ế chiều một ngày thu, mặt trời vàng nhợt đang ngập ngừng trở về chân trời. Một cỗ xe ngựa nhẹ lướt trên cổ đạo Chiêu Dương, để lại phía sau một làn bụi. Từ xa đã trông thấy bờ hồ và và cả những gợn sóng thấp thoáng sắc vàng dưới ánh tà dương. Vì vướng những đám lau lách vàng khô, tư trên đường cái không thể nhìn thấy hòn đảo Hồ Tâm lừng danh trong truyền thuyết. Dẫu vậy, cảnh hồ êm ả này vẫn đủ sức níu bước người lữ khách chuyên rong ruổi nơi chân trời. Cỗ xe đi chậm lại, bức rèm gấm vén lên, giai nhân khẽ nhíu mày, khuôn mặt không trang điểm nhưng vẫn diễm lệ như tiên nữ trong tranh, hành trình đầy gió bụi cũng không thể làm nhạt nhòa dung nhan của trang quốc sắc thiên hương ấy. Tuy nhiên, nếu nhìn kỹ sẽ thấy vẻ mặt nàng có chút ưu tư. Dõi theo ánh mắt xa xăm mơ màng về phía hồ nước, nàng khẽ hỏi: “Đã đến nơi rồi phải không Long lang?” Cầm cương đánh xe là một người trẻ tuổi, nghe hỏi thì buông thõng dây cương cho xe đi chậm lại như sắp dừng, rồi ngoái đầu nói: “Đúng thế! Từ nay vận mệnh của hai ta gắn chặt với nơi này.” Chàng bất giác sờ ngực áo, cái túi gấm bên trong có tấm da dê vẫn còn đây. Nói đúng ra là, vận số của chàng, Phượng Trung Long, từ nay gắn liền với tấm da dê này. Trên tấm da dê có vẽ một bản đồ, ghi rõ nơi cất giấu kho báu huyền thoại của Bán Nhan - đệ nhất khanh tướng triều Nguyên. Bá Nhan từng thâu tóm quyền bính triều Nguyên, “đứng dưới một người đứng trên muôn người.” Thời đó đế quốc Đại Nguyên uy danh lẫy lừng Âu Á, bao quốc gia phải triều cống. Dân gian đồn rằng vô số châu ngọc báu vật trên đời đã rơi vào phủ Thái sư Bá Nhan, ngay hoàng đế Đãi Hãn cũng không có dịp nhìn thấy. Phượng Trung Long là “đạo chính du hiệp” số một thời Gia Tĩnh triều Minh, theo lời những người chuyên kể chuyện trong ở kinh thành. Còn trong các công văn giấy tờ của Cẩm Y vệ và Đông Xưởng thì chàng là tên tội phạm sừng sỏ dám gây đủ thử tội ác. Lùng bắt trộm cướp vốn là việc của các bổ đầu địa phương, thế mà triều đình phải huy động cả đàn ưng khuyển Cẩm Y vệ và Đông Xưởng bố trí thiên la địa võng, bởi lẽ Phượng Trung Long đã phạm vào “đại kỵ”: vào cung trộm cắp đã là đại kỵ rồi, lại dám ăn trộm bản đồ kho báu của Bá Nhan thì đúng là đại đại kỵ. Hình như Phượng Trung Long cho rằng tội lỗi của mình chưa đủ nhiều, nên còn “tiện thể” nẫng luôn cả Văn Oanh là ái nữ duy nhất của quan thái sư Văn Bính! Cứ như thể không hề biết Văn Bính từng là Chỉ huy sứ của đội quân Cẩm Y vệ. Tên sao người vậy, Phượng Trung Long có lạ gì những chốn tường hoa ngõ liễu, nhưng khi giáp mặt Văn Oanh vào dịp tết hoa đăng năm ngoái, chàng bỗng bị hút hồn ngay lập tức, rồi lẻn theo vào phủ thái sư tỏ tình. Ngờ đâu lại khiến Văn Oanh xiêu lòng, thề câu chung