[1] The Lives of Alcyone. T.P.H. 1924.[2] I Corinthiens 11, 9.[3] Lời cầu nguyện này trích trong Quyển Brihad Aranyaka Upanisad. (Lời dịch giả)[4] Thường hằng: Luôn luôn không thay đổi.[5] En Lui nous avons la vie, le mouvement et l' être có thể dịch: Chúng ta sống,chúng ta hoạt động, chúng ta vẫn hiện diện trong lòng Ngài. (Lời dịch giả)[6] Romains XI – 36.[7] Trong nhiều kiếp trước chớ không phải kiếp này. (Lời dịch giả)[8] Péripatécien.[9] 1 Cor., II, 6. Trad. Crampon.[10] 2500 năm trước, Alcyone sinh ra ở Ấn Ðộ và được Ðức Phật Như Lai thâu làm đệ tử. Alcyone có nguyện với Phật như sau: "Con quì trước mặt Phật thề rằng: Con vẫn cố gắng thực hiện cho được nguyện vọng đó. Con muốn theo Phật đặng cứu độ nhân loại đang rên siết, thở than. Phật đã giải thoát cho con khỏi sự đau khổ và dắt con đến cõi an tĩnh đời đời. Con muốn dắt nhân loại đến cõi đó và con xin đem hết những kiếp lai sinh của con lo lắng việc này cho đến khi nào con thành một Ðấng Cứu Thế như Phật vậy."Alcyone theo Phật lấy tên là Maitribaladasa nghĩa là Người Phụng Sự Ðấng Từ Bi. Ðức Phật nói: "Con khéo lựa chọn. Tên này tốt lắm. Nó là lời tiên tri của số kiếp con sau này". Bởi vì Ðức Bồ Tát hiện kim là Ðức Di Lạc (Seigneur Maitreya). Trong vòng sáu, bảy trăm năm năm nữa, Ngài sẽ là một vị Phật Từ Bi (Bouddha de Compassion). (Lời dịch giả)[11] Spirilles.[12] Bhagavad-Gita (trad. Kamensky), II, 59.[13] Những người sống có điều độ, kỷ luật. (Lời dịch giả)[14] Kẻ trụy lạc nhất.[15] Matth. XIX, 17.[16] Tinh luyện. (Lời dịch giả)[17] Matth., X 39.[18] Pôle opposé dịch là đối cực mới đúng, song dùng đối cực thì hơi khó hiểu, nên dịch đối lập cho dễ hiểu. (Lời dịch giả)[19] Ở đây nói về Khoa Tâm Lý Học Huyền Bí chớ không phải Khoa Tâm Lý Học thường. (Lời dịch giả)[20] Proverbes, XIV, 16.[21] Vợ của Lot nhìn lại đàng sau liền hoá ra một cái hình bằng muối. (Sáng Thế Ký 19, 26) La femme de Lot regarda en arrière, et elle devint une statue de sel. (Genèse 19, 26) (Lời dịch giả)[22] Matthieu, V, 46.[23] Luc, VI, 27 - 29.[24] Pierre, II, 23.[25] Romains, XII, 19.[26] Kiểu chính: sửa cho ngay thẳng, sửa cho đúng.[27] Acrtes, VI, 2.[28] Xin xem quyển Phật học đại cương của Ông H. S. Olcott, câu 131.[29] Matth, V, 39. Trad. Crampon.[30] Matth., XII, 36.[31] Matth., VI, 5, và XXIII, 14.[32] Ánh Sáng trên Ðường Ðạo, I, 8.[33] Bhagavad-Gita (trad. Kamensky), X, 36: "Je suis le jeu du tricheur". [34] Ps., 139, v.8.[35] Is., XLV, 7.[36] Ðây là Ðiểm Ðạo lần thứ Nhứt. (Lời dịch giả)[37] Bhagavad Gita (trad. Kamensky), II, 59.[38] Jean, 10, 34 và Thánh Thi 82, 6.[39] Moksha Danh từ Phạn ngữ có nghĩa là giải thoát, ở đây có nghĩa là giải thoát khỏi vật chất. (Tự điển Rhéa).[40] Jean, II, 16.[41] Bảo hoà: Nồng độ cao nhất không thể hoà tan được nữa (saturation) Lời dịch giả.[42] Cũng gọi là ngũ hành (Esprits de la nature).[43] Bậc trung từ một đến ba tấc. Xin xem quyển: Các Hạng Thiên Thần của tôi. (Lời dịch giả)[44] Trong bản chữ Anh là Lý thuyết của Dives. (Lời dịch giả)[45] Luc, XVI, 31.[46] Actes, V, 38 - 39.[47] Chuyển pháp luân: Thuyết pháp lần đầu tiên tại Sarnath gần Bénarès (Ba-la-nại). (Lời dịch giả)[49] Matth., XXV, 29.