hằng nhỏ ngồi xếp bằng tròn giữa mâm mạ vàng, người vàng hươm, mỡ chảy thơm phức, nụ cười ngơ ngác trên khuôn mặt, hiền khô. Quanh người độn toàn rau xanh và hoa xúp lơ. Điêu tra viên Đinh Câu rụng rời chân tay khi nhìn thấy thằng nhỏ, cố nuốt dịch vị chỉ chực trào lên họng. Thằng nhỏ nhìn lại anh, mắt mọng nước, lỗ mũi xì hơi nóng, miệng mấp máy như định bắt chuyện. Nụ cười và nét mặt ngây ngô của nó khiến anh nghĩ mãi mà không nhớ ra, vì trông mặt nó quen lắm, hình như mới gặp gần đây, tiếng cười ròn tan vẫn còn văng vẳng bên tai anh, cái miệng nhỏ xíu phả ra mùi thảo quả. Bố kể chuyện cho con nghe đi. Đừng quấy rầy bố. Khi đó người vợ dịu dàng, tay bế đứa con mũm mĩm, mỉm cười. Thoắt cái, nụ cười mỉm biến thành tiếng quát rợn tóc gáy, má co giật, thị vờ làm ra vẻ thâm trầm. Đồ khốn! Anh đập bàn, giận dữ đứng lên. Khoan Kim Cương nở nụ cười xa xôi, Bí thư và Giám đốc mỏ cười nhăn nhở, điều tra viên tưởng mình nằm mơ, trố mắt nhìn, thằng nhỏ vẫn ngồi xếp bằng tròn trong mâm. Khoan Kim Cương mời: - Đồng chí Đinh, xin mời! Bí thư và Giám đốc mỏ nói: - Đây là món ăn nổi tiếng của thành phố chúng tôi, có tên “Kỳ lân dâng con”. Chúng tôi mời khách nước ngoài, khách khen hết lời, ấn tượng sâu sắc không bao giờ quên. Với món ăn này, chúng tôi đã kiếm được không biết bao nhiêu ngoại tệ cho nhà nước. Chỉ chiêu đãi những khách quí. Đồng chí là khách quí nhất của chúng tôi. - Đồng chí Đinh, xin mời! Xin mời đồng chí trinh sát ngoại hạng Đinh Câu đến từ Viện Kiểm sát, thưởng thức món “Kỳ lân dâng con” - Bí thư và Giám đốc mỏ cầm đũa lên, giục mọi người. Mùi thơm từ bé trai mạnh khó cưỡng. Đinh Câu nuốt nước bọt, thò tay vào xắc cốt, sờ thấy nòng súng nhẵn bóng và rãnh khắc trên báng súng, và cả những cạnh của ngôi sao năm cánh ở khoảng giữa các vết khắc. Miệng súng tròn, đầu ruồi hình tam giác, nhiệt độ trên súng thấp hơn nhiệt độ ở tay, do đó cảm thấv lạnh, cảm giác thế là bình thường, đoán chừng mọi việc cũng bình thường. Mình chưa say, mình là trinh sát viên Đinh Câu, nhận lệnh về thành phố Rượu điều tra vụ cán bộ thành phố này cầm đầu là Khoan Kim Cương ăn thịt trẻ con, một vụ trọng án, rất đặc biệt, một vụ nghiêm trọng, tàn nhẫn hiếm thấy trên thế giới, một sự tha hoá hiếm thấy. Mình chưa say, chưa bị lú lẫn, không cho chúng nó thoát. Trước mặt mình là một đứa trẻ rán vàng, gọi theo cách gọi của chúng là “Kỳ lân dâng con”. Mình rất tỉnh, để chứng minh, mình thử làm trắc nghiệm: 85 x 85 = 7225, nói luôn, không sai chút nào. Chúng thịt một thằng nhỏ cho mình ăn, mưu toan bịt miệng mình, quân súc sinh, đồ cầm thú! Anh giơ súng nghiêm giọng quát: - Bọn thú vật đứng yên! Giơ tay lên! Ba tên đàn ông ngồi như bụt mọc, đám phụ nữ dồn về một đống, y như đàn gà con lúc hoảng sợ. Đinh Câu tay giơ súng, tay kia gạt bỏ ghế ngồi, lùi hai bước, lưng áp sát cửa sổ. Anh nghĩ, giả dụ chúng có kinh nghiệm trận mạc sẽ cướp súng trong tay anh, nhưng chúng không làm gì cả. Giờ đây cả ba dưới mũi súng, chúng không dám manh động. Lúc đứng dậy, chiếc xắc cốt của anh trượt theo đùi rơi xuống đất. Hổ khẩu bàn tay cầm súng cảm nhận được sức nặng và cái lạnh của báng súng, ngón trỏ nhận biết độ bóng và sức đàn hồi của cò. Chốt an toàn đã được mở khi lấy súng ra, kim hoả đang đợi đập vào đít đạn, đập là nổ. Anh quát: - Bọn khốn kiếp, bọn phát xít trăm phần trăm! Tất cả giơ tay lên! Khoan Kim Cương chậm rãi giơ hai tay. Các cánh tay của Bí thư và Giám đốc mỏ cũng từ từ giơ lên. Khoan Kim Cương mỉm cười, hỏi nhẹ nhàng: - Đồng chí Đinh! Đồng chí có đùa quá không đấy? - Đùa? - Đinh Câu nghiến răng quát - Ai đùa với tụi bay, bọn thú vật ăn thịt trẻ! Khoan Kim Cương ngửa mặt lên trời cười ha hả. Bí thư và Giám đốc mỏ cũng miễn cưỡng cười theo. Khoan Kim Cương vừa cười vừa nói: - Đồng chí Đinh ơi, đồng chí quả là nhân đạo, thật đáng khâm phục! Nhưng đồng chí lầm rồi, lầm do chủ quan, thử nhìn kỹ xem nào, đây là đứa trẻ à? Đinh Câu nhìn lại đứa trẻ trong mâm theo sự gợi ý của Kim Cương. Nó vẫn mỉm cười như cũ, miệng hé như định nói chuyện. - Giống y chang! - Đinh Câu kêu lên. - Đúng vậy, như thật. Vì sao nó giống đến như vậy, đồng chí có biết không? Đó là vì tay nghề của các đầu bếp của thành phố Rượu chúng tôi trên tài thiên hạ, quỷ thần cũng phải nể. Bí thư và Giám đốc mỏ phụ hoạ: - Ở đây chưa phải đã giỏi. Bộ phận chế biến đặc sản của Học viện Nấu nướng có bà giáo sư còn chế tác được lông mi rung rung, không ai dám đụng đũa! - Đồng chí Đinh, hãy đặt súng xuống cầm đũa lên, cùng bọn tôi thưởng thức món ngon đệ nhất trần gian - Kim Cương hạ hai tay xuống, ân cần mời mọc Đinh Câu. - Không! Tôi tuyên bố không dự bữa tiệc ăn thịt trẻ của các người! Khoan Kim Cương hơi bực, không chịu nhún: - Đồng chí Đinh cố chấp quá đấy! Chúng ta là những người đã giơ cao nắm tay thề, mưu hạnh phúc cho dân. Đó là nhiệm vụ của đồng chí cũng là nhiệm vụ của tôi, không nên nghĩ rằng chỉ mỗi đồng chí là ngươi tốt trong thiên hạ. Trong số những người ăn món thịt trẻ ở thành phố Rượu này, có các vị lãnh đạo đáng kính, có bầu bạn cao quí của năm châu, có cả những nhà nghệ thuật tiếng tăm lừng lẫy, những bậc tài danh của xã hội. Họ đối xử với chúng tôi bằng thái độ chân thành, chỉ mỗi mình đồng chí, đồng chí Đinh Câu ạ, chĩa súng vào tấm lòng thành của chúng tôi đối với đồng chí! Bí thư hoặc có thể là Giám đốc mỏ đế vào: - Đồng chí Đinh Câu, trận gió yêu ma quỷ quái nào đã che mắt đồng chí? Đồng chí có biết, những người mà đồng chí chĩa súng vào không phải là kẻ thù, mà là anh em cùng giai cấp của đồng chí? Cổ tay cầm súng của Đinh Câu mỏi dừ, đầu nòng chúc dần xuống, mắt mò đi, con bướm màu rực rỡ chui khỏi xác nhộng bắt đầu bò lên, nỗi sợ đè nặng lên vai anh như hòn đá tảng, anh cảm thấy mình lập trường không vững, xương cốt sắp rã rời, trước mặt là vũng lầy sâu muốn trượng thối hoắc, đã sa xuống là không thoát, đã sa xuống là tai hoạ tày trời. Nhưng cái thằng nhỏ đảng yêu kia, cái thằng nhỏ thơm điếc mũi, cái thằng kiên quyết đứng về phía mẹ nó, đang ngồi trên cái bệ dáng dấp như toà sen, trong làn khói tiên màu cánh sen, đang giơ tay về phía anh, những ngón tay ngắn ngủn nung núc những thịt, mập không chê vào đâu được, đường chỉ lòng bàn tay hằn rất sâu, tất cả có ba đường, mu bàn tay có bốn lúm đồng tiền. Tiếng cười ngọt ngào của thằng nhỏ bay lượn trong mùi thơm, đài sen nâng lên, thằng nhỏ cũng lên theo. Cái rốn tròn xoay lộ ra đầy vẻ ngây thơ, giống lúm đồng tiền trên má. Chúng mày là quân kẻ cướp chỉ khéo nói! Đừng hòng chạy thoát! Thằng nhỏ bị các ngươi giết thịt đang mỉm cười với ta. Các người bảo đó không phải trẻ con mà là một món ăn nổi tiếng? Làm gì có món ăn nổi tiếng nào mà như thế? Thời Chiến quốc, Dịch Nha thịt con dâng Tể Hoàn Công, thịt ngon như thịt cừu. Bọn Dịch Nha kia, chạy đâu cho thoát? Giơ tay lên, điệu ra toà! Chúng mày không được như Dịch Nha, Dịch Nha giết con đẻ, chúng mày giết con người khác. Dịch Nha là địa chủ phong kiến, trung với vua là nguyên tắc tối thượng; Chúng mày là cán bộ lãnh đạo, giết con em của dân để nhồi căng bụng, trời không dung đất không tha! Mình nghe thấy tiếng trẻ khóc trong lồng hấp, gào thét trong chảo rán, rên rỉ trên phản thịt, khóc thê thảm trong dầu mỡ, muối, tương, đường, hồi hương, hạt tiêu, quế chi, gừng tươi, trong nguyên liệu nấu rượu. Khóc trong bụng chúng mày, khóc trong nhà xí, khóc trong công nước ngẩm, khóc trong những dòng sông, khóc trong bể phốt. Khóc trong bụng cá, khóc trên cánh đồng hoa màu, khóc trong bụng cá kình, trong bụng cá mập, trong bụng con nhệch, trong bụng cá ngần, trong bụng cá đới, trên râu tiểu mạch, trong hạt ngô, trong mầm đậu, trong dây khoai lang, trong thân cao lương, trong phấn kê vàng. Khóc ơi là khóc, tiếng khóc vang lên từ trong quả táo, từ trong quá lê, từ trong quả nho, từ trong quả đào, từ trong quả hạnh, khiến người nghe mà nẫu ruột. Trong cửa hàng táo là tiếng khóc trẻ con. Trong cửa hàng rau là tiếng khóc trẻ con. Trong lò mổ thịt là tiếng khóc trẻ con. Trên bàn tiệc của thành phố Rượu vang lên những tiếng khóc của lũ trẻ bị hại, khiến người sởn gai ốc. Ta không nhằm vào chúng mày thì nhằm vào ai mà nổ súng? Anh trông thấy mấy khuôn mặt nhờn mỡ thấp thoáng trong đám hơi nước màu hồng bốc lên từ thằng nhỏ, thoắt ẩn thoắt hiện, lấp loá như thuỷ tinh vỡ. Nụ cười khinh bạc trên khuôn mặt dầu mỡ nhem nhuốc, biến ảo như ranh của chúng. Điên tiết! Ngọn lửa chính nghĩa, ngọn lửa phục thù cháy rần rật, đỏ rực cả căn phòng, rực rỡ như sen