thủy, chàng bèn đưa nàng đi trốn, và hứa sẽ dành cho nàng cuộc sống còn đầy đủ hơn cả ở phủ thái sư. Lời hứa ấy đương nhiên cũng gắn liền với tấm da dê này. Rèm thả xuống, roi ngựa lại vung lên, họ tiếp tục đi chầm chậm. Lát sau xe đi lên đường cái quan. Lóc cóc đo một hồi nữa. Lúc trời bắt đầu tối, họ nhìn thấy mấy gian nhà lá mặt tiền hướng ra phía hồ. Phượng Trung Long đỡ Văn Oanh xuống xe, áy áy nói: “Nàng phải chịu vất vả rồi.” Văn Oanh nhìn những căn nhà lụp xụp trước mặt, lại ngoảnh ra hồ nước âm u xám xịt, bình thản nói: “Chàng mới vất vả chứ! Chúng ta nên đi nghỉ sớm đi!” Phượng Trung Long nhận ra Văn Oanh đang có điều nghĩ ngợi, bèn nói: “Ta biết nàng từ nhỏ sống trong nhung lụa, nay để nàng phải ở túp lều này, lại chẳng có a hoàn nào hầu hạ, thực khổ quá! Chỉ cần nàng chịu khó vài hôm chờ ta...” Văn Oanh nói: “Không phải vì thế...” Phượng Trung Long bỗng hiểu ra: “Nàng vẫn băn khoăn về mấy câu lão thấy tướng nói đấy ư? Nàng không nhớ rằng mọi người trong ngoài phủ Giang Kinh đều gọi lão là gì à?” “Là đạo trưởng hão huyền.” “Cho nên, lão toàn nói những câu vu vơ mà thôi.” Có phải là vu vơ hão huyền không, Văn Oanh chẳng rõ, nhưng nàng không muốn tranh luận một cách vô nghĩa. Lời đạo trưởng nói với nàng qua bức rèm cách đây ít hôm, vẫn còn vang bên tai: “Chớ đến gần hồ Chiêu Dương. Nếu nhìn thấy một người khoác áo tơi đội nón lá đang buông cần nhưng không có dây câu, thì phải tránh càng xa càng tốt.” “Câu cá không mắc dây câu, thì câu cái gì?” “Không câu cá, mà là câu người.” “Xin đạo trưởng nói rõ hơn?” “Nếu thấy người khoác áo tơi đội nón lá buông cần câu, thì sẽ có người đột tử.” “Sao? Ông vừa nói là chồng tôi sẽ...” “Ít ngày nữa e sẽ có tai nạn đổ máu.” Phượng Trung Long nghe xong khịt mũi khinh thường. Làm nghề như gã, ngày nào chẳng có “tai nạn đổ máu”? Chàng đã vô số lần quyết đấu với đủ loại cao thủ võ lâm hắc đạo bạch đạo, thương tích đầy mình, nhiều chẳng kém gì trâm cài tóc và các vòng vàng vòng ngọc mà Văn Oanh đã dùng từ bé đến giờ. Gió mưa lúc nửa đêm khiến Văn Oanh tỉnh giấc. Phượng Trung Long vẫn ngủ li bì sau mấy ngày đánh xe suốt chặng đường dài mệt nhọc. Gió lùa qua khe cửa sổ khiến Văn Oanh thấy lành lạnh, nàng khoác áo đứng dậy bước đến bên cửa sổ. Ma xui quỷ khiến hay sao, nàng mở rộng hai cánh cửa. Bên ngoài là hồ Chiêu Dương dưới màn đêm đang mưa gió. Mưa xối xả, gió gào thét, chớp lóe ngoằn nghèo như rắn lao nhanh. Dưới ánh chớp giật nàng nhìn thấy ngoài hồ có một con thuyền, trên thuyền có một người mặc áo tơi đang ngồi câu cá, trông hệt như pho tượng đá. Tim Văn Oanh đập thình thịch, ngỡ mình hoa mắt. Lại nhìn kỹ hơn, thấy đúng là một người mặc áo tơi, không thể nhầm được, thậm chí còn nhìn