10 giờ 14 phút. Gray ngửa người để lao xuống biển. Nước ôm trọn lấy anh. Không còn một kẻ hở nào để đá phải tiếp xúc với ô nhiễm và nước bẩn. Bộ quần áo lặc đã được cài chặt cẩn thận. Cổ và cổ tay đã được phủ bằng lớp cao su đặc biệt. Mặt nạ AGA hoàn toàn che kín khuôn mặt anh, chụp chiếc mũ kiểu Viking lên vai. Nút thở được gắn phía trên giúp anh dễ dàng nói chuyện. Gray thấy những tia sáng qua màn kính mũ lặn, tuy nhiên độ nhìn ở đây rất kém vì bùn và những tạp chất che khuất tầm nhìn chỉ khoảng từ mười đến mưới lăm feet. Không đến nỗi tồi. Có thể còn tệ hơn nữa. Cái áo lặn có phao giúp anh nổi trở lại trên mặt biển. Anh nhìn Rachel và Vigor nhảy xuống biển từ mạn thuyền bên kia. Kat đã ở dưới nước bên cạnh anh. Anh thử máy bộ đàm, loại Buddy Phone siêm âm truyền dẫn trên một tần số. “Mọi người có nghe tôi rõ không? Kiểm tra đi?” Anh nói. Mọi tín hiệu đều trả lời tốt, kể cả Monk đang làm nhiệm vụ gác ca đầu tiên trên thuyền. Monk cũng có cả một hệ thống video hải quân để kiểm tra hoạt động của cả nhóm phía dưới biển. Mọi người đều biết vị trí của mình rồi chứ?” Trả lời khẳng định là tốt. “Hãy lặn xuống.” Anh ra lệnh. Anh nhả khí ra để hạ thấp dần xuống dưới. Đây là thời điểm mà những người thợ lặn mới toanh cảm thấy cơn ù tai dễ sợ. Gray chưa từng có cảm giác đó. Trái lại anh lại thấy được hoàn tự do. Anh thấy như mình không có trọng lượng, đang bay đi, có thể làm mọi động tác nhào lộn. Anh phát hiện Rachel lao xuống nước bên kia mạn thuyền. Có thể dễ dàng nhận ra cô bằng đường vạch sọc màu đỏ ngang nhực bộ quần áo lặn màu đen của cô. Họ phải dung màu sắc khác biệt để dễ dàng nhận ra nhau. Bộ của anh màu xanh lơ. Kat màu hồng, Vifor màu xanh lá cây. Monk cũng đã mặc quần áo lặn sẵn sang vào ca trực. Anh ta mặc màu vàng, về mặt nào đó phù hợp với thái độ của anh đối với môn lặn. Gray ngằm nhìn Rachel. Giống như anh, cô có vẻ như hoàn toàn thích không gian tự do dưới những lớp sóng biển. Cô vặn người rồi lao xuống phía dưới. Anh dành mấy giây để quan sát cô rồi tập trung lặn xuống dưới. Đáy biển toàn cát, lởm chởm những mảnh vụn. Gray điểu chỉnh phao để có thể di chuyển dễ dàng dưới đáy biển, anh quay bên phải rồi bên trái. Mọi người đã vào vị trí tương tự. “Liệu mọi người có thể nhìn thấy nhau không?” Anh hỏi. Mọi người gật đều và khẳng định. “Monk, video nhìn dưới nước có hoạt động không?” “Trông các bạn như những bóng ma. Tầm nhìn kém. Tôi sợ không nhìn thấy khi đi xa. ” “Tiếp tục giữ liên lạc bằng radio. Nếu có vấn đề gì, hãy phát lệnh báo động rồi di chuyển về phía chúng tôi.” Gray hoàn toàn tin rằng họ đang nhảy vào sân của Long Đình và anh không muốn đối mặt với Raoul chút nào. Anh cũng không biết chúng đã vượt hơn mình là bao nhiêu. Nhưng ở đây có rất nhiều thuyền. Đang là ban ngày mà. Tuy nhiên, họ cần phải nhanh chóng hành động. Gray chỉ về phía trước “Ok, chúng ta tiến về