hồng. Anh gầm lên: “Lũ súc sinh! Giò tận số của chúng mày đã điểm”. Anh nghe thấy tiếng gầm thoát ra từ trên đỉnh đầu, rất xa lạ, tiếng gầm chạm trần nhà, lặng lẽ võ tan từng mảnh, tiếng rơi như cánh hoa chạm đất, kéo theo cái đuôi tanh tưởi màu hồng như làn khói, rơi lả tả đầy bàn tiệc. Anh dùng sức bóp cò, chĩa thẳng vào những khuôn mặt như thuỷ tinh vỡ, những khuôn mặt như khảm pha lê, những nụ cười gian trá. Lẫy cò đập đánh tách, kim hoả vọt lên tắp lự, đập vào cái mông sơn xanh của đít đạn, thuốc súng bắt lửa, đứng xa nhìn không thấy, thể tích bị nén bung ra phía trước, bung ra bung ra, ra ra! Đầu đạn bay ra cùng với tiếng nổ chói tai, một làn khói lưu huỳnh lởn vởn trên miệng súng. Tiếng nổ cuồn cuộn như sóng, rít lên ma quái. Hãy để bon phi nghĩa, bọn bất nhân run rẩy trước họng súng của anh. Để những con người lương thiện, những con người tốt đẹp, những con người thơm thảo vui cười trước mũi súng của anh. Chính nghĩa muôn năm! Chân lý muôn năm! Nhân dân muôn năm! Nước Cộng hoà muôn năm! Con trai vĩ đại của bố muôn năm! Các bé trai muôn năm! Các bé gái muôn năm! Mẹ của các bé trai bé gái muôn năm! Mình cũng muôn năm, muôn năm, muôn năm, muôn muôn năm! Anh trinh sát viên ngoại hạng miệng lẩm bẩm những gì nghe không rõ, mép sùi bọt, từ từ đổ kềnh xuống đất như bức tường mục. Những chén rượu bị cánh tay cầm súng gạt đổ, rơi tới tấp lên người anh, quần áo mặt mũi anh dính đầy bia, rượu mùi. Anh phủ phục trên mặt đất chẳng khác một xác chết vớt ra từ ang rượu. Rất lâu sau, Khoan Kim Cương, Bí thư, Giám đốc mỏ và đám tiểu thư quần áo màu hồng mới sực tỉnh, chui ra từ gầm bàn, bò dậy từ sàn nhà, ló đầu ra từ trong váy người khác. Mùi thuốc súng lấn át tất cả các mùi, lượn lờ bay khắp căn phòng rồi dừng lại trên đầu thằng nhỏ vàng rộm trên mâm. Đầu vỡ toác, óc bắn lên tường, chỗ đỏ chỗ trắng, bốc hơi, toả mùi thơm, phát tán các loại tình cảm. Trẻ quay vàng biến thành trẻ cụt đầu. Phần sọ chưa bị bắn văng đi, rơi xuống mép tầng hai của chiếc bàn ăn, mảnh sọ như một mảng vỏ dưa hoặc mảng vỏ dưa giống như mảnh sọ rơi vào giữa bát hải sâm và đĩa tôm he nướng, nước dưa hấu đỏ như máu hay máu đỏ như nước dưa hấu vấy bẩn khăn bàn, bẩn mắt ngươi xem. Hai quả nho màu tím như mắt người hoặc mắt người như quả nho tím, lăn lông lốc dưới sàn nhà, một quả lăn ra phía sau quầy rượu, một quả lăn đến chân cô phục vụ, bị dẵm nát. Cô ta loạng choạng, kêu thét: “ối!” Mọi người hồi phục lại lý trí qua tiếng “ối”, toàn bộ tố chất cấu thành người lãnh đạo nhu lý trí, triết học, nguyên tắc, đạo đức trỏ về trong đầu, chi phối hành động của họ. Giám đốc chép miệng: - Tay này làm hỏng món ăn quá ngon! Khoan Kim Cương liếc xéo Bí thư, tỏ vẻ không bằng lòng. Kẻ kia hơi ngượng trước ánh mắt phê bình của bộ trưởng Tuyên truyền. Khoan Kim Cương nói: - Mau vực đồng chí Đinh dậy, lau rửa mặt mũi sạch sẽ, cho đồng chí ấy uống thuốc rã rượu! Các em quần hồng tíu tít mỗi người một việc. Em vực Đinh Câu, lau mặt, lau miệng nhưng không dám lau tay vì anh đang cầm súng, có thể bóp cò bất cứ lúc nào. Em quét dọn cốc chén vỡ, lau sàn nhà. Các em nâng đầu anh lên, dùng kẹp inốc đã tiệt trùng cạy miệng, bắc cái phễu bằng nhựa cứng vào miệng rồi từng thìa một, đổ thuốc rã rượu vào miệng anh. Khoan Kim Cương hỏi: - Thuốc rã rượu số mấy? Cô trưởng nhóm trả lời: - Số 1 ạ. Khoan Kim Cương bảo: - Cho uống số 2 đi, mau tỉnh hơn! Một cô vào bếp đem ra một bình chứa chất dịch màu vàng, mở nút, một làn hơi dìu dịu toả khắp căn phòng khiến mọi người ngây ngất. Họ rót nửa bình vào phễu. Đinh Câu bị sặc ho lên một tiếng, chất dịch trong phễu vọt lên rất cao. Anh cảm thấy một dòng nước tươi mát chảy vào dạ dày, dập tắt ngọn lửa rừng rực, kêu gọi anh tỉnh lại. Thân thể hồi phục sức sống, hút trở lại con bướm màu tri thức đã chui ra khỏi đỉnh đầu. Anh mở mắt, đầu tiên nhìn thấy thằng nhỏ mất đầu trong mâm, đau xót quá, anh bất giác kêu lên: “Mẹ ơi! Con không chịu được!” Rồi anh giơ súng lên. Khoan Kim Cương giơ đũa lên: - Đồng chí Đinh này, nếu bọn tôi là yêu quái ăn thịt trẻ con thì đồng chí bắn là đáng lắm, nhưng nếu không phải như thế thì sao? Trên giao súng cho đồng chí là để đồng chí trừng trị bọn xấu, chứ không phải lạm sát những ngươi vô tội! Đinh Câu nói: - Ông nói gì thì nói mau lên! Khoan Kim Cương cầm chiếc đũa chọc vào cái chim xinh xinh ngỏng lên của thằng nhỏ không đầu, thằng nhỏ lập tức rã ra từng mảng, biến thành một đồng hồ lớn. Kim Cương giơ đũa chỉ từng cái, giải thích: - Đây là cánh tay thằng nhỏ, nguyên liệu là ngó sen trong hồ Nguyệt Lượng cùng với mười sáu loại phôi liệu, chế biến bằng công nghệ đặc biệt. Đây là chân thằng nhỏ, thực tế là loại giăm bông đặc chế. Người thằng nhỏ là gia công từ một con lợn sữa quay. Cái đầu mà anh bắn bay mất là quả dưa lê bự. Tóc là rau tóc tiên mà ta thường thấy. Nếu muốn tôi giới thiệu tỉ mỉ, chính xác từng nguyên liệu và công nghệ chê biến thì không thể, vì nó là độc quyền của thành phố Rượu, tôi cũng chỉ có thể nắm đại khái, nếu không, tôi đã đổi nghề, đi làm đầu bếp. Nhưng tôi có thể đảm bảo với đồng chí, món ăn này là hợp pháp, nhân đạo, đồng chí nên dùng đũa, chứ không nên dùng đạn đối phó! Khoan Kim Cương dùng đũa gắp cánh tay thằng nhỏ đưa lên miệng nhai ngấu nghiến. Bí thư hoặc Giám đốc mỏ dùng dĩa bạc xọc cánh tay còn lại đặt vào đĩa của Đinh Câu, lễ phép mời anh: - Mời đồng chí, xin đừng làm khách! Đinh Câu nhâm nhi cái cánh tay, trong bụng thấp thỏm. Nó giống cái ngó sen, nhưng càng giống cái cánh tay. Mùi vị thì tuyệt, quả thực hơi có mùi vị của ngó sen, nhưng mùi thơm thì chưa thấy bao giờ. Anh cất súng vào xà cột, hơi ngượng. Dù anh gánh trách nhiệm gì đi nữa thì cũng không được tuỳ tiện nổ súng. Mình phải thận trọng mới được. Kim Cương dùng dao sắc cắt cánh tay thành mấy chục miếng. Ông ta chọn một miếng đưa đến trước mặt Đinh Câu, hỏi: - Có năm cái mắt, cánh tay người có mắt không? Đinh Câu nghe thấy Khoan Kim Cương nhai cánh tay rau ráu, đúng ngó sen. Anh cúi xuống, nhìn cánh tay để trước mặt, nghĩ mình có nên động đũa không. Bí thư và Giám đốc mỏ đang ăn đùi thằng nhỏ. Kim Cương đẩy con dao tối, mỉm cười khích lệ anh. Anh ướm lưỡi dao trên cánh tay thằng nhỏ. Lưỡi dao như có nam châm bập đánh “sựt” một cái, cắt đôi chiếc ngó sen hình cánh tay. Anh cầm lên một miếng cánh tay, nhắm mắt, đút vào miệng, ối trời ơi, những gai trên đầu lưỡi nhảy cẫng lên hoan hô, các cơ miệng liên tục co bóp, từ cổ họng thò ra một cánh tay bé xíu, vồ lấy miếng thịt lôi vào. Kim Cương nói đùa: - Ổn rồi, đồng chí Đinh Câu một thuyền một duộc với chúng ta rồi! Đồng chí đã ăn một cánh tay trẻ con. Đinh Câu sững người, nửa tin nửa ngờ, hỏi: - Ông bảo không phải trẻ con mà! - Chà chà, đồng chí ơi, đùa chút thôi! Thử nghĩ, thành phố Rượu chúng tôi là một thành phố văn minh, không phải đất nước của người rừng, ai nỡ ăn thịt trẻ con? Viện Kiểm sát các đồng chí tin vào những chuyện trời ơi đất hỡi, cử người về điều tra, dựng chuyện kiểu này ngang với các nhà sáng tác tiểu thuyết. Hai vị lãnh đạo mỏ nâng cốc, nói; - Lão Đinh, đồng chí nổ súng bất lịch sự, phạt ba chén! Đinh Câu biết mình đuối lý, chịu phạt. Kim Cương nói: - Đồng chí Đinh coi cái ác như kẻ thù, yêu ghét phân minh, chúc đồng chí ba chén! Đinh Câu vui vẻ nâng cốc, nhận ba chén rượu mừng. Sáu chén rượu vào bụng, Đinh Câu lại bắt đầu lơ mơ. Bí thư hoặc Giám đốc mỏ đẩy nửa cánh tay trẻ con về phía anh. Anh bỏ đũa, bất chấp dầu mỡ nhầy nhụa, cầm cả hai tay mà gặm. Mọi người cười ồ. Đinh Câu ăn hết một cánh tay. Bí thư hoặc Giám đốc mỏ lại huy động đám nhân viên phục vụ chúc rượu anh. Đám phục vụ uốn éo, đổ cho anh hai mươi mốt chén. Anh dán người trên trần, nghe Khoan Kim Cương chào tạm biệt. Anh dán người trên trần, nghe tiếng chân Kim Cương nhẹ nhàng bước ra khỏi phòng ăn, còn nghe thấy ông ta dặn dò Bí thư và Giám đốc mỏ điều gì đó. Cánh cửa lò xo được hai cô phục vụ kéo ra, hai cô phục vụ đứng hai bên, mỗi bên một cô, dáng khép nép. Anh trông thấy chiếc nơ buộc tóc trên đầu các cô, trông thấy gáy và những gì trước ngực. Nhìn trộm như vậy là tồi, anh tự phê bình mình. Sau đó anh thấy Bí thư hoặc Giám đốc mỏ trao đổi gì đó với cô trưởng nhóm. Cánh đàn ông đi hết. Các cô phục vụ ùa tới vây quanh bàn, ăn bốc, dùng tay nhét thức ăn vào miệng, rất thô bạo, không nhu mì như ban nãy. Anh trông thấy cái xác anh ngồi trên ghế, mềm oặt như một cây thịt, gáy tựa thành ghế, đầu ngoẹo sang một bên, rượu rỉ hai bên mép, chẳng khác cái