Chương 25
TRẬN CHIẾN ĐẤU CỦA CÁC TITAN

    
ó vài lần Vêra bay theo những chuyến thủy phi cơ đến chỗ chúng tôi. Cô ta thường ở chơi độ hai ba giờ, có khi trọn cả một ngày. Có điều cô ta luôn luôn đến vào những thời kỳ yên tĩnh ngắn ngủi.
-Tôi thực rất không may, - cô ta nói, - ngay cả Achinla đến khi chết, tôi mới biết. Hễ tôi vừa đáp máy bay đi thì những con cua vàng tấn công các anh, những con mực tiến đến gần các anh và Giéc dượt đuổi các anh. Các anh đã đến hòn đảo có những con chuột và những người máy. Thế mà tất cả những lần đó đều thiếu tôi. Nay mai tôi sẽ chuyển đến chỗ các anh và sẽ ở đó cho đến khi nào xảy ra một chuyện gì đó thật sửng sốt...
Vêra kết bạn với Berơta Phunlerơ, một nhà nghiên cứu thực vật. Lần nào đến đây cô cũng dành phần lớn thì giờ làm việc trong phòng thí nghiệm của Berơta. Berơta là vợ của Nhicôlôxơ. Khác hẳn với chồng, kẻ lý sự cùn, cô có phần nào bồng bột.

Một lần, khi chúng tôi đi ngang qua phòng thí nghiệm của cô, cô ta nhìn qua cửa sổ và với vẻ bí ẩn mời chúng tôi vào nhà chơi.
- Các bạn này, - Berơta trịnh trọng bắt đầu - các bạn này, Vêra... Khẽ chứ, cô ấy đang ở cạnh giỏ phong lan. Tôi muốn nói với các bạn rằng cô bạn gái của các bạn đã tìm thấy sai lầm trong công trình của tôi. Một sai lầm khủng khiếp! sai lầm có thể làm cho tôi bị chế giễu, đặt tôi vào vị trí khó xử trước các bạn đồng nghiệp. Hóa ra cái giống... ( tiếp đó là một tràng dài tiếng La-tinh tên gọi một loài tảo sống cộng sinh với loài lan nào đó có dạng thật kỳ dị ) mà tôi đang nghiên cứu thì người ta đã biết cách đây gần một năm rồi! Đấy, thế mới biết thế nào là sống đơn độc, xa hẳn các trung tâm khoa học, không có thì giờ thường xuyên đọc bản tin! Tôi đã cho rằng Vêra là một cô gái nông cạn. Thế mà các bạn có hình dung được sự sợ hãi và nỗi vui mừng của tôi biết chừng nào? Chắc chắn rằng Môkimôtô không chỉ là nhà bác học giỏi mà còn là một nhà sư phạm xuất sắc. - Cô ta ngừng lại. Khi nghe thấy bước chân vội vã của Vera.
Mặc toàn đồ trắng, tay cầm dao cắt, Vêra chạy đến chỗ chúng tôi. Cô ném những cành có màng chụp cụm hoa vào một góc, trước sự khủng khiếp của Berơta.
- Cô chạy như gió lốc ấy, - Berơta vừa nói vừa nhìn những màng chụp bằng cặp mắt dịu dàng của người mẹ.
Lần cuối cùng trước khi từ biệt chúng tôi Vêra nói rằng cô tự chia mình làm hai phần giữa hòn đảo của chúng tôi và vườn cây ; ở đó có những cây trinh nữ tội nghiệp đang đợi cô. Nay mai cô sẽ đến đảo hẳn một tuần lễ. Môkimôtô đã hứa cho cô đi. Ông nói: “ Cô nương Vêra, cô cứ đi vì thường thường cô mang về đây những ý kiến hay “.
- Đó là ông ta nói đến việc dùng các dao động âm có tần số khác nhau tác động vào cây trinh nữ, - Vêra giải thích cho chúng tôi. - Cách thức đó người ta đã biết từ lâu, nhưng không hiểu sao chúng tôi đã không sử dụng như một kích thích tố. Ở đây tôi đã được xem cái dụng cụ độc đáo của Berơta, và tất nhiên với sự đồng ý của chị ấy, tôi đã chụp lại sơ đồ.
- Nói thực ra, - Côxchia nói, - cô hãy mang độ dăm chục cây trinh nữ đến đây. Ở đây chúng sẽ sớm biết chạy. Biết đâu chẳng có những sóng từ cách cảm của con mực Vĩ đại mà khoa học còn chưa biết đến sẽ tác động lên chúng.
Anh chàng Côxchia thật tội nghiệp: trái tim cậu ta có lẽ cũng chia làm hai phần.
Sáng sớm hôm sau, trong lúc máy bơm đang hút sữa của Machinđa thì chúng tôi làm dáng cho nó. Côxchia cọ lưng và mặt. Còn tôi thì như thường lệ làm vệ sinh phần dưới mặt nước. Do những cô gắng của chúng tôi, da dẻ Machinđa sạch bóng, tuy chỉ đôi chỗ còn dính nhớt bẩn.
Chúng tôi làm việc và chuyện trò thầm lặng. Tôi hình dung con đenphin linh lợi phải mất bao nhiêu cố gắng để thích nghi với những ý nghĩ dai dẵng của tôi, “ nhìn “ bằng mắt cái thế giới quen thuộc với nó.