phía bờ, giữ khoảng cách không quá mười lăm feet. Luôn quan sát lẫn nhau mọi lúc.” Bốn người bọn họ có thể kiểm tra một khoảng cách hai mươi lăm thước Anh. Khi lên bờ nếu không phát hiện được gì, họ sẽ lại xuống tiếp dọc bờ biển làm thêm hai mươi lăm thước Anh rồi bơi trở lại con thuyền đang neo. Cứ thế từng khu vực một họ có thể kiểm tra toàn bộ khu pháo đài. Gray bắt đầu. Anh có con dao thợ lặn gắn vào cổ tay lặn có đèn flash. Khi mặt trời đang hiếu trực tiếp trên đầu và nước không quá sâu cũng không cần thiết phải có thêm ánh sang bổ trợ, nhưng khi thăm dò vào những hang hốc thì lại rất cần. Không nghi ngờ gì điểm họ tìm kiếm không bằng phẳng hoặc đã bị người ta phát hiện trước rồi. Đó lại là một câu đố nữa phải trả lời. Khi đang bơi, anh vẫn cố suy nghĩ xem họ đã thiếu thứ gì. Có thể còn có nhiều dấu tích nữa ở trên bản đồ vẽ trên tảng đá hơn là chỉ có Alexandria. Có thể còn cò những dấu tích nữa chon vùi ở vị trí nơi đây. Liệu họ có thiếu cái gì không? Liệu gã Raoul có lấy đi một dấu tích nào trong cái hang dưới ngôi mộ của Thánh Peter không? Liệu tụi Long Đình đã có câu trả lời chưa? Không trả lời được, anh bơi nhanh hơn. Anh không nhìn thấy Kat bơi phía bên phải với anh. Bơi hơi chậm, anh thấy Kat xuất hiện. Một hình khối ở trước, nhô ra từ đáy biển toàn cát. Một hòn đá? Hay khối nhũ thạch? Anh vung chân lên, Qua màng che phủ bùn, nó xuất hiện. Quái quỷ gì vậy? Khuôn mặt bằng đá chằm chằm nhìn anh, một khuôn mặt người, bị nước biển và thời gian bào mòn nhưng đường nét vẫn sắc sảo, rõ nét. Phía thân trên ngồi chồm hỗm trên một con sư tử. Kat để ý sự chú ý của anh tiến gần lại. “Một con nhân sư?” “Một con nữa ở đây,” Vigor thông báo. “Bị vỡ một bên. Những thợ lặn cho biết có hang chục con nằm rải rác ở đáy biển gần pháo đài. Một số từ ngọn hải đăng.” Mặc dù rất vội nhưng anh cũng không thể không nhìn kỹ bức tượng và kinh ngạc. Anh nhìn cái mặt, được đẽo bằng tay hai nghìn năm trước đây. Anh thò tay chạm vào nó, như cảm nhận khoảng cách về thời gian giữa anh và người đẽo pho tượng. Vigor nói từ một nơi nào đó. “Ráp vào những diễn giải các câu đố chắc là canh gác bí mật này.” Gray rút tay lại. “Ông nói vậy là thế nào?” Một cái chặt lưỡi. “Anh có biết lịch sử câu chuyện về những nhân sư không? Con quái vật này làm mọi người ở Thebe hoảng sợ, ăn thịt họ nếu họ không giải đáp được câu đố của nó. Con gì có một giọng nói rồi có bốn chân, hai chân và ba chân?” “Thế còn câu trả lời?” Gray hỏi. “Con người,” Kat nói tiếp theo anh, “đó là con người, lúc còn nhỏ bò bằng bốn chân, khi lớn đi bằng hai chân, lúc già phải dung gậy để đi”. Vigor tiếp tục. “Oedipus đã giải được câu đó nên con nhân sư lao vào tảng đá chết.” “Rơi xuống từ một đỉnh núi” Gray nói. “Giống như những con nhân sư này.” Anh lùi ra khỏi pho tượng đá rồi bơi tiếp. Họ còn có câu đố của chính mình cần phải giải đáp. Sau mười phút