bầu hồ lô đổ nghiêng. Dán người trên trần, anh khóc thương cho cái xác dở sống dở chết của anh. Đám phụ nữ ăn đã no, kéo khăn bàn lau miệng. Một cô nhét trộm bao thuốc lá Trung Hoa bài vào sau nịt vú. Anh chép miệng thở dài, thương cho cặp vú bị chèn ép. Anh nghe cô trưởng nhóm nói: - Lại đây, khênh con mèo hen này xuống nhà khách! Hai cô xốc nách, anh mềm oặt như người không xương. Anh nghe thấy cô có nốt ruồi sau tai chửi: “Đồ chó chết!” Anh rất bực. Anh trông thấy một cô cầm lấy xà cột của anh, mở khoá kéo lấy khẩu súng ra xem hồi lâu. Anh kinh hoảng hét to; “Bỏ súng xuống, cẩn thận kẻo cướp cò”. Nhưng hình như bọn họ đều điếc đặc. Trời phù hộ, cô ta trả khẩu súng vào xà cột. Cô ta lại mở ngăn bên, lấy ảnh người phụ nữ ra. Cô kêu lên: “Lại mau mà xem này!” Các cô xúm lại tranh nhau bình phẩm. Cơn giận đã lên đến đỉnh diểm, anh chửi bới thậm tệ nhưng họ cứ thản nhiên như không, hình như họ không nghe thấy. Rồi thì bốn cô dựng mình dậy, lôi mình ra khỏi phòng ăn, men theo một hành lang trải thảm ni lông, như lôi một con chó chết. Một đứa trong đám này còn cố ý dùng mũi giầy nhọn đá vào bắp chân mình. Con đĩ, thể xác say nhưng tinh thần tao chưa say. Tôi nhẹ nhàng bay bên trên cái xác của tôi, cách ba thước, không rời nửa bước. Tôi buồn cho cái xác vô tích sự của tôi. Hành lang hình như càng dài ra. Tôi trông thấy rớt rượu từ miệng chảy xuống cổ, hôi kinh người, các cô phục vụ cố nín thở, có cô oẹ khan một tiếng. Đầu gục trước ngực, cổ tôi yếu như một; cọng hành héo không giữ nổi cái đầu, khiến nó cứ lắc lư sang hai bên. Tôi nhìn không rõ mặt tôi, chỉ trông thấy hai vành tai màu xám ngoét. Một cô phục vụ bê chiếc xà cột của tôi đi sau cùng. Rồi thì cũng đi hết cái hành lang dài dằng dặc, tôi nhận ra gian phòng lớn đó. Các cô quẳng cái xác tôi xuống thảm, để tôi nằm ngửa. Tôi giật mình vì khuôn mặt của tôi. Tôi nhắm tịt mắt, sắc mặt tôi bợt ra như giấy dán cửa sổ, hàm răng nửa đen nửa trắng, mùi rượu khó ngửi trào lên họng khiến tôi suýt lộn mửa. Cái xác tôi co giật. Quần tôi ướt đẫm, xấu hổ quá! Các nàng thở dốc một hồi rồi khênh tôi ra khỏi gian phòng lớn. Bên ngoài là một biển hoa quì, mặt trời sắp lặn đỏ như máu, màu vàng của hoa quì tỏ ra vô cùng dịu dàng trong sắc đỏ. Con dường bê tông xuyên qua vạt hoa quì, đã có một chiếc xe du lịch màu nhũ bạc đỗ trên đường, rất quí phái. Khoan Kim Cương trèo lên, chiếc xe từ từ lán bánh. Cặp anh em sinh đôi vẫy tay về phía đít xe. Chiếc xe chạy vụt đi. Đám phục vụ kéo lê tôi trên con đường bê tông. Một con chó đứng bên một cây hoa quì to như một cây lấy gỗ, sủa ầm ĩ. Nó là con chó mình đen tai trắng, lông bóng như thoa mỡ. Cứ mỗi tiếng sủa, người nó lại nảy lên một cái, y như chiếc đàn gió khi đệm nhạc. Họ đem mình đi đâu nhỉ? Mỏ đã lên đèn, ánh đèn như những con mắt gian giảo. Máy móc vẫn như buổi sáng, bánh xe cẩu đứng vẫn quay tròn như buổi sáng. Một đám người đen nhẻm, đầu dội mũ bảo hộ lao động đi tới, không hiểu sao tôi ngại gặp họ. Phúc hay hoạ đây? Hoạ thì cũng không thể tránh. Đám công nhân mỏ đứng sang hai bên đường, các cô phục vụ kéo tôi đi qua ở giữa. Tôi ngửi thấy trên người họ mùi mồ hôi chua loét và mùi không khí ẩm ướt, tù hãm lâu ngày dưới hầm lò. Họ nhìn như đóng đanh vào cái xác của tôi. Vài người văng tục. Bọn quần hồng vênh mặt, không coi họ là cái đinh! Tôi chợt hiểu là những câu chửi có liên quan đến tính dục vừa nãy là dành cho đám các nàng, chứ không phải chửi tôi. Họ khênh tôi vào một gian buồng nhỏ đơn độc. Trong buồng có hai cô mặc áo bờ lu, đầu gối chạm nhau, ngồi đối diện bên chiếc bàn viết, mặt bàn khắc chữ nham nhở. Thấy chúng tôi vào, hai đầu gối nhích xa một chút. Một vị ấn công tắc trên tường, cánh cửa co lại, có lẽ đó là thang máy. Họ khênh tôi vào thang, cửa đóng lại. Quả nhiên là thang máy. Nó xuống nhanh vùn vụt. Tôi phục quá: đúng là mỏ, mọi hoạt động đều dưới lòng đất. Tôi không nghi ngờ họ xây Vạn Lý trường Thành dưới này. Thang máy kịch một tiếng, rung lên ba lần: đã chạm đáy. Cửa mở, ánh sáng chói loà chụp lấy mắt tôi. Căn phòng lớn sang trọng, sàn nhà lát đá Đại Lý trắng bóc có thể soi gương, in bóng trần nhà trạm khắc và mấy trăm ngọn đèn lung linh. Một cột trụ lớn ghép bằng bốn phiến đá Đại Lý. Hoa tươi và cây xanh. Bể cá kiểu mới nhất. Những con cá vàng nổi u khắp người, tôi trông mà phát ớn. Họ đưa cái xác tôi vào phòng số 410. Căn cứ vào đâu mà đặt số phòng, tôi đoán không ra. Ngôi nhà cao tầng này như thế nào? Cao ốc ở Nữu Ước thông lên Thiên Đàng, cao ốc ở thành phố Rượu thông với Địa Ngục. Họ tụt bỏ giầy, đặt tôi lên giường, để chiếc xà cột trên bàn uống trà rồi bỏ đi. Năm phút sau, một cô phục vụ mặc quần áo màu be nhạt đẩy cửa bước vào, đặt chén trà lên bàn. Tôi nghe thấy cô ta mời cái xác của tôi: “Mời thủ trưởng dùng trà!” Xác tôi không trả lời. Cô phục vụ quần áo màu be trang điểm rất đậm, lông mi cứng như lông lợn. Lúc này, điện thoại ở tủ nhỏ đầu giường réo chuông, cô ta nhắc ông nghe bằng những ngón tay nhòn nhọn. Trong phòng lặng ngắt, tôi nghe rõ tiếng người đàn ông trong ống nghe: - Hắn tỉnh chưa? - Không động cựa gì cả, sợ lắm. - Sờ xem tim còn đập không? Cô ta đặt tay lên ngực tôi, nét mặt tỏ ra vô cùng ngán ngẩm. Cô ta nói: - Đập. - Cho hắn uống chút thuốc rã rượu, số 1 ấy. - Vâng. Cô màu be nhạt đi ra. Tôi biết cô ta sẽ lập tức quay lại. Cô ta đã trở lại, tay cầm chiếc sơ-ranh bằng kim loại thường dùng để tiêm cho súc vật. May mà kim lại bằng nhựa mềm, do đó tôi không sợ cô ta tiêm cho tôi. Cô nhét ống đẫn vào miệng rồi bơm thuốc rã rượu vào người tôi. Sau đó, tôi nghe cái xác tôi rên hừ hừ, tay vung lên, còn nói câu gì đó. Nó tung ra một sức mạnh thu hút tôi, chụp lấy tôi. Tôi chống lại. Tôi biến thành một quả giác hút chặt lấy trần nhà để cưỡng lại, nhưng tôi cảm thấy một phần con người tôi đã bị hút đi. Tôi khó nhọc ngồi dậy, nhướng mắt nhìn lên tường hồi lâu. Tôi sờ ca nước chè, uống ồng ộc. Sau đó, tôi ngã ngửa trên giường. Lại sau đó rất lâu, có tiếng kẹt cửa khe khẽ. Một thằng lỏi khoảng mười bốn tuổi cởi trần, chân đi đất, chỉ mặc chiếc quần xà lớn bằng vải xanh, lách vào. Nó nhanh nhẹn như mèo, không một tiếng động. Tôi thích thú nhìn nó. Trông mặt quen quen, hình như đã gặp nó ở đâu. Nhất định là đã gặp nó ở đâu rồi. Nó ngậm trong miệng con dao lá liễu, y hệt con mèo ngậm con cá lành canh. Tôi sợ đến mụ người cho cái xác dở sống dở chết của tôi. Đồng thời tôi băn khoăn ở cái nơi u tì như thế này, làm sao lại xuất hiện một tinh linh? cửa phòng tự động đóng lại, sự im ắng nén chặt màng nhĩ. Khi thằng lỏi tiếp cận, tôi ngửi thấy trên người nó cái mùi tanh của đất núi, nó là cái mùi của con tê tê vừa bị lôi ra khỏi kẽ đá. Nó định làm gì vậy? Tóc rối bù, vương đầy những quả ké mà cái mùi hăng hắc của nó bò vào mũi tôi rồi bò lên. óc như những con rắn nhỏ. Cái xác của tôi hắt xì hơi. Thằng lỏi vội nằm phục xuống thảm. Nó đứng dậy giơ tay sờ họng tôi. Lưỡi dao lá liễu trong miệng nó ánh lên tia sáng lạnh. Tôi rất muốn gọi cái xác cúa tôi nhưng không thể. Tôi sục sạo trong bụng, hoặc có thể nói, tôi vắt óc suy nghĩ: lúc nào ở đâu và vì sao tôi đắc tội với cái thằng lỏi con này? Nó lại giơ tay sờ cái chỗ trên cơ thể mà người ta gọi là họng, y hệt đầu bếp lành nghề chuẩn bị giết gà. Tôi thậm chí đã cảm nhận được móng vuốt đáng sợ của nó, nhưng cái xác của tôi thì cứ phớt Ăng-lê, ngủ vùi trong tiếng thở nặng nhọc, không biết tử thần đã tới gần. Tôi mong nó nhả lưỡi dao khỏi miệng, nhắm cổ họng cái xác của tôi mà khứa một nhát, để linh hồn tôi đỡ bị dằn vặt trên trần nhà. Nhưng nó lại không. Nó sờ cổ rồi sờ nắn quần áo cái xác của tôi đang mặc, sờ các túi, lôi ra chiếc bút máy “Anh hùng”, mở nắp, vẽ lên mu bàn tay những nét dài. Mu bàn tay nó cũng đầy vảy. Vẽ một nét, rúm người lại một cái, miệng nhệch ra một cái, nhìn nét mặt khó có thể biết nó cười hay khóc. Tôi đoán thằng lỏi sợ ngứa. Tiếng soàn soạt phát ra khi ngòi bút cào trên vảy nến, tôi biết cái bút “anh hùng 800” thế là đi đời. Đây là phần thưởng về thành tích công tác của tôi. Trò chơi vô duyên này kéo dài nửa tiếng đồng hồ mới chấm dứt. Nó đặt cái bút mạ vàng trên mặt đất, tiếp tục lục soát, lôi từ trong túi tôi một chiếc khăn mùi xoa, một bao thuốc lá, một bật lửa điện tử, một chứng minh thư, một đồ chơi vô cùng cần thiết là khẩu súng, một ví đựng tiền, hai đồng xu. Hình như những thứ này làm nó hoa cả mắt. Như một đứa trẻ tham lam, nó dồn tất cả những thứ giữa hai chân, rồi cầm từng cái lên