[50] Ðây có nghĩa là những người phụng sự. (Lời dịch giả)[51] Matth., XXV, 21, 23.[52] Jacques, III, 5 - 6.[53] Dân tộc Nhật-nhĩ-man thuở xưa ở Bắc Ðức, qua chinh phục Anh Quốc hồi thế kỷ thứ chín. (Lời dịch giả)[54] Xin nhớ đây là ý kiến của Ngài. Việc chích ngừa những bệnh truyền nhiễm như đậu mùa, dịch tả, dịch hạch, vân vân... rất có hiệu quả. (Lời dịch giả)[55] Trong quyển nhỏ Aux pieds du Maitre dịch giả có nói Onepointedness không có chữ đồng nghĩa bên Pháp văn, có thể có nghĩa là Fixité de l'Esprit. (Lời dịch giả)[56] Thượng Ðế bên trong chúng ta là Chơn Thần. (Lời dịch giả)[57] Làm kinh phong, giựt tay chân. (Lời dịch giả)[58] Entités astrales xin tạm dịch là Nhân vật, vì danh từ nầy chỉ định nhiều thứ nhân vật. (Lời dịch giả)[59] Nên hiểu nghĩa bóng của câu này: Trong lò luyện kim người ta sẽ biến đổi chì thành vàng. (Lời dịch giả)[60] Rom. XIV, 7.[61] Ở đây không phải nằm dài mà có nghĩa là xả gân cốt, muốn xả hơi phải tập để Cái Trí trống không, đừng tưởng chi cả, phải luyện tập vì điều này rất khó, Tiếng Pháp là Faire le vide.[62] Nguyên văn chữ Anh là namby-pamby dịch ra Pháp văn là maniéré, affecté, minaudi-er, có nghĩa là làm bộ, giả bộ nhỏng nhẻo, nũng nịu. Pháp dịch là: manière un peu enfa-ntine.[63] Philippiens, IV, 13.[64] Phải lên tới mấy cảnh cao của cõi Bồ Ðề và lên tận Niết Bàn mới thấy rõ ràng điều này. (Lời dịch giả)[65] Atma, Bouddhi, Manas là ba ngôi thiêng liêng chớ không phải ba Thể cao. (Lời dịch giả)[66] Vì nó rất thanh bai, tế nhị.[67] Xin nhớ: Về Hạ Trí là Phân Tử Trường Tồn chớ không phải là Nguyên Tử Trường Tồn. (Lời dịch giả)[68] Tới đây, mới thấy Ngũ Thường của Ðức Khổng Tử dạy hữu ích là dường nào. (Lời dịch giả)[69] Ðối với chúng ta. (Lời dịch giả)[70] Bhagavad Gita, XI, 50.[71] Công việc huyền bí (esotérique) trong đạo đức gọi là Mật. Công việc ngoài đời (exotérique) gọi là hiển. (Lời dịch giả)[72] Chữ "bigotry" dịch là ngu tín mới đúng song hai chữ ngu tín nặng lắm. (Lời dịch giả)[73] Tức là Trực Giác. (Lời dịch giả)[74] Hiện giờ quyển nầy ở trong Tàng thư viện của Quần Tiên Hội. (Lời dịch giả)[75] Ấy là Ðức Bồ Tát, Ðấng Christ. (Lời dịch giả)[76] Fil sacré: tôi dịch là Kim thằng, nó thuộc về thiêng liêng. (Lời dịch giả)[77] Bhagavad Gita III, 26, bản dịch Kamensky.[78] Bhagavad Gita, IX, 26.[79] I Epitre aux Cor. XIII,11. (Lời của Thánh Paul)[80] I Cor. IX, 19 - 22.[81] Giống đây có nghĩa là đàn ông, đàn bà (Sexe). (Lời dịch giả)[82] S. Matth., V, 25.[83] S. Matth., V, 25.[84] S. Matth., X, 34.[85] Ấy là Ðức Ngọc Ðế. (Lời dịch giả)[86] Ấy là Ðức Ngọc Ðế. (Lời dịch giả)[87] S. Jean, XIV, 6.[88] Theo chỗ tôi hiểu: đây là đổi cung. Sau khi bước vào Ðường Ðạo rồi, con người có thể xin đổi cung. Thí dụ: Trước kia ở cung thứ năm, bây giờ có thể xin đổi qua cung thứ nhất hay thứ nhì. (Lời dịch giả)[89] Tinh Chất Ham Muốn ở trong Cái Vía. (Lời dịch giả)[90] Vấn đề nầy được luận giải rất dài trong quyển Chơn Sư và Thánh Ðạo.[91] Retraite Thibétaine có nghĩa là chỗ ẩn cư ở Tây Tạng, nhưng chúng tôi để Tịnh Thất cho dễ hiểu. (Lời dịch giả)[92] Manas Supérieur là ngôi thứ ba khác với Corps Supérieur không thể dịch là Thượng Trí được. (Lời dịch giả)[93] Nguyên bản Anh văn của C.W. Leadbeater: "Man: Whence, How and Whither". Bản dịch Pháp văn: "L'homme: d'òu il vient et òu il va".