Ngày 24 tháng 7, 4 giờ 38 phút Avignon, Pháp Khi tiếng sấm vang lên từ bên ngoài lâu đài, Kat vẫn đang chờ Vigor. Ngài linh mục đã đi xuống chỗ cầu thang tối om cách đây mười lăm phút. “Để nhìn thử xem sao.” Ông nói. Cô rọi đèn pin xuống cầu thang. Ông ấy ở đâu nhỉ? Cô tính đi theo ông, nhưng sự thận trọng giữ cô ở lại nguyên vị trí. Nếu ông ta gặp chuyện gì chắc ông ta sẽ kêu lên. Cô nhớ tới chuyện bị một tảng đá làm họ bị kẹt cứng trong ngôi mộ Thánh Peter. Nếu như có điều gì xảy ra ở đây? Ai biết đâu mà tim họ? Cô vẫn ở đó, nhưng quỳ người xuống gọi: “Vigor!” Những tiếng bước chân trả lời cô, vội vã, trèo lên từ dưới kia. Một ánh đèn mờ mờ, rõ dần. Vigor trèo lên giữa bậc thang. Ông vẫy cô lại. “Cô phải nhìn thứ này.” Kat thở một hơi dài. “Chúng ta nên đợi Gray và những người khác gọi đã.” Vigor trèo thêm một bậc nữa, cau mày. “Tôi cũng quan tâm như cô thôi, nhưng rõ ràng ở đây có những bí mật cần được giải. Đó cũng là mục đích chúng ta được cử đến đây như một nhóm tiền trạm. Làm như vậy chính là cách chúng ta giúp những người khác. Long Đình và tất cả những kẻ khác đang ở Thụy Sỹ. Có lẽ phải mất hàng giờ đồng hồ nữa chúng mới tới đây được. Chúng ta cần tranh thủ thời gian này đừng để lãng phí.” Kat ngẫm nghĩ điều ông ta nói. Cô lại nhìn đồng hồ. Cô cũng nhớ việc Gray không hài lòng về chuyện tỏ ra quá thận trọng. Nhưng cô cũng rất tò mò. Cô gật đầu. “Nhưng chúng ta cần kiểm tra mỗi lần mười lăm phút để chờ Gray gọi đến.” “Tất nhiên rồi.” Kat đeo túi lên vai rồi vẫy ông ta xuống dưới. Cô đặt một trong những chiếc điện thoại di động vào lò sưởi để có thể tiếp nhận bất cứ cuộc gọi nào gọi tới rồi để lại ít nhất một dấu vết nếu như họ bị đóng lại mắc kẹt dưới đó cũng có thể phát hiện được. Trong khi cô bị chê trách là quá thận trọng thì cô cũng không phải là kẻ khinh xuất. Cô nhường lại điều này cho Gray. Kat cúi xuống theo sau Vigor. Cầu thang dẫn thẳng một đoạn sau đó quành lại rồi chui xuống sau hơn. Kỳ lạ là không khí xem ra khô ráo hơn là tối. Cầu thang dẫn đến một cái hầm ngắn. Bước chân của Vigor vội vàng hơn. Theo sau tiếng vọng lại từ bước chân của vị linh mục, Kat cảm thấy có một cái hang lớn nằm ngoài. Điều này được khẳng định ít phút sau. Cô bước tời một cái kè đá dài chừng ba mét. Ánh sáng từ đèn pin của hai người tỏa rộng ngang qua mái vòm tròn, nơi đây ở trên cũng như dưới. Chắc trước đây một thời nó là một cái hang tự nhiên bằng đá granit, nhưng người ta đã mất rất nhiều công để cải tạo. Quỳ xuống, cô lấy tay lần theo những phiến đá phía dưới chân, rõ ràng chúng là các tảng đá cẩm thạch thô được gắn lại. Đứng lên, Kat rọi ánh sáng vào bốn phía và xuống phía dưới. Những nghệ nhân tài hoa đã xây một loạt mười hai cái kèo bằng gạch cao từ trần xuống tới nền ở dưới. Địa điểm này hình dáng tương tự như một hình tròn. Bậc trên lại cao hơn bậc dưới, giống như một nhà hát lộ thiên hoặc một kim tự tháp lộn ngược. Cô chiếu ánh sáng ngang qua khu vực. Nó không phải là trống