nghịch. Bút máy thì không có gì để nghịch, thế là rất tự nhiên, nó cầm cái đồ chơi là khẩu súng lên, đưa ra trước mặt ngắm nghía. Nòng súng mạ kền sáng lên dưới ánh đèn, đây là khẩu súng phỏng theo kiểu Colt, ổ cối, chính là loại súng sĩ quan Mỹ vẫn đeo lặc lè bên hông. Tôi biết trong ổ đạn còn mấy viên, chỉ cần lẩy cò là nổ. Vui vẻ phấn khởi khiến đôi mắt của nó rất đáng yêu. Tôi sợ nổ súng thì nó bị lộ. Khoảng cách giữa cánh tay trẻ con và ngó sen là bao xa? Cái xác của tôi có được giấu đi không? Nhưng tất cả đã muộn. Nó đã bóp cò. Pằng! Tôi trông thấy khói xanh ở đầu nòng cùng với tiếng nổ. Tôi đợi tiếng chân dồn dập bên ngoài, cô phục vụ quần áo màu be đẩy cửa xông vào cùng với các nhân viên bảo vệ. Đêm khuya súng nổ, không mưu sát tự sát, thì còn có gì khác? Tôi lo cho thằng Vẩy Cá. Nó sẽ gặp nguy hiểm. Tôi không muốn nó bị bắt. Phải thẳng thắn mà nói rằng, thằng lỏi rất thú vị, không phải vì nó có vẩy cá. Mọc vẩy thì rất nhiều, cá này, rắn này, tê tê này. Ngoài con tê tê vụng về một cục lại còn khệnh khạng mà tôi không ghét lắm, tôi không thích cá lặng thinh., không thích rắn thâm hiểm. Nhưng những gì tôi tưởng tượng cũng bằng thừa, sau khi súng nổ, tất cả vẫn bình thường như cũ, không có tiếng chân chạy, càng không có tiếng xô cửa. Thằng cha lại gây ra một tiếng nổ nữa. Nói thực, tiếng súng ở đây đơn độc, nhỏ nhoi, gian phòng thì kín như bưng, thảm nền, trần nhà, giấy dán tường đều là những nguyên liệu hảo hạng triệt tiêu tiếng động. Nó vẫn ngồi bình thản, không chút ngạc nhiên, nếu không phải là một thằng điếc đặc thì là một ông tướng chưa bao giờ biết rùng mình. Súng nghịch đủ rồi, vứt sang bên. Mở ví, có những gì lôi ra hết. Tiền, tem gạo, phiếu ăn nhà ăn tập thể chưa kịp báo cắt. Nó mân mê, nghiên cứu cái bật lửa. Lưỡi lửa lóe sáng. Nó hút thuôc. Nó ho. Nó vứt mẩu thuốc xuống thảm. Trời ơi, thảm bén lửa! Tôi lập tức ngửi thấy mùi lông cừu cháy. Lúc này tôi chợt vỡ lẽ: nếu cái xác tôi ra tro thì tôi sẽ biến thành khói. Nó mà tiêu thì tôi cũng tiêu luôn. Xác ơi, tỉnh dậy mau! Thằng lỏi, ta căm thù mày! Ta không căm ngươi nữa, ta chỉ buồn cười nhưng không thành tiếng. Phát hiện thảm bén lửa, nó kéo một bên ống quần lên, hai ngón tay kẹp cái vòi cao cũng đầy vẩy, có vẻ hơi to so với con người nó, cương mà không cứng, chĩa thẳng vào đám lửa mà tè. Lửa phát ra tiếng xèo xèo. Nước nhiều và mạnh, thừa sức dập tắt hai đám cháy. Tôi hít nhẹ cái mùi khai khai của nước tiểu và cái mùi khen khét của hồ dán bị cháy với một tâm trạng vui vẻ: tài thật, tiên sư nó, quả là thiên tài! Nó lột áo trên cái xác của tôi, tìm cách cởi chiếc áo ngoài. Tôi nghe thấy tiếng nó thở phì phò. Nó mặc chiếc áo ngoài của tôi, vạt áo chấm đầu gối. Nó nhét tất cả các thứ trên thảm vào túi. Nó còn định làm những gì nữa? Nó nhả con dao ngậm trên miệng, khắc lên tường bốn chữ. Rồi miệng ngậm dao như ngậm lá diệp liễu, vung vẩy hai ống tay áo rộng thùng thình, nó nghênh ngang ra khỏi phòng. Cái xác của tôi bị thằng lỏi xô xuống đất từ lúc nào. Nó vẫn ngáy. 2 Thưa thầy Mạc Ngôn, Cho phép trò vẫn gọi như cũ, nếu không trò rất buồn rất lúng túng rất không thoải mái. Thưa thầy, thầy là thầy xịn, tên gọi đúng với nghĩa. Trò phát hiện ra rằng, thầy không những viết giỏi, mà còn là một cao thủ khi bình phẩm rượu. Tiểu thuyết của thầy nóng rực như cái chân bó của bà già, thầy bình luận về rượu chỗ nào cũng trúng phóc. Thế giới ngày nay, kiếm một nhà tiểu thuyết ưu tú không khó, kiếm một bậc thầy về bình phẩm rượu không khó, nhưng kiếm cho ra một thiên tài giỏi cả tiểu thuyết lẫn rượu thì quả là khó khăn vô cũng. Thầy ơi, thầy đúng là một thiên tài như thế. Thầy phân tích “Lục nghị trùng điệp” vừa sâu sắc vừa chuẩn xác, đạt trình độ chuyên nghiệp. Nguyên liệu cơ bản của loại rượu này là cao lương, đậu xanh, lên men trong hầm rượu lâu năm. Men rượu thì cấy từ đại mạch, đậu hoản bỏ vỏ trộn vào một ít cám gạo. Rượu có màu xanh nhạt, trong mà thuần chất, cơ bản thuộc dòng rượu mạnh, hương sắc đẹp. Nước cốt quá cay, người ta pha bằng nhiều cách để nén bớt tính bạo liệt vốn có của nó, tỉ như đóng hàm thiết cho ngựa, nhưng hiệu quả chưa được viên mãn. Sau đó, vì phải tham gia hội chợ gấp, gắn ào cho nó một cái mác. Đúng như thầy đã nhận xét, “Lục nghị trùng điệp” xét riêng rẽ thì mặt nào cũng thượng thặng, khuyết điểm là chưa đạt tới ba trong một, kết hợp chưa nhuần nhuyễn. So sánh đàn bà đẹp với rượu ngon là phương cách hình tượng hoá khi người ta bình rượu. Cảm giác của thầy về cơ bản là hợp. Trò và bố vợ Viên Song Ngư đã suy nghĩ rất nhiều về phương án cải tiến “Lục nghị trùng điệp”, sao cho ngày càng hoàn hảo, công việc đã chín muồi, tiếc rằng trò mê mải với văn học, không còn thì giờ nghĩ đến chuyện khác. Thưa thầy, thế giới mênh mông, chúng sinh như cây cỏ, rượu thường nhiều như biển, rượu ngon ít như sông, nhưng người biết uống, đạt tới trình độ “nhắm rượu ngon như ngắm người đẹp” thì thưa thớt như sao buổi sáng, hiếm như lông phượng sừng lân, pín cọp, trứng khủng long. Trong số đó, thầy được coi là một, trò được coi là một, bố vợ Viên Song Ngư của trò được coi là một, Phó bộ trưởng Khoan Kim Cương được coi là một nửa. Lý Bạch cũng được coi là một… “Nâng chén mời vầng trăng, soi bóng thành ba người”! Sao lại ba người? Lý Bạch là một, vầng trăng là hai, chén rượu là ba. Trăng tức Hằng Nga, người đẹp trên trời; rượu tức sen xanh, người đẹp dưới trần; Lý Bạch và rượu hai trong một, vậy mới có tên Lý Sen Xanh. Lý Bạch sở dĩ có nhiều ý tưởng kỳ quặc, tự do qua lại giữa thiên giới và cõi trần, đại để là như thế. Đỗ Phủ được coi là một nửa, ông đa phần uống rượu ngô, buồn như chấu cắn, gầy nhom như bà vợ, vậy nên ông không thể viết những lời thơ bay bướm. Tào Mạnh Đức được coi là một, ngồi trước rượu như trước mặt người đẹp mà cất tiếng ca, cuộc đời ngắn ngủi, người đẹp mỏng manh như sương sớm, cái đẹp đến rồi đi, phải kịp thời mà thụ hưởng, cổ kim trở lại, trên dưới năm ngàn năm, đếm đi đếm lại cũng chỉ có vài chục người đạt tới hạng cao thủ trong nghệ thuật “coi rượu ngon như người đẹp”, còn thì toàn là loại bợm rượu, với loại này chỉ một thùng nước ớt là xong, cần gì đến “Lục nghị trùng điệp”, “Thập bát lí hồng”? Nhắc đến “Thập bát lý hồng”, trò lại thấy trong lòng háo hức, đúng là một kiệt tác lừng danh thiên cổ! Công nghệ đái vào chum trong khi ủ men đã mờ ra mật kỷ nguyên mới trong lịch sử chưng cất rượu. Quả là một ý tưởng không tiền khoáng hậu. Những sự vật đẹp đẽ nhất thường pha tạp những nhân tố xấu xa nhất. Người đời đều biết mật ong ngọt, nhưng đã mấy người biết mật ong do bao nhiêu nguyên tốluyện thành? Có người bảo: “Thành phần chủ yếu của mật ong là phấn hoa”. Đúng, không sai chút nào. Nói thành phần chủ yếu của mật ong là phấn hoa cũng đúng như nói thành phần chủ yếu của rượu là men, nhưng như vậy có nghĩa là không nói gì cả. Trong rượu có đến mấy chục chất khoáng, anh biết không? Trong rượu hàm chứa mấy chục loại vi sinh, anh biết không? Trong rượu còn có rất nhiều thứ không gọi được tên, anh biết không? Trò không biết, bố vợ trò không biết, thầy có thể càng không biết. Trong mật ong có chứa nước biển, anh biết không? Trong mật ong có phân bắc (phân người), anh biết không? Thiếu phân bắc tươi thì không thể luyện mật, anh biết không? Gần đây trò có đọc báo. Những cha mít đặc về môn chưng cất rượu dám miệt thị những sáng tạo li kì của thầy, cho rằng đái vào rượu là sự phỉ báng văn minh của nhân loại. Họ hoàn toàn không hiểu gì về độ pH, về chất lượng của nước có tác dụng chế ước to lớn như thế nào đối với chất lượng rượu. Nước hàm lượng axit cao thì trong rượu có xút, chát đến nỗi nuốt không trôi, trộn vào rượu này một bãi nước đái của trẻ khỏe mạnh, liền trở thành danh tửu “Thập bát lý hồng”: “Hương thơm ngào ngạt, dư vị ngọt mãi ở họng”(đằm hơn “Trạng nguyên hồng”, “Nữ nhi hồng”). Không phịa chút nào. Đừng có ngạc nhiên, chẳng qua chưa gặp đấy thôi! Trò xin lấy danh nghĩa Tiến sĩ Tửu - loại - học tuyên bố: đó là khoa học! Khoa học đòi hỏi nghiêm túc, không cho phép giả mạo dù chỉ một chút, không biết thì học, không được huênh hoang tuỳ tiện, càng không được mạt sát người khác. Vả lại, nước tiểu thì có gì không sạch. Những kẻ chơi đĩ dính lậu, giang mai thì nước tiểu của họ đương nhiên là không sạch. Nhưng nước tiểu của cụ thân sinh ra thầy thì tinh khiết có khác gì nước suối đầu nguồn. Nhà dược học kiệt xuất của nước ta Lý Thời Trân đã ghi chép rõ ràng như sau trong “Bản thảo cương mục”: Nước đái trẻ em có thể làm chất dẫn thuốc trị các bệnh cao huyết áp, hẹp van tim, xơ cứng động mạch, quáng gà, thiếu sữa…” Chẳng lẽ họ dám chửi cả Lý Thời Trân? Nước đái trẻ con là chất dịch thiêng liêng nhất, thần bí nhất trên thế giới, có ma nào biết được nó chứa bao nhiêu nguyên tô quí hiếm trong đó. Rất nhiều nhân vật nổi tiếng ở Nhật Bản mỗi sáng uống một chén nước tiểu để bồi bổ sức khỏe và sảng khoái tinh thần. Đồng chí Tưởng, Bí thư thành uỷ thành phố Rượu chúng ta ăn hạt sen ninh nhừ với nước tiểu trẻ em, chữa khỏi chứng mất ngủ kinh niên. Nước tiểu rất thần tình, là chất dịch tốt nhất trên thế giới, càng là thứ triết học uyên thâm. Thưa thầy, ta không cần bận tâm đến cái bọn lẩm cẩm ấy làm gì, đồng chí uỷ viên Nhân dân Stalin đã nói: “Chúng ta không thèm bận tâm về họ”. Họ chỉ đáng uống nước đái ngựa! Trong thư thầy nói sẽ viết một bộ tiểu thuyết về rượu, công việc nặng nề này chỉ thầy mới gánh nổi. Thầy ơi, linh hồn của thầy là hồn rượu trăm phần trăm, thân thể thầy là một cơ thể rượu từ đầu đến chân. Cơ thể rượu của thầy hoàn mĩ, hài hoà, hồng hoa xanh lá, nước biếc non xanh, tứ chi khỏe mạnh, cử động nhịp nhàng, khoan thai chững chạc, đi đứng nền nã, có máu có thịt, sống động văn minh, bớt một phân thì ngắn, thêm một phân thì dài. Thầy ơi, thầy đúng là một bình “Thập bát lý hồng”. Trò đang thu thập cho thầy tư liệu về rượu, còn chuẩn bị săn cho thầy mười bình “Lục nghị trùng điệp”, mười chai “Bờm tía ngựa hồng”, mười chai “Người đẹp phương Đông”, đợi khi xe nhà trường đi Bắc Kinh sẽ gửi cho thầy. Từ nay trở đi, thầy cứ mạnh dạn tiến lên, rượu không rời miệng, bút không rời tay, viết ra chín nghìn chín trăm chín mươi chín bộ tiểu thuyết! Hãy để cho bọn ngu xuẩn kia đứng đực ra như phỗng mà khóc. Cái ngày dân chúng khai tâm, cũng là ngày kẻ thừ giai cấp đau ruột, ta nhất định thắng! Truyện “Trẻ thịt” (trẻ nuôi để ăn thịt) lần trước gửi cho thầy, tuy không phải phóng sự nhưng cũng gần gũi với phóng sự. Ở thành phố Rượu có một số cán bộ thoái hoá biến chất, chuyện ăn thịt trẻ con là hoàn toàn chính xác, nghe nói có người đang điều tra, một khi cháy nhà ra mặt chuột, chắc chắn rung chuyển thế giới. Sau này viết về vụ này, ngoài trò không ai viết nổi. Có đề tài nổ như quả bom trong tay, thầy bảo, trò không phát cuồng lên sao được. “Quốc dân văn học” chưa có tin gì cho trò, thầy giúp trò giục họ một tí. Lý Diễm ở đây là một cô “bướm đốm mắt lồi”, có thể là cô “mặt trắng mắt lồi” mà thầy còn nhớ. Những chấm đen trên mặt cô ta có thể là hậu quả của nhiều lần mang thai bất hợp pháp. Cô ta nói với trò, cái hĩm của cô ta rất đỗi phì nhiêu, cắm hạt đã rang chín vào đấy cũng nảy mầm. Còn bảo, mỗi khi cho đẻ non cái thai thiếu tháng, các bác sĩ đều đem xào ăn. Nghe nói thai sáu bảy tháng rất bổ, trò thấy có lý, chẳng phải hươu bao tử bổ khí huyết đó sao! Trứng vịt lộn bổ máu đẹp da đó sao! Xin gửi truyện mới sáng tác “Thần đồng”, với thủ pháp “Chủ nghĩa hiện thực yêu tinh”. Sau khi phủ chính, xin thầy gửi cho “Quốc dân văn học”, không gõ cửa Quỷ môn quan này, trò quyết không lui! Ngưỡng cửa nhà các ông ấy có cao bằng giời, trò cũng quyết trèo lên, đánh sụm lưng họ bằng sức trẻ. Kính chúc công việc viết của thầy thông đồng bén giọt! Trò: Lý Một Gáo 3 Thần đồng Chư vị độc giả, cách đây không lâu tôi viết cho các vị câu chuyện “Trẻ thịt” (loại trẻ nuôi để ăn thịt). Trong truyện này, tôi cố ý khắc hoạ rõ nét một bé trai trong bộ quần áo màu đỏ. Các vị chắc còn nhớ cặp mắt không bình thường của nó, ti hí, phóng ra những tia từng trải, lạnh như băng. Đó là cặp mắt của một kẻ mưu mô điển hình. Cặp mắt ấy không mọc trên khuôn mặt một kẻ lắm mưu nhiều kế, mà lại gắn lên mặt một đứa trẻ cao chưa đầy một mét khiến ta không thể quên, khiến Kim Nguyên Bảo - một nông dân hiền lành vùng ven thành phố Rượu, giật mình kinh hãi. Trong thiên truyện chỉ hơn một vạn chữ, nên không thể truy cứu nguồn gốc, lai lịch của đứa trẻ, nó hiện diện bằng một hình tượng đã được xác định: thân hình cao chưa đầy một mét, tóc rễ tre rối như tổ quạ, cặp mắt xảo quyệt, hai vành tai lá hò vừa to vừa dày, giọng khàn khàn. Nó là một thằng con trai, ngoài ra, nó không là cái gì hết. Chuyện bắt đầu triển khai từ nơi thu mua đặc sản của Học viện Nấu nướng, lúc chạng vạng tối. Thưa chư vị độc giả, “Câu chuyện của chúng ta thực ra đã bắt đầu”. Đêm ấy có trăng, vì chúng tôi cần như vậy. Vầng tráng đỏ lừ và to đùng, chậm rãi nhô lên từ sau ngọn núi giả của Học viện Nấu nướng. Ánh trăng màu hoa hồng khiến sắc mặt người nào cũng dịu dàng, soi nghiêng qua hai lần cửa kính trông như một dòng thác. Chúng đều là con trai, nếu các vị đã đọc “Trẻ thịt” của tôi, các vị đã biết mặt chúng. Thằng tiểu yêu là một trong số đó, nó nhanh chóng trở thành lãnh tụ hoặc vua của chúng. Hãy đợi đấy! Nước mắt của bọn trẻ đã cạn khô trước lúc mặt trời khuất sau dãy núi, mặt mũi lem luốc, giọng khản tịt, tất nhiên trừ thằng tiểu yêu. Nó không biết khóc! Lúc bọn trẻ khóc, nó chắp tay sau lưng, bước những bước dài đi tới đi lui như một con ngỗng trong gian phòng lớn lộng lẫy có núi có sông của Học viện. Đôi lúc nó còn phóng chân đá vào mông đứa nào khóc to nhất. Đứa bị đá thường là hét lên một tiếng lảnh lói rồi chuyển sang khóc ti tỉ. Cú đá của nó trở thành liều thuốc hiệu nghiệm chữa khỏi khóc, và như vậy là ba mươi mốt đứa bị đá khắp lượt. Trong tiếng nức nở của thằng nhỏ nhất, bọn trẻ trông thấy vầng trăng như một con ngựa non màu hồng nhảy nhót trên ngọn núi giả. Chúng dồn lại trước cửa sổ, vịn khung cửa nhìn ra bên ngoài. Một đứa rất mập, mũi dãi dây đầy má, giơ ngón tay mũm mĩm lên, bi bô: - Má Trăng…má Trăng… Đứa bên cạnh bĩu môi: - Dì Trăng, không phải má Trăng. Là dì Trăng! Thằng tiểu yêu cười nhạt. Tiếng cười nhạt từ trên cao giội xuống giống như tiếng kêu của con cú mèo. Bọn trẻ run lên, đưa mắt tìm kiếm. Chúng trông thấy thằng tiểu yêu ngồi chồm hổm trên đỉnh núi giả, ánh trăng màu hồng chiếu lên nó, tất nhiên lên cả bộ quần áo màu hồng của nó. Nó như một vầng lửa. Dòng thác nhân tạo trên núi giả như một tấm lụa hồng uốn lượn không ngừng trong bể nước, đẹp vô cùng. Nước chảy róc rách, bắn lên từng chuỗi như hạt anh đào. Bọn trẻ không nhìn trăng nữa. Tất cả quay lại nhìn nó. Nó dằn giọng nói: - Các con, dỏng tai lên mà nghe ta nói đây! Cái của nợ giống như con ngựa hồng không phải má, không phải dì. Nó là một quả cầu, là một thiên thể chuyển động xung quanh chúng ta. Nó có tên là Nguyệt cầu! Bọn trẻ ngẩn người nhìn nó. Nó nhảy từ trên núi giả xuống, bộ quần áo màu đỏ phồng ra trong khi nhảy như đôi cánh quái dị. Nó chắp tay sau lưng, đi lại giữa đám trẻ, thi thoảng lấy tay áo lau miệng. Nó nhổ bọt lên phiến đá nhẵn thín dưới chân. Nó dừng lại, giơ cánh tay khẳng khiu như chân dê khua khua trên không, nghiêm giọng bảo: - Các con nghe đây! Chúng mày từ khi chào đời cho đến hôm nay chưa bao giờ là con người. Bố mẹ bay đã bán bọn bay như bán lợn, bán dê! Vì vậy, từ hôm nay trở đi, đứa nào kêu cha kêu mẹ là ta vụt cho một trận! Nó khua khua bàn tay khô không như chân chim, gào thét lạc cả giọng. Ánh trăng chiếu trên khuôn mặt xám ngoét của nó, đôi mắt lóe lên màu ngọc bích. Hai đứa bé trai nhệch miệng ra khóc. Nó quát: - Không được khóc! Nó lôi hai đứa khóc ra, thoi vào bụng liền mấy quả rất mạnh. Hai đứa bé ngã lăn, cuộn lại như quả bóng. - Đứa nào khóc là tao đánh! - Nó tuyên bố'. Bọn trẻ vón lại thành một cục, không đứa nào dám khóc nữa. Nó bảo: - Hãy đợi đấy! Ta sẽ tìm ra ánh sáng cho bọn bay. Nó sục sạo trong gian phòng quái dị, lưng dán vào tường đi lại như một con mèo. Đến gần cửa ra vào, nó dừng lại, ngẩng nhìn bốn sợi dây công tắc đèn treo một dãy. Nó giơ tay lên, đầu thấp nhất của dây đèn cách ngón tay giữa của nó khoáng một mét. Nó nhảy lên hai lần, tuy sức bật khếi nhưng khoảng cách đến dây công tắc vẫn còn nửa mét. Nó rời bức tường, lôi lại cây liễu giả, tạo hình bằng cách hàn những thanh thép lại với nhau. Nó trèo lên cây liễu giả, giật mạnh sợi dây công tắc, những bóng đèn trong phòng nổ lách tách. Đèn hê li, đèn nê ông, đèn tia cực tím, đèn xanh, đèn đỏ, đơn vàng, đèn trên tường, đèn trần, đèn trên núi giả, đèn trên cây sáng đồng loạt. Ánh đèn rực rỡ như thiên đường nơi hạ giới, như trong thần thoại. Bọn trẻ quên buồn, vỗ tay hoan hô ầm ĩ. Thằng tiểu yêu bĩu môi khinh khỉnh, thưởng thức kiệt tác do nó tạo ra. Sau đó, nó nhặt lên một xâu toàn là chuông đồng, lắc vang. Tiếng leng keng hấp dẫr. bọn trẻ. Nó nhét xâu chuông như được chê