im lặng tìm kiếm họ tới bờ biển lởm chởm đá. Gray tới một chỗ toàn những tảng đá lớn nhưng không có lối vào, không thấy gì cả. “Quay lại,” anh nói. Họ quay ra, bơi ra xa bờ biển hướng về chiếc thuyền. “Ở đó tình hình ổn chứ, Monk?” Gray hỏi. “Tắm nắng dễ chịu lắm.” “Tiếp tục gác, chúng tôi lại tiếp tục.” “Vâng, thưa chỉ huy.” Gray tiếp tục trong vòng bốn mươi phút nữa, leo lên thuyền rồi lại xuống. Anh bắt gặp một vỏ tàu bị đắm, những tảng đá, cột bị gãy… những con cá bơi lững lờ qua lại. Anh kiểm tra lượng khí, thở mạnh, vẫn còn đầy một bình nữa. “Liệu có ai thấy thiếu khí không?” Sau khi trao đổi, mọi người quyết định tiếp tục thêm hai mươi phút nữa, lên thuyền nghỉ nửa tiếng rồi lại tiếp tục xuống nước. Trong khi bơi, anh lại trở về ý nghĩ ban đầu. Anh vẫn cảm thấy như họ đã thiếu cái gì đó quan trọng. Nếu như Long Đình đã lấy đi một vật gì đấy từ ngôi mộ dấu tích thứ hai. Anh đạp mạnh. Mình phải để nổi sợ hãi đó mất đi. Anh vẫn phải tiếp tục như thế ngang với Long Đình có cùng những thông tin. Sự im lặng của độ sâu tiếp tục đè nặng lên anh. “Hình như có điều đấy không ổn?” Anh lẩm bẩm. Radio truyền dẫn câu nói của anh. “Anh tìm thấy gì à?” Kat hỏi. Bóng cô đang bơi lại gần anh. “Không có gì. Chỉ là càng ở lâu dưới này, tôi càng có cảm giác chúng ta đang làm một việc sai lầm.” “Tôi xin lỗi.” Rachel nói từ khoảng không nào đó, giọng có vẻ tuyệt vọng. “Có thể tôi đã đặt quá nhiều hy vọng.” “Không.” Gray nhớ lại vẻ mặt của cô lúc nãy. Anh thầm rủa mình đã khơi lại chuyện ấy. “Rachel, tôi nghĩ là cô đã định ra nơi chính xác để tìm kiếm. Vấn đề là kế hoạch của tôi. Việc tìm kiếm từng khu vực một xem ra không ổn.” “Anh nói vậy nghĩa là thế nào, chỉ huy?” Kat nói. “Có thể mất thời gian nhưng chúng ta sẽ kiểm tra được cả khu vực.” Chính là vậy. Kat đã làm sáng tỏ điều đó cho anh. Anh không phải là người luôn theo những cái gì có trật tự, phương pháp luận bướng bỉnh. Trong khi một vài vấn đề được giải quyết tốt nhất theo cách đó thì bí mật này lại không phải nằm trong số ấy. “Chúng ta thiếu một dấu vết.” Anh nói. “Tôi biết rồi. Chúng ta nhận ra bản đồ trên mộ, phát hiện ra ngôi mộ của Alexander rồi bay đến đây. Chúng ta tìm kiếm qua sách vở, thống kê, tài liệu, cố gắng giải đáo một câu đố mà đã làm đau đầu các nhà sử học hàng nghìn năm nay. Chúng ta là ai mà có thể giải đáp nó trong vòng một ngày?” “Vậy anh muốn chúng ta làm gì?” Kat hỏi. Gray dừng lại. “Chúng ta cần trở lại. Chúng ta đã dựa trên nghiên cứu của mình từ các tài liệu lịch sử phổ biến đối với tất cả. Chúng ta chỉ có một lợi thế đối với những kẻ săn lung khi báu khác hang thế kỷ qua là những gì phát hiện ra ở dưới ngôi mộ của Thánh Peter. Chúng ta đã mất một dấu vết ở dưới đó.” Hoặc là nó đã bị lấy mất. Gray nghĩ. Nhưng anh không nói ra sự băn khoăn ấy. “Có thể chúng ta không để lọt bằng chứng ở ngôi mộ.” Vigor nói. “Rất có khả