rõ cần câu không hề mặc dây câu. “Nếu thấy người khoác áo tơi đội nón lá buông cần câu, thì sẽ có người đột tử.” Một bàn tay đặt nhẹ lên vai Văn Oanh khiến nàng giật mình. Thì ra là Phượng Trung Long. “Đang mưa gió thế này, sao nàng ra đứng cửa sổ? Lỡ bị cảm lạnh thì ta biết ăn nói với thái sư ra sao?” Phượng Trung Long dịu dàng nói đùa. “Long lang có nhìn thấy con thuyền nhỏ... và người mặc áo tơi kia không?” Phượng Trung Long nheo mắt nhìn kỹ, chỉ thấy một màn tối đen mưa gió mịt mù chứ không có gì khác. “Ta xưa nay chuyên hành sự ban đêm, cũng thường hoạt động dưới nước tối om, mắt ta nhìn đêm còn tinh hơn mắt miêu, nhìn mãi vẫn chẳng thấy trên hồ có thuyền hay người nào hết!” “Nhưng rõ ràng là thiếp nhìn thấy...” “Cái trò bịp bợm của lão đạo sĩ khiến người ta nghi hoặc, rối loạn tâm trí, tất nhiên sẽ nhìn thấy các ảo ảnh.” Phượng Trung Long kéo nàng quay lại, đóng cửa sổ. “Nàng cứ chịu khó nghỉ ngơi, ta cũng muốn ngủ thêm một giấc. Mai, nếu trời quang đãng ra còn phải xuống nước để dò tìm kho báu.” Đêm nay Văn Oanh không tài nào ngủ được nữa. Tờ mờ sáng gió mưa ngớt dần, Văn Oanh mới chợp mắt được. Lúc tỉnh dậy, không thấy Phượng Trung Long nằm bên nàng nữa. Một linh cảm chẳng lành ập đến, nàng gọi to “Long lang” nhưng không ai đáp lời. Nàng chạy vụt ra khỏi buồng ngủ. Trên bếp có nồi cháo còn ấm, thanh trường đao vẫn nằm trong vỏ, phi hổ trảo vẫn đặt trên bàn nhưng không thấy bóng người đâu; linh cảm của nàng càng tệ hơn nữa, vì xưa nay Long lang chưa từng ra ngoài mà không mang theo vũ khí. Nàng vội mở cửa, làn không khí mát rượi của hồ Chiêu Dương ùa vào. Hồ nước trong trẻo phẳng lặng, dường như đêm qua chưa từng tơi tả gió mưa gì hết. Nhưng không thấy Phượng Trung Long. Lòng trĩu nặng, nàng ngây nhìn mặt hồ. Lẽ nào lời của vị đạo nhân ấy đã ứng nghiệm? “Nàng ơi...” Văn Oanh kinh ngạc xoay người, hình như cảnh tượng đêm qua đã trở lại. Phượng Trung Long đang lặng lẽ đứng phía sau nàng. “Thiếp tìm chàng mãi...” “Ta ngồi ở cửa phía sau, nghiền ngẫm tấm bản đồ kho báu của Bá Nhan.” Rồi vỗ vỗ vào ngực. Ừ nhỉ, cửa sau. Thế mà mình quên mất căn nhà lá này còn có cái cửa sau nho nhỏ. Văn Oanh cũng áp tay lên ngực rồi ngả người vào Phượng Trung Long: “Vừa nãy thiếp sợ quá!” Phượng Trung Long cười: “Cũng tốt. Lấy được kho báu của Bá Nhan rồi ta sẽ rửa tay gác kiếm. Nếu cứ tiếp tục làm cái nghề này, suốt đời gươm đao dính máu, thì nàng sẽ phải ngày đêm sống trong sợ hãi.” Văn Oanh nhìn mặt hồ, nghĩ ngợi: “Thiếp cho rằng chàng nên quên hẳn cái kho báu của Bá Nhan, đi khỏi hồ Chiêu Dương thì hơn, tránh càng xa càng tốt, như ông thầy tướng nói.” Sao? Chỉ vì một câu nói của lão ta ư? Trở vào nhà, Phượng Trung Long giở tấm bản đồ kho