Tiếp Theo

235.- Dạy rằng: "Đình, tạ, hồ, ao,

"Giặc, bình hai vẻ thanh-tao một làn".
Chơi-vơi, Nguyệt cũng đua đàn:
"Cảnh thanh đã vậy, người càn mới dơ!
"Lấy cờ hôm nọ vâng ra,
240.- "Vẩn-vơ còn thấy nghỉ qua bên lầu.
"Lưng trời nói những đâu đâu,
"Những tơ nào thắm những "cầu nào xanh.
"Những lăm chắp cánh liền cành,
"Đã mềm tóc uốn, lại quanh tơ vò.
245.- "Cậy quanh mãi mãi buồn no,
"Khéo dơ thay những chuyện-trò khúc nôi,
"Luống còn mỏi mệt đòi thôi,
"Khéo đâu nước chảy hoa trôi hững-hờ".
Lặng tai những tiếng đong-đưa,
250.- Nhủ rằng: "Người thế săm-sưa đã đầy,
"Tự ta đóng nguyệt cài mây,
""Buồng thơm chớ lọt mảy-may gió tà.
"Buông rèm ngăn cách bóng hoa,
"Tường đông bướm lại ong qua mặc lòng".
255.- Mấy lời để tạc "năm trong,
Hương-khuê nào biết văn-phòng khát khao.
Từ nghe khách lại "cung sao,
"Bụi hồng dứt nẻo chiêm-bao đi về.
Thẩn-thơ mây sớm đèn khuya,
260.- Trà gây giọng khát, hương "khê mùi sầu.
Dò-la Dương-tướng dinh đâu,
Tụ-hiên phường ấy cửa hầu thâm-nghiêm.
Lầu canh chiêng lặng, điêu chìm,
Tịt mù tăm cá, bóng chim mấy trùng.
265.- Liền tường bỗng thấy một thung,
Rêu sân lấm-tấm, then song lỏng cài.
Sai đồng đến hỏi vườn ai,
Mới hay viễn-khách nhà ngoài để không.
Nhởn-nhơ hoa nở khói lồng,
270.- Non Vu đành có nẻo thông từ rày.
Dương-đài đành sẵn mưa mây,
Mà xem chúa Sở vui-vầy giấc tiên.
Số thu ngân-lạng kể nghìn,
"Dốc trang chuốc lấy danh-viên cho gần.
275.- Sửa làm một chốn phòng văn,
Viện hoa bắc mở, đình xuân nam bày.
Thái-hà lấp-lánh đông tây,
Sớm đình hương, tối đình mây sẵn-sàng.
Hàng khúc-hạm, dãy hồi-lan,
280.- Cài hiên tỏa lá, rợp đường tản cây.
Một tay nhìn đặt ngoắm xoay,
Nơi chồng cặp sách, nơi bày cuốn thơ.
Nơi cầm, nơi rượu, nơi cờ,
Sẵn đình tả nhớ, khuây chờ đủ nơi.
285.- Đào mềm lần đổi dương tươi,
"Cưu-hoàn chưa vẹn, oanh dời đã sang.
Dập-dìu mới rủ Diêu-lang,
Cậy bề cậu cháu, định đường thông lân.
Rước mừng tự-lễ chủ-tân,
290.- Đầu đuôi sinh đã vân vân rén chiềng ;
"Chút trong buổi mới láng-giềng,
"Gần soi may được nhờ riêng "bóng thừa"
Dương-công rằng: "Sự tình cờ,
"Cùng trong thanh khí, những ngờ là ai;
295.- "Nguyên xưa chú với "tôn-đài,
"một rèm một án, dồi-mài mấy thu,
"Từ khoa tân-mão phân-đồ,
"Kẻ mừng gặp bước, người lo trở nghề.
""Cửa Ngô cung-kiếm giữ lề,
300.- "Trạng đầu may cũng cắm về cửa viên.
""Bể quan khơi vượt cánh thuyền,
""Thổi đưa ra cũng sức trên trao dùng.
"Được rày công-tử biết cùng,
"Đã trong "khế-nghị lại trong "lân-tình".
305.- Bôi bàn rộn-rịp trù-dinh,
Tiệc vầy rước tận sau đình Vọng ba.
