không thể không nhận ra một lần nữa rằng tôi không đáng gì hết mà chỉ là một con bé ngu ngốc từ một làng đánh cá đến. Nếu Hatsumono mà có quyền hành, thế nào cô ta cũng đè đầu tôi xuống, bất kỳ người đàn ông nào đến thăm Gion, chắc cũng sẽ không đến gần tôi đâu. Tôi nghĩ tôi sẽ không bao giờ gặp lại ông Nam tước Matsunaga, cũng như không bao giờ tôi gặp lại ông Chủ tịch. Có thể nào Mameha không nhận ra hoàn cảnh vô vọng của tôi và để tôi chết dần chết mòn trong nhà kỹ nữ như chiếc kimono cũ nhưng còn đẹp, người ta treo làm kiểu trong tiệm. Ông Nam tước – người mà tôi bắt đầu nhận ra có tính nóng nảy – nghiêng mình cào cái dấu gì đấy trên mặt Mameha, hành động của ông nhăc tôi nhớ đến bố tôi vào cái ngày tôi thấy ông lần cuối cùng, hôm ấy ông cũng lấy móng tay xoi bụi nằm trong các khe hở trên bàn. Tôi tự hỏi bố tôi sẽ nghĩ gì nếu ông thấy tôi quỳ ở đây trong nhà của Mameha, mặc chiếc áo đắt tiền hơn bất cứ thứ gì mà ông thấy, với ông Nam tước ngồi trước mặt tôi cùng nàng geisha danh tiếng nhất nước Nhật ngồi bên cạnh. Tôi thật không xứng với những gì ở quanh tôi. Nhưng bỗng tôi nghĩ đến chiếc áo lụa mỹ miều trên người tôi, tôi có cảm giác tôi có thể bị đắm đuối vào cái đẹp. Ngay khi ấy, cái đẹp đã làm cho tôi sững sờ kinh ngạc như chính nỗi buồn đã dày vò tôi.