Chúng tôi trao đổi bằng những tín hiệu giản đơn nhất:
- Tavi, ở plúc nào Prôtây cũng đề nghị hổ trợ ; nó không hiểu tại sao bất thình lình Côxchia lại từ chối sự phục vụ bạn bè của nó và lại còn có vẻ khó chịu nữa. Những đenphin không bao giờ cãi nhau và luôn luôn tôn trọng lý lẽ của người khác. Trong đầu Prôtây không thể ngờ được rằng Côxchia giận nó vì giữa họ có những quan điểm khác nhau đối với cá kình.
Tôi đặt tay lên lưng đenphin bảo chúng đừng hấp tấp, và đừng để mất hút Côxchia: cậu ta là một tay bơi cừ, nhưng chúng tôi đã bơi xa đảo đên bôn dặm và trên đường bơi đã thấy những con sứa độc. Những con sứa đỏ có, tím có chẳng khác nào những ngọn đèn do một họa sĩ tài năng vẽ ra.
Chúng tôi cứ thong thả bơi. Côxchia bơi trước, chúng tôi theo sau cách khoảng một trăm mét. Prôtây và Tavi không chịu nổi cái nhịp độ bơi chậm như rùa này nên đã bơi “ dích dắc “ chệch khỏi đường bơi. Tất nhiên tôi muốn nói đến rùa ở trên cạn, chứ rùa biển đang mải săn mồi ở dưới sâu thì khó mà trông theo nó được.
Tôi giải thích cho Prôtây và Tavi về tâm trạng của Côxchia:
- Cậu ta không được vui. Con người thường hay như vậy khi gặp điều gì không vừa ý, khi anh muốn một đằng, sự việc lại diễn ra một nẻo.
- Không hiểu, - Prôtây nói. - Côxchia có những điều khó chịu. Cái đó chỉ xảy ra khi nào bốn bể đều có nguy hiểm: dưới là vực thẳm, xung quanh là những kẻ giết người, phía trên là sấm sét.
- đêm tối và dông bão hả? - tôi hỏi.
- có thể là cả ban ngày. Khi mọi người chờ đợi một điều gì không may.
- Nhưng có cái gì không may đâu?
- Bây giờ chưa có. Nhưng nếu cái điều Côxchia suy nghĩ xảy ra thì có thể đó là điều không may. Anh ấy đang suy nghĩ về điều đó.
- Côxchia ấy à?
- Đúng, Côxchia.
Tôi không hiểu gì cả. Điều gì không may có thể xảy ra với Côxchia? Lẽ nào cậu ta sẽ rơi vào đám sứa. Bị rát một chút có sao, - gần đây chúng tôi đã tiêm phòng ngừa độc tố của những động vật này. Và như vậy thì hậu quả nặng nề sẽ không xảy ra.
- Thôi, tốt nhất ta hãy đuổi kịp Côxchia, - tôi đề nghị. - Cậu ta tính thất thường lắm.
Côxchia cười nhận lỗi:
- nếu cứ bơi một mình thế này độ nửa giờ nữa thì mình đến phải thổi phao cấp cứu mãt. Mình thật là sai, nhưng vì nhận thấy sai nên lại càng khó chịu hơn. Prôtây, xin lỗi bạn, mình đã thô lỗ như cá nhồng, hay đại hải miên ấy. Cho mình tựa vào cái lưng hùng mạnh của bạn nào... Thế. Hôm nay mình rất mệt. Mình có cảm giác như chả làm được gì cả.
- Thế là thế nào? - tôi bắt đầu kể ra những việc hôm nay chúng tôi đã làm.
- Vớ vẩn. Thần kinh căng thẳng quá. Có lẽ chúng ta bị choáng do bức xạ mặt trời. Có thể cũng do tác động của cái vì sao không trông thấy đây.
- có thể lắm. Bọn mình và cậu, chúng ta cùng cấu tạo từ một vật chất như là...
-... Mọi cơ thể ổn định khác. Xin cảm ơn. Hôm nay mình cảm thấy thật đặc biệt
chẳng giống cái gì cả. Có thể đó là do bức xạ của vì sao không trông thấy.
Khi làn sóng lan rộng của đại dương nâng chúng tôi lên đến đỉnh thì chúng tôi cũng nhìn thấy những cánh quạt gió im lìm trên mặt nước, cây cối trong vườn ; tháp đèn biển lẫn vào đám mây đục nóng nực chiều hôm ; riêng có chiếc đĩa quay màu vàng trên đỉnh ngọn đèn là loé sáng mỗi khi bắt ánh nắng mặt trời.
