Sau chiến thắng ngoạn mục tại Trân châu cảng và đánh bại hải quân Anh tại Tân Gia Ba, hải quân Nhật thực sự đã làm chủ Thái Bình Dương một thời gian, cho mãi tới các thất bại tại quần đảo Midway và cuộc rút lui tại Guadacanal. Tuy nhiên hai thất bại này không làm suy giảm niềm tin của hải quân Nhật và dân chúng Nhật vào sự lãnh đạo của Yamamoto. Các chiến dịch và kế hoạch hành quân của đô đốc Yamamoto là những kế hoạch của một thiên tài quân sự, nhưng khi thi hành đều không đem lại kết quả như ý muốn, chính là vì hải quân Mỹ đã đọc được mật mã của hải quân Nhật, biết trước mọi đường đi nước bước của hải quân Nhật. Sự thất bại của của hải quân Nhật là điều không thể tránh khỏi. Sau những thất bại kể trên, Yamamoto biết rằng dù hải quân vẫn rất trung thành với mình, nhưng binh sĩ của ông đã không còn tự tin như trước nữa. Các mẫu hạm bị đánh chìm trong trận Midway và cuộc rút lui tại Guadacanal là những đòn quá mạnh giáng vào tinh thần chiến đấu của hải quân Nhật, và hải quân Nhật không còn nghĩ rằng họ là một quân đội bất bại nữa. Yamamoto thấy cần phải làm một loạt thăm viếng các tiền đồn hải quân xa nhất, để gây lại niềm tin và tinh thần chiến đấu của những binh sĩ chưa hết bàng hoàng về những thất trận quan trọng vừa qua. Yamamoto vẫn giữ được hình ảnh một anh hùng quốc gia, và được hải quân tôn thờ như đô đốc Togo trước kia vậy. Yamamoto nghĩ rằng sự hiện diện của mình cùng những bài diễn văn khích lệ có thể biến đổi sự ngã lòng của binh sĩ thành một niềm tin vào chiến thắng cuối cùng nhất định đạt được. Thế là Yamamoto lên đường làm những cuộc viếng thăm tại khắp vùng nam Thái Bình Dương, và đã gặt hái được nhiều kết quả mong đợi. Tại bất cứ đâu, trong cái hơi nóng ẩm thấp của miền nhiệt đới, người anh hùng quốc gia Yamamoto, lúc nào cũng nghiêm chỉnh trong bộ binh phục mầu trắng rất thẳng nếp, đã thành công truyền cái bầu nhiệt huyết của ông vào từng sĩ quan và binh sĩ dưới quyền. Tại đâu ông cũng nhấn mạnh với họ rằng sẽ còn nhiều trận hải chiến dữ dội nữa và chiến thắng hay chiến bại của Nhật đều tùy thuộc vào sự chiến đấu của hải quân Nhật. Yamamoto rất muốn thảo luận với tướng Hyakutake, người đã chỉ huy quân đoàn 17 của Nhật trong trận đánh Guadacanal. Yamamoto dự định ngày 18-4 sẽ bay tới Rabaul để gặp Hyakutake, và sau đó bay tới Buin để thanh tra các căn cứ hải quân tiền tuyến. Ðêm 17-4, Yamamoto sẽ nghỉ tại Rabaul và ngày hôm sau sẽ bay từ Buin tới căn cứ hải quân tại Truk, tại đây soái hạm Musashi của ông đang bỏ neo. Phạm vi thanh tra của Yamamoto nằm trong tầm hoạt động của phi cơ Mỹ, vì thế chương trình viếng thăm của ông được giữ cực kỳ bí mật. Các cố vấn của ông lần đầu tiên phải khuyên ông không nên mặc bộ binh phục mầu trắng thường lệ của ông nữa, để tránh sự khám phá của các phi công Mỹ. Yamamoto đồng ý và mặc một bộ binh phục ka-ki mầu xám