báu ra: “Nàng xem này, đây là đảo Hồ Tâm, kho báu nằm trong hang bên dưới đảo. Ta đã bỏ nhiều tiền bạc thuê con thuyền nhỏ của ngư dân hàng xóm, bây giờ ta xuất phát; sau nửa canh giờ có thể ra đến đảo. Nếu tất cả thuận lợi thì trước lúc hoàng hôn ta sẽ trở lại. Dẫu tạm thời chưa tìm thấy hang giấu của thì ta cũng trở về trước khi trời tối, mai lại đi tìm.” Văn Oanh gật đầu, im lặng. Phượng Trung Long nhanh chóng thay bộ giáp lặn bó sát người. Chàng hôn lên má Văn Oanh. Nàng bỗng nắm chặt cánh tay Phượng Trung Long nói: “Long lang, chúng ta hãy đi khỏi chốn này! Chúng ta không có kho báu Bá Nhan cũng được. Thiếp không cần ăn ngon mặc đẹp, không cần a hoàn hầu hạ, thiếp có thể tập làm nhiều việc. Ta đem bán đồ nữ trang mà thiếp mang theo cũng đủ để chúng ta mở một tiệm buôn hoặc mua vài khoảnh ruộng tốt... Thiếp không muốn...” “Nàng không muốn ta mạo hiểm chứ gì?” Phượng Trung Long nhẹ nhàng vuốt mái tóc Văn Oanh. “Đây chỉ là lần mạo hiểm quá nhỏ. Các bạn hữu trên giang hồ đặt cho ta biệt hiệu Phượng Trung Long là vì ta có biệt tài sông nước vô địch thiên hạ. Dưới nước, ta là con giao long. Năm xưa đi cướp một thuyền chở bạc, ta từng suốt ba ngày ba đêm vật lộn với gió to sóng cả ngoài biển Đông. Bây giờ nàng nhìn xem, hồ nước phẳng lặng như gương không một gợn sóng thì có thể xảy ra chuyện gì được?” “Liệu dưới nước có yêu quái không?” Phượng Trung Long cưới: “Tại nàng hay xem kịch và đọc quá nhiều sách dã sử đó thôi! Ta từng bơi lặn ở vỗ số sông hồ, chưa từng thấy dưới nước có yêu quái nào. Ta đi đêm suốt, cũng chưa bao giờ gặp ma quỷ gì hết.” “Nhưng...” “Nàng đừng lo. Lấy được kho báu rồi, ta sẽ bỏ nghề đạo chích thì mới thật sự là hết mạo hiểm. Nàng biết không, có vô số bổ đầu rất mong tấm bia mộ của mình được khắc rõ ràng rằng ‘...là người đã bắt được tên đại cường đạo sông nước Phượng Trung Long’. Và, dù nàng chỉ muốn làm người vợ nhà quê cấy cày dệt vài thì ta vẫn không nỡ nào để nàng phải như vậy.” Không thuyết phục được, Văn Oanh đành đưa ra chiêu cuối cùng: “Thiếp biết không thể ngăn chàng, nhưng còn chuyện này thiếp chưa kịp nói cho chàng biết, hôm nay nói ra, mong chàng sẽ suy nghĩ thêm. Thiếp... thiếp đã có thai.” Mắt bỗng tròn xoe lên, Phượng Trung Long nở nụ cười rạng rỡ sung sướng và ôm chặt Văn Oanh: “Thật ư? Ta sắp được làm cha rồi!” Vốn là đứa trẻ mồ côi, lớn lên trong lênh đênh chìm nổi, chàng từng thề sẽ gom mọi thứ tốt đẹp nhất trên đời về cho con mình. “Vì đứa con, mong chàng hãy thận trọng hành sự.” “Nhưng mà, nuôi con thực không dễ dàng gì, ta càng không thể làm cường đạo nữa. Đám châu báu của Bá Nhan vừa khéo để con không phải sống khổ như ta.” Văn Oanh hết sức hối hận vì điều nàng vừa nói lại phản tác