Dạo theo quanh-quất mấy tòa,
Dủ dòng tơ liễu thướt-tha phất đầu,
Ngửng lên vách phấn thơ đâu?
310-"Keng vàng chữ chữ, rắc châu hàng hàng,
Tiên hoa dấu thoảng còn nhang,
Vịnh bài trì-liễu rõ-rằng bốn câu
Nhìn xem nhận suốt gót đầu,
Ông vừa liếc lại đến sau rỉ lời:
315.- "Trẻ nhà võ vẽ đề chơi,
"Vụng-về chả bõ "dậy cười làng thơ.
""Giai chương ước được mảnh tờ.
"Hoa tươi thêm vẻ là nhờ bút tươi".
Dối quanh sinh hãy chọn lời,
320.- Thị-tỳ ông đã dục đòi truyền qua:
"Nẻo quanh viện sách còn xa,
"Buồng riêng sẵn giấy lấy và trương đây".
Trên đình nghiên-bút đủ bày,
"Hầu đề sinh lại dừng tay nghĩ thầm:
325.- "Nổi-nênh chút nỗi tình thâm,
""Lá ngô man-mác "doành nhâm dập-dềnh.
""Bạch,Tô sẵn mối duyên lành,
"Mượn câu cảnh, ngụ câu tình họa may".
Ngón dao gió táp mưa bay,
330.- Tựa thơ vịnh liễu lại bày một thiên.
Đệ trình ông những ban khen:
"Giá này lầu hạc đình liên cũng nhường.
""Phong tình hết tấc yêu-đương,
"Lại truyền đem dán ngang tường một bên".
335.- Còn thừa hai mảnh hoa-tiên,
Chắt-chiu Sinh đã giấu liền biết đâu.
Hầu vui chén hãy kèo mau,
Tạ từ thôi mới giã nhau về nhà.
Đầy thềm vằng-vặc gương nga,
340.- Bóng cành vẽ vách, mùi hoa đan rèm.
Câu lam từ tỏ lối tìm,
Nhẫn nay chừng đã đầu thềm nửa "sương.
Rằng: "Chừng một đoạn "sông Tương,
"Người xa luống những mơ-màng lòng xa.
345.- "Bấy lâu đeo-đẳng vì hoa,
"Nào hiên lãm-thúy ắt là đâu đây.
"Thơ kia có thấu mà hay,
"Lại trăng kia với khách này tỏ nhau.
"Tiên-huê còn đó chớ đâu,
350.- "Phấn bình nhường thấu, hương lầu nhường bay.
"Mở phong chẳng nỡ rời tay,
"Người xa gần chút báu này cũng duyên.
"Người tiên tên đã đáng Tiên,
"Gặp tiên bỗng khuất vân-thiên mấy trùng".
355.- Trước hiên nương bóng tà song,
Cảo thơ biếng giở, túi đồng để suông.
"Giấc hồ nửa gối mơ-màng,
Chiền đâu đã lọt tiếng chuông mái tường.
Trời mai gợn trắng, tuôn vàng,
360.- Gió đâu sớm đã quấn nhang trước đình.
Tiên thơ trên vách rành rành,
Nhìn chơi nàng đã ghi tình bốn câu.
Vân Hương trình hỏi thơ đâu?
Dạy rằng: "Buổi trước con hầu nói qua:
365.- "Khách đâu "bên giậu chơi nhà,
"Mệnh-đề truyền lấy tiên-hoa vội-vàng.
"Này xem "dòng khoản ghi tường,
"Ngỡ là ai, lại là chàng Lương-sinh.
"Trong thơ buộc-bện lời tình,
370.- "Mượn cây quyến quả mượn cành rủ huê.
"Tưởng đâu ngày một đê-mê,
"Biết bao mưu-chước đi về đây chi?"
Sổng mồm chiều Nguyệt mới kỳ,
Bước lên trình: "Ngẫm duyên gì chẳng sai.
375.- "Song song một vách đôi bài,
""Giai-nhân tài-tử sánh vai khéo là".
Quở rằng: "Ai nhủ ngươi mà?
"Đặt bày "phong-nguyệt, dèm pha "cương-thường,
"Mây quang leo-lẻo lòng gương,
380.- "Dễ soi đỉnh giáp doành tương sau này.
