Tôi khắc khoải muốn trở về, ít ra thì cũng một lần, để thăm lại thành phố cũ, căn nhà xưa nơi mà anh em tôi trải qua thời ấu thơ. Hà-Nội đã thay đổi nhiều, quá nhiều. Hà-Nội không còn là Hà-Nội của tôi trong tâm tưởng. Thế nhưng còn căn nhà xưa? Tôi đứng tần ngần trước biệt thự số 32 phố Phan Bội Châu. Vẫn căn nhà đó, vẫn mầu vôi vàng cũ kỹ, nhưng không còn cây ngọc-lan trước ngõ, không còn vuờn cỏ xanh và hàng sấu già vang tiếng ve sầu mùa hạ.  Người đàn-bà trung niên bước ra. Tôi ngập ngừng: - Chị cho hỏi thăm … Chị nhìn tôi, như dò xét: - Anh tìm ai? - Không. Ngày xưa tôi ở căn nhà này. Lâu lắm rồi. Nếu chị cho phép, tôi chỉ muốn nhìn lại chốn cũ.  - Thế anh là … - Tên tôi là là Duy, còn đây là chú Thành, em tôi. Chúng tôi đã sang Hoa-Kỳ cư ngụ mấy chục năm nay, và bây giờ mới có dịp về thăm lại quê nhà. Người đàn bà nói như reo: - Thế anh là con bác Ðức-Khánh trước năm 54 ở căn nhà này. Chúng em vẫn nghe nói về bác luôn. Rồi như để trả lời cho vẻ ngạc nhiên của chúng tôi chị giải thích: - Em là Phụng, con dâu ông Mậu. Khi hai bác di cư vào Nam đã nhường lại căn nhà này cho bố chồng em.  Tôi như chút được một gánh nặng trên vai và một chút vui thích khi bắt được giọng nói Hà-Nội cũ, Hà-Nội trước năm 1954, thay vì giọng nói có pha chút âm hưởng vùng Thanh-Nghệ-Tĩnh như bây giờ: - May quá, không ngờ gập được người quen. Phụng cười thân thiện, mở rộng cánh cửa: - Vâng, thật là có duyên gặp được các anh. Mời hai anh vào chơi, mình ơi, anh Ðạo ơi. Nhà có khách. Tôi bàng hoàng bước vào căn nhà cũ. Ðạo tiếp chúng tôi niềm nở, tươi cười dẫn chúng tôi đi lang thang khắp nhà. Chỗ này ngày xưa mẹ hay nằm hát ru các em tôi. Phòng kia kê bộ phản chân quỳ bác Chánh tôi nằm hút thuốc phiện mỗi lần từ quê ra thăm.  Cái tủ áo ở góc này, tôi trốn trong đó cho Long, cho Sĩ đi tìm hàng nửa ngày.  Cầu thang bằng đá lên tầng trên vẫn nhẵn bóng và trơn trượt.  Tôi bước ra hành lang. Hành lang có mái che ngày xưa kê chiếc bàn dài cho  anh em chúng tôi ngồi học.  Họ hàng từ quê ra trọ học tại nhà tôi rất đông.  Ngày đó anh Thế học trung-học Nguyền-Trãi, anh Dân học Albert Sarraut, chị Lành học Trương Vương … ngày đó tôi nghe ‘This is Jack. Jack is a boy …’ anh Lương đọc từ cuốn sách bìa cứng mầu xanh nước biển với tấm lòng khâm phục. Cũng ở nơi đó tôi nghe cô Minh dạy chú Quán phát âm ‘Ông Lý có cái lọ treo lủng lẳng lưng chừng nhà’, chả là vì dân miền quê tôi nói ngọng, không phân biệt được ‘en nờ’ với ‘e lờ’. Tôi chỉ cho chú Thành: - Góc này là chỗ bố bắt tôi quì mổi lần tôi ‘lỡ tay’ bắn súng cao-su làm vỡ kính nhà ‘thằng’ Tây hàng xóm. Ngày đó chú còn bé lắm nên không bao giờ bị đòn, nhưng chú hay khóc nhè nên có biệt danh là ‘Cò Nhăn’.  Chú Thành cười, chỉ một bức tường: - Nhưng em cũng còn nhớ chỗ này có cánh cửa cầu thang riêng dẫn xuống phòng mẹ. Sao bây giờ không còn? Anh Ðạo giải thích: - Căn nhà rộng.  