Tavi và Prôtây bơi khá chậm. Chúng nhận thấy Côxchia tuy có tươi tắn lên, nhưng vẫn chưa hồi sức. Tựa nhẹ vào lưng Prôtây, cậu ta nói:
- Khi bơi một mình và lúc bắt đầu hơi mệt thì mình này ra một ý nghĩ đến hay, - cậu ta im lặng mỉm cười hất mái tóc về phía sau và tiếp tục: - Ý nghĩ về ý nghĩa của tình bạn giữa con người và các đại diện thuộc các giống khác. Con người đã chết nếu không có sự giúp đỡ của họ. Và không phải lúc nào con người cũng là kẻ khởi xướng. Chúng mình không biết rằng chó, ngựa, bò, lạc đà và mèo đã là những bạn đường, những bạn bè tin cậy của con người như thế nào. Ta đã rõ đenphin luôn luôn tìm cách tiếp xúc trước tiên với người và trong buổi bình minh của lịch sử chúng đã tìm thấy những con người có trái tim cởi mở và tâm hồn tế nhị. Lúc đó con người gần với thiên nhiên hơn, coi mình là anh em của mọi sinh vật. Nhiều thế hệ của con người đã tìm ra sợi chỉ mỏng manh gắn bó họ với những sinh vật khác. Về sau này lại xảy ra tai họa: chiến tranh, dịch tễ, động đất, bão táp đã cuôn mất những xóm làng trên bờ biển, những vì sao Cực Mới bùng cháy, sao sa, thiếu gì chuyện xảy ra trong toàn bộ lịch sử - và sợi dây bạn bè của con người với những anh em cùng dòng máu bị đứt đoạn...
Những đenphin kéo chúng tôi sang phải báo cho biết ở phía trước, dưới những độ sâu khác nhau có rất nhiều sứa chặn đường - đây là loại sứa độc ngay cả với đenphin.
- Cậu thấy không? - Côxchia tiếp tục. - Chúng ta sẽ ra sao, nếu bây giờ thiếu họ. Còn họ dẫu có thiếu chúng ta thì cũng chả sao.
Tôi đã quen với cái kiểu cách thay đổi ý nghĩ đột ngột của bạn mình. Mọi cái cậu ta vừa nói chả có gì mới mẻ, nhưng theo giọng nói và sự xúc động thầm kín của cậu ta, tôi cảm thấy cậu ta muốn thổ lộ điều gì đó quan trọng, nên chăm chú lắng nghe mà không cắt lời. Hơn thế nữa câu chuyện còn làm át đi quãng đường đơn điệu khi quay về đảo.
Côxchia mỉa mai nhìn tôi hói một cách bóng bẩy:
- Cứ theo cái diện mạo và cái nụ cười của cậu có vẻ coi thường, mình nhận thấy cậu cho rằng mọi cái đều rõ làm gì mà phải triết lý dông dài.
- Đúng...
- Cậu có thể không trả lời. Cái vẻ hân hoan ngớ ngẫn của cậu cũng đã nói lên đầy đủ. Hãy chịu khó một chút, mọi cái sẽ rõ như sau một trận mưa xuân. Tình bạn nảy nở giữa con người và các giống khác ở trình độ tri thức thấp hơn bị gián đoạn, đúng hơn, là tiêu diệt không phải chỉ vì trận Đại hồng thủy. Do ích kỷ, tự con người đã phá hoại giày xéo lên tình bạn. Những nhà triết học, thấy cúng, bác học và ngay cả những nhà thơ cũng biện hộ cho những hành vi xấu xa của những người tương tự như mình và tìm mọi cách để cao những tính chất đặc biệt của con người. Con người - vinh dự của thiên nhiên. Tất cả vì con người. Mọi cái đều cho phép con người. Mọi tạo vật cần phải phục vụ con người, cho con người thịt, da, lông, len của mình.
-... Sữa nữa.
- Đừng ngắt lời. Sữa – sản phẩm để trao đổi. Và bây siờ cái chính là con người rất có lỗi đối với những anh em cùng dòng máu với mình. Con người bao giờ cũng hiểu điều đó, hay ít ra thì cũng có nhiều người hiểu điều đó. Ngay từ trong những thế kỷ dã man con người đã cố hiểu và lôi cuốn những sinh vật khác đến gần mình. Mình muốn nói rằng một trong những mục đích chính trong sự tồn tại của chúng ta là chủ nghĩa nhân đạo cao cả. Thông nhất mọi sự sống có lý trí. Đừng có cười.
- Muối làm cay mắt qua.
- Mình biết cái muối đỏ!.. Cậu thì bao giờ cũng ngắt lời mình! lần này thì dừng có hòng. Mình nói hết rồi đấy. Chúng mình sống trong thời đại sung sướng. Nhiều thành kiến đã quên đi. Bây giờ là kỷ nguyên liên minh sự sống! chẳng phải là kỷ nguyên của vũ trụ, của khoa học mà là liên minh của sự sống. Những nhà phỏng sinh học đã có nhiều thành tựu trong việc sử dụng những mô hình có sẵn do thiên nhiên tạo ra hàng tỉ năm. Những đenphin đã cho chúng ta bao nhiêu! Và đã nhận được của chúng ta bao nhiêu! Giờ thì đến lượt con mực, con bạch tuộc với khả năng hình tượng đặc biệt về cái thế giới của mình. Bây giờ là công việc thứ hai!
Chúng ta đã thu được khá nhiều và bao giờ cũng vậy, như những sinh viên thường nói, là sống trong thời kỳ may mắn, chúng ta quên mất sự khiếm khuyết trong trí tuệ chúng ta. Điều đạt được đã trở thành mẫu mực và đóng chắc như đá tảng. Thật khó mà tiến lên được với cái khối đá tảng nặng nề này. Thầy giáo của chúng ta nói rằng phát minh ra những qui luật là một việc làm khó vô cùng. Nhưng việc khắc phục, tìm ra những sai sót của những qui luật đó và phủ định chúng còn khó khăn gấp bội. Thôi, mình nói hết rồi đầy. Bơi về đến nơi rồi còn gì. Tiến lên! Prôtây! Đuổi vượt lên đi!