thay thế. Yamamoto sẽ rời Rabaul vào lúc 6 giờ sáng ngày 18-4 trên chiếc oanh tạc cơ loại Mitsubishi Betty. Ði theo ông trong một chiếc oanh tạc cơ thứ hai là đô đốc Ukagi, tham mưu trưởng của ông. Yamamoto chủ trương tư lệnh và tham mưu trưởng phải di chuyển trong hai phi cơ khác nhau, để nếu người này gặp nạn thì còn lại người kia. Hai phi cơ này được một đoàn sáu chiến đấu cơ loại Zekes hộ tống. Những tín hiệu về cuộc viếng thăm của ông đã được đánh đi trước tới các căn cứ ông sẽ thăm viếng. Căn cứ truyền tin gần nhất của Mỹ có nhiệm vụ bắt tín hiệu của Nhật nằm an toàn trong một hang núi trong quần đảo Aleutians. Ngay bên trên bờ đá nhô ra biển là một cột truyền tin cao 100 thước. Ðúng lúc 6:36 sáng ngày 17-4, căn cứ truyền tin Mỹ nhận được tín hiệu về cuộc viếng thăm của Yamamoto. Tín hiệu này được chuyển ngay về Hoa Thịnh Ðốn để giải mật mã. Một toán chuyên viên mật mã nghiên cứu tín hiệu, và trong khoảng 5 tiếng đồng hồ, họ đã biết được tín hiệu nói gì. Ðây là một bản tin thường lệ báo các cho các tư lệnh Nhật trong vùng biết được thời gian và địa điểm của cuộc viếng thăm sắp tới của Yamamoto. Khi bản tin này được chuyển tới bộ trưởng hải quân Frank Knox, ông ta đọc sơ qua rồi bỏ đi ăn trưa. Trong lúc ăn trưa, Frank Knox chợt nhớ lại ngày xưa chiến tranh thắng hay bại thường chỉ là kết quả của cuộc giao đấu giữa hai viên tướng đối địch nhau. Lúc đó địch thủ đáng ghét nhất của Mỹ là đô đốc Yamamoto. Knox bắt đầu suy tính. Vì biết đích xác ngày mai tại một địa điểm và thời giờ đã biết trước, phi công Mỹ có thể bắn hạ phi cơ chở Yamamoto một cách dễ dàng. Yamamoto chính là người đặt kế hoạch tấn công Trân châu cảng, trong đó hai ngàn binh sĩ Mỹ thiệt mạng, chưa kể một phần lớn của hạm đội Thái Bình Dương đã bị tiêu diệt. Và còn biết bao binh sĩ Mỹ khác đã bỏ xác dưới đáy biển trong các trận đánh đẫm máu kế tiếp, cũng do chính Yamamoto điều khiển, như trận đánh Biển San Hô, trận đánh tại quần đảo Midway và gần đây nhất là trận đánh Guadacanal. Vậy thì đây là một cuộc trả thù xứng đáng nhất. Ngay sau khi ăn trưa xong, Knox trở về văn phòng và cho gọi tướng Arnold, tư lệnh không quân Mỹ. Arnold cũng rất hứng khởi với hy vọng bắn hạ được Yamamoto, và suy nghĩ cách thực hiện vụ ám sát này. Arnold và Knox nghiên cứu bản đồ và nhận thấy địa điểm tốt nhất để chặn phi cơ của Yamamoto là ngay khi phi cơ của Yamamoto tới gần đảo Bougainville. Ðây sẽ là một cuộc tấn công khá xa cho phi cơ Mỹ. Phi cơ Mỹ sẽ phải cất cánh tại phi trường Henderson tại Guadacanal, cách xa Bougainville khoảng 500 dặm. Không một phi cơ P.38 nào có thể bay tới một nơi xa như thế mà có thể quay trở lại được căn cứ, vì không đủ nhiên liệu. Nhưng cơ hội ám sát hãn hữu này không thể bỏ qua được. Arnold cho mời Charles Lindberg, một người đã từng bay qua Ðại Tây Dương một mình, và hiện là cố vấn