rỗng. Cái vòm bằng đá granit dày chạy từ những chiếc kèo do cái cây cột lớn đỡ. Kat nhận ra đường vòm cong. Những trụ tường bay. Giống như những cái cột đỡ trong những nhà thờ Gô-tích. Thực ra, cả khu vực này có vẻ vừa rất cao sang vừa không có trọng lượng của một cái nhà thờ. “Cái này được xây dựng cho các hiệp sỹ Templar.” Vigor nói, đi dọc theo cái kè. “Chưa bao giờ tôi thấy cái tương tự như thế này. Một bản hợp ca của hình học và kiến trúc. Một bài thơ bằng đá. Kiến trúc Gô-tích với sự hoàn hảo nhất của nó.” “Một cái nhà thờ ngầm dưới lòng đất.” Kat lẩm nhẩm, bái phục. Vigor gật đầu. “Nhưng nhà thờ dùng để tôn vinh lịch sử, nghệ thuật và tri thức.” Ông dang rộng đôi tay. Song cái đó lại không cần thiết. Những trụ bằng đá chỉ làm mỗi nhiệm vụ là đỡ một mê cung của các cột gỗ. Những cái giá, phòng ốc, bậc và cầu thang. Thủy tinh vung vãi. Vàng lấp lánh. Nó đã chứa cả một kho sách vở, cuộn giấy, văn bản, di tích, tượng và những đồ vậ lạ lùng bằng đồng. Mỗi bước chung quanh hình như mở ra chân trời mới giống như một viễn cảnh rực rỡ. Các bức họa, những góc cạnh không thể tưởng tượng được, những mâu thuẫn về góc độ được đá và gỗ hỗ trợ. “Đây là một cái thư viện khổng lồ.” Kat nhận xét. “Và là bảo tàng, nhà kho và nơi trưng bày.” Vigor kết thúc. Ông vội vã bước sang phía trên. Một cái bàn đá giống như bàn thờ không xa nơi cửa hầm. Một cuốn sách gáy bọc da mở ra dưới thủy tinh… thủy tinh vàng. “Tôi sợ không dám chạm vào đó,” Vigor nói. “Nhưng cô có thể nhìn được rất rõ qua đó.” Ông rọi đèn xuống những trang đã mở. Kat liếc nhìn cuốn sách. Nó được trang trí toàn bằng sơn dầu. Một văn bản minh họa. Những văn tự nhỏ li ti ở phía dưới trang. Nó có vẻ như một danh sách. “Tôi nghĩ đó là danh mục của toàn thể thư viện.” Vigor nói. “Một cái kè và một hệ thống nạp tư liệu. Nhưng tôi cũng không chắc lắm.” Bàn tay của linh mục để hờ trên cái hộp thủy tinh rõ ràng là sợ không muốn chạm vào đó. Họ đã biết được hiệu quả của những nguyên liệu siêu dẫn nhu vậy rồi. Kat lui lại. Cô để ý là toàn bộ khu vực này lấp lánh loại thủy tinh tương tự, ngay cả các bức tường của các vị kèo cũng có những đĩa thủy tinh xen kẽ, gắn chìm vào như những cánh cửa sổ, khám đá quý. Điều đó có nghĩa gì? Vigor vẫn cúi xuống cuốn sách. “Đây rồi nó liệt kê bằng tiếng Latinh Đá thần của Thánh Trophimus” Kat nhìn ông chờ một lời giải thích. “Ông ta là một vị thánh, người đầu tiên truyền bá đạo Thiên chúa đến khu vực này của nước Pháp. Người ta nói rằng ngài đã được chúa Jesu viếng thăm trong một cuộc gặp bí mật của những người theo đạo Thiên chúa giáo trong một nghĩa địa. Chúa Jesu quỳ trên một chiếc quan tài và dấu vết của ngài vẫn còn đó. Nắp quan tài trở thành một báu vật, được coi là đem lại kiến thức của Chúa đối với những ai nhìn thấy.” Vigor nhìn lên nhà thờ mái vòm của lịch sử. “Người ta nghĩ nó đã vĩnh viễn bị mất đi, nhưng nó đang ở đây, giống như rất nhiều thứ khác.” Nhưng gần như hầu hết mọi thứ…” Vigor giơ chiếc