Lên đến bờ, cậu ta hỏii:
- Hình như cậu vẫn chưa hiểu mẫu chuyện rời rạc của mình?
- Không. Sao cậu lại nghĩ vậy? Có rất nhiều điều lý thú.
- Mình không quan tâm đến văn vẻ. Tốt nhất bây giờ cậu hãy nói: cậu có đồng ý giúp mình một tay không? Mình cần có cậu.
Ồ, tất nhiên rối! - tôi mừng rỡ trả lời. Bởi vì dã lâu rồi chưa một ai trong chúng tôi nói đến cái câu có hiệu lực đó.
Thế thì chúng ta hãy đi ăn tối cái đã. Chúng ta cần phải dự trữ nhiều năng lượng. Cần phải cố gắng một chút.
Cậu ta dẫn tôi đi một vòng quanh bể thí nghiệm đại dương. Những con cá kình nằm lừ đừ trong làn nước xanh, chẳng thèm để ý đến lù cá ngừ bơi qua trước mũi.
Thấy không? Côxehia hỏi. Mình chỉ nghĩ về việc này. Về quyền lực của một loài này áp bức loài khác. Cứ ứ đây chúng sẽ chết mất, chi nay mai thôi. Chết tất cả. Chúng có thể bị vỡ tim. Cậu xem kìa!
Quả vậy, dưới đáy nước một xác cá kình ngửa bụng trắng bệch.
Thấy tôi hau háu chọn món ăn trong tủ lạnh, Còxehia bảáo:
Mình đề nghị chúng ta chỉ uống một cốc sữa Machinđa và một cốc nước quả nào đó... Chúng ta còn phải lặn xuống nước...
Tôi uống cốc sữa nóng đặc như uông thuốc cho xong chuyện rồi khoan khoái nốc cạn một cốc nước dứa.
Về phương diện nhiệt lượng. Các món này cùng không kém... Cỏxchia lên tiếng. Nhưng bắt đầu gặp cái nhìn của tôi, cậu ta nói: Cậu nghĩ rằng mình không muốn ăn hay sao. Mình sẳn sàng gậm cả da cá mập. Nào ta đi. Chúng mình sẽ về ngay và lúc đó... Phì! khó uống quá! Nhưng nước quả thì tuyệt.
Khi gần mười tuổi, chúng tôi thề sẽ luôn luôn giúp đỡ nhau. Không hề ai có một chút xíu thắc mắc. Chỉ cần nói: “ Mình cần có cậu “, tức khắc câu nói có hiệu lực đó sẽ làm cho một người trong chúng tôi phải phục tùng người kia. Và kể cũng lạ: chưa bao giờ cái mệnh lệnh có tính chất yếu cấu đó lại là điều bất ngờ. Có lẽ chúng tôi đã học được cách đọc ý nghĩ của nhau, đoán được nguyện vọng của nhau. Hễ Côxchia đến tìm tôi vào dịp hè, là tôi đã hình dung ra ngay những nét chung của cuộc hành trình, mục đích chuyên đi của chúng tôi, vì trước đó vài ngày anh bạn chất phác của tôi với sự tập trung bất thường của mình đã làm cho tôi phải cánh giác và chờ đợi “ một cú bất ngờ “.
Bây giờ, đoán ra cái ý muốn gàn dở của cậu ta, tôi bỗng nhiên thấy lo ngại, khi hình dung những hậu quả có thể đến.
Tôi hỏi:
- Cậu nghĩ đã chín chưa?
- Đã.
- Cậu tin chắc rằng chúng sẽ lặng lẽ bơi ra khỏi vũng biển.
- Như Machinđa và các cô bạn của nó sau khi vắt sữa.
- Cậu kịp bàn bạc với chúng lúc nào vậy?
- Đừng có mỉa. Mình đã tính toán kỹ. Prôtây đứng đầu đội phóng lao. Chúng sẽ chặn lối ra vũng biển. Những con cá kình còn đang chịu tác động của thuốc mê. Cậu thấy đấy chúng hoàn toàn bất động.
- Cậu nghĩ rằng Giéc sẽ lặng lẽ chạy khỏi đảo?
- Đúng. Cũng như con chạy đầu tiên. Chúng đã tính toán kỹ hành trình. Mình tin chắc. Tất cả sẽ tốt! - cậu ta ngừng lời, giọng thiếu tin tưởng.
Chúng tôi im lặng đi vài bước. Hoàng hôn ngắn ngủi đã tắt. Những đĩa mặt trăng nhân tạo đã sáng lên. Trong tiếng ồn ào của sóng có xen lẫn một âm thanh trong vắt như tiếng reo của những chiếc chuông nhỏ trên cây thông đầu năm. Gần đây chúng tôi mới nhận được vài trăm ca sĩ ve sầu do các nhà chọn giống Nhật Bản gửi đến. Những con ve này có giọng hát dịu dàng và giàu âm điệu. Thật khó mà hình dung rằng tổ tiên của các loài tốt giọng này lại là loài sâu bọ mắt tròn mà trước đây vẫn hành hạ lỗ tai người ta bằng những buổi hòa nhạc điếc tai. Tuy vậy vẫn có một số người ưa thích cái âm hưởng kim loại của chúng...