"Người đà "hoa-nguyệt chi đây,
"Ngán thay cho khách những say-sưa tình"!
Rước Diêu lại đến thư-phòng,
Lễ thường hồi-bái mừng ông sang nhà.
385.- Khiến xui thực đã ưa là,
Vườn vừa dọn chỉnh, khách đà sang chơi.
Đình Hương dìu-dặt chén mời,
Những say vì nghĩa, những vui vì tình.
Chề-chà ông mới hỏi sinh:
390.- "Bấy lâu tên đã lọt "bình đâu chưa?"
Dứt lời khúm núm trình thưa:
"Nợ thường chưa trả, duyên tơ còn dành".
Khéo thay lời nói hữu tình,
Sàng đông rày mới là đành có nơi.
395.- "Rằng: "Ta buổi trẻ theo đòi,
"Mênh-mông bể thánh nào vơi phần nào.
"Sông Thù luống những khát khao,
"Rắp đem hàn-mặc buộc vào biền-mâu.
"May thay giải-cấu duyên đâu!
400.- Mượn tay vườn hãn mở lầu rừng nho.
"Đi về giảng sớm bàn trưa,
"Quyển vàng họa được giải cho ít nhiều".
Thưa rằng: "Chút phận bọt bèo,
"Hậu-sinh đã dám chơi trèo sao nên!
405.- "Gẫm mình võ vẽ bút-nghiên,
"Biết đâu kinh thánh truyện hiền là đâu?
"Vả nơi rốn bể cửa hầu,
"Ra vào vì chút thẳm sâu ngại-ngùng".
Thuận lời vui chén thung-dung,
410.- Rằng: "Trong khế-nghị là trong một nhà.
"Đã gần chi có điều xa,
"Nhà ta coi vậy, lòng ta lệ gì?
"Tiện đây giáp vách liền vi,
"Cửa lầu mở khép dầu khi đi về.
415.- "Rồi ra đôi khóa đôi bề,
"Đành ngăn khép đó, lọ nề-nập chi".
Vội mừng sợ lại sinh-nghi,
Mặt nam sẵn thợ, tức thì mở ngay.
Thiên-thai đành tỏ lối này,
420.- Tiện đường Dương-tướng dở say lại nhà.

Chú thích:

    Giặc, bình:hai tên vườn của vua Hán Vũ-đế làm tại Côn-minh-trì là Giặc-đường và bình-tuyền.
    tơ nào thắm
    :Tơ thắm:chuyện kết duyên đôi lứa vợ chồng.
    cầu nào xanh
    :Cầu xanh: tức là chữ Lam-kiều. Đây dùng tích Bùi hàng đời Đường gặp tiên-nữ Vân anh cho nước trà uống. Sau cưới nàng bằng cái cối chày ngọc. Về sau vợ chồng đều thành tiên.
    Buồng thơm
    :phòng con-gái ở thường xông hương thơm, chữ gọi là hương-khuê,
    năm trong
    :do chữ ngũ trung, tức tâm (tim) can (là gan) tỳ (lá lách) phế (phổi) và thận (trái cật).
    cung sao
    :cung điện của các ngôi sao ở trên trời.Nghĩa bóng là cảnh tiên.
    Bụi hồng
    :do chữ hồng-trần, ý nói nơi nhân-gian
    khê
    :thiêu: biến-đổi ra mùi khó chiụ
    Dốc trang
    :Trang là những đồ đem theo:vật-dụng tiền-tài trong khi đi đường.
    Cưu-hoàn
    :ý nói mới sửa nhà vừa xong.
    bóng thừa
    :bởi chữ đư-quang là bóng sáng thừa. Ví người trên như ngọn đèn có bóng sáng, nay nhờ bóng sáng thừa ấy, tức nhờ ân-huệ chiếu cố đến người dưới
    tôn-đài
    :Tôn là cao sang,đài là cái nền cao.Nghĩa bóng vì người thân.
    Cửa Ngô
    :Ngô Khởi, tướng võ có danh tiếng ở nước Tề.
    Bể quan
    :bởi chữ hoạn hải.Ra làm quan gọi là bể hoạn.Hải là bể hoạn là quan. Làm quan có nhiều chức vị rộng như đi gữa bể, có nhiều gian nan, sóng gió.