năng chúng ta không nhìn kỹ. Hãy nhớ khu hầm mộ. Những cái ấy cũng có tầng tần lớp lớp. Liệu có thể có một tầng nữa trong câu đố này không?” Im lặng trả lời ông ta… cho đến khi một giọng vang lên giải quyết tất cả. “Cái ngôi sao cháy bùng chết tiệt đó,” Monk nói. “Nó không chỉ có chỉ xuống thành phố Alexandria… nó chỉ xuống tảng đá.” Gray cảm thấy sự thật trong câu nói của Monk. Họ đã quá tập trung vào cái bản đồ được khắc, ngôi sao đang cháy, sự ám chỉ của tất cả nhưng họ lại quên đi phương thức bất thường của người họa sỹ. “Ô-xýt-sắt. “ Kat nói. “Cô biết gì về cái đó?” Gray hỏi rất tin về hiểu biết của cô đối với lĩnh vực địa chất. Hầu hết là sắt nhưng thỉnh thoảng nó cũng chứa một khối lượng iridium và titanium.” “Iridium?” Rachel hỏi. “Liệu có phải đấy là một trong những chất hỗn hợp không? Trong hài cốt của các vị Tiên tri?” “Đúng cậy.” Kat trả lời, giọng cô nghe căng thẳng qua radio. “Nhưng tôi không tin điều đó là phần có ý nghĩa.” “Cái gì?” Gray hỏi. “Tôi xin lỗi, chỉ huy. Lẽ ra tôi phải nghĩ tới điều này. Sắt trong ô-xýt-sắt thường có từ trường yếu, không khỏe như ô-xýt-sắt song thỉnh thoảng nó cũng được dùng như cực nam châm.” Gray nhận ra sự ám chỉ. Nam châm cũng đã được dùng để mở ngôi mộ thứ nhất. “ Vậy ngôi sao không chỉ vào Alexandria, nó lại chỉ vào hòn đá có từ trường, đó là cái chúng ta cần tìm. “Thế thì thế giới cổ đại làm gì với cực nam châm?” Vigor hỏi, giọng có vẻ kích động. Gray hiểu câu trả lời. “Họ làm la bàn.” Anh mở không khí lọt vào áo lặn rồi nhô lên mặt biển. “Tất cả mọi người lên thuyền.” °°° 11 giờ 10 phút Thời gian tính từng phút một, họ tháo bỏ các thứ trang bị. Rachel lại trèo vào khoang lái, vui ra mặt khi lại cầm lái. Cô ấn nút để nhổ neo. Con thuyền lao lên phía trước. “Chạy chậm thôi.” Gray nói. Anh đang ngồi sát cô. “Tôi ủng hộ điều đó.” Monk nói. “Tôi sẽ theo dõi la bàn.” Gray tiếp tục. “Cô hãy chạy với tốc độ thật chậm vòng quanh khu pháo đài. Nếu thấy kim la bàn dịch chuyển, chúng ta sẽ lập tức nhổ neo rồi tìm kiếm phía dưới.” Rachel gật đầu. Cô cầu nguyện cho bất cứ tảng đá có nam châm nào nằm dưới đó sẽ đủ mạnh để con thuyền của họ có thể phát hiện ra qua la bàn. Khi neo đã được kéo lên, cô nhẹ nhàng gạt cần khởi động. Dịch chuyển về phía trước khó có thể phát hiện thấy. “Tuyệt vời.” Gray thì thào. Họ trượt lên phía trước. Mặt trời chậm chạp nhô lên trên cao. Họ kéo nắp boong lên che ánh nắng chói chang vào chiếc thuyền. Monk nằm soài trên chiếc ghế lớn, ngáy nhè nhẹ. Không ai nói câu nào. Mỗi khi con tàu chạy chậm lại Rachel lại cảm thấy không yên tâm chút nào. “Nếu như tảng đá không nằm dưới đó thì sao?” Cô thì thào với Gray, khi anh đang chăm chú nhìn vào la bàn. “Nếu như nó nằm trong pháo đài thì sao?” “Vậy chúng ta sẽ lục soát chỗ tiếp theo.” Gray nói, mắt hướng về phía pháo đài đá. “Nhưng tôi nghĩ cô nói đúng khi đề cập đến một lối vào