Bố mẹ em đã qua đời, nhưng tất cả các anh em chúng em vẫn còn sống chung nơi đây. Từ ngày lập gia-đình  chúng em đã ngăn chia  căn nhà  ra làm nhiều phần và xây cất thêm cho có chút ít riêng tư. Những cây sấu già cũng đã được cưa đi, sân cỏ ngày xưa như các anh thấy bây giờ là những quán hàng để kiếm sống. Biệt thự ngày đó bây giờ chỉ là một đám nhà hỗn tạp. Chắc các anh  không còn tìm thấy nhiều dấu vết cũ? Tôi nắm tay Ðạo: - Cám ơn anh đã cho chúng tôi thăm lại căn nhà xưa. Lẽ dĩ nhiên là ‘vật đổi sao dời’ nhưng chúng tôi thấy như sống lại ngày tháng cũ và những kỷ niệm xa xưa thật êm đềm. Xin anh cho phép chúng tôi chụp mấy tấm hình để cho mẹ tôi thấy lại căn nhà này, và cho các con tôi thấy được một phần thời thơ ấu của chúng tôi. Giã-từ Ðạo chúng tôi chậm chạp đi lại con đường trước đây dẫn chúng tôi tới trường. 50 năm là một khoảng đời nhưng những góc phố vẫn không quên. Tôi chỉ cho chú Thành căn nhà ở góc đường Trần Hưng Ðạo và Phan Bội Châu: - Chỗ này là trường mẫu-giáo của chú. Ngày đầu tiên chú tới trường tôi phải đứng ngoài cửa sổ cho tới khi chú thôi khóc. Trường học không còn nữa, nhưng chiếc cổng sắt hình như vẫn là chiếc này. Tiếp tục đi trên con đường Trần Hưng Ðạo, tôi nói như là đang trong giấc mơ: - Góc này là ‘Ðấu Xảo’ chứ không phải là ‘Cung Thiếu Nhi’ như bây giờ đâu, phía trái là chùa Quán Sứ, phía trước là ngã tư Quang-Trung - Trần Hưng Ðạo. Chỗ này có cây muỗn, nhưng nay không còn. Chú biết cây muỗm là cây gì không? Quả nó giống quả xoài nhưng cây cao lớn hơn nhiều. Những hôm trời nắng tôi vẫn ngồi nghỉ dưới gốc cây trước khi vào lớp. Mà đường phố ngày xưa vắng lắm. Ít xe hơi và không có xe gắn máy, nhiều lúc tôi cứ đi giữa đường. Chú Thành nhắc tôi: - Anh đi lên vỉa hè không xe Honda cán gẫy giò bây giờ! Tôi hình như ra khỏi cơn mê. Tiếng còi xe ‘tin.. tin..’ thúc giục không ngừng, thay thế tiếng ve sầu trên những cây sấu già. Tôi lại như chìm vào dĩ vãng: - Sấu chín ngọt lắm. Sấu xanh dầm nước mắm đường cũng ‘tuyệt cú mèo’. Hồi đó chú còn bé nên không được ăn, bây giờ đi gần hết Hà-Nội mà vẫn chưa thấy cây sấu nào.   Tôi đứng nép vào cổng trường, cố nhìn rõ bên trong. Nhiều tòa nhà hai từng mới xây, bề thế hơn dãy nhà ngói cũ nơi tôi mài đũng quần suốt 5 năm tiểu-học. Sân trường không còn nữa và lẽ dĩ nhiên những cây bàng với những chiếc lá to đỏ ối vào mùa thu cũng đã không còn. Như trong hơi sương tôi thấy thầy Huệ mặc áo dài đen, cô Hạnh quàng khăn san, và thầy Khang mang kính đen đang đi lại trong hành lang. Tôi dụi mắt, hỏi thầm không biết thầy cô cũ bây giờ ở đâu. Tôi nhớ cô Hạnh hiền, không đánh tôi vì tôi vật nhau với thằng Vĩnh ngoài sân trường mà còn dẫn tôi ra vòi nước rửa tay. Tôi cũng nhớ thầy Khang. Tôi nghĩ thầy ghét tôi vì tôi hay nghịch thế nhưng ngày cuối niên học năm đó lần đầu tiên thầy gọi tôi bằng con và xoa đầu tôi: - Con chịu khó học, đừng lêu lổng nữa nhé. Không biết tại sao lúc đó tôi bỗng ứa nước mắt. Có bao giờ tôi khóc đâu dù thầy đã từng đánh tôi hàng trăm thước kẻ mỗi lần tôi chọc phá bạn bè trong lớp hay không thuộc bài! Ngày đó là ngày chia tay và năm đó cũng là năm cuối cùng ở Hà-Nội, trước khi gia-đình tôi theo đoàn người di-cư vào Nam Nam Texas California 
         
      Trần Quang Thiệu
April 2004