Trên tòa nhà hai tầng sừng sững đứng trước đám cây xanh mát, một lá cờ vải lớn bằng cánh buồm thuyền thoi phất phơ phô cái dấu hiệu đặc biệt với khách qua đường. Rồi, một tấm biển đứng hình chữ "nhật" chắn ngang trên mái ngói, rồi một tấm biển gập hình chữ "nhân" úp đứng trên mái hiên, rồi một bức màn trắng kín những chữ căng ngang trước cửa như một bức nghi môn. Trước cửa, hai cái tủ kính bày những hình ảnh kỳ dị, khiến cho ai đã qua đó, đều phải dừng lại mà nhìn. Phía trong, trên cái giá sơn son, một bộ lộ bộ ngăn cách đường ra lối vào, sắc đồng sáng choang của những thứ gươm, chùy, mâu, kích như muốn khoe vẻ quý phái của chủ nhà. Chạy theo bức tường dài, hai lớp tủ đứng bóng lộn mùi quang dầu. ạ thuốc, hộp thuốc, lọ thuốc, chai thuốc, mỗi thứ có hàng mấy trăm cái. Bấy nhiêu sự góp lại thành một hiệu thuốc, xin tạm gọi là "Hiệu thuốc ông Trăng", một cửa hàng thuốc đã tốn công làm quảng cáo nhất ở Hà thành. Ngoài những việc quảng cáo trên báo, trong sách, hàng ngày lại có một người ôm đống quảng cáo bằng cái bồ, chăm chỉ rút từng tờ mà ấn vào tay, hoặc quẳng vào xe những người qua lại. ông chủ hiệu ấy, đố ai đoán được là hạng người gì. Quần Tây, đôi kính trắng gọng vàng quanh năm làm diềm cho bộ mặt gồ ghề và cái nước da đen xạm. Trên bàn giấy, luôn luôn thấy cái điếu ống vắt vẻo cây tre rễ trúc chừng hai thước tây. Khi đi, khi đứng, khi ngồi, nếu là tiết mùa hè, không khi nào không có hai đứa đầy tớ vác đôi quạt lông chạy theo mà phẩy phẩy cho ông chủ nhà của họ thành ra một người quý phái. Trông những sự trang hoàng trong cửa hàng và ngắm cái cách cư xử của chủ hiệu, người ta có thể đồ chừng sự ăn tiêu của nhà ấy mỗi tháng không dưới ba trăm đồng. ấy là chưa kể cái vốn để chế hoặc mua thuốc. Ba trăm đồng một tháng, sự ăn tiêu ấy phải là một nhà cự phú mới có thể đương nổi. Mà cự phú thật, hắn mới cự phú trong vài năm nay. Những người đã hơi biết hắn, đều phải ngạc nhiên cho sự phát đạt lạ lùng của hắn. Phải. Trước đây khoảng 10 năm, chủ nhân hiệu thuốc “ông Trăng" còn là một kẻ lang thang và dốt nát. Ngoài chữ quốc ngữ là thứ chữ mà trẻ con cũng đều đọc được, vị chủ nhân hiệu ấy không biết thứ chữ gì khác. Một người tư cách như vậy, ai ngờ có ngày trở nên một thầy thuốc, xin tạm gọi là thầy thuốc, chủ trương một cửa hàng thuốc rất to. Thoạt kỳ thủy, hắn chỉ là kẻ buôn thuốc, không phải là buôn thuốc cái như những người gánh bồ, nghĩa là hắn mua vài thứ thuốc ghẻ, thuốc lở ở nhà quê, đem ra Hà Nội gửi bán tại các cửa hàng sách. Gặp dịp may mắn, cuộc thương mại ấy đã làm cho hắn đủ tiền thuê chỗ kê cái ghế vải mà nằm ở đất phồn hoa. Tình cờ tại một phố kia, có viên quan lớn vì đi làm quan, muốn tìm một người cẩn thận, cho ở nhà trong để trông nom và lau quét dùm những căn nhà ngoài. Nhờ được người quen giới thiệu, ông chủ cái ghế vải đã thành người coi nhà cho ông quan to. Lợi dụng cơ hội, hắn mới đăng luôn lên báo mấy dòng, rao rằng:"Cần người đại lý bán thuốc, ai muốn điều đình xin đến nhà ấy nhà nọ mà hỏi".Bấy giờ thiên hạ hãy còn nhiều người khờ hớ hơn bây giờ, cho nên quảng cáo đăng được vài ngày thì đã có người ở tỉnh khác đến xin làm đại lý. Chủ nhân tiếp khách ở nhà ngoài của viên quan kia, và đòi án quỹ một số là hai trăm đồng. Trông thấy ghế, sập, lư, đỉnh và các đồ bài trí trong nhà, khách tin chủ là người phú quý. Với cái cửa nhà lộng lẫy, số tiền 200 đồng, nếu đem án quỹ, chưa thấm vào đâu, chắc không bao giờ sứt mẻ một đồng nào được. Nghĩ vậy, khách nhận lời chủ, cách vài ngày thì đệ số bạc kia đến. Trong lưng đã sẵn đồng tiền, một mặt hắn đi mua thuốc ở hiệu khách mà thay chai, thay hộp, dán lá nhãn của mình vào, rồi gửi đi cho đại lý, một mặt thuê nhà, đóng tủ mở một cửa hàng thuốc con con lấy thương tiêu là hiệu “ông Trăng". Thế là ông "lang thang" đã nhảy lên địa vị ông "lang băm". Ngôi tuy đổi mà tư cách vẫn còn nguyên như cũ, ông chủ hiệu thuốc