bí mật. Tảng đá ô-xýt hóa nằm trên hang bí mật dẫn đến cái hang dẫn xuống kênh con sông Nước. Có lẽ đấy là một tầng nữa của câu đố.” Kat nghe họ nói chuyện, một cuốn sách ở trên đùi. “Có thể chúng ta đã đọc quá nhiều về vấn đề ấy rồi.” Cô nói. “Hãy cố nặn ra điều chúng ta muốn để đối phó với câu đố.” Ở phía dưới, Vigor đang lấy tay xoa xoa bụng chân sưng phồng lên sau khi bơi. “ Tôi nghĩ rằng câu hỏi cuối cùng là hòn đá có thể nằm ở đâu- ở trên bộ hay dưới nước, phụ thuộc vào các nhà giả kim học giấu vết tích ở đâu. Chúng ta đã phán đoán những dấu vết được giấu vào thời gian nào trong thế kỷ VIII, có thể trước sau một chút, vào lúc cao điểm của một cuộc chiến giữa Chủ nghĩa Ngộ đạo và chính thống. Như vậy các nhà giả kim có thể giấu vết tích của họ trước hoặc sau khi tháp hải đăng Pharo sụp đổ vào năm 1303.” Chẳng ai có câu trả lời cả. Nhưng vài phút sau, trên mặt la bàn thấy có sự chuyển dịch mạnh. “Dừng lại.” Gray hét lên. Cái kim lại ổn định. Kat và Vigor nhìn họ. Gray đặt tay lên vai Rachel. “Quay lại.” Cái kim lại thấy chuyển động, quay đi ít nhất một phần tư. “Hạ neo.” Gray ra lệnh. Cô ấn nút hạ neo, thở hổn hển. “Có cái gì ở dưới.” Gray nói. Mọi người bắt đầu khởi động ngay lập tức, vớ lấy bình khí mới. Monk thức giấc rồi ngồi dậy. “Cái gì vậy?” Anh nói giọng mỏi mệt. “trông như anh lại tiếp tục nhiệm vụ canh gác nữa rồi.” Gray nói. “Trừ phi anh muốn xuống nhúng người.” Monk càu nhàu không nói gì. Khi chiếc thuyền đã ổn định và lá cờ màu da cam được giơ lên, bốn thợ lặn lúc nãy nhảy xuống nước. Rachel xả phao và bắt đầu lặn. Giọng của Gray đến với cô qua máy bộ đàm. “Hãy để ý la bàn đeo ở cổ tay. Zero là bất thường.” Rachel theo dõi la bàn khi cô lặn xuống. Nước ở đây khá nóng. Chưa đầy mười mét. Cô xuống đến nền cát rất nhanh. Những người khác cũng xuống nhanh chỗ cô đứng, trông như những chú chim. “Không có gì ở đây.” Kat nói. Đáy biển là một chỗ bằng phẳng toàn cát. Rachel nhìn chăm chú vào la bàn. Cô nhao người ra rồi lại quay lại. “Điều bất thường ở ngay đây.” Gray cúi xuống đáy biển rồi đưa tay rà một lượt. “Cô ta nói đúng.” Anh vòng tay lấy con dao đeo bên tay kia rồi bắt đầu đào vào nền cát mềm mại. Mũi dao đâm sâu xuống, bùn cát bắn tung lên làm hạn chế tầm nhìn. Đến nhát thứ bảy, mũi dao như khựng lại không thể đi sâu quá hơn vài centimét. “Có cái gì đó.” Gray nói. Anh rút lưỡi dao rồi bắt đầu đào vào cát. Cảnh bỗng tối hẳn. Rachel không nhìn thất gì nữa. Cô nghe thấy tiếng thở gấp từ Gray. Rachel tiến đến gần hơn, Gray lùi lại. Chỗ cát bị tản ra rồi lại đọng lại. Nhô lên trên cát là một pho tượng bán thân của một người đàn ông. “Tôi nghĩ rằng đấy là cực nam châm.” Kat nói, nghiên cứu chất đá của pho tượng. Cô cũng chà xát la bàn của mình bên tay cô lên pho tượng. Cái kim lập tức nhảy. “Ô-xýt sắt có từ tính.” Rachel tiến đến gần hơn, nhìn vào khuôn mặt. Không có sự