tác riêng cho nó vào túi, nhổ một bãi đòm, nói: - Các con có biết ánh sáng này từ đâu tới không? Không thể biết. Chúng mày đến từ những làng bản khỉ ho cò gáy, chó ăn đá gà ăn sỏi, tất nhiên không thể biết ánh sáng từ đâu tới. Ta cho các con hay: ánh sáng này là do điện đem tới. Bọn trẻ im lặng nghe nó diễn giải. Ánh trăng màu hồng đã rút khỏi căn phòng. Những cặp mắt nhỏ sáng lên. Hai đứa bị đánh nằm dưới đất cũng bò dậy. Nó hỏi: - Điện có tốt không? - Tốt - Bọn trẻ đồng thanh trả lời. - Ta có giỏi không? - Giỏi. - Bọn bay có nghe lời ta không? - Nghe. - Tốt Các con có cần bố không? - Cần… - Từ nay ta sẽ là bố của các con. Ta sẽ bảo vệ các con, ta sẽ dạy bảo các con, ta sẽ quản lý các con. Kẻ nào không nghe lời, ta sẽ đem ra bể nước dìm chết. Nghe rõ chưa? - Rõ rồi ạ! - Gọi bố đi, ba lần! - Bố, bô, bố! - Quì xuống lạy bố đi, ba lạy! Trong đám trẻ có một đứa thiểu năng rất nặng, không hiểu hết những lời của tiểu yêu, nhưng khả năng bắt chước đã giúp nó. Ba mươi mốt đứa con trai quì la liệt dưới đất, cười hỉ hả lạy thằng tiểu yêu. Nó vọt lên đỉnh núi giả, ngồi xếp bằng tròn nhận sự tôn vinh của bọn trẻ. Quì lạy xong, nó chọn ra bốn đứa mặt mũi sạch sẽ, tác phong nhanh nhẹn, chỉ định làm tiểu đội trưởng, chia ba mươi mốt đứa thành bốn ũểu đội. Biên chế xong, nó bảo: - Các con, từ nay các con là những chiến sĩ. Chiến sĩ là những trang hảo hán dám đâu tranh dám giành thắng lợi. Ta phải huấn luyện cho các con đấu tranh với bọn mưu toan ăn thịt các con! Tiểu đội trưởng Một tò mò hỏi: - Ai định ăn thịt chúng con hả bố? - Thằng khôn! - Tiểu yêu lắc chuông - Không được ngắt lời khi bố đang nói. Tiểu đội trưởng Một nói: - Bố, con sai rồi! Từ nay con không bao giờ ngắt lời bố nũa. Tiểu yêu nói: - Các đồng chí, các con! Bây giò ta nói kẻ nào định ăn thịt các con: Đó là bọn mắt đỏ, mỏ xanh, miệng đáy răng vàng! - Chúng là sói à? Là hổ à? - Một thằng béo mũm mĩm, má lúm đồng tiền hỏi. Tiểu đội trưởng Một tiến đến đánh thằng béo một bạt tai, dạy: - Lúc bố nói không được ngắt lời! Thằng béo cắn môi, nuốt tiếng khóc vào bụng. - Các đồng chí, các con! Chúng không phải sói nhưng dữ hơn sói. Chúng không phải hổ nhưng đáng sợ hơn hổ. - Vì sao chúng ăn thịt trẻ con? - Một bé trai hỏi. Thằng tiểu yêu nhíu mày, nói: - Bực quá! Không được xen ngang. Các tiểu đội trưởng, lôi nó ra bắt phạt đứng! Bốn tiểu đội trưởng lôi kẻ lắm mồm ra khỏi hàng. Nó giẫy khóc, như bị đem đi mổ thịt. Các tiểu đội trưởng vừa lơi tay là nó chạy như bay về hàng bằng cặp chân nhỏ xíu. Bốn tiểu đội trưởng lại lôi ra, thằng tiểu yêu nói: - Thôi, tha cho nó! Ta nhắc lại, khi bốnói chuyện, các con không được ngắt lời. Vì sao chúng ăn thịt trẻ? Lí do rất đơn giản: chúng đã ngán thịt bò, dê, heo, chó, la, thỏ, gà, vịt, bồ câu, lừa, lạc đà, ngựa, nhím, chim sẻ, yến, nhạn, ngỗng, mèo, chuột, chồn, sóc…Vì vậy, chúng ăn thịt trẻ con. Vì rằng thịt chúng ta ngon hơn thịt bò, tươi hơn thịt clê, thơm hơn thịt lợn, béo hơn thịt chó, mềm hơn thịt lừa, chắc hơn thịt thỏ, trơn hơn thịt gà, mềm hơn thịt vịt, đàng hoàng hơn thịt bồ câu, sinh động hơn thịt lừa, quí hiếm hơn thịt lạc đà, dẻo dai hơn thịt ngựa, lương thiện hơn thịt nhím, đứng đắn hơn thịt chim sẻ, thanh bạch hơn thịt yến, không ợ hơi như thịt nhạn, ít có mùi cám như thịt ngỗng, nghiêm túc hơn thịt mèo, bổ hơn thịt chuột, ít trái dạ hơn thịt chồn, bình dân hơn thịt nhím. Trên đời, thịt chúng ta ngon số một! Nó kể một thôi một hồi, mép sùi bọt, hình như thấm mệt. Tiểu đội trưởng Hai ngập ngừng, hỏi: - Bố, con nói một câu được không? - Nói đi. Vừa hay bố đã mệt. Bố muốn làm một chầu cơm đen, tiếc rằng không có - Thằng tiểu yêu vừa nói vừa ngáp. - Bố, họ ăn chúng con kiểu gì, ăn gỏi à? - Tiểu đội trưởng Hai hỏi. - Họ ăn nhiều kiểu, tỉ như rán, hấp, hầm, xé phay, nem, khô… nhiều cách lắm nhưng không ăn sống. Nhưng cũng không hẳn thế. Nghe nói có một quan lớn họ Thẩm ăn gỏi một thằng nhỏ. Ông ta ăn với dấm nhập khẩu từ Nhật Bản, chấm thịt sống mà ăn. Bọn trẻ rúm người lại, đứa yếu bóng vía khóc ti tỉ. Thằng tiểu yêu hăng hái bảo: - Các con, các đồng chí, vì vậy mà mọi người phải theo lệnh ta. Trong giờ phút nguy nan này, chúng ta phải lập tức trưởng thành. Trong một đêm phải trở thành anh hùng hảo hán đội trời đạp đất ở đời, không được khóc, không được rên rỉ. Muốn không bị ăn thịt, chúng ta phải đoàn kết thành một tập thể gang thép. Phải trở thành những con nhím, những con lợn rừng. Họ đã ngán lợn rừng, thịt chúng ta mềm hơn thịt lợn rừng. Ta sẽ biến thành những con nhím thép, lợn rừng thép, đâm nát mồm miệng môi lưỡi loài thú dữ ăn thịt người ấy. Cầu cho chúng chỉ có ăn mà không có ỉa! - Nhưng mà, nhưng mà những chiếc đèn… - Tiểu đội trưởng Bốn lắp bắp. Thằng tiểu yêu khoát tay, nói: - Con khỏi cần nói tiếp, ta hiểu ý con. Con muốn nói là, họ đã định ăn thịt thì còn đưa chúng ta vào nơi đẹp đẽ như thế này làm gì, đúng không? Tiểu đội trưởng Bốn gật đầu. - Được, ta sẽ cho các con hay - Tiểu yêu nói - Cách đây mười bốn năm, khi ta còn là một đứa trẻ, đã nghe kể về các quan chức ở thành phố Rượu ăn thịt trẻ con. Chuyện tỉ mỉ lắm, thần bí lắm, nghe phát kinh. Sau đó, mẹ ta liên tiếp đẻ rất nhiều em trai, nhưng đứa nào cũng khoảng lên hai là mất tích. Ta nghĩ, các em ta bị ăn thịt. Khi đó ta định tố cáo tội ác tày trời này nhưng không thành, vì ta bị vảy nến, một loại bệnh kỳ quặc, khắp người như vảy cá, đụng phải là chảy nước vàng, ai trông thấy cũng tởm không dám ăn thịt, nên ta không có cách nào lọt vào hang cọp. về sau, ta uống trộm chai rượu bên ngoài có vẽ con vượn của một nhà quan, vẩy nến trên người rụng từng đợt, và thân thể ta cũng theo đó mà teo dần lại như bây giò. Tuy ngoại hình ta như một trẻ nhỏ, nhưng tư tưởng ta thì mênh mông như biển. Bí mật ăn thịt người sắp bị đưa ra ánh sáng, ta là cứu tinh của các con! Bọn trẻ nghe tiểu yêu kể với một thái độ nghiêm túc. Tiểu yêu nói tiếp: - Vì sao phải bố trí một cái phòng đẹp như thế này để thả chúng ta vào? Đó là vì để cho chúng ta có một tâm trạng thoải mái. Tâm tình thoải mái thì thịt không chua không dai. Các con, các đồng chí, hãy nghe lệnh ta: đập nát các thứ trong phòng này! Tiểu yêu cạy một hòn đá trên núi giả, ném chiếc đèn màu hồng trên tường. Cú ném quá mạnh, hòn đá kéo theo một làn gió lạnh nhưng không trúng, đập vào tường bật trở lại suýt vỡ đầu một thằng nhỏ. Thằng tiểu yêu nhặt hòn đá lên, lại trượt. Nó nổi khùng, chửi thề rồi lại nhặt hòn đá lên, hết sức bình sinh ném tiếp, đ. mẹ mày! Lần này thì trúng. Chiếc đèn vỡ tan, những mảnh thuỷ tinh rơi lả tả, sợi tóc lóe lên một cái rồi tắt ngấm. Bọn trẻ đứng im như phỗng xem thằng tiểu yêu. - Đập đi. đập đi! Sao chúng mày không đập? Vài đứa ngoác miệng ngáp, nói: - Bố, buồn ngủ quá. Đi ngủ thôi… Thẳng tiểu yêu xông tới đấm đá mấy đứa buồn ngủ. Bị đánh, chúng khóc thét. Có đứa cả gan đánh lại, cào rách mặt thằng tiểu yêu. Nó hăng máu há miệng bập một phát, đứt nửa tai thằng kia. Lúc này, cửa mở toang. Một cô mặc bờ-lu trắng đẩy cửa chạy vào, tốn bao công sức mới gỡ được thằng tiểu yêu và thằng bị cắn đứt tai ra. Thằng bị đứt tai khóc ngất. Thằng tiểu yêu nhổ máu trong miệng, hai mắt tóe lửa xanh, lầm lì không nói gì. Mẩu tai nằm dưới đất, run rẩy. Cô áo bờ-lu nhìn mẩu tai dưới đất, lại nhìn mặt thằng tiểu yêu. Cô tái mặt, kinh hoảng thét lên một tiếng, đánh mông bỏ chạy, tiếng guốc cao gót nện rối loạn trong hành lang. Thằng tiểu yêu trèo lên cây liễu giả, đập sạch các ngọn đèn. Trong bóng tối, nó dằn giọng uy hiếp bọn trẻ: - Đứa nào lếu láo là tao cắn đứt tai! Sau đó, nó ra chỗ núi giả, vớt nước thác nhân tạo rửa sạch máu trên mặt. Có tiếng chân chạy bên ngoài cửa, hình như đông người. Thằng tiểu yêu nhặt hòn đá ném vỡ đèn lên, nấp sau cây liễu giả chờ đợi. Cánh cửa mở ra, một bóng trắng men theo tường nhà sờ dây công tắc đèn. Thằng tiểu yêu nhằm phần trên của cái bóng, ném tới. Cái bóng rú lên một tiếng, lảo đảo. Những người bên ngoài cửa bỏ chạy rầm rầm. Thằng tiểu yêu nhặt hòn đá lên, lại nhằm cái bóng trắng ném rất mạnh, bóng trắng gục xuống. Lát sau, bên ngoài cửa loang loáng ánh đèn, mấy người cầm đèn pin xông vào. Thằng tiểu yêu lẩn vào xó nhà nằm xuống, nhắm mắt giả vờ ngủ. Đèn bật sáng. Mười tám người cao to lực lưỡng, trước hết khênh cô áo trắng bị thương nặng do ném vỡ đầu đi cấp cứu. Thằng nhỏ ngất xỉu vì bị cắn đứt tai cũng được khênh đi cùng với mẩu tai. Sau đó, họ truy tìm hung thủ. Thằng tiểu yêu nằm ngáy pho pho trong xó nhà. Một vị áo trắng xách