Năm mươi tám năm trước, một người lái xe cam nhông chết ở Nữu Ước. Ông ta quê quán ở Ái Nhĩ Lan, đã đau từ lâu, phải bỏ nghề lái xe mà làm nghề gác đ êm. Khi ông mất, nhà nghèo tới nỗi bạn bè phải góp nhau mỗi người một ít mua cho ông cỗ quan tài. Ông để lại vợ góa và hai con. Bà vợ mơ mộng những chuyện xa xôi, quyết chí cho con đi học, tới đâu hay tới đó. Bà xin được một việc trong một hãng làm dù và làm mười giờ một ngày. Mặc dầu vậy, tiền công không đủ ăn, bà phải đem đồ ở hãng về nhà làm thêm tới mười, mười một giờ đ êm. Thành thử người mẹ đó làm quần quật mười bốn mười lăm giờ một ngày để nuôi con. Đáng thương tâm làm sao! Bà không vén được tấm màn tương lai để mà thấy trước rằng một ngày kia người con nhỏ của bà làm Thống Đốc tiểu bang Nữu Ước, không phải một lần mà là bốn lần, lâu hơn hết thảy những Thống Đốc trước. Đáng thương tâm làm sao! Người đó không thể thấy trước rằng năm 1928, con bà là ứng cử viên của đảng Dân Chủ để tranh chức Tổng thống. Đáng thương tâm làm sao! Bà không được biết trước rằng ngày mùng 5 tháng 5 năm 1944, tờ báo New York Times gọi con bà là "công dân được nhiều người mến nhất ở Nữu Ước". Vì Al.Smith chính là người con cưng của thành phố lớn nhất châu Mỹ (...) Một lần tôi hỏi ông đi học được bao lâu. Ông ngập ngừng một chút rồi nói: "Để tôi tính - để tôi tính...Tôi không nhớ rõ lắm. Tôi sanh năm 1873, tôi đoán rằng tôi được đi học khoảng bảy hay tám năm, nhưng tôi không chứng thực được điều đó. Tôi không được bằng cấp nào hết mà cũng không có tấm giấy nào chứng tỏ rằng tôi đã đi học". Vâng, Alfred Emmanuel Smith không có miếng giấy nào chứng tỏ rằng ông đã đi học, nhưng ông có những tờ giấy chứng tỏ rằng ông được sáu trường đại học lớn, trong số đó có trường Columbia và trường Harvard, tặng ông học vị danh dự vì những thành công xuất chúng của ông về chính trị và lòng hy sinh của ông cho nhân loại. Tôi hỏi ông có buồn vì lẽ không được vô đại học không. Ông đáp không. Ông bảo rằng người nào muốn tiến lên những bực cao trong chính giới thì phải có tài đắc nhân tâm, phải biết cách cư xử ở đời, mà ông cảm thấy rằng có lẽ khi vác đồ ở các chợ tại đường Fulton và khi làm thừa phát lại trong tám năm, ông đã học được về cách xử thế nhiều hơn là nếu ông học trong một trường đại học. Hồi mười tuổi, ông ở trong nhạc đội nhà thờ, mùa lạnh cũng phải dậy sớm từ năm giờ để hầu lễ vào sáu giờ. Năm hai mươi hai tuổi, ông bán báo ở bến tàu. Lúc rảnh ông chơi dã cầu ở dưới gầm cầu Brooklyn Bridge... Nhưng ông thích nhất là được lái xe cứu hỏa. Ông chỉ mong được làm lính cứu hỏa, nên sống chung với lính cứu hỏa, ca múa cho họ vui. Và khi có chuông kêu cấp cứu thì ông chụp lấy bình cà phê và hộp bánh luôn luôn để sẵn ở cửa sổ, can đảm leo lên xe cứu hỏa khi xe bắt đầu phóng trong thành phố (...) Năm ông mười bốn tuổi, một việc xảy ra, định hướng cho đời ông. Ông thắng được một cuộc tranh biện trong trường. Sự thành công đó đưa ông lên sân khấu và làm tăng lòng tự tin của ông. Ông được mời vào hội Saint James Players, một hội tài tử diễn kịch để giúp cô nhi viện. Ông thành công. Khán giả thích nụ cười và thiên tài của ông. Chẳng bao lâu ông thành ngôi sao và linh hồn của hội. Ông thích cuộc đời sân khấu đó quá! Nó đưa ông qua một thế giơi khác. Ban ngày ông làm mười hai giờ ở chợ cá Fulton Street để lãnh mỗi tuần trên hai Anh kim; Nhưng ban đ êm ông sống trong cái thế giới sân khấu rực rỡ ánh đ èn và phấn son. Ban đ êm ông thành một anh hùng, một nghệ sĩ, lòng nở ra khi khán giả vỗ tay khen. Ông đóng những vai quan trọng nhất trong các kịch May Blossom, The Confederate Spy, the Ticketof Leaveman và The Almighty Dollar. Nhờ kinh nghiệm trên sân khấu, ông tập được tài ăn nói dễ dàng và tự nhiên trước thính giả, tài chỉ huy một đám đông. Ít lâu sau ông diễn thuyết về chính trị, trên một chiếc xe cam nhông, giữa đám quần chúng ở các góc đường. Hồi đó, ông là một người lao động, làm chật vật trong một xưởng chế tạo máy bơm