    Thổi đưa
    :bởi chữ xung-khư là do người khác đưa-đẩy mà mình nên danh-phận
    khế-nghị
    :bạn đồng tâm dồng chí với nhau,
    lân-tình
    :tình láng-giềng.
    Keng
    :đây dùng ý nói bài thơ hay kêu tiếng keng.
    dậy cười
    :bởi chữ kiến tiếu, nghĩa là bị người cười.
    Giai chương
    :giai là tốt, đẹp, hay; chương là bài.Giai là bài hay,
    Hầu đề
    :do chữ tương, nghĩa là sẽ, sắp, gần hầu,
    Lá ngô
    :lá cây ngô-đồng.
    doành nhâm
    :là giòng nước.
    Bạch,Tô
    :Bạch là Lý Bạch, thi-nhân đời Đường, Tộ là Tô đông Pha, thi-nhân đời Đường,
    Phong tình
    :là sự phong-lưu tình-tứ của các bậc thi-nhân
    sương
    :đây nghĩa là sương mùa thu.Mỗi năm có một mùa thì có một lần sương. Nửa sương:đây nghĩa là nửa năm.
    sông Tương
    :một con sông lớn ở Hồ-nam bên Tàu.
    Giấc hồ
    :Hồ-điệp tức con bướm. Ngươìi ta thường dùng chữ điệp-mộng là giấc bướm. Bởi tích Trang Chu nằm mơ thấy mình hóa ra bướm.
    bên giậu
    :do chữ cách ly là người ở cách rào.
    dòng khoản
    :do chữ lạc khoản là nơi đề danh-hiệu của tác-giả một bài thơ hay một bức vẽ,
    Giai-nhân tài-tử
    :Trai tài gái sắc
    phong-nguyệt
    :trăng gió, nghĩa bóng là sự trai-gái
    cương-thường
    :tức tam cương ngũ thường. Tam cương: Quân-thần cương, Phụ-tử cương, Phu-thê cương.Ngũ thường: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
    hoa-nguyệt
    :hoa và trăng, nghĩa bóng là sự trai-gái, cũng như phong nguyệt,
    bình
    :là cái bình phong để chắn gió.Đây dùng nói tắt chữ Tước-bình, lấy tích chọn rể ở sách Đường-thư. Cha bà Đậu Hậu muốn chọn rể, bèn vẽ con công trên một bức bình-phong và hứa ai bắn trúng con mắt thì gả con.Sau Đường cao-tổ bắn trúng được vợ, tứ là bà Đậu Hậu.
    Sàng đông
    :do chữ Đông-sàng, điển chọn rể.Sách Tấn-thơ chép:Quan Thái-uý Khước Giám khiến người kén rể tại nhà Vương Đạo là nơi có lắm học trò giỏi.Khi trở về, hỏi chọn được mấy người. Thưa:ở nơi chái hướng đông nhà Vương Ddạo có Đông người. Khi nghe tin chọn rể thì cậu nào cũng ra bộ ganh-đua nhau. Chỉ có một người dường như không nghe biết gì cả.Khước Giám bảo đó là người đáng chọn.Người ấy tức là Vương hy Chi, có tài viết chữ rất đẹp, quán cả thiên-hạ, đến nay còn truyền.
    hàn-mặc
    :chỉ sự học-thức văn-chương. Hàn: ngòi bút lông. Mặc: mực.
    biền-mâu
    :cái giáo, cái gươm. thuộc về võ.
    Quyển vàng
    :là quyển sách bằng giấy sắc vàng.Xưa ngưòi ta dùng một thứ giấy sắc vàng gọi là Hoàng-tiết để làm giấy, nên gọi là quyển vàng hoặc hoàng-quyển,
    cửa hầu
    :Cửa của các bậc Vương Hầu.Tích xxưa có Thôi Giao bán một người hầu-thiếp vào nhà một vị Tước Hầu.Sau Thôi Giao nhớ mà thăm không được,bènlàm bài thơ có câu rằng:"Hầu môn nhất nhập thâm như hải, tùng thử Tiêu-lang thị lộ nhân"Nghĩa: một khi vào cửa Hầu thì sâu như bể, mà từ nay chàng ta đã như người qua đường rồi.
    Thiên-thai
    :Nơi non tiên.