dụng, nó càng khiến Phượng Trung Long thêm quyết tâm đi tìm kho báu ở đảo Hồ Tâm. Phượng Trung Long chèo thuyền như bay. Nhìn quanh chẳng thấy con thuyền nào khác. Lúc này chàng cảm thấy mình là người may mắn nhất trên đời, có hồng nhan tri kỷ, có con cái, có vàng bạc đầy nhà... à, mình chưa có vàng bạc đầy nhà, nhưng kể từ nay mình sẽ không thiếu thốn gì nữa. Lòng lâng lâng niềm vui không sao kể xiết, dường như chỉ mất tích tắc đã chèo đến đảo Hồ Tâm. Xem kỹ lại một lượt tấm bản đồ da dê, chàng neo thuyền bên ghềnh đá thon dài rồi ngẩng lên quan sát, nhận rõ phương hướng. Xác định đây chính là “Long tu nham” được ghi trong bản đồ. Phượng Trung Long buộc thuyền đi tìm kho báu vào “tảng đá râu rồng”, thật là xác đáng hết nhẽ rồi! Chàng hít sâu một hơi xuống tận đan điền rồi lặn xuống hồ Chiêu Dương. Hẳn là tại mưa gió đêm qua nên hồ nước hơi đục, nhưng chàng đã từng lặn xuống Hoàng Hải, Hoàng Hà, nước đục gấp bội mà chẳng thấy khó nhìn nữa là! Lặn xuôi chừng hơn chục trượng, chàng bỗng nhếch mép cười: phía trước là một tảng đá màu da cam, hình thù tựa con gà. Khỏi cần nghi ngờ gì nữa, đó là “Phượng Nghi thạch” được ghi trên tấm bản đồ kia. “Phượng Nghi thách?” Ta là Phượng Trung Long. Chẳng phải ông trời có ý trao cho ta kho báu của Bá Nhan đấy ư? Ta khó mà chê không nhận. Phượng Trung Long vòng qua Phượng Nghi thạch rồi lặn xuống sâu khoảng ba trượng. Có thể tìm thấy cửa hang đá cất giấu châu báu ở đây. Chàng mở to mắt, nghĩ bụng cửa hàng không thể to như mồm sư tử, ta phải nhìn cho kĩ. À, đây rồi! Chợt cảm thấy bên mắt cá chân phải hơi nhói, rồi bắp chân bị rút một cái. Chắc là chân vướng phải cỏ nước. Phượng Trung Long cúi nhìn, không phải cỏ, nhưng có một bóng đen lờ mờ đang tiến tới gần. Chàng rút thanh Đoạn Nguyệt đao răng cưa, món binh khí lừng danh chuyên dành quyết chiến dưới nước, sẵn sàng ra tay. Trên cạn, Phượng Trung Long không dám xưng mình là thiên hạ đệ nhất võ công, chứ ở dưới nước thì chàng thật sự là một huyền thoại. Nhưng cái bóng đen kia dường như hiện diện khắp mọi nơi. Áp lực kinh khủng như đứng trước mũi tên sắp bật dây, mà mắt sao không nhìn rõ kẻ địch. Lần đầu tiên trong đời chàng thấy sợ hãi khi ở dưới nước. Đã chạng vạng tối. Lòng Văn Oanh trịu nặng, sốt ruột, nặng nề hơn cả mặt trời đang lặn. Nàng nhìn mãi đảo Hồ Tâm xa xa nhưng không thấy bóng con thuyền đâu. Nàng đứng bên hồ cho đến khi phía tây trăng mọc. Đứng cho đến khi xác Phượng Trung Long nổi lên mặt hồ. Phủ thái sư đón tiểu thư bị bắt cóc trở về. Vẫn kiều diễm như trước nhưng con người nàng đã khác. Kể từ đó tiểu thư Văn Oanh chỉ lẩm bẩm độc một câu gần như y hệt câu thơ nổi tiếng của Tô Đông Pha: “Áo tơi, mưa gió câu nốt chuỗi ngày tàn.”