đèn pin lên. “Theo bản liệt kê, ở một nơi nào đó có cất giữ Mandylon.” Kat trợn tròn mắt. “Đấy là cái gì vậy?” “Cái khăn liệm thực sự của chúa Jesu, một di vật thay thế cho cái khăn liệm ở Turin. Vật này đã được lấy từ Edasa mang đến Constantinope vào thế kỷ thứ X, nhưng trong thời kỳ của những vụ cướp bóc, nó biến mất. Nhiều người nghi vật đó được cất giữ trong số những báu vật của Đền thờ các Hiệp sỹ Templar.” Vigor gật đầu. “Kia chính là bằng chứng. Và rất có thể chính la khuôn mặt thực sự của chúa Jesu.” Kat cảm thấy sức nặng của thời gian… tất cả đang treo trên hình học hoàn hảo. “Một trang.” Vigor lẩm bẩm. Kat biết rằng ngài linh mục đang nói về những kỳ tích được liệt kê trong một trang của cuốn sách gáy bọc da. Nó trông có vẻ như phải dày đến một nghìn trang.” “Thế cô tìm được những gì ở đây?” Vigor nói thì thào. “Thế ngài đã tím đến tận chỗ dưới cùng chưa?” Kat hỏi. “Chưa. Tôi quay lại để dẫn cô tới đây.” Kat đi xuống cái cầu thang hẹp dẫn xuống một tầng dưới. “Ít nhất chúng ta cũng cần năm được khái niệm tổng thể về khu vực này rồi quay lên.” Vigor gật đầu, nhưng xem ra ông vẫn có vẻ lưỡng lự chưa muốn rời cuốn sách. Cuối cùng thì ông cũng đi theo Kat khi cô bước xuống cầu thang xoáy trôn ốc. Kat nhìn vào một nơi. Toàn bộ kiến trúc treo lơ lửng trên đầu cô, treo suốt biết bao thời gian ở nơi đây. Rồi thì họ cũng tới được bậc thang tầng cuối cùng. Một vài bậc dẫn tới một cái sàn rộng, góc có cái vì kèo cuối cùng. Thư viện không kéo dài xuống dưới. Tất cả kho báu được xếp ở trên, được giữ bằng cách treo lên một cặp vòm cuốn khổng lồ, chạy xuống tận vì kèo cuối cùng. Kat nhận ra chất liệu đá của những cái vòm này. Không phải granit, cũng không phải cẩm thạch. Lại là đá nhiễm từ. Bên cạnh đó, dưới những vòm cuốn nhô lên ngay giữa sàn la một cái cột cao đến thắt lưng bằng đá nhiễm từ, giống như một ngón tay bằng đá chỉ lên trên. Kat thận trọng leo xuống tầng dưới. Một cái bậc đá granit tự nhiên bao bọc quanh một sàn thủy tinh dày. Thủy tinh vàng. Cô không bước lên trên đó. Những bức tường dày bao bọc xung quanh nó cũng được gắn những chiếc đĩa vàng thủy tinh phản chiếu được. Mười hai chiếc, cô đếm, giống như tổng thể số vì kèo. Vigor đến chỗ cô. Giống như Kat, ông ghi nhận mọi chi tiết, nhưng cả hai đều tập trung sự chú ý vào những đường vạch bằng bạc – nhiều khả năng là platinum nguyên chất chạy xung quanh sàn. Hình ảnh này về mặt nào đó thích hợp như một sự chấm dứt đối với cuộc tìm kiếm lâu dài. Nó mô tả một mê hồn trận dẫn tới một cái nơ hoa hồng ở giữa. Một cái cột tròn trĩnh bằng đá từ vươn lên từ chính giữa. Kat ngắm nghía chỗ này. Cái mê cung, những cái vòm đá nhiễm từ, sàn thủy tinh. Tất cả những điều đó gợi cho cô tới ngôi mộ của Alexander, với cái kim tự tháp và cái vũng nước phản chiếu sáng. “Nó giống như một điều bí mật nữa cần được giải mã.” Cô nhìn kỹ vào những báu vật treo trên đầu. “Nhưng nếu như chúng ta đã mở được kho báu cổ đại của các nhà Tiên tri, thì còn phải tim cái gì nữa?” Vigor bước tới gần hơn. “Đừng quên chiếc chìa khóa vàng của Alexander. Chúng ta vẫn chưa cần nó để mở bất cứ thứ gì ở đây.” “Điều ấy có nghĩa là…” “Phải có cái gì đó ngoài thư viện này.” “Nhưng là gì?” “Tôi không biết,” Vigor nói. “Song tôi đã nhận ra phương thức của cái mê cung này rồi.” Kat quay lại phía ông. “Đấy là mê hồn trận của Daedalus.” 