cho những chuyến bay đường trường. Arnold cũng mời thêm Frank Meyer của hãng chế tạo phi cơ Lockheeds là hãng chế tạo phi cơ P.38. Tất cả ba người chăm chú nghiên cứu bản đồ và thảo luận về việc cho phi cơ mang thêm các thùng xăng trừ bị. Cả Lindberg và Meyer đều đồng ý rằng đây là một chuyến bay quá dài, nhưng không phải là không thực hiện được. Sau hai giờ bàn thảo chi tiết, tất cả đều đồng ý mở Chiến Dịch Trả Thù, một kế hoạch ám sát Yamamoto để trả thù cho trận Trân châu cảng. Knox gửi một tín hiệu cho tướng Kenney, tư lệnh Không lực Tây nam Thái Bình Dương tại Úc Ðại Lợi, yêu cầu Kenny khẩn cấp cung cấp các thùng xăng bay đường trường. Các tín hiệu lại tới tấp truyền đi giữa bộ tư lệnh của Kenney và bộ tư lệnh tại New Guinea. Ba giờ sau đó, bốn phi cơ loại Liberators cất cánh từ vịnh Milne, mang theo 18 thùng xăng, mỗi thùng chứa được 165 gallon, và 18 thùng xăng khác mỗi thùng chứa được 310 gallon. Phi cơ có thể liệng bỏ thùng xăng thứ hai sau khi đã dùng hết xăng. Knox gửi một tín hiệu thứ hai tới Guadacanal cho thiếu tá John Mitchell, chỉ huy phi đội 339, ra lệnh cho Mitchell và hai sĩ quan chỉ huy phi đội nữa là Besby Holmes và Thomas Lanphier phải tới trình diện ngay tại bộ tư lệnh. Lúc đó là 5 giờ chiều và chiếc xe díp chở ba sĩ quan này phóng như bay qua mưa và bùn lầy tới bộ tư lệnh đang tạm đóng trong một túp lều. Mitchell được trao cho một bức điện tín sau đây: "Hoa Thịnh Ðốn Tối Mật. Bộ trưởng hải quân gửi sĩ quan chỉ huy tại phi trường Henderson. Ðô đốc Yamamoto cùng với đô đốc tham mưu và bảy tướng Nhật khác đã rời Truk sáng nay để thanh tra căn cứ Bougainville. Yamamoto và phái đoàn di chuyển trong hai chiếc Betty và có 6 chiếc Zekes hộ tống. Có thể có thêm phi cơ hộ tống theo nghi lễ danh dự từ Kahili. Yamamoto tới Rabaul vào lúc 16:00 và nghỉ đêm tại đó. Sáng sớm sẽ rời đi Kahili và tới nơi khoảng 9:45. Sau đó Yamamoto sẽ lên chiếc tiềm thủy đỉnh để thanh tra các đơn vị hải quân của đô đốc Tanaka." "Sáng ngày 18-4, phi đội 339 có các phi cơ P.38 phải bay tới và tiêu diệt Yamamoto và đoàn tùy tùng bằng mọi giá. Các thùng xăng trừ bị sẽ từ Port Morseby tới nơi vào chiều ngày 17. Tin tình báo cho biết Yamamoto cực kỳ đúng giờ. Tổng thống coi cuộc hành quân này cực kỳ quan trọng. Thông báo kết quả ngay tức khắc về Hoa Thịnh Ðốn. Frank Knox bộ trưởng hải quân. Tài liệu tối mật này không được sao chép lại và cũng không được lưu giữ; mà phải tiêu hủy ngay sau khi hoàn thành nhiệm vụ." Mitchell gật đầu đồng ý, rồi cả ba sĩ quan được giao phó trọng trách này ngồi xuống, bàn thảo cách thi hành cuộc hành quân. Họ phải đương đầu với một số khó khăn. Họ dự định mở cuộc tấn công tại một điểm cách 30 dặm về phía đông phi trường Kahili. Nhưng nếu Yamamoto đúng giờ như thói thường của ông thì phi cơ tấn công Mỹ phải có mặt tại địa điểm đúng 9:35. Họ không biết