Cuộc chiến Có thể chia làm ba giai đoạn. - Giai đoạn đầu: từ 6 đến 10-10 -1973, Ả Rập tấn công Do Thái bất ngờ, Do Thái lùi. Một mặt 120.000 quân Ai Cập tấn công suốt dọc kênh Suez, dùng cầu nổi bắc qua kênh, cho thiết giáp xa tràn qua bờ phía Đông; một mặt 100.000 quân Syrie tấn công Do Thái để rán chiếm lại cao nguyên Golan. Ngày 7-10-1973, hải quân hai bên đụng độ nhau. Do Thái chỉ có 90.000 quân thường trực, rán chống đỡ cả hai mặt; đồng thời gọi quân trừ bị, chuẩn bị phản công. Ngày 9-10-1973, họ thua ở Sinai, chịu bỏ phòng tuyến tối tân Barlev, một đoàn xe tăng của họ bị Ai Cập bắt sống. Khối Phi liên kết và Cộng sản tuyên bố ủng hộ Ả Rập. Maroc, Soudan gởi quân giúp tượng trưng Ai Cập. Iraq quốc hữu hoá hai công ty dầu lửa Mỹ. Mỹ tuyên bố ủng hộ Do Thái, Nga cũng tuyên bố ủng hộ Ả Rập. Tây Âu chưa tỏ rõ thái độ, trừ Pháp: ngoại trưởng Pháp bảo Ả Rập trở lại đất cũ của họ thì không thể gọi họ là xâm lăng được. Ngày đầu, Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc đã kêu gọi hai bên ngưng bắn nhưng không ai nghe. Ngày 9-10. Mỹ muốn hai bên rút về vị trí cũ; Nga muốn Do Thái phải trả hết các đất đã chiếm từ 1967. Sau bốn ngày chiến đấu, Do Thái tốn bốn tỉ bảng, bằng 400 triệu Anh kim, trên một tỉ Mỹ kim. - Giai đoạn nhì: từ 10 đến 18-10-1973, Do Thái phản công dữ dội, lấy lại được thế quân bình. Trong chín ngày này, chiến tranh cực kỳ sôi nổi. Do Thái thắng ở Syrie, chiếm lại trọn đồi Golan, oanh tạc Damas, sau cùng tiến lại được gân kinh đô Syrie hơn, cách Damas khoảng ba chục cây số. Iraq gởi 16.000 quân, 100 phi cơ; Jordanie (không mở thêm mặt trận thứ ba ở phía sông Jourdain) cũng gởi một đoàn kỵ binh qua trợ chiến Syrie; nhưng quân Iraq và quân Jordanie đều bị Do Thái tiêu diệt. Vậy ở mặt trận này Ả Rập bắt đầu thua. Ở mặt trận Sinai, quân Ai Cập tiến qua phía đông được khoảng 15, 20 cây số, nhưng rồi bị Do Thái chặn lại. Ngày 11-10-1973, Do Thái vượt qua kênh Suez tấn công các đoàn công voa Ai Cập, phá các cơ sở dầu hoả, nhưng bị Ai Cập chặn đuổi về phía đông, tướng Do Thái Mendler tư lệnh thiết giáp tử trận. Một trận chiến xa ở trung bộ Sinai kéo dài năm ngày tử Ismailia trên bờ kênh Suez tới Adu Aweigla ở gần sa mạc Neguev. Mỗi bên tung ra máy trăm chiến xa, có đại pháo, hoả tiễn, phi cơ yểm trợ; nhưng hình như không bên nào thắng bên nào bại. Tóm lại Ả Rập thua ở Syrie nhưng vẫn còn giữ được ưu thế ở Sinai, vậy cán cân lực lượng chưa nghiêng hẳn về bên nào. Tinh thần Ả Rập vẫn cao: nhiều quốc gia tham chiến (dù chỉ là tượng trưng như Algérie, Tunisie, Ả Rập Saudi); các quốc gia có dầu lửa đoàn kết với nhau, ngưng xuất cảng dầu cho Mỹ, Hòa Lan, và những nước nào không đứng về phe Ả Rập. Mỹ và châu Âu lo lắng, phải ra lệnh tiết kiệm nhiên liệu. Các nước Tây Âu, trừ Hòa Lan, kêu gọi hai bên ngưng bắn, Do