5 giờ 2 phút sáng Trên bầu trời nước Pháp Gray chờ để hỏi những người khác cho đến khi họ lại bay lên tiếp. Chiếc máy bay trực thăng đã đưa tất cả họ tới sân bay quốc tế Geneva, nơi Hồng y Spera có một chiếc máy bay riêng loại Gulfstream đã được tiếp đầy nhiên liệu sẵn sàng để khởi hành đi Avignon. Thật ngạc nhiên khi một quan chức cao cấp của Vatican có thể có những thứ như vậy. Điều đó buộc Gray hỏi câu thứ nhất. “Vatican thuê một điệp viên của Hiệp hội để làm gì?” Anh hỏi. Năm người bọn họ đều quay lại từ ghế của mình, nhìn nhau. Ngài chỉ vào cô gái đang ngồi bên cạnh, đó là một nhóm nhỏ hơn, hành động một cách độc lập. Chúng tôi đã nghe nói về sự quan tâm cũng như hành động của Long Đình. Chúng tôi đã bắt đầu sử dụng Hiệp hội để điều tra về tổ chức này ở ngoại vi.” “Các ngài thuê những lính đánh thuê?” Gray chất vấn. “Cái chúng tôi tìm kiếm để bảo vệ đòi hỏi ít hơn là phương tiện chính thống. Để dùng lửa trị lửa. Danh tiếng của Hiệp hội có thể là tàn bạo, nhưng họ rất được việc, tôn trọng hợp đồng và hoàn thành công việc bằng môi cách.” “Nhưng họ đã không ngăn được vụ thảm sát ở Cologne.” “Đó là sự thiển cận về phía chúng tôi, tôi e là như vậy. Chúng tôi không được ý nghĩa việc chúng ăn cắp văn bản Cairo. Hoặc chúng hành động nhanh như vậy.” Hồng y thở dài rồi vặn vặn những chiếc nhẫn vàng ở hết ngón tay này sang ngón khác, một cử chỉ sợ hãi. “Có quá nhiều sự đổ máu. Sau những vụ thảm sát đó, tôi lại gặp Hiệp hội để trực tiếp cấy vào một điệp viên trong bọn họ. Thật dễ dàng làm được việc này sau khi Sigma đã được gọi vào cuộc. Hiệp hội đã đề xuất dịch vụ của họ, Seichan cũng đã có sự hợp tác với các anh rồi và tui Long Đình đã bị dính đòn.” Seichan nói xen. “Tôi nhận được lệnh phải tìm cho ra tụi Long Đình đã biết được những gì, phi vụ của chúng ta đã tiến tới đâu và đánh gục chúng nếu như tôi thấy thích hợp.” “Giống như đứng nhìn khi chúng tra tấn các linh mục.” Rachel nói. Seichan nhún vai. “Lúc đó tôi đến muộn. Và một khi nó đã diễn ra rồi thì không có cách nào ngăn được gã Raoul.” Gray gật đầu. Anh vẫn còn giữ đồng xu từ Milan. “Và cô cũng giúp chúng tôi tẩu thoát nữa.” “Nó phù hợp với mục đích của tôi. Bằng cách giúp đõ anh, tôi làm nhiệm vụ của tôi là bắt bọn Long Đình luôn phải đối mặt với thách thức.” Gray nhìn Seichan nói. Thực ra cô ta đang ở bên phía nào? Với kiểu cô ta bắt cá hai tay, ba tay một lúc như vậy, liệu cô ta còn giấu diếm gì nữa? Nghe cô ta giải thích thì có vẻ ỗn nhưng những cố gắng của cô ta là nhằm mục đích đánh lừa để phục vụ cho Hiệp hội. Vatican thật quá ngây thơ khi tin cậy họ… hoặc