tầm cao của phi cơ chở Yamamoto. Ðiều này rất quan trọng nếu muốn giữ được yếu tố bất ngờ. Họ lý luận rằng hai chiếc phi cơ Betty chở Yamamoto và đoàn tùy tùng không bay cao quá 10 ngàn bộ, bởi vì nếu bay cao quá thì Yamamoto và đoàn tùy tùng sẽ phải bắt buộc xử dụng mặt nạ dưỡng khí. Mitchell quyết định sẽ dẫn đầu một toán 12 chiếc P.38 bay ở độ cao 20 ngàn bộ, để bảo vệ phía bên trên cho các phi cơ khác bay bên dưới, ở độ cao 11 ngàn bộ. Toán phi cơ bay bên dưới có nhiệm vụ ngăn chặn hai chiếc phi cơ chở Yamamoto và đoàn tùy tùng. Tất cả hai toán sẽ phải cất cánh đúng 7:20 sáng để bảo đảm họ sẽ tới gần phi trường Kahili đúng hai giờ và 15 phút sau đó. Ðến 9 giờ tối hôm đó thì bốn chiếc Liberators đem tới những thùng xăng dự trữ đặc biệt, dùng cho phi vụ xa xôi đó. Mãi sáng sớm hôm sau, việc gắn các thùng xăng đặc biệt vào các phi cơ mới hoàn tất. Sau bữa điểm tâm sơ sài, Mitchell dẫn các phi đội ra trước 18 chiếc P.38 đã sẵn sàng trên phi đạo, hai bên cánh mỗi chiếc P.38 đều mang theo những thùng xăng dự trữ đặc biệt. Ðúng 7:20, chiếc P.38 đầu tiên cất cánh, phóng lên một bầu trời xanh biếc sau một đêm giông bão. Hai chiếc P.38 bị trục trặc kỹ thuật phải bỏ lại, và cuối cùng chỉ có 16 phi cơ P.38 bay được về hướng đảo Bougainville. Ngày 17-4 có bão tố tại đảo Rabaul, nơi Yamamoto chủ tọa một cuộc họp quân sự, để dự thảo các kế hoạch tiếp tục cuộc chiến đấu với hải quân Mỹ. Cuộc họp này rất quan trọng, bởi vì theo Yamamoto thì quân đội Nhật đã rút lui khỏi Guadacanal được hai tháng rồi và chắc chắn quân Mỹ đã có đủ thì giờ tập trung lực lượng để mở một cuộc tấn công mới. Người Mỹ hầu như đã sẵn sàng kế hoạch nhảy chiếm dần từng đảo một. Yamamoto cho rằng Nhật phải sẵn sàng đương đầu với bất cứ sự tiến quân nào của Mỹ, bất cứ từ phía nào. Cuộc họp còn bàn từng chi tiết của kế hoạch đương đầu với quân Mỹ. Nhưng càng họp các đô đốc Nhật càng chỉ trích đổ lỗi cho nhau trong các thất bại vừa qua của Nhật. Trước tình cảnh đó, Yamamoto rất lo ngại. Chính vì để tránh sự buộc tội lẫn nhau của các cấp chỉ huy Nhật mà Yamamoto quyết định phải đích thân đi thăm các căn cứ và binh sĩ Nhật, mặc dù ông biết chuyến đi của ông rất nguy hiểm. Cuối cùng Yamamoto cũng làm cho các tư lệnh Nhật gấu ó nhau phải im lặng, nhưng ông cảm thấy cực kỳ lo ngại trước thái độ của họ. Ðêm đó Yamamoto ngồi chơi cờ GO với đại tá Watanabe, sĩ quan tham mưu của ông và cũng sẽ bay theo ông ngày hôm sau tới Bougainville. Nhưng chợt Yamamoto bảo Watanabe, "Ngày mai đại tá không cần phải đi theo tôi nữa, mà phải ở lại đây để hoàn tất các chi tiết của kế hoạch đương đầu với quân Mỹ, và giải quyết êm đẹp cuộc tranh chấp của các sĩ quan tư lệnh tại đây." Sáng hôm sau, đúng 6 giờ sáng, Yamamoto khởi hành tiếp cuộc thanh tra từ đảo Rabaul trên chiếc oanh tạc cơ sơn sọc mầu xanh lá cây để ngụy trang. Cùng