ấy vẫn không biết mặt biết tên một vị thuốc nào. Nghề làm thuốc của hắn chỉ cốt ở sự thay hình đổi dạng. Nghĩa là mua thuốc của các hiệu khách đem về, thuốc viên thì tán thành bột, thuốc bột thì nặn thành viên, hoặc là viên lớn xẻ thành viên nhỏ, viên nhỏ hợp làm viên lớn, rồi nhồi vào hộp vào chai mà bán. Đồng thời việc quảng cáo trên báo, hắn vẫn hết sức tiến hành, vừa nói khoác bạt mạng cho các thuốc ở cửa hàng mình, vừa quáến rũ lấy đại lý bán thuốc ở các tỉnh nhỏ. Nhờ về sự quảng cáo "không biết thẹn" đó mà thuốc, tuy không chữa khỏi bệnh vẫn bán được, người các tỉnh xin làm đại lý vẫn mỗi ngày một thêm. Cái cửa hàng con con vụt trở thành một cửa hiệu nguy nga, rực rỡ. "Mỗi người phải lừa một lần là tôi giàu rồi". ấy là lời cố cùng mà cũng là câu xưng tội của chủ nhân nhà thuốc “ông Trăng" đã đáp lại câu hỏi hiểm hóc của mấy người quen biết. Có thế thực, một người đến mua thuốc là có một món tiền lời, một người xin làm đại lý là có một số tiền ký quỹ, 25 triệu con rồng cháu tiên chưa phải ai cũng khôn ngoan, người mua thuốc, người làm đại lý chưa bao giờ hết. Lừa bằng cách ấy chưa đủ, ông chủ hiệu ấy lại phải nghĩ thêm cách khác. Trong lúc xã hội "thầy lang" hãy còn lộn xộn, những người có bệnh phần nhiều không biết lấy thuốc của ông thầy nào, người ta sợ rằng "tật mang mà tiền vẫn mất". Đoán thấy chỗ yếu của số đông người, chủ hiệu “ông Trăng" mới lập cái kế "chữa khoán". Phong, lao, cổ, lại, bốn chứng đó, các sách Tàu đều cho là bệnh bất trị, cho đến các nhà y học âu tây cũng chưa tìm được cách chữa chắc chắn. Vậy mà chủ hiệu “ông Trăng" dám nhận chữa khoán hết thảy. "Chữa khoán bệnh lao" "Chữa khoán bệnh hủi"... bức màn trắng treo trên cửa hiệu, luôn luôn nêu mấy dòng thật lớn như thế, và nói rõ rằng "nếu không khỏi không lấy tiền", bệnh nào cũng vậy. Tưởng là thực, kẻ có bệnh theo nhau mà đến, nhiều nhất là người mắc bệnh lao. Lúc này tư cách chủ hiệu đã tiến hơn trước, nghĩa là hắn đã đọc qua vài cuốn sách thuốc quốc ngữ, nhớ được ít tên thuốc và tên mạch để làm sáo mà tiếp con bệnh. Cũng hỏi chứng, cũng xem mạch, cũng giở sách thuốc nói quàng nói xiên, rồi tùy từng mặt mà nặn tiền, có thể nặn được đến đâu thì hắn nặn đến đấy. Nhưng vô luận bệnh gì, hắn đều bắt đặt một nửa tiền, tính theo cái giá đã khoán. Ngó những lộ bộ, quạt lông, điếu ống xe dài thườn thượt, kẻ có bệnh cố nhiên không ai dám trả rẻ tiền. Nhưng trong khi đặt một nửa tiền, người ta cũng đành bắt ông chủ viết cho cái giấy. Bạn đọc thử nghĩ giấy ấy viết ra sao? "Một bên là ông X chủ hiệu “ông Trăng", một bên là ông Y, người có bệnh lao ở Phố P đã bằng lòng với nhau những điều sau này:“Ông Y xin thuê khoán cho ông X chữa bệnh lao của mình, và thuận trả ông X một số là 100 đồng. Nay đã đặt trước 50 đồng, khi nào khỏi bệnh sẽ trả nốt 50 đồng nữa. ông X nhận của ông Y 50 đồng, phải chữa cho ông Y thật khỏi. Nếu không khỏi thì ông X phải trả lại cho ông Y số tiền đặt trước ấy. Nếu ông Y nửa chừng bỏ dở thì số tiền đặt trước ấy, ông X không phải trả lại". Giấy là vậy, còn thuốc thế nào? Thiên môn, mạch môn, khoản đông, tử uyển, một mớ vị thuốc nhuận phế đó, hắn luyện thành viên, hắn nấu thành cao, đưa mãi cho người ta uống. Thuốc như vậy, đời nào mà chữa cho được bệnh lao! Bệnh không khỏi, kẻ ốm đem giấy đến hiệu, đòi lại số tiền đã đặt. Chủ hiệu chỉ phải đáp lại một câu:- Trong giấy đã nói "nếu uống thuốc nửa chừng bỏ dở" thì "tôi không phải trả lại số tiền đặt ấy" kia mà. Bây giờ tôi còn đương chữa mà ông đã thôi, ấy là ông bỏ dở, không thể đòi tiền tôi được.Thì ra trong giấy không nói cái "hạn chữa khỏi" là bao nhiêu ngày, giả như theo thuốc đến mấy chục năm, khi thôi, cũng vẫn là người bỏ dở. Ấy đó, hắn gạt người ta cốt ở chỗ đó! Song điều đó chỉ gạt được người nhà quê, chớ Hà Nội thì ít kẻ mắc. Nhưng các thầy "lang băm" đều là thánh sư nghề lừa gạt, họ đã có nhiều cách khác để gạt người Hà Nội.