Tôi hỏi:
- Còn Hội đồng đảo? Liệu Hội đồng đảo sẽ nghĩ sao?
- Cậu biết không, mình đã thảo luận với Ninxen.
- thế nào?
Côxchia dừng lại.
- Ivơ này, mình giải phóng cho cậu khỏi lời thề đó. Có thể cậu đúng. Chúc cậu ngủ ngon. - Cậu ta quay ngoắt lại và chạy đến vũng biến...
Tôi có thể làm gì khác ngoài cái việc chạy theo hút cậu ta. Vừa chạy tôi vừa buồn rầu suy nghĩ: bây giờ lại phải đeo mặt nạ, lấy lade, nhảy xuống vũng biển mở cửa cho cá kình. Thế rồi sau đó tôi sẽ phải đứng trước cặp mắt của các ủy viên Hội đồng đảo, những người kết án tôi. Sáng mai chắc chắc họ sẽ đuối chúng tôi khỏi đáo. Chưa hết thực tập, bỏ dở công việc, chúng tôi bị điều động đến nơi mới và lại phải đứng trước Hội đồng, bây giờ thì là Hội đồng trường đại học. Các thầy giáo từ các lục địa sẽ được gọi về... Họ sẽ nghĩ sao khi công việc thí nghiệm của họ bị bỏ dở vì hai sinh viên đa tình vô kỷ luật.
Tuy nghĩ vậy, nhưng tôi lại cảm thấy dù sao Côxchia đúng. Đó là cái đúng của một chân lý cao cả ; chân lý đó luôn luôn khác với mọi định luật và qui luật được đặt ra để rồi cuối cùng nó sẽ được thừa nhận và tự bản thân nó sẽ trở thành qui luật.
Phòng thí nghiêm đặt trên bờ bể thí nghiệm đại dương đã bừng sáng lên như chiếc đèn pha khổng lồ do Nhật Bản chế ra. Những nhà kiến trúc sao chép nó giống hệt chiếc đèn chiếu thời cổ. Côxchia đã ở dưới chân “ đèn chiếu “. Cậu ta nhìn Paven Mêphôđiêvích bằng cặp mắt vui vẻ. Thầy giáo đang ngồi trong chiếc ghế bành cạnh máy dò, âm dưới nước. Từ trong máy phàa như sứa! “ Tôi hiểu và không giận: con sứa màu đỏ tía quả là đẹp khác thường, nhất là khi nó lơ lửng trong làn nước trong suốt. Tôi tin rằng Tavi không có ý định nói đến tính độc của con sửa, mà chỉ nói đến hình thức tuyệt đẹp của nó ; hơn nữa Biata lại đang bận quần áo màu anh đào.
Bữa ăn sáng, Côxchia bưng đến cho Biata một cốc sữa cá voi đặc:
-Tươi nguyên! Sữa Machinđa của bọn mình. Uống đi! Ngon lạ thường. Đây là mình không nói về chất dinh dưỡng và nhiệt lượng. Hécto con của nó đặc biệt chỉ bú sữa mà mỗi một ngày đêm tăng một trăm kilôgam.
Biata nếm thử, đặt cốc xuống bàn.
- Một trăm kilôgam? thế mà anh lại cho tôi uống loại sữa này hả? Một tuần lễ nữa tôi sẽ thế nào? Tôi sẽ chỉ ăn cá và ăn hoa quả thôi. Dứa chẳng hạn! Trên kia, - cô ta ngước mắt lên phía trên trần nhà, - người ta toàn ăn thức ăn chế biến từ các loại tảo và những giống lai của nó. Các anh biết không, đôi khi anh bếp trưởng của chúng tôi - một người máy thông minh khác thường - đã nấu những món ăn hoàn toàn kỳ lạ, chẳng giống ở dưới đất chút nào. Một thành tựu đặc biệt là món “ Tiểu hành tinh “, một tầng xốp và ngọt. Và còn món “ Niềm vui của các nhà du hành vũ trụ “ - đó là kem dưới dạng các tinh thể thạch anh của Mặt trăng.
Biata luôn luôn ở tâm trạng sảng khoái, phấn chấn. Tâm trạng này có thể giải thích hoàn toàn là do việc cô ta được quay về trái đất, nếu như không thoáng thấy vẻ lo ngại trên bộ mặt hơi nhợt nhạt và trong cặp mắt của cô. Tôi còn cảm thấy trong ánh mắt của cô ta có sự dò hỏi và ngạc nhiên, hình như có thể giải thích được: chúng ta ngồi dưới mái che ánh nắng nóng bỏng của mặt trời, những cánh quạt vô hình không tiếng động đang phe phẩy cho chúng ta làn gió thơm mát ; và trong cành lá rậm rạp những con vẹt huyên thuyên đang trao đổi thông tin, những con bướm sặc sỡ đang bay lượn, nước róc rách trên các tảng đá.