nhầm lẫn nào về sự giống nhau của các đường nét. Cô đã nhìn những khuôn mặt như vậy vài ba lần hôm nay rồi. Gray cũng nhận ra điều đó. “Lại một con nhân sư khác.” 12 giờ 14 phút Gray dành mười phút để cạo sạch vai và phía trên của pho tượng, thò tay vào hình hài sư tử ở dưới. Không còn nghi ngờ gì nữa đây là một trong các con nhân sư giống như những con khác nằm la liệt trên biển. “Giấu trong số những con khác.” Vigor nói. “Tôi đoán điều ấy khi trả lời câu hỏi khi nào các nhà giả kim giấu vật báu của họ ở đây.” “Sau khi ngọn hải đăng bị sụp đổ.” Gray nói. “Chính xác là vậy.” Họ bu quanh con nhân sư có nhiễm từ, chờ cho đám bụi và cát ổn định. Vigor tiếp tục. “Hội các vị Tiên tri cổ xưa chắc phải biết vị trí của ngôi mộ Alexander sau khi Septimus Severus giấu nó vào thế kỷ thứ ba. Họ giữ cho nó không bị đụng chạm đến, giữ được những bản thảo quý báu nhất của cái thư viện đã mất. Có lẽ vào trận động đất năm 1303 không chỉ làm đổ ngọn hải đăng mà còn làm ngôi một phát lộ. Họ nắm lấy cơ hội này để lại giấu tiếp, tận dụng thời gian hỗn loạn sau vụ động đất để chon vùi dấu vết tiếp theo để những thế kỷ sau lại chông vùi tiếp nữa.” “Nếu như ông đúng,” Gray nói, “sẽ chỉ ra ngày tháng khi những dấu vết này được chôn. Hãy nhớ là chúng ta đã từng dự đoán rằng những dấu vết được đặt xung quanh thế kỷ XIII. Chúng ta chỉ cách vài năm. 1303. Thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XIV.” “Hừm…” Vigor trôi đến gần hơn pho tượng. “Cái gì?” “Nó làm tôi phân vân. Cũng trong thập kỷ đó, giáo hoàng thực sự đã bị đánh đuổi ra khỏi thành Rome và di tản sang nước Pháp. Phải chống giáo hoàng đã cai trị Rome cho tới thế kỷ sau.” “Vậy ư?” “Cũng tương tự như vậy, hài cốt của các vị Tiên tri bị di rời từ Italy sang nước Đức vào năm 1162, một thời gian khác nữa khi vị giáo hoàng thực sự bị đánh chạy khỏi Rome và kẻ chống lại giáo hoàng ngồi trên ngai vàng.” Gray theo sau luồng suy nghĩ này. “Như vậy là những nhà giả kim đã cất giấu kho báu mỗi khi giáo hoàng bị đe dọa hiểm nguy.” “Có vẻ là như vậy. Điều đó cắt nghĩa là hiệp hội những nhà thông thái đã có sự ràng buộc với giáo hội. Có thể, các nhà giả kim đã gia nhập Thiên chúa giáo lại mở cuộc tìm kiếm những kiến thức bí hiểm, những người Thiên chúa giáo Thomas.” “Và hội bí mật này sát nhập với nhà thờ cơ đốc giáo?” Vigor gật đầu. “Khi nhà thờ chính thống bị đặt trước sự đe dọa, thì nhà thờ bí mật cũng vậy. Vì vậy họ tìm cách bào vệ. Đầu tiên là di chuyển chỗ di cốt đến nơi an toàn ở Đức vào thế kỷ thứ XII. Rồi sau những năm vật lộn ở hải ngoại, họ đã giấu phần tinh túy nhất trong số kiến thức của họ.” “Ngay cả nếu đó là thực sự, cái đấy sẽ giúp gì cho việc chúng ta tìm mộ Alexander?” Kat hỏi. “Giống như những dấu tích dẫn đến mộ Thánh Peter đã bị chon vùi trong những câu chuyện của đạo Cơ đốc giáo. Những dấu vết ở đây có thể lien quan đến những truyền