cô ta… Nhưng đằng nào cũng thế, Gray vẫn còn thiếu cô ta một món nợ. Như kế hoạch, cô đã thu xếp để cho Monk được đưa ra khỏi bệnh biện trước khi đồng bọn của Raoul ra tay. Gray đã hình dung cô ta phải huy động một vài trong số các điệp viên của Hiệp hội không gọi cho Hồng y Spera, người đã thuê cô. Nhưng ngài Hồng y đã thực hiện điều đó, tuyên bố Monk là đại sứ của Vatican rồi đưa anh ta ra khỏi đấy. Và vì vậy họ đang trên đường tới Avignon. Còn một điều nữa làm Gray thấy lấn bấn. “Nhóm của ông ở Vatican,” anh nói nhìn thẳng Spera, “Thế lợi ích của họ là gì?” Spera đặt tay lên bàn. Rõ ràng, ông ta miễn cưỡng đề cập sâu thêm nữa, nhưng Rachel đã bước tới trước mặt ông. Cô cầm hai bàn tay của ông kéo ra rồi cúi xuống nhìn kỹ hơn. “Ngài có hai chiếc nhẫn vàng với dấu của giáo hoàng trên đó.” Cô nói. Hồng y rút hai bàn tay lại, lấy bàn tay này úp lên bàn tay kia. “Một trong những chức vụ của tôi là Hồng y,” ông giải thích, “còn một chức vụ nữa là bộ trưởng ngoại giao. Những chiếc nhẫn giống nhau, đấy là truyền thống.” “Nhưng trông chúng không giống hệt nhau.” Cô nói. “Tôi đã không để ý khi ngài khép bàn tay lại như vậy. Với những chiếc nhẫn ở mỗi bàn tay cạnh nhau như thế. Chúng không giống nhau. Chiếc này phản chiếu hình ảnh của chiếc khác. Những bản sao phản anh chính xác.” Gray chau mày. “Chúng là sinh đôi.” Rachel nói. Gray hỏi để được xem chiếc nhẫn. Cô ta nói đúng. Hình ảnh đối nghịch của dấu ấn giáo hoàng. “Và Thomas có nghĩa là sinh đôi.” Gray lẩm bẩm, nhìn chăm chú vào Hồng y. Anh nhớ đến bình luận của Spera về làm thế nào một nhóm nhỏ trong Vatican đã thuê Hiệp hội. Giờ thì Gray hiểu nhóm nào rồi. “Như vậy ngài là một bộ phận của nhà thờ Thomas.” Anh nói. Vì vậy đã cố bí mật ngăn chận tụi Long Đình.” Spera hít một hơi dài rồi chậm chạp gật đầu. “Nhóm của tôi đã được chập nhận nếu không được nâng cấp thành một phần của Nhà thờ Giáo hoàng. Mặc dù đức tin ngược lại nhưng Nhà thờ lại không năm ngoài khoa học hay nghiên cứu. Những trường đại học, bệnh viện và cơ sở nghiên cứu Cơ đốc giáo ủng hộ những tư tưởng, quan điểm và ý tưởng mới đi trước. Và đúng như vậy, một phần nào đó rất bảo thủ, chậm đáp ứng nhưng nó lại bao gồm những thành viên đã thách thức và giữ cho Nhà thờ thích nghi. Đây là vai trò mà chúng tôi vẫn phục vụ.” “Thế còn về quá khứ thì sao?” Gray hỏi. “Cái tổ chức cổ điển của các nhà giả kim chúng ta đang săn đuổi? Những dấu vết mà chúng ta đang theo?” Spera lắc đầu. “Nhà thờ Thomas ngày nay không giống như cũ. Nhà thờ đó đã biến mất dưới thời các giáo hoàng Pháp, biến đi cùng với Đền thờ các vị Hiệp sỹ Templar. Đạo đức, xung đột và bí mật đã chia tách nó sâu hơn, chỉ còn lại bóng ma và những lời đồn đại. Số phận thực sự của nhà thờ Ngộ đạo ấy và đường lối cổ xưa vẫn còn là bí hiểm đối với chúng tôi.” “Vậy là các ngài cũng không biết gì về tất cả những cái đó giống như chúng tôi?” Monk nói. “Tôi e là như vậy. Chỉ có điều chúng tôi biết rằng nhà thờ cũ vẫn tồn