ở Brookly; nhưng trong khi ông ngồi ăn bánh của bà thân ông làm và gói mang theo tới hãng, ông đã mơ mộng một ngày kia được bầu là nghị sĩ tiểu bang Nữu Ước. Mộng đó sau thực hiện được, nhưng ông còn phải trải qua một thời làm thừa phát lại. Trong tám năm ông viết trát kêu người ta đi hầu tòa. Nhờ công việc đó, ông tiếp xúc với đủ hạng người, từ anh bán bánh, bán thịt tới các nhà lý tài ở Wall Street. Ông học được nhiều kinh nghiệm về bản chất con người và tập được tánh nhẫn nhục chịu sự ngược đãi vì hai chục phần trăm những người ông đem trát tới, tố cáo và nguyền rủa ông. Tháng giêng năm 1904, khi ông tới Albany lãnh chức nghị viên viện lập pháp, ông ba chục tuổi. Trong ba chục năm đó ông chưa lần nào ngủ ở khách sạn. Đêm ấy ông lại khách sạn, vô phòng và đọc một tờ báo ra buổi chiều, đăng tin một đám cháy tại một khách sạn Chicago làm nhiều người chết. Trời lạnh, nhiệt kế biểu xuống tới mười sáu độ dưới số không. Đọc những chi tiết rùng rợn về đám cháy, ông không khỏi nghĩ tới những người mà ông thấy chất củi trong lò sưởi khách sạn ông ở. Một khách sạn bằng gỗ. Ông ở trên từng lầu thứ bảy. Nếu cháy thì không có cách nào thoát được. Ông thống đốc tương lai của Nữu Ước không ham cái nạn bị chết cháy, nhất là trong đ êm đầu tiên ông ở khách sạn, cho nên ông đánh thức một người bạn để chơi bài tiêu khiển với ông tới năm giờ sáng. Rồi hai người mới thay phiên nhau ngủ, cứ mỗi người ngủ một giờ rồi dậy canh cho người kia ngủ, để khỏi bị chết cháy. Mấy năm đầu ở Albany ông điên đầu vì những công việc trong viện Lập pháp. Ông hết sức nghiên cứu các dự án về luật mà chẳng hiểu gì cả, vì những dự án đó dài dòng, rắc rối và tối tăm đối với ông, như thể viết bằng tiếng Ấn Độ. Lại thêm người ta giao cho ông những trọng trách mà ông chưa biết chút gì, người ta bầu ông vào Ủy ban về Ngân hàng mà ông chưa hề tới một ngân hàng nào, trừ phi để giao trát kêu một vài chủ ngân hàng đi hầu tòa. Người ta lại bầu ông vào Ủy ban về Lâm sản mà ông cũng chưa hề đặt chân vào một khu rừng nào. Sau khi làm việc ở viện Lập pháp mười lăm tháng ông thất vọng đến nổi muốn bỏ. Nhưng ông không bỏ, chỉ vì một lẽ là nếu chịu thua thì sẽ mắc cỡ với mẹ và bạn bè, sau cùng ông tự nhủ: "Mình đã thắng được trong những vấn đề khác thì sẽ thắng được trong vấn đề này". Từ đó trở đi ông làm việc mười sáu giờ một ngày, nghiên cứu các dự án, cách thức thảo luật. Người ta bảo ông là người thứ nhất không khi nào chịu chấp thuận một đạo luật nào mà không đọc và hiểu kỹ mỗi khoản trong đó, dầu nó có đến cả ngàn khoản. Ông nhất định dùng tiền của những người đóng thuế cũng kỹ lưỡng như tiêu tiền của ông. Nếu bộ nào cần một người thư ký thì ông đòi biết thư ký đó vào hạng nào, sẽ làm công việc gì và tại sao lại phải cần dùng đến họ. Chín năm sau khi tới Albany, ông làm chủ tịch viện Dân biểu của tiểu bang và chắc chắn biết nhiều về việc nước hơn bất cứ người nào khác, nên mọi chính khách phải khâm phục ông. Hỏa hoạn tai hại phát ở một xưởng tại Nữu Ước năm 1911, làm cho ông cũng như mọi người kinh khủng: 148 nạn nhân bị cháy thành than, phần đông là đ àn bà và trẻ con, có nhiều người nhảy từ từng lầu thứ bảy xuống đất, chết tan xương. Từ đó Al Smith thành lập một thập tự quân chiến đấu cho những điều kiện làm việc được hoàn hảo hơn; ông giúp được nhiều trong việc cải thiện luật lao động của tiểu bang Nữu Ước, trừ hỏa hoạn, trừ cái tệ bắt trẻ con làm việc trong các nhà máy, bắt thợ làm việc cả bảy ngày mỗi tuần, và tệ trả công rẻ mạt, ông đặt ra những luật để giảm tai nạn, và cải thiện vệ sinh cho công nhân. Những luật xã hội đó được nhiều tiểu bang khác và nhiều nước phỏng theo. Bốn chục năm trước, khi Tom Foley đưa Al. Smith vào viện Lập pháp, có khuyên Al. Smith: "Anh Al, anh đừng bao giờ hứa một điều gì mà anh không giữ được, và có nói điều gì thì luôn luôn phải cho đúng sự thực". Chẳng những Al. Smith nói đúng sự thực mà còn chiến đấu cho sự thực bất kỳ ở trong địa vị nào.