thuyết về Alexander, chuyện thần thoại Hy Lạp.” Vigor lấy tay xoa lên mặt tượng. “Tại sao khác lại đánh dấu lối vào bằng con nhân sư?” “Những bậc thầy về câu đố của người Hy Lạp.” Gray lẩm bẩm. “Và con quỷ này sẽ giết anh ngay lập tức nếu không trả lời đúng các câu đối đó.” Vigor nhắc lại. “Có lẽ việc lựa chọn hình tượng này cũng là một lời cảnh báo.” Gray nghiên cứu con nhân sư khi cát đã trôi đi, cũng như vẻ bí hiểm của nó. “Vậy thì chúng ta hãy giải câu đố này.” 12 giờ 32 phút Xuống Alexandria lần cuối cùng. Chiếc máy bay tư nhân Gulfstrem IV được phép mặt đất cho hạ cánh. Seichan lắng nghe câu chuyện của phi hành đoàn qua cửa khoang lái mở toang. Cô ngồi ghế ngay sát cửa. Ánh sang mặt trời xuyên qua cửa sổ chỗ cô ngồi. Một thân hình to lớn bước đến cô từ phía bên trái. Raoul. Cô tiếp tục nhìn ra ngoài cửa sổ khi chiếc máy bay lượn một vòng trên vùng nước biển màu xanh sẫm của Địa Trung Hải chuẩn bị hạ cánh xuống đường băng. “Thế cơ sở của cô dưới mặt đất nói điều gì?” Raoul hỏi, nhấn từng chữ một. Có thể hắn để ý thấy cô đã sử dụng máy điện thoại của máy bay. Cô mêm mê hình con rồng bằng bạc trên sợi dây chuyền. “Những người kia vẫn ở dưới nước. Nếu như ông may mắn, có thể họ sẽ giải được điều bí mật đó cho ông.” “Ta không cần họ làm điều ấy.” Raoul quay lại trở về chỗ đồng bọn, một tốp chừng mười sáu tên, trong đó có cả những kẻ bậc thầy của Long Đình. Seichan đã từng gặp nhà học giả đầy tài năng của Vatican, tiến sĩ Alberto Menardi, một người đàn ông cao ráo, tóc bạch kim với nước da sần sùi, đôi môi dày, cặp mắt ti hí. Gã ngồi phía sau máy bay, mũi bị sưng vù. Cô đã có toàn bộ hồ sơ về gã. Quan hệ của gã với một tổ chức tội phạm nào đó của Sisin có vẻ rất sâu. Hình như ngay cả Vatican cũng không thể ngăn không cho những hạt cỏ dại mọc trên đất của mình. Nhưng cô cũng không thể bỏ qua bộ óc sắc sảo của người đàn ông này. Gã có chỉ số IQ cao hơn Einstein đến ba điểm. Chính tiến sĩ Alberto Menardi là kẻ từ mười lăm năm trước đây đã phát hiện trong thư viện của Long Đình những văn bản của phái Ngộ đạo về những hiệu ứng của từ trường khi giải thoát năng lượng của những kim loại siêu dẫn đó. Gã đã quan sát công trình thí nghiệm tại Lausanne Thụy Sỹ và thử phản ứng trên súc vật, rau cỏ và khoáng vật. Và ai có thể nhớ những du khách người Thụy Sỹ đơn độc đeo ba lô trên núi? Những thí nghiệm cuối cùng cũng có thể làm cho các nhà khoa học Quốc xã Đức sởn gai ốc. Nhưng người đàn ông này lại có một thú vui rất bẩn thỉu với các cô gái trẻ. Không phải vì tình dục. Vì thể thao. Cô đã nhìn thấy một vài tấm ảnh mà cô không hề muốn nhìn. Nếu cô không nhận được lệnh của Hiệp hội phải thủ tiêu người đàn ông này thì tự cô cũng sẽ làm việc đó. Chiếc máy bay bắt đầu hạ cánh. Ở một nơi nào đó phía dưới, toán Sigma đang miệt mài làm việc. Họ không phải là mối đe dọa. Quá dễ dàng như bắt cá trong thùng.