Khi Biata quay về thay áo, Côxchia nói:
-Cậu có nhận thấy cô ta có gì khang khác không? Có cái gì đó ức chế. Cần phải làm cho cô ta thoải mái. Có lẽ vũ trụ là một chuyện nghiêm trọng. Hay cô ta bị ảnh hưởng của bức xạ. Ở trên kia tia bức xạ mạnh hơn dưới này nhiều lần. Vì ở đó cô ta phải trực, phải tuần tra, canh gác bảo vệ cho toàn thể loài người! Cậu có thể hiểu được điều đó không? Bây giờ chúng mình đưa cô ta lên tàu chạy xuôi nhanh như gió đến bãi cát và sẽ đưa cô ta đi xem rừng san hô. Đáng tiếc là không thể đến đảo của những người máy được!.. Cô ta kia rồi!
Biata dừng lại ở rìa bệ đá ba-dan bóng loáng. Dưới ánh nắng mặt trời cô ta đẹp như ngày hội.
- Các anh sống khá lắm. Chẳng có gì phải lo lắng, - trầm ngâm một lúc, cô ta nói: - Không, không, đừng làm ra vẻ quan trọng. Thế mà gọi là lo lắng à? - Cô ta khoát tay. - Chỉ có sự vui sướng! Đại dương! Trời xanh! Không khí như thế này! Nước muốn bao nhiêu cũng được! Bọn tôi ở đó chỉ toàn một màu đen kịt trên đầu, hay nếu thích có thể gọi là một khoảng không đen kịt. Tôi không phàn nàn. Các anh ở đây không hiểu được trên đó thế nào. Chỗ chúng tôi tốt ghê gớm. Không, xin lỗi, chữ “ tốt “ không hợp. Ở đó chúng tôi mặt đối mặt với sự vĩnh cửu, với Thiên hà chưa nhận thức được. Ở đó cái đẹp áp đảo. Những vì sao không nhấp nháy. Đại dương đen kịt. Những hòn đảo phát sáng. Giá các anh được nhìn Mặt trăng từ chỗ chúng tôi! Nó mới to lớn, nặng nề và vàng làm sao! Các anh hãy thử nhìn lên đó cái nơi “ đầy trời sao “ xem! Từ cái khoảng không vô tận ấy cơn bão các mảnh nguyên tử lao nhanh, văng vào chúng tôi. Đâu đó một vì sao bốc cháy, chiếu cái thứ ánh sáng bí ẩn của mình tới chỗ chúng tôi. Ở đây các anh hoàn toàn không suy nghĩ đến nó. Đối với các anh đó là cảnh ngẫu nhiên, một sự kiện vũ trụ hơi giật gân. Chúng tôi thì sống với nó. Nó gợi cho chúng tôi một cảm giác lúc thì như mặt trời xanh, lúc thì như một đám mây lửa đốt cháy các vì sao. Đôi khi tôi thấy nó như một đốm lửa vàng không lớn hơn hạt lúa mì.
- Cô mệt rồi, Biata ạ, - Côxchia nói. - Nhưng không sao. Chương trình hôm nay của chúng ta như thế này. Bây giờ ta ra tàu và...
- Không, để sau hẵng. Trước tiên tôi muốn đi dạo quanh hòn đảo của các anh đã. Hòn đảo của các anh thật là một kỳ quan. Sau hãy đi chơi tàu và xem các móm đá ngầm. - bất thình lình cô ta hỏi: - Tại sao Vêra bỏ đi bất ngờ như vậy?
Chúng tôi hỏi lại:
- Cô quen cô ấy à? Đã lâu chưa? Do đâu mà quen?
- Do anh Côxchia, - Biata mỉm cười. - Anh đã giới thiệu tôi với cô ấy.
-Tôi à? Bao giờ? Không thể được! Cậu có biết gì không hả Ivơ?
- Anh kể chuyện về tôi. Tất nhiên cô ta để ý. Ngoài ra học viện của các cô ấy còn cung cấp táo để ăn cho chúng tôi ; họ có nhiều khả năng trao đổi với vệ tinh. Cô ta khen các anh... Còn bây giờ ta đi thôi.
Biata nhìn mọi phía, cặp mắt ẩn dưới vành chiếc mũ xanh ánh lên niềm hạnh phúc. Cô ta nghe Côxchia kể về những chuyện phiêu lưu của chúng tôi ; cậu ta đưa ra những tình tiết mới ngay đến tôi cũng không biết. Tôi không ngắt lời Côxchia đang say sưa kể chuyện. Có thể tôi quên hoặc không để ý đến Giéc Đen khi ra khỏi tàu cấp cứu đã đưa mắt nhìn Côxchia đầy ý cảm ơn, hoặc lúc tôi cứu Côxchia bắn vào con baracuđa dài hai mét. Đúng là tôi có bắn con baracuđa, nhưng tôi cho rằng nó không đe dọa gì Côxchia cả. Mặc dù không giấu giếm tôi cũng khoan khoái được thấy sự cảm phục trong mắt Biata. Cô ta đặc biệt thú vị cái đoạn cuối về Giéc Đen, thích bài ca trước lúc chết của nó mà cô sẽ được nghe hôm nay, cùng với việc Côxchia cương quyết cứu những con cá kình.
Trong lúc cố kéo Biata ra khỏi những ý nghĩ ảm đạm, Côxchia ra cổng tô vẽ “ tâm trạng “ của cậu khi đứng trên lưng Giéc Đen.