tại. Nó không chỉ là truyền thuyết.” “Cũng giống như Long Đình.” Gray nói. “Đúng vậy, nhưng chúng tôi tìm cách gìn giữ sực bí mật, tin vào trí thông minh của tổ tiên chúng tôi, tin rằng nó được cất giấu vì một lý do nào đó và những tri thức ấy sẽ tự bộc lộ khi thời gian chín mùi. Bọn Long Đình thì ngược lại, cố tìm kiếm để khám phá bí mật qua tắm máu, tham nhũng và tra tấn, chúng tìm kiếm không gì khác hơn là một quyền lực để thống trị và cai quan tất cả. Chúng tôi đã lột mặt nạ chúng hàng thế hệ rồi.” “Vậy bây giờ bọn chúng đã rất gần.” Gray nói. “Và chúng có chiếc chìa khóa vàng.” Rachel nhắc, lắc đầu. Gray xoa mặt mệt mỏi. Anh đã phải trao chiếc chìa khóa đó, chính anh. Anh cần có chiếc chìa khóa để thuyết phục Raoul về sự trung thành mới của Seichan. Chắc chắn đây là một trò chơi, song đó cũng là toàn bộ kế hoạch giải thoát. Raoul đã được tính sẽ bị bắt sống hoặc giết chết tại lâu đài nhưng tên đốn mạt này đã chạy thoát. Gray nhìn Seichan. Cảm thấy như mắc lỗi, anh đã muốn nói điều gì đấy để giải thích mọi chuyện nhưng anh lại được giải thoát khi viên phi công nói trên loa. “Mọi người phải thắt dây an toan. Máy bay đang bay vào một vùng thời tiết xấu.” Những tia chớp vạch ra các đường ngoằn ngoèo chạy qua các đám mây phía dưới. Tiếng sấm nghe như trên cao hơn, rực sáng một góc trời rồi biến mất vào màn đem đen sẫm. Họ đang bay vào một vùng có bão. 5 giờ 12 phút sáng Avignon, nước Pháp Vigor bước tới cái kè bằng đá bao bọc sàn thủy tinh và mê cung. Ông im lặng ngẫm nghĩ một phút, bị lôi cuốn bởi sự bí hiểm nơi đây. Cuối cùng ông nói. Không có góc chết hoặc điểm chết. Đó chỉ là một cong đường dài, liên tục và ngoàn ngoèo. Cô có thể tìm thấy một mê cung giống hệt như cái này bằng đá trắng và xanh ở nhà thờ Chartres bên ngoài Paris.” “Thế nó được dùng để làm gì ở đây?” Kat hỏi. “Và vậy thì tại sao ông lại gọi nó là mê hồn trận Daedalus?” “Mê hồn trận Chartres có rất nhiều tên. Một tên là Le Dedale hoặc Daedalus. Được đặt theo tên một nhà kiến trúc huyền thoại người đã xây dựng mê cung cho vua Minos của Crete. Mê hồn trận này là nhà của Minotaur, một quái vật to như con bò mộng đã bị dũng sĩ Theseus đánh bại.” “Tại sao lại đặt một cái mê cung như thế trong nhà thờ Chartres?” “Đấy không phải là Chartres. Đỉnh cao của việc xây dựng các nhà thờ vào thế kỷ XIII, khi mốt xây dựng kiểu Gô-tích đi vào cao trào, rất nhiều mê cung đã được đặt trong các nhà thờ. Amiens, Rheims, Arras, Auxerre… là tất cả các mê cung khi ta bước vào sảnh đường. Nhưng hàng thế kỷ sau Nhà thờ đã phá hủy tất cả, coi chúng là những di tích vô đạo, trừ cái ở Chartres.” “Tại sao người ta để lại mê cung ở Chartres?” Vigor lắc đầu. “Nhà thờ này luôn được coi là đặc thù so với luật lệ. Gốc rễ của nó thực sự là ngoại đạo, được xây dựng trên một nơi hành hương nổi tiếng của ngoại đạo. Nhưng ngày nay, không giống như các nhà thờ khác, nó không có một vị vua, giáo hoàng hoặc một nhân vật nổi tiếng nào được chôn cất dưới chân