cổ nó lên, nó còn quẫy đạp, miệng ú ở, rên rỉ như chú mèo con. Công việc truy tìm rất không thuận lợi. Lũ trẻ vất vả cả ngày, vừa đói vừa mệt, lại còn bị tiểu yêu hành lên hành xuống, ngủ vật ngủ vạ, nửa tỉnh nửa mơ, đành kết thúc trong tiếng ngáy của lũ trẻ. Các vị áo trắng tắt đèn, khoá cửa bỏ đi, thằng tiểu yêu đắc chí mỉm cười trong bóng tối. Sáng sớm hôm sau, mặt trời chưa mọc, trong phòng tối mò. Thằng tiểu yêu bò dậy lôi chuông ra lắc. Tiếng chuông dồn dập đánh thức bọn trẻ. Chúng ngồi xổm đái trên nền nhà, đái xong lại lơ mơ ngủ tiếp. Thằng tiểu yêu nổi cáu. Mặt trời lên, trong phòng một màu hồng, hầu hết bọn trẻ đã dậy, ngồi phệt trên mặt đất, khóc ti tỉ. Chúng đói. Chuyện đêm qua không lưu lại bao nhiêu trong đầu chúng. Quyền uy mà thằng tiểu yêu cố công áp đặt cũng gần như tan biến, vẻ bất lực hiện rõ trên khuôn mặt, nó tỏ ra ngán ngẩm. Để khỏi phạm sai lầm, với tư cách là người kể chuyện, tôi giữ thái độ khách quan, cố tránh miêu tả hoạt động tâm lý của thằng tiểu yêu và bọn trẻ. Tôi chỉ thuật lại hành động và lời lẽ. Còn như động cơ của hành động và ẩn ý của lời thoại thì độc giả tự tìm hiểu. Tôi khó khăn vô cùng khi kể chuyện, vì thằng tiểu yêu tìm đủ mọi cách phá thối, nó quả là một đứa không tốt. “Kỳ thực, chuyện của tôi sắp kết thúc!” Bữa sáng rất thịnh soạn, có màn thầu bột mì trắng, sữa bò, bánh bao, mứt hoa quả, dừa hộp, còn có cả canh trứng. Ông già đưa cơm rất có tinh thần trách nhiệm, chia các suất ăn bằng nhau vào đĩa hoặc bát, đưa tận tay từng đứa. Tiểu yêu cũng được một suất. Nó cụp mắt cúi đầu không dám trêu ông già, nhưng ông nhìn nó hai lần bằng ánh mắt khác thường. Sau khi ông già đưa cơm đi khỏi, thằng tiểu yêu ngẩng lên, mắt gườm gườm: - Các đồng chí, các con! Dứt khoát đừng có ăn! Chúng vỗ béo chúng ta rồi mới thịt đấy! Hãy tuyệt thực, hỡi các con! Đứa nào gầy sẽ chết muộn, thậm chí thoát chết! Bọn trẻ không quan tâm những lời xách động của thằng tiểu yêu, hoặc có thể chúng không hiểu hết ý nghĩa, trông thấy cái ăn, ngửi thấy mùi thơm là chúng bất chấp, ăn ngấu nghiến như tằm ăn rỗi. Thằng tiểu yêu định dùng vũ lực ngăn chặn hành động ngu xuẩn của bọn trẻ thì một người đàn ông to con bước vào phòng. Nó nhìn trộm đôi chân của người này, rồi bê cốc sữa lên húp đánh “soạt”! Nó cảm thấy người đàn ông đang nhìn nó từ trên cao xuống, bèn ra sức mà húp sữa, tọng màn thầu vào miệng. Nó cố ý bôi bẩn tay và mặt, lại còn giặn ra những tiếng lọc sọc trong cuống họng. Nó nguỵ trang một thằng đần chỉ biết đớp. Nó nghe thấy người đàn ông nói: - Đồ lợn! Cặp chân như hai chiếc cột đá di chuyển đi chỗ khác, thằng tiểu yêu ngẩng lên nhìn theo lưng người đàn ông. Nó trông thấy cái đầu nhọn như quả dưa, vài lọn tóc vàng loăn xoăn lòi ra ngoài mũ. Khi ông ta ngoảnh lại, nó trông thấy khuôn mặt đỏ lựng, cái mũi dài bóng nhẫy, y như bôi mỡ lên một khối tam giác. Ông ta nở nụ cười trơn tuột: - Các cháu ăn no chưa? Đa số trả lời đã no, cũng có đứa bảo chưa no. Người đàn ông to con nói: - Các cháu thân mến, mỗi bữa không nên ăn nhiều kẻo khó tiêu. Giờ ta du hí một lát, đồng ý không? Bọn trẻ chóp chớp mắt, không trả lời. Người đàn ông vỗ trán kêu mình lẩm cẩm, quên bẵng chúng là trẻ con, không hiểu “du hí” nghĩa là gì! Nào, ta chơi trò “diều hâu bắt gà” nào! Lũ trẻ đồng thanh reo lên, theo người đàn ông ra sân. Thằng tiểu yêu bất đắc dĩ phải ra theo, nó là đứa ra sau cùng. Trò chơi bắt đầu. Người đàn ông mũi dài chọn thằng tiểu yêu làm gà mẹ - có lẽ do bộ quần áo màu đỏ của nó gây chú ý - sau lưng nó là một dây trẻ con. Người đàn ông mũi dài làm diều háu. Ông ta dang hai tay như đôi cánh chim diều, trợn mắt nhe răng, miệng kêu kéc kéc. Con diều vỗ cánh bay lượn trên không, cái mỏ khoằm, chóp mũi gần chấm môi trên mỏng dính, đôi mắt phóng ra những tia dữ tợn. Đúng là loài ăn thịt hung dữ! Bóng đen của nó lướt trên đầu bọn trẻ. Thằng tiểu yèu nhìn không chớp cặp vuốt sắc nhọn của con diều. Con diều lúc lướt trên đám cỏ xanh, lúc cất mình bay lên, ung dung chơi đùa với bọn trẻ, đợi thòi cơ. Loài chim ăn thịt rất kiên nhẫn. Kẻ tấn công ở vào thê chủ động. Kẻ phòng thủ căng thẳng cao độ, không dám lơi lỏng một giây. Diều hâu triển khai một thê tấn công như chớp. Thằng tiểu yêu hăng hái quay lại cuối hàng, dùng đầu, dùng răng, dùng tay cứu một thằng nhỏ thoát tay diều hâu. Bọn trẻ hét inh ỏi, vừa phấn kích vừa sợ, tránh né con diều. Thằng tiểu yêu nhanh nhẹn chặn đứng đường di chuyển của con diều, ánh mắt nó còn dữ dằn hơn ánh mắt con diều. Con diều bất giác sững sờ không hiểu nổi. Một đợt tấn công lại đã bắt đầu. Tiểu yêu vọt lên bứt khỏi đoàn rồng rắn phía sau. Động tác nhanh nhẹn, chính xác, hoàn toàn không phải của một đứa trẻ. Diều hâu chưa kịp phản ứng, tiểu yêu đã bay lên gáy ông ta. Ông ta cảm thấy khiếp hãi thật sự, có cảm giác như bị một con nhện đen khổng lồ hoặc một con dơi có màng chân hút máu người, bám chặt. Ông ta hất mạnh đầu nhưng chỉ phí công vô ích, thằng tiểu yêu không bị văng đi. Những móng tay nhọn hoắt của tiểu yêu đã cắm sâu vào mắt, cái đau khủng khiếp khiến ông ta mất khả năng chống trả. Ông ta gào rú, ngã lăn ra như một cây gẫy. Thằng tiểu yêu rời khỏi người đàn ông, trên môi nở một nụ cười vừa gian giảo vừa độc ác. Nó đi đến trước mặt lũ trẻ, nói: - Các con, các đồng chí, ta đã móc mắt diều hâu ra rồi, hắn không nhìn thấy chúng ta nữa. Các con, chơi trò rồng rắn đi! Diều hâu bị móc mắt lăn lộn trên mặt đất, thân thể ông ta lúc ưỡn cong như cánh cung, lúc gấp khúc như rồng lộn. Hai tay bưng mặt, máu đen rỉ từng giọt qua kẽ ngón tay, trông như những con giun bò trên mặt. Ông ta gào khóc, tiếng khóc nghe rộn tóc gáy. Bọn trẻ theo thói quen, vón lại thành một cục. Tiểu yêu cảnh giác nhìn xung quanh: trong sân không một bóng người, vài con bướm trắng chập chờn trên ngọn cỏ. Phía bên kia tường một ống khói đang nhả khói cuồn cuộn, một mùi thơm sực nức xộc vào mũi tiểu yêu. Trong khung cảnh này, tiếng khóc của người đàn ông càng thảm thiết, càng ầm ĩ. Thằng tiểu yêu sốt ruột lượn một vòng rồi chồm lên lưng người đàn ông, những móng tay sắc nhọn bấu mạnh họng ông ta. Nét mặt nó dễ sợ, khó có thể hình dung bằng bút mực. Không còn nghi nhờ gì nữa, mười ngón tay đã cắm sâu vào cái cổ béo múp. Khi cắm sâu vào cổ người, tiểu yêu có cảm giác sục tay trong cát bỏng hay trong dầu mỡ trơn tuột? Chúng tôi không hỏi cũng biết. Nó cảm nhận được niềm vui của sự phục thù? Điều này không hỏi cũng biết. Chư vị độc giả bao giờ cũng thông minh hơn tác giả, người kể chuyện tin chắc như vậy. Khi nó bỏ tay ra, tiếng kêu của diều hâu đã rất yếu, từng chuỗi những bọt máu trên cổ phun lấm tấm, chẳng khác miệng con của đang chơi trò phun nước bọt. Thằng tiểu yêu giơ những ngón tav đẫm máu lên, giọng thản nhiên: - Diều hâu sắp chết rồi! Những đứa bạo dạn xúm lại, những đứa nhút nhát cũng lần lượt vây quanh. Chúng nhìn thi thể của diều hâu sắp chết. Nó co quắp, quằn quại, phạm vi ngày càng thu nhỏ, động tác ngày càng chậm chạp. Diều hâu chợt há miệng như định cất tiếng kêu. Không kêu nhưng vọt ra một bụm máu. Máu bắn xuống cỏ, phát ra những tiếng lụp bụp. Máu bám trên cỏ, lá cỏ úa đi vì sức nóng. Thằng tiểu yêu bốc nắm đất nhét vào cái miệng há rộng, cổ họng của diều hâu chợt có tiếng ọc ọc, máu và đất vọt ra ngoài. Tiểu yêu ra lệnh: - Các con, bịt miệng nó lại, để nó không còn ăn thịt được chúng ta! Bọn trẻ tích cực hưởng ứng, mấy chục đôi tay cùng hoạt động, nhét đất, cỏ khô, cát sỏi đầy miệng và mắt mũi diều hâu. Chúng càng nhét càng hăng hái, tinh thần càng phấn khởi, trò chơi càng hấp dẫn, đầu diều hâu đã được bọc kín bằng đất. Hoạt động của chúng luôn diễn ra trong cuộc sống thường nhật, khi thì cùng nhau đánh nhừ tử một con cóc khốn khổ, một con rắn chạy qua đường, một con mèo bị thương. Đánh chán, chúng xúm quanh thưởng thức. - Chết rồi hả? Phía dưới diều hâu có tiếng bủm. - Chưa chết, còn đánh rắm, nhét nữa! Lại một trận mưa đất, gần như đem chôn, trên thực tế diều hâu đã được vùi trong đất. Người phụ trách Trạm thu mua đặc sản thuộc Học viện Nấu nướng nghe thấy tiếng gào khóc rộ lên từng đợt trong sân chăn nuôi trẻ thịt vọng lại, bà ta thấy nhói ở gáy và bàng quang. Linh cảm về một tai hoạ như một con trùng bò vào trái tim bà. Bà đứng dậy đến bên máy điện thoại, tay phải vừa chạm ống nghe, đã cảm thấy một dòng điện cực mạnh phóng theo đầu ngón tay làm tê liệt ngay lập tức nửa người. Bà lê nửa người còn lại ngồi xuống bên bàn làm việc, cảm thấy thân thể chia làm