trên chiếc oanh tạc cơ đó có thêm thiếu tá Ishizaki thư ký riêng của Yamamoto, đô đốc quân y Takata và sĩ quan tham mưu Tobana. Trong chiếc oanh tạc cơ thứ hai sơn mầu ka-ki là tham mưu trưởng của Yamamoto, đô đốc Ugaki, cùng với đề đốc Kitamura và sĩ quan viễn thông là thiếu tá Muroi. Cả hai đô đốc Yamamoto và Ukagi đều ngồi vào chỗ của phi công chính, và việc lái do phi công phụ đảm trách. Hai chiếc oanh tạc cơ bay trên một bầu trời xanh lơ, ngay bên trên các miệng núi lửa trong vịnh Rabaul, và bay đi Bougainville về hướng đông nam. Hai phi cơ bay rất sát nhau và sáu chiến đấu cơ Zekes bay theo hộ vệ tỏa ra bay chung quanh. Bốn chiếc Zekes bay bảo vệ hai bên tả hữu trong khi hai chiếc Zekes bay bên trên và hơi lùi lại phía sau. Khi trông thấy những bìa rừng của đảo Bougainville thì tất cả phi đội đều bay thấp xuống ở độ cao hai ngàn bộ để đề phòng bất trắc. Hai chiếc oanh tạc cơ chở Yamamoto và Ukagi dường như lẫn với mầu rừng tại Bougainville. Lúc đó là đúng 9:30 và đoàn phi cơ của Yamamoto bay là là trên rừng cây và sắp tới phi trường Kahili, tại đó binh sĩ Nhật đang sẵn sàng chờ đón Yamamoto vào đúng 9:45. Trong khi đó đoàn phi cơ tấn công của Mitchell cũng vừa tới nơi. Khi Mitchell bốc phi cơ vọt lên cao độ 20 ngàn bộ thì các phi công trong đoàn của Yamamoto không để ý thấy chiếc P.38 này. Bốn phi công tấn công Mỹ là Lanphier, Barber, Holmes và Hine bắt đầu liệng bỏ những thùng xăng dự trữ đã dùng hết xuống biển. Rồi tất cả bốn chiếc chúc đầu xuống, phóng nhanh như những con diều hâu lao xuống bắt mồi. Khi các phi công hộ tống trông thấy các phi cơ P.38 thì họ ở cách phi cơ của Yamamoto khoảng một dặm. Ngay lập tức hai chiếc phi cơ chở Yamamoto và Ukagi lao xuống sát rừng già để tìm sự an toàn trong khi các phi cơ Zekes hộ tống bay vọt lên chặn phi cơ Mỹ. Thoạt đầu Yamamoto và Ukagi không hiểu chuyện gì cả. Yamamoto và đoàn tùy tùng lo ngại quan sát khắp bầu trời, trong khi hai phi cơ bay quanh co như để tránh đạn và hạ thấp hẳn xuống đầu các bụi dừa, cách mặt đất khoảng 200 bộ và phi hành đoàn sửa soạn súng máy để nghênh địch. Ðúng 9:33, khi bốn chiếc P.38 lao xuống tấn công hai phi cơ địch và trông thấy dấu hiệu mặt trời trên cánh và cạnh phi cơ, Lanphier cho rằng chiếc Betty thứ hai sơn sọc mầu xanh lá cây phải là chiếc chở Yamamoto. Lanphier liền phóng tới nhưng ba chiếc Zekes vội liệng bỏ các thùng xăng cho nhẹ và nhào xuống chiếc P.38 của Lanphier. Thoạt đầu Lanphier mất dấu chiếc phi cơ chở Yamamoto, nhưng Lanphier quay lại tấn công ba chiếc Zekes đang phóng tới. Lanphier quạt ra một tràng súng máy và hai chiếc Zekes mầu vàng và mầu xanh lá cây trúng đạn và rơi ngay xuống trước mắt Lanphier. Rồi ngay lúc ấy Lanphier trông thấy chiếc Betty sọc xanh lá cây đang hạ thấp xuống rừng già. Lanphier lao xuống với tốc độ 400 dặm một giờ đuổi theo. Khi chiếc