Thái phải trả lại Ả Rập những đất đã chiếm năm 1967, theo đúng quyết ngôn của Liên hiệp quốc tháng 11 năm 1967. Thấy chiến tranh có mòi kéo dài, mà Do Thái bị thiệt hại nặng, nên nội bộ Do Thái lủng củng: một số tướng lãnh chỉ huy bị thay thế. Thủ tướng Golda Meir có vẻ chán nản. Mỹ và Nga đều ồ ạt gởi khí giới tiếp tế cho đàn em. Nga dùng cầu không vận, cứ sáu phút có một chuyến để trút vũ khí xuống Ai Cập và Syrie, mỗi ngày tới 800 tấn, lợi hại nhất là hoả tiễn SAM 6 để hạ phi cơ và SAM 7 để hạ chiến xa, không kể vô sô phi cơ MiG-21. Mỹ chứng cứ 5 phút cho một phi cơ chở xe tăng GM60, trọng pháo, đạn “bò cạp”, hỏa tiễn Sidewinder và Saprrow cho Do Thái để giũ thế quân bình lực lượng. Hơn nữa Mỹ còn cho hàng không mẫu hạm Roosevelt vô Địa Trung Hải. Nga cho ba chiến hạm và nhiều tầu nhỏ nhỏ lại bờ biển Ai Cập và Syrie. Nhưng từ ngày 16-10-1973 đã có dấu hiệu hai bên muốn hoà đàm. Tổng thống Ai Cập Sadat tuyên bố sẵn sàng tham dự một hội nghị quốc tế trong khuôn khổ Liên hiệp quốc để thiết lập một nền hoà bình. Mỹ hoan nghênh đề nghị đó, và ngoại trưởng Do Thái tuyên bố sẽ có những nhượng bộ quan trọng và chấp nhận cuộc ngừng bắn. Ngày 17-10-1973, Kosygin tới Le Caire hội đàm với Sadat về hoà đàm; Kissinger họp với ngoại trưởng các nước Algérie, Kuwait, Maroc, Ả Rập Saudi. Giai đoạn từ 19-10-1973 đến 23-10-1973, Do Thái có vẻ thắng thế - Liên hiệp quốc ra lệnh ngừng bắn. Syrie tuy cố phản công nhưng vẫn bị Do Thái uy hiếp. Ở Sinai, Ai Cập bắt đầu thất thế. Ngày 19-10-1973, Do Thái cắt đôi được một cánh quân Ai Cập ở Suez; rồi ngày 21-10-1973, một đoàn 15.000 cảm tử quân vượt kênh Suez, tiến sâu vô nội địa Ai Cập, phá nhiều dân hoả tiễn SAM nhờ dùng bom “tinh khôn” và bom do tia Laser điều khiển do Mỹ cung cấp. Hoả tiễn SAM bị phá huỷ, Ai Cập không hạ được phi cơ Do Thái nữa và Do Thái lại làm chủ không trung. Trong khi đó Kissinger qua Moscow thu xếp vụ ngưng bắn. Nga, Mỹ thoả thuận với nhau rồi, Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc bèn ra lệnh:
- Ngừng bắn tại chỗ từ 18 giờ 52 phút (giờ địa phương) ngày 22-10-1973.(5)
- - Ở phía Cộng Sản, quốc gia sản xuất vũ khí chớ không phải tư nhân. Ở Pháp nhờ kỹ nghệ chiến tranh mà mỗi năm thu được 700 triệu Mỹ kim ngoại tệ, và nuôi được 270. 000 gia đình công nhân.
- – Vua Huslsein nước Jordanie đã có lần muốn đi với Do Thái; lại có lần tuyên bố thẳng ra rằng khi nào Ả Rập mạnh lên, có thể thắng được Do Thái thì ông ta mới theo.
- – Có lẽ vì vậy mà qua tuần thứ nhì, khi Ả Rập Séoudite nhảy vào vòng chiến, Nixon ráo riết hô hào ngưng chiến.
- - Người ta còn ngờ rằng tháng 9, ông tổ chức Hội nghị các Quốc gia phi lien kết, để các nước Ả Rập bàn mật với nhau về việc tấn công Do Thái, mà che mắt được thế giới
- – Lúc này nhằm tháng Ramadan, tháng chay (tháng lịch Hồi giáo)