- Chúng mình sẽ giới thiệu nó cho cô biết. Rất dễ tìm nó.
- Vâng, - tôi châm chọc, - trong bụng nó có đèn pha rađiô.
Côxchia nháy khoái chí:
- Anh bạn tôi nhầm rồi. Một trong những con cá kình tự sát đã nuốt mất. Mình gắn một đèn pha lên vây lưng của Giéc. Đây là một trong những chiếc đèn hiện giờ ta gắn cho cá nhám voi và cá voi. Vì vậy, nó giật mình hất tung tớ lên cao tám mét.
- Không quá ba mét, - tôi sửa lại.
Biata nhìn tôi vẻ không bằng lòng:
- Tôi thích tám mét hơn.
- Đẹp hơn! - Côxchia cười khà khà.
Tôi và Biata cùng phá lên cười.
Trauri Xinkhơ đi lại phía chúng tôi. Cậu ta chào Biata và bảo:
- Ivơ, đành phải nhờ cậu giúp đỡ. Lagơrănggiơ ốm. Cảm nhẹ. Mác và Nôra ra lệnh cho cậu ta phải ở trong nhà một tuần lễ. Giăng mừng rằng mình để cậu ta yên thân. Cậu không bận lắm chứ?
Đọc được câu trả lời trên nét mặt tôi, lần đầu tiên kể từ khi quen biết nhau, tôi thấy cậu ta cười. Cậu ta có hàm răng đẹp tuyệt, màu trắng ngã nổi bật trên nền đen màu than của bộ râu và hàng ria mép.
- Tàu “ Cá Bơn “ còn chỗ thứ ba.
Côxchia nắm chặt khuỷu tay tôi nháy cả hai mắt.
- Biata mới từ vũ trụ về. Cô ta là nhà vật lý thiên văn...
Trauri Xinkhơ lại trịnh trọng cúi đầu chào Biata:
- Tôi và chị là đồng nghiệp. Có điều vũ trụ của tôi gần hơn và đông dân cư hơn, - anh ta quay sang tôi: - Có chuyện gì đó với Giắc. Hắn ta từ giã thành Troa đổ nát. Mọi kênh thông tin của chúng tôi đều bị mất hết. Và hơn nữa cá nhà táng xuất hiện. Tôi sợ Giắc cũng biết chuyện này và đang đi tuần vùng săn của mình. Hắn ta không chịu nổi sự can thiệp đó. Chúng ta cần giúp đỡ Giắc, không thể để hắn liều lĩnh. Các cuộc thí nghiệm mới chỉ bắt đầu.
Chúng tôi đi ra bến tàu. Ở sát thành bến có hai chú đenphin đang gì mũi vào chiếc “ Cá Bơn “, ngó nhìn cửa sổ tàu.
- Đó là Mích và Pôn, - Trauri Xinkhơ nói. - Chúng nghịch ngợm muốn nhìn xem bên trong có gì. Ivơ ạ, mình đề nghị chúng ta lại đi tay đôi vậy.
- Không, sao thế? - Biata nói. - Lúc nào tôi cũng thích đi tham quan dưới nước, nếu được các anh cho phép. Có điều, tôi sẽ chỉ là một khán giả vô tích sự.
Trauri Xinkhơ lắc lắc đầu:
- Hai máy quay phim và súng đằng lái thuộc quyền chị.
- Bỏ tay mình ra, Côxchia, - Biata bảo. - Súng đằng lái quyết định vấn đề. Ở đây có thể có chỗ thứ tư không? - cô ta hỏi, vẻ ái ngại cho Côxchia.
Biết rằng không thể có chỗ thứ tư, Côxchia đau khổ nói:
- Xin cảm ơn! Hôm nay tôi không định bơi trong cái “ đĩa “ này. Nhưng... - mắt cậu ta ánh lên niềm hi vọng, - nhưng nếu Ivơ không định... Lần trước cậu ta nói rằng bóng tối đen tác động không tốt lắm đến cậu ta và sau đó...
- Không! Không! - nhà phỏng sinh học đang đứng ở cạnh nắp cửa vào tàu vội nói. - - Ivơ nắm rất vững cơ cấu của động cơ. Lần trước không có cậu ấy giúp đỡ thì mình chẳng đi nổi. Xin mời!
Côxchia và Tavi, Prôtây tiễn chúng tôi đến độ sâu hai chục mét. Cậu ta gõ vào cửa sổ tàu và bơi lên. Những đenphin lắp bắp lời chúc tụng. Chế phẩm tạo ra một cảm giác no nê, có khi nó còn gây nên cảm giác khó chịu đối với thức ăn và ức chế trung tâm thù địch. Lần đầu tiên trong đời giờ đây Giéc có một tâm trạng hiền hậu một cách suy tư. Nó bơi mãi trong làn nước xanh tưởng đâu rằng sẽ mãi mãi ở trong tình trạng thoát tục như thế này.
Paven Mêphôđiêvích đến. Côxchia hói ông:
- Thưa thầy, hay là ta thử cải huấn chúng bằng cách giữ chúng lâu hơn trong trạng thái hôn mê như thế này?