nhà thờ cả.” “Nhưng cái đó không trả lời việc tại sao mê cung lại được đặt ở đây?” Kat hỏi. “Tôi hình dung có thể có một vài giải thích. Đầu tiên, mê cung Chartres được xây dựa trên một văn bản giả kim Hy Lạp vào thế kỷ thứ hai. Những hình tượng phù hợp với những nhà giả kim biến mất của chúng ta. Nhưng mê hồn trận ở Chartres cũng lại là đại diện cho cuộc hành trình từ thế gian này lên thiên đường. Những người đi lễ ở Chartres phải bò bằng chân và tay theo con đường đau khổ này sang thế giới khác. Vì vậy, mê cung còn có một cái tên khác-đường tới Jerusalem, hoặc đường tới thiên đường. Đấy là một chuyến đi về mặt tinh thần.” “Liệu ngài có nghĩ rằng điều đó gợi ý chúng ta phải tự mình làm cuộc hành trình ấy, theo sau các nhà giả kim để quyết điều bí mật lớn cuối cùng của họ?” “Chính xác là vậy.” “Song chúng ta sẽ làm thế nào?” Vigor lắc đầu. Ông có một ý tưởng, nhưng cần có thêm thời gian để suy nghĩ. Kat nhận ra ông nói chuyện không thoải mái và cô rất tôn trọng ông nên không ép. Thay vì vậy, cô nhìn đồng hồ. “Có lẽ chúng ta nên quay lại. Xem liệu Gray có tìm cách liên lạc không?” Vigor gật đầu. Ông quay nhìn lại một lần nữa, chiếu ánh đèn pin dọc qua khu vực. Nó phản xạ lại trên nên thủy tinh: nền đá và những mảnh được gắn trên tường. Ông chiếu đèn lên. Nhiều hình ảnh phản chiếu lập lòw, những viên ngọc quý trong một cái cây kiến thức khổng lồ. Đã có lời giải đố ở đây rồi. Ông cần phải tìm ra nó trước khi quá muộn. 5 giờ 28 phút Trên bầu trời nước Pháp. Tại sao họ không trả lời? Gray ngồi áp chặt cái điện thoại trên máy bay vào tai. Anh vẫn cố gọi cho Kat. Nhưng không may chút nào. Có thể vì trận bão, làm nhiễu tín hiệu. Chiếc máy bay chảo đi chảo lại, cố lách qua những tia chớp. Anh ngồi gần cửa sau khoang ngồi để có chút riêng tư. Những người khác, ngồi trên ghế buộc dây an toàn vẫn đang tiếp tục trò chuyện. Chỉ có Rachel thỉnh thoảng lại nhìn xuống, lo lắng nghe tình hình ông bác. Nhưng cũng có thể cô còn có chút gì khác. Từ khi họ được cứu ở Lausanne, cô chưa rời xa anh một bước. Cô vẫn từ chối không chịu kể chi tiết những gì diễn ra tại lâu đài. Một nỗi ám ảnh khủng khiếp vẫn đeo đuổi cô. Và từ đấy như thế cô đã tìm được chút vững tâm từ anh. Không bám giữ, đó không phải là cô. Nó không chỉ là sự tái khẳng định, trần mình ra vào lúc này. Không cần phải nói thêm gì nữa. Và trong khi Monk vẫn bị mệt chưa tỉnh táo hoàn toàn, Gray vẫn tin rằng họ sẽ nói chuyện với nhau sau. Họ là những chiến hữu, người bạn tốt của nhau. Họ sẽ vượt qua. Nhưng Gray không đủ kiên nhẫn với Rachel. Một phần trong anh muốn có ngay một giải pháp và câu trả lời với những điều đã làm cô phiền toái. Bất cứ cố gắng nào trao đổi về những gì xảy ra ở Lausanne đều bị bác đi… một cách nhẹ nhàng nhưng cũng rất kiên quyết. Tuy nhiên, anh vẫn đọc được nỗi đau đớn, tất cả những gì anh có thể làm là đứng bên cạnh cô, chờ đợi cho đến khi cô sẵn sàng nói chuyện. Bên tai anh, điện thoại vẫn reo liên tục không ngừng