P.38 bay ngang tầm ngọn cây thì chiếc phi cơ sọc xanh lá cây quay ngang, đưa mình vào đúng họng súng của Lanphier. Không chậm trễ một giây, Lanphier bấm nút khẩu đại pháo 22 và khẩu súng máy 13 ly. Một làn khói đen bốc lên từ đầu máy của chiếc phi cơ sọc xanh lá cây và lửa bắt đầu bùng lên. Ngay sau đó khói đen bốc lên khi cánh phi cơ bốc cháy. Chiếc phi cơ sọc xanh lá cây chở Yamamoto mất tốc độ và bay chập choạng. Lanphier bay trờ tới và nhả thêm một loạt đạn nữa. Chiếc phi cơ chở Yamamoto rùng mình, và lảo đảo trên các ngọn cây. Chiếc cánh không cháy đụng phải một cành cây và gẫy gục. Rồi chiếc phi cơ đang cháy đó chúi xuống đất, rồi chồm lên một lần nữa trước khi nổ tung. Ðô đốc Ukagi ngồi trên chiếc phi cơ thứ hai và đã chứng kiến từ đầu đến cuối giây phút cuối cùng của danh tướng Yamamoto, và đã viết lại trong nhật ký như sau: "Bỗng nhiên không thấy báo động mà máy phi cơ gầm lên rồi phi cơ lao xuống rừng già, ở độ cao khoảng 200 bộ. Không ai hiểu chuyện gì đã xảy ra cả. Rồi phi cơ của tôi bay là ngay bên trên cánh rừng già và chúng tôi trông thấy các chiến đấu cơ hộ tống bay vọt lên ngăn chặn các phi cơ tấn công của địch, mang dấu hiệu Lockheed Lightnings. Phi cơ địch đông hơn gấp ba lần phi cơ Nhật và phá vỡ được vòng phòng thủ của các phi cơ Zekes và tiến lại phía phi cơ chở chúng tôi. Hai phi cơ của chúng tôi vội quay hướng bay khoảng 90 độ để tránh phi cơ địch, một chiếc rẽ sang hướng phải và một chiếc quay sang trái." "Vài phút sau tôi không nhìn thấy phi cơ chở đô đốc Yamamoto nữa, nhưng cuối cùng tôi xác định được vị trí của nó cách xa về bên tay phải. Tôi kinh hoàng trông thấy phi cơ đó bay rất chậm ngay trên ngọn cây và những ngọn lửa màu cam mau lẹ tràn ra bao trùm hai cánh và thân máy bay. Rồi phi cơ tuôn ra những làn khói đen dầy đặc, và hạ thấp xuống mãi, chỉ cách chúng tôi khoảng bốn dậm. Khi phi cơ của tôi vượt bay lên, tôi có dịp quan sát toàn thể khu rừng. Chiếc Betty chở Yamamoto hoàn toàn mất dạng trong khi khói đen dầy đặc tuôn lên từ cánh rừng già. Tất cả chỉ xảy ra trong khoảng chừng hai mươi giây và tôi biết rằng thế là hết rồi!" Ngay sau đó, Ukagi không còn dịp quan sát hơn nữa, vì trung úy Rex Barber bắt đầu phóng tới tấn công phi cơ chở Ukagi. Phi công của Ukagi vội phóng chạy trốn nhưng Barber đã kịp khai hỏa và một phần đuôi của chiếc Betty chở Ukagi bị vỡ tung, mặc dù Barber đang bị một số chiến đấu cơ Zekes đuổi theo sát. Chiếc Betty thứ hai rơi nhào xuống biển. Hai đô đốc Ukagi và Kitamura và các sĩ quan khác trên chiếc Betty thứ hai đều bị thương nặng, nhưng được các tầu tuần tiễu của Nhật phóng lại cứu cấp và đem được ra ngoài chiếc phi cơ Betty bị phá hủy. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ bắn hạ hai chiếc oanh tạc cơ Betty, các trung úy Lanphier và Barber phải bay là là sát trên rừng già để tránh bị các chiến đấu cơ Zekes đuổi theo trả thù. Cả hai Lanphier và Barber may mắn thoát nạn nhưng chiếc P.38 của trung úy Ray Hine bị trúng đạn rơi xuống biển. Trong trận không chiến đó, ba chiếc Zekes của Nhật cũng bị bắn rơi. Ngay khi các phi cơ P.38 bay ngược trở về Guadacanal thì hàng loạt phi cơ Zekes bốc lên từ phi trường Kahili để đuổi theo. Tuy nhiên tất cả 15 chiếc P.38 còn lại đều chạy thoát, mặc dầu tất cả đều trúng rất nhiều đạn của các chiến đấu cơ Zekes. Chiếc P.38 bị tổn hại ít nhất là chiếc của trung úy Lanphier, trên thân chiếc P.38 này người ta chỉ đếm được hai lỗ đạn. Tin đô đốc Yamamoto bị bắn hạ đã là một tin chấn động làm tan nát lòng người Nhật. Người đầu tiên được nghe tin này là đô đốc Kakuda, chỉ huy mẫu hạm trong chiến dịch tại Aleutians. Kakuda vừa trở lại soái hạm của mình là chiếc mẫu hạm Hiyo, sau khi tham dự cuộc hội họp bàn thảo chi tiết trong kế hoạch ngăn chặn sức tiến công của quân Mỹ, do chính Yamamoto ra lệnh. Kakuda tái mét mặt khi đọc xong bản tin không may này, mặc dù ông là một sĩ quan nổi tiếng lòng dạ cứng rắn như sắt thép. Phản ứng đầu tiên của Kakuda là rời bỏ phòng chỉ huy trên mẫu hạm, trở về phòng riêng và khóa trái cửa nằm trong đó suốt một ngày, nhất định không tiếp chuyện bất cứ một người nào. Trong vòng vài phút sau khi phi cơ của Yamamoto bị bắn hạ, từng nhóm sĩ quan Nhật, nét đau đớn hiện hẳn lên mặt, đứng nghiêm trên những chiến hạm tại Truk, chào lá cờ của Yamamoto được từ từ hạ xuống trên soái hạm Musashi. Ðó là phản ứng đầu tiên về phía Nhật. Trong khi đó dĩ nhiên là người Mỹ cực kỳ vui sướng. Ðô đốc Halsey lập tức gửi một tín hiệu tới phi trường Henderson: "Ngợi khen Thiếu Tá Mitchell và các Thiện Xạ của ông ta. Một trong những con vịt bắn được của họ thực sự là một con công." Người Mỹ rất căm thù Yamamoto vì những chiến công của ông suốt từ Trân châu cảng cho mãi tới Guadacanal. Bởi vậy khi tin ông bị bắn hạ được thông báo trong buổi họp của đô đốc Halsey thì các sĩ quan Mỹ nhẩy lên reo hò sung sướng. Nhưng đô đốc Halsey nói một cách chua chát: "Chuyện này có gì đáng vui đâu? Ta đã hy vọng bắt sống được tên khốn kiếp này, xích hắn lại và dẫn đi diễn hành trên đại lộ Pennsylvania, trong khi các ngươi tha hồ đấm đá thì mới thực là thích thú." Ðại lộ Pennsylvania là một đại lộ quan trọng nhất tại Hoa Thịnh Ðốn vì tòa Bạch ốc nằm ngay trên đại lộ này. Nhưng giấc mộng của Halsey muốn bắt sống được Yamamoto, trói lại rồi bắt đi diễn hành làm nhục trên đại lộ Pennsylvania có quá ngông cuồng không? Trong trận Mỹ Nhật chiến tranh, biết bao tướng lãnh, đô đốc Nhật đã tự tử bằng nhiều cách để tránh cái nhục phải đầu hàng. Một quân nhân can trường thấm nhuần tinh thần võ sĩ đạo như Yamamoto dĩ nhiên không phải là một người sợ hãi cái chết, và tất nhiên ông không bao giờ để bị địch quân bắt sống trong trường hợp bại trận. °