hai, một nửa lạnh ngắt, một nửa nóng rực. Bà vội mở ngăn kéo lấy gương soi mặt: nửa mặt tím tái, nửa kia nhợt nhạt. Bà cuống lên, vội trở lại bên bàn điện thoại, vừa thò tay ra đã vội rụt lại nhanh như chớp. Bà ta ngã lăn, một đạo linh quang từ đầu bà chiếu một vệt, soi rõ một cây cổ thụ bị sét đánh, nửa cây cành lá sum suê, quả trĩu cành; nửa kia cành khô lá héo, ánh lên màu sắc kỳ dị trong nắng. Bà chợt ngộ ra rằng, cây đó chính là bà. Vậy là trong lòng trào lên một tình cảm dịu dàng, những giọt nước mắt hạnh phúc chảy tràn khuôn mặt. Bà như mê như say ngắm nửa thân cây bị sét đánh cháy khô, nhìn không một chút thiện cảm nửa cây xanh tưđi trĩu quả. Bà kêu gọi thần sét hãy đánh nốt nửa cây tươi tốt, để hai nửa hợp thành một chỉnh thể huy hoàng. Vậy là bà giơ tay trái cầm ông nghe, vậy là toàn thân bà nóng như lửa. Bà như trẻ ra mười tuổi. Bà chạy ra sân, bà chạy đến vạt cỏ chỗ nhà chăn nuôi trẻ thịt, nhìn thấy diều hâu đã chết, bà bật cười ha hả, xoa tay bảo: - Các cháu giết hắn hả? Giỏi quá! Bỏ chạy mau! Mau chạy khỏi cái ổ ăn thịt người này! Bà dẫn bọn trẻ chạy xuyên từng lớp cổng sắt, len lỏi trong khuôn viên Học viện Nấu nướng như một mê cung. Nhưng bà không thành công. Ngoại trừ thằng tiểu yêu, những đứa trẻ đều bị bắt trở lại, bà bị cách chức. Chư vị độc giả, vì sao tôi lãng phí biết bao giấy mực để nói về bà? Vì rằng chính bà là mẹ vợ tôi, cũng có nghĩa bà là phu nhân giáo sư Học viện Nấu nướng Viên Song Ngư. Mọi người bảo bà bị bệnh tâm thần. Tôi cũng cho là như thế. Giờ đây ngày nào bà cũng viết đơn tố cáo, viết liên tục, gửi đi liên tục, có đơn gửi Chủ tịch Trung ương, có đơn gửi Bí thư Tỉnh uỷ, còn có một đơn gửi Bao Hắc Tử (Bao Công) ở phủ Khai Phong - Hà Nam! Không phải tâm thần thì là gì? Cứ đà này thì, riêng tiền mua tem cũng đủ nghèo! Hai hoa cùng nở thì phải xử lí từng đoá một. Một lũ áo bờ-lu trắng vây bắt bọn trẻ chạy trốn đem về phòng chăn nuôi đặc biệt. Bắt bọn này cực kỳ vất vả. Những thằng lỏi con đó sau khi làm lễ rửa tội bằng cuộc chiến đấu tiêu diệt diều hâu, đứa nào đứa ấy trở nên dã man và gian giảo. Chúng rúc trong bụi, ẩn dưới chân tường đổ, nấp trên ngọn cây, nhảy xuống hố cỏ mao, trốn ở những nơi có thể trốn. Kỳ thực, sau khi mẹ vợ tôi mở cánh cổng sắt trong sân phòng chăn nuôi đặc biệt, lũ trẻ đã tỏ ra hung dữ rồi. Bà cảm thấy mình dẫn lũ trẻ chạy trốn khỏi sào huyệt của bọn ma quỷ - Chẳng qua chỉ là ảo giác - Thực ra chỉ có cái bóng của bà chạy theo bà. Khi bà đứng ở cổng sau thông ra phố của Học viện lớn tiếng khích lệ bọn trẻ bỏ chạy cho mau, nghe thấy tiếng bà chỉ có các ông bà già đứng chực ở cống ngầm thông ra con sông nhỏ, lượm thức ăn thừa đổ đi của Học viện Nấu nướng. Họ ẩn mình trong những bụi cỏ nước rậm kinh người, mẹ vợ tôi không nhìn thấy. Vậy một người có quyền có chức như bà vì sao mắc bệnh tâm thần? Hay là bà bị điện giật? Khi phát hiện bọn trẻ chạy trốn, Học viện triệu tập cuộc họp cấp tốc bộ phận bảo vệ, bàn bạc cách đốỉ phó, tỉ như đóng ngay cả bốn cổng của Học viện, sau đó thành lập phân đội tinh nhuệ đi lùng sục. Trong quá trình truy bắt, có mười đội viên bị bọn trẻ thịt hung dữ cắn chảy máu, một đội viên nữ bị móc mù một mắt. Lãnh đạo Học viện tổ chức thăm viếng những người bị thương, rồi căn cứ vào thương tật nặng nhẹ mà khen thưởng bằng tiền. Họ nhốt bọn trẻ tiong một gian phòng chắc chắn, khi điểm danh, phát hiện thiếu một đứa. Theo lời cô áo trắng đã hoàn hồn sau khi được chữa trị, thằng trốn thoát chính là hung thủ đánh cô bị thương. Hơn nữa, sát hại diều hâu cũng chính nó. Cô còn nhó nó mặc bộ quần áo màu đỏ, cặp mắt nham hiểm như mắt rắn. Vài hôm sau, một công nhân của trường trong khi thông công ngầm, phát hiện bộ quần áo màu đỏ. Thằng tiểu yêu, tên hung thủ giết người, tên thủ lĩnh bọn trẻ thịt, biến mất! Chư vị độc giả có muốn biết tình hình thằng tiểu yêu ra sao không? 4 Thân gửi huynh anh: Tiến sĩ rượu Một Gáo, Đã nhận được thư của huynh, tác phẩm lớn “Thần đồng” đã đọc, tôi mất ngủ mấy đêm liền, rụng rời tay chân về cái thằng tiểu yêu mặc quần áo đỏ. Tiểu thuyết của huynh ngôn ngữ già dặn, ý tưởng dồi dào, tầng nào lớp ấy không đơn điệu, khiến kẻ hèn này hổ thẹn, tự cảm thấy không bằng. Nếu như cứ nhất thiết phải góp ý thì cũng chỉ nêu quấy quá dẫm câu, tỉ như thằng tiểu yêu trong truyện không rõ lai lịch, không phù hợp với nguyên tắc hiện thực chủ nghĩa, văn chương kết cấu rời rạc, tính ngẫu hứng quá mạnh… chẳng có gì đáng gọi là góp. Đứng trước “Chủ nghĩa hiện thực yêu tinh” của huynh, quả thực tôi không dám bình luận. “Thần đồng” đã gửi cho “Quốc dân văn học”. Đây là một tạp chí lớn, bản thảo nhiều vô cùng, chất cao như núi, hai truyện trước của huynh vẫn chưa có hồi âm là chuyện hoàn toàn bình thường. Tôi đã viết một thư cho hai biên tập viên nổi tiếng là Châu Bảo và Lý Tiểu Báu kiểm tra giúp, Bảo và Báu đều là bạn của tôi, tin rằng họ sẽ giúp huynh. Trong thư, huynh có những lời bàn về rượu, lời lời châu ngọc, trang trọng hài hoà, có đầu có đuôi, sâu xa khái quát, quả là một Tiến sĩ Rượu, xin bái phục. Rất mong huynh bàn về rượu nhiều hơn, tôi rất thích nghe. Chi tiết đái vào ang khi ủ “Rượu cao lương” được huynh cho là một phát minh khoa học khiến tôi cười dở mếu dở. Tôi không có kiến thức về hoá, càng không biết công nghệ lên men. Khi viết chi tiết này, tôi đơn thuần là chỉ định trêu chọc, thọc lét mấy ông “mĩ thuật gia” mắt đỏ lên vì rượu, không dè huynh lại có thể dùng lí luận khoa học để luận chứng tính hợp lý và cao cả của chi tiết đó. Ngoài chuyện khâm phục, tôi còn phải cảm ơn huynh. Vậy mới có câu “Trong nghề rẽ lối mà đi, ngoài nghề đứng xa mà ngó”, vậy mới là “Có ý trồng hoa hoa chẳng nở, vô tâm trồng liễu liễu xanh um!” Nhắc đến rượu “Thập bát lý hồng”, còn có một vụ kiện cũng không nhỏ. Phim, “Cao lương đỏ” sau khi được trao giải ở Tây Beclin, ông xưởng trưởng xưởng rượu ở quê tôi chạy đến gian nhà kho (trại viết văn của tôi) tìm tôi, nói là sẽ sản xuất thử “Thập bát lý hồng”, sau vì thiếu kinh phí, không thực hiện được. Một năm sau, lãnh đạo tỉnh về thị sát huyện, đòi uống “Thập bát lý hồng”, khiến huyện vô cùng lúng túng. Lãnh đạo tỉnh về rồi, tài chính huyện rót tiền thành lập tổ sản xuất thử “Thập bát lý hồng”. Tôi cho rằng, cái gọi là sản xuất thử, chẳng qua là trộn mấy loại rượu với nhau, thiết kế một kiểu bình mới, dán nhãn lên, coi là thành công. Họ có cho nước tiểu trẻ em vào hay không thì tôi không rõ. Đúng lúc xưởng rượu trống rong cờ mở đưa “Thạo bát lí hồng” lên huyện báo hỉ, thì “Đại chúng điện ảnh” đưa tin Xí nghiệp rượu “Thập bát lý hồng” huyện Thượng Sái tỉnh Hà Nam tổ chức họp báo ở Thâm Quyến và chiêu đãi giới điện ảnh. Tại cuộc họp báo, họ tuyên bố “Thập bát lý hồng” của xí nghiệp chính là “Thập bát lý hồng” trong phim “Cao lương đỏ”, trên bình rượu của họ có ghi đại ý: Đới Cửu Nhi, nhân vật chính trong phim “Cao lương đỏ” quê gốc huyện Thượng Sái tỉnh Hà Nam, sau cùng cha lưu lạc đến làng Đông Bắc Cao Mật tỉnh Sơn Đông, phối liệu của rượu “Thập bát lý hồng” là đem từ Thượng Sái Hà Nam đến. Bởi vậy, Thượng Sái Hà Nam mới là quê hương đích thực của “Thập bát lý hồng”. Lãnh đạo xưởng rượu quê tôi đọc tin trên, chửi Thượng Sái Hà Nam là quân bịp bợm, và sai người đem “Thập bát lý hồng” chính hiệu lên Bắc Kinh gặp tôi, đề nghị tôi với tư cách là nguyên tác giả trả lại cái tên “Thập bát lý hồng” cho Cao Mật. Nhưng Thượng Sái thông minh hơn, sớm đã đăng ký bản quyền tại Cục Công thương Quốc gia, luật pháp không thiên vị ai, rượu “Thập bát lý hồng” sản xuất tại Cao Mật là phi pháp. Dân Cao Mật nhờ tôi đi kiện, tôi nói đây là vụ kiện không đầu mối, Đới Cửu Nhi là nhân vật hư cấu trong tiểu thuyết, sao bằng bà ngoại tôi nhận bừa bà quê gốc ở Hà Nam cũng chẳng vi phạm hình luật, vụ này không kiên thì Cao Mật cũng thua. Người Cao Mật đành ngậm bồ hòn làm ngọt, về sau nghe nói người Thượng Sái Hà Nam đưa “Thập bát lý hồng” ra thị trường quốc tế, kiếm bộn ngoại tệ. Tôi mong chuyện ấy có thật. Văn học và rượu thông qua phương thức này liên kết với nhau. Đây lại là nhất tuyệt! Tôi có đọc “luật bản quyền” công bố gần đây, đang định bàn với đạo diễn Trương Nghệ Mưu đi Thượng Sái đòi mấy đồng tiêu chơi. Huynh có nhắc tới một lô rượu các loại, đều là danh tửu nhưng tôi không có nhu cầu. Tư liệu về rượu thì tôi lại rất cần, mong huynh lựa ra một số thật cần thiết gửi trước cho tôi, cước bưu điện tôi chịu. Có gặp Lý Diễm nói hộ tôi gửi lời thăm cô ấy. Chúc mọi sự tốt lành! Mạc Ngôn