khi bên kia có người nhấc máy. “Bryan đang nghe đây.” Lạy Chúa. Gray ngồi thẳng dậy. “Kat, Gray đây.” Những người khác trong khoang đổ dồn về anh. “Chúng tôi đã có Monk và Rachel ở đây.” Anh nói. “Mọi việc ở đó thế nào rồi?” Giọng của Kat vang lên, sôi nổi một cách khác thường, nghe với sự thoải mái. “Chúng tôi khỏe. Chúng tôi đã tìm ra lối vào bí mật.” Cô tiếp tục giải thích vắn tắt những gì họ đã phát hiện ra. Thỉnh thoảng một vài câu lại bị trận bão làm ngắt quãng. Gray chú ý thấy Rachel nhìn anh chăm chú trong khi cô ngồi cứng tại chỗ. Anh gật đầu về phía cô. Bác cô vẫn khỏe. Cô nhắm mắt cảm ơn rồi ngồi thụt vào ghế. Sau khi Kat chấm dứt, anh kể lại vắn tắt diễn biến ở Lausanne. “Loại trừ sự chậm trễ do cơn bão gây ra, chúng tôi sẽ hạ cánh xuống sân bay Avignon trong vòng ba mươi phút nữa. Nhưng chúng tôi không có nhiều thời gian hơn bọn Long Đình, có thể chỉ hơn một tiếng thôi nếu may mắn.” Seichan đã cung cấp cho họ tin tức về phương tiện giao thông của bọn chúng. Raoul có hai chiếc máy bay giấu ở một sân bay nhỏ cách Lausanne chừng nửa giờ ô tô. Tính toán với tốc độ máy bay của chúng, họ sẽ có một khoảng cách trước chúng một chút. Một khoảng thời gian mà anh cố gắng giữ. “Với việc tất cả thành viên viên an toàn nữa,” Gray nói với Kat, “tôi sẽ phá vỡ sự im lặng với chỉ huy trung tâm. Liên lạc với giám đốc Crowe. Tôi sẽ liên hệ với ông ta tìm cách phối hợp sự hỗ trợ dưới đất của nhà cầm quyền địa phương. Tôi sẽ gọi khi nào hạ cánh. Vào lúc này, nhớ là canh chừng phía sau lưng.” “Không quên điều đó, chỉ huy. Chúng tôi chờ anh.” Gray bỏ máy. Anh ấn nút số điện thoại trung tâm Sigma. Nó đi qua một loạt tổng đài rồi cuối cùng thông. “Logan Gregory nghe đây.” “Tiến sĩ Gregory, chỉ huy Pierce.” “Chỉ huy.” Giọng nghe rất cáu kỉnh. Gray cắt luôn sự bực bội của ông ta vì việc đã thiếu liên lạc. “Tôi phải nói chuyện với Painter Crowe ngay lập tức.” “Tôi sợ điều ấy là không thể, chỉ huy. Giờ đã là gần giữa đêm. Giám đốc đã rời nhiệm sở cách đây năm tiếng đồng hồ rồi. Không ai biết ông ta đi đâu. Can nhiễu lại làm không nghe rõ tiếng của ông ta, thậm chí còn nặng nề hơn cả sự bực bội của ông ta với Gray. Cuối cùng thì Gray cũng hiểu được tâm trạng của ông ta. “Giám đốc đang làm gì mà rời nhiệm sở vào lúc này.” “Có thể ông ta tới DARPA để phối hợp với tiến sĩ McKnight.” Logan tiếp tục, “nhưng tôi vẫn là chỉ huy của phi vụ này. Tôi muốn được nghe báo cáo toàn bộ về những hoạt động của anh.” Bỗng nhiên Gray cảm thấy không thoải mái khi nói chuyện. Painter Crowe đi đâu nhỉ? Hay thậm chí ông bị giết rồi. Ý nghĩ đó làm anh lạnh cả người. Hay là Gregory ngăn cản anh không cho tiếp cận với giám đốc. Có một lỗ dò nào đó ở Sigma. Anh có thể tin ai đây? Anh cân nhắc mọi chuyện và chỉ làm việc gì anh có thể. Có thể cũng không hay lắm nhưng anh đành phải dũng cảm tiến hành. Anh treo máy, không liên lạc nữa. Mình không thể mạo hiểm. Mình đã cưỡi lên lưng tụi Long Đình rồi, không thể nào lùi bước được.