- Carơđasép, nhà sáng chế ra thứ thuốc mê viết rằng tình trạng tương tự chỉ có thể có ở những cơ thể trẻ. Những thói quen thường bảo thủ. Tôi cũng muốn biết cái anh chàng có đuôi ấy bây giờ đang nghĩ gì. Ồ, tất nhiên nó không say sưa mơ mộng, ừ, tất nhiên anh ta đang phân tích những nguyên nhân thất bại của những ngày gần đây và tìm mọi cách để rời bỏ cái “ thiên đường “ xanh này.
Tàu “ cấp cứu “ - một chiếc tàu to có khoang chở cá voi tiến dần đến gần lưới. Một đội đenphin mang lao đi hộ tống. Mọi người, trừ Côxchia, đều tiến ra cửa. Bất thình lình sau lưng chúng tôi nghe thấy tiếng vỗ nước. Anh bạn tôi nhảy xuống nước bơi thẳng đến chỗ Giéc. Paven Mêphôđiêvích kêu lên như gào và ra hiệu ngăn chúng tôi lại. Quả thật gọi Côxchia quay lại là điều vô ích. Chúng tôi mà làm ồn, có thể gây ra phản ứng khó lường trước của cá kình.
- Thằng điên! - Pêchia Xamôilốp khẽ nói.
- Mình còn phải chờ lâu không? - Kỳ thét lên trong máy phóng thanh. Các cậu hãy mở.. - Nhưng cậu ta trông thấy Côxchia và thế là không nói được hết câu.
Côxchia bơi đến với Giéc, chạm vào sườn nó. Giéc không để ý đến thái độ suồng sã đó.
- Quay lại! - Pêchia không nén nổi.
- Im! - Paven Mêphôđiêvích giơ ngón tay ra hiệu không nên ồn ào. - Anh chàng điên rồ sẽ quay về ngay bây giờ, lúc đó chúng ta sẽ cho một trận.
Nhưng anh chàng điên rồ ấy không nghĩ đến chuyện quay lại. Anh ta nằm trên lưng Giéc ; sau đó lại còn đứng dậy túm lấy vây lưng Giéc. Giéc khẽ rùng mình, nhưng vẫn ở yên một chỗ.
Côxchia bắt đầu vội vàng lắp ráp một cái gì đó vào vây lưng Giéc.
Paven Mêphôđiêvích lẩm bẩm:
- Ồ! Nghĩ ra cái trò ấy! Kể cũng không đến nổi dở.
Toàn thân Giéc rung rung, đến nổi dâng lên những làn sóng nhỏ hai bên sườn nó. Tiếp theo tiếng “ à “ của chúng tôi, Côxchia tung vọt lên đến bốn mét, vạch một đường cong thật đẹp lao xuống nước. Ngoi lên, cậu ta bơi trườn kiểu trải tuyệt đẹp. Giéc như đã dùng đến hơi sức cuối cùng và vẫn ở nguyên chỗ cũ.
Thầy giáo càu nhàu, mắt vẫn không rời Côxchia.
- Anh chàng này cưỡi cá voi chưa nổi đã đòi cưỡi cá kình! - Ông kêu lên: - Bơi sang phải, đến gần tường rồi.
Mãi đến bốn giờ sáng chúng tôi mới đưa được những con cá kình cuối cùng ra cách đảo bốn chục dặm thả chúng ra và quay về nhà. Tàu “ cấp cứu “ chạy ì ạch, máy định vị bị hỏng, mà đường đi của tàu phải ngang qua bãi chăn cá voi. Cá voi đang ngủ. Những tấm thân khổng lồ lấp loáng của chúng luôn luôn lọt vào chùm tia sáng của đèn chiếu. Cá voi tỉnh giấc vì luồng ánh sáng rực rỡ, cuống quít giương to cặp mắt ti hí và cố quay đuôi về phía chúng tôi. Chúng ngái ngủ đến mức quay chậm chạp, không con nào quay đủ một trăm tám mươi độ, khi chiếc tàu bơi qua rồi lũ cá voi thở dài nặng nề xong lại đắm mình vào giấc ngủ vừa bị phá.
Ai nấy đều mệt mỏi. Pêchia Xamôilôp ngủ ghé vào chiếc đi-văng hẹp. Côxchia mơ mơ màng màng trong chiếc ghế trực, cạnh cậu Kỳ vừa ngâm nga vừa lái tàu. Để rút ngắn thời gian tôi nói chuyện với Tavi qua máy dò âm dưới nước. Tavi bơi ở đâu đó, cạnh mạn tàu. Tavi nói rằng không một ai trong số bạn bè của nó ủng hộ việc giải phóng những kẻ sát nhân “. Tôi định giải thích cho nó lý do việc làm nhân đạo, cao cả của chúng tôi.
- Loài triđacằng có da đá mới có thể thế.
Nói như thế nó muốn tôi hiểu rằng chỉ có loài thân mềm khổng lồ này có lớp giáp xác kiên cố hiếm có và con người bơi trong những chiếc “vỏ sắt “ mới có thể cho phép mình làm những điều dại dột như vậy.
Tôi thiu thiu ngủ và ngã nhào khỏi ghế lúc nào không hay. Cả anh chàng lái tàu cũng ngủ thành thử chúng tôi đâm phải một con cá voi, mặc dù đã có những lời dặn trước của các đenphin.