[94] S. Jean, III. 14.[95] Ibid., IV, 8.[96] Sáu điểm nầy gọi là Shatsampatti (sáu tính thuộc về nhóm năng lực trí thức). Xin đọc quyển "Con Ðường của Người Ðệ Tử". (Lời dịch giả)[97] Lời dịch giả.[98] Romains, XIII, 10.[99] S. Matth., XXIII, 11.[100] Tàu dịch:" Chư ác mạc tác;Chúng thiện phụng hành;Tự tịnh kỳ ý;Thị chư Phật giáo".(Lời dịch giả)[101] Moines du riz tôi dịch là Phạn chúng. (Lời dịch giả)[102] Chữ Contexte trong bản văn chữ Pháp có nghĩa là trạng huống tức là tình hình hoặc trọn một bản văn. (Lời dịch giả)1 Quả có gai, cụm hoa có lông dính (hay bám vào lông thú vật).[103] Aryen: nhánh thứ nhứt của giống dân thứ năm, giống da trắng. (Lời dịch giả)[104] Riêng cá nhân tôi, tôi tin rằng sự chủng đậu rất hữu ích, vì nó ngừa được bịnh độc ác này cũng như thuốc ngừa dịch tả, dịch hạch, nọc chó dại. (Lời dịch giả),Có phải nó không tốt cho những thể xác quá tinh anh chăng?[105] Romains, XIV, 5.[106] Orangisme: Chủ nghĩa phái Quillaume d'Orange ở Anh (1589). Ðảng Tân giáo Ái Nhĩ Lan. (Lời dịch giả)[107] Massacres de la Saint-Barthélemy: Sự tàn sát những người Tin Lành tại Paris, đêm 24 Aout 1572 do mạng lịnh của vua Charles IX theo lời xúi biểu của Cathérine de Médicis. Có 3.000 người chết, trong đó có Thuỷ Sư Ðề Ðốc Coligny. (Lời dịch giả)[108] Vêpres Siciliennes: Sự tàn sát những người Pháp tại đảo Sicile (Ý) năm 1282. Ngày thứ hai của lễ Phục Sinh (Pâques) trong lúc chuông nhà thờ reo vang, gọi các tín đồ tới dự lễ, thì người Ý đảo Sicile nổi lên giết những người Pháp ở tại đó. Họ chống lại Charles 1er d' Anjou và có Pierre III d'Aragon ủng hộ. (Lời dịch giả)[109] Constantin 1er Le Grand Hoàng Ðế La Mã ( 300 - 537 ). (Lời dịch giả)[110] Sarrassins là Ðiện Hồi Giáo ở Âu Châu và Phi Châu hồi thời Trung Cổ.[111] David Vua thứ hai của người Hy Bá Lai (Hébreue) trị vì lối 1015 - 970 trước Chúa Giáng Sinh Ngài là một nhà thi sĩ và một nhà tiên tri. Ngài lập thành Jésuralem.[112] Salomon Con vua David lên kế vị Ngài (970 - 931) trước Chúa Giáng Sinh Ngài cất Thánh Ðường Jésuralem. Ngài tài phép cao cường.[113] Ấy là một Hình Tư Tưởng do mấy Ðại Quỷ Vương Ắt Lăng Tích tạo ra trong khoảng một trăm ngàn năm nay. Mấy Ðại Quỷ Vương giỏi cho đến đỗi họ dạy những thú biết nói tiếng người và khôn lắm. Năm 75025 trước Chúa Giáng Sinh, Châu Ắt Lăng Tích bị nhận chìm xuống biển, nhiều Hình Tư Tưởng trốn thoát khỏi và chạy qua Ai Cập, và Ấn Ðộ rồi ở đó đến ngày nay. (Lời dịch giả)[114] Xin đọc "Tín điều của Thiên Chúa Giáo" của C. W. Leadbeater.[115] Bhagavad Gita, X, 35, 41.[116] Some Glimpses of occultism, dịch ra tiếng Pháp là: Echappées sur l'occultism.Some Glimpses of occultism, dịch ra tiếng Pháp là: Echappées sur l'occultism.[117] "Ánh Sáng Phương Ðông", quyển VIII, trang 140.[118] Việc này xảy ra trên cõi Bồ Ðề.[119] Ấy là Ðức Ngọc Ðế. (Lời dịch giả)[120] Le joyau dans le Lotus, tức là câu: "Om mani! Padmé hum ".[121] Ðây là khi được năm lần Ðiểm Ðạo, làm một vị Siêu Phàm. (Lời dịch giả)