Dịch giả Trần Đình Hiến
Chương 34

Trong khoảng thời gian dài, tất cả những nền văn minh đều nảy sinh và phát triển trên đường lối chính thể quân chủ, tức là đường lối chính thể quân chủ chuyên chế. Từ mỗi quân chủ và triều đại, ta thấy gần như có một quá trình tất nhiên, tức từ thịnh trị đi tới xa hoa, lười biếng và suy thoái, cuối cùng bị một gia hệ đầy sức sống đến từ sa mạc hoặc thảo nguyên khuất phục.
°°°°°°
Chúng tôi thấy tất cả dân du mục dù là người Nôtikhơ, người Sanlaithơ hoặc người Môngôlia, về mặt bản tính mà nói, họ hoạt bát hơn, cương nghị hơn tộc định cư.
(Anh) Herbert J. Wells “Thế giới sử cương”
Ông già Pilich không còn được mời tham gia hội nghị sản xuất trên Đoàn bộ. Trần Trận thường thấy ông ở nhà làm đồ da.
Qua hai vụ hè thu, dàm dây cương hàm thiếc và dây buộc chân ngựa hết đợt này đến đợt khác thấm đẫm nước mưa rồi phơi nắng, thuốc thuộc rã hết, da bị mủn, khô, lão hóa, chất lượng xuống cấp nghiêm trọng. Thường xuyên có chuyện ngựa đứt dây cương, dây buộc chân, chạy về đàn.
Vậy là ông Pilich có thời gian làm đồ da cho người nhà, cho các mã quan trong tổ và đám thanh niên trí thức. Trần Trận, Dương Khắc và Cao Kiện Trung thường tranh thủ thời gian đến nhà ông Pilich học làm đồ da. Sau mười mấy ngày, họ đã làm được dàm, roi da. Dương Khắc còn làm được một thứ rất khó làm: Dây buộc chân ngựa.
Căn lều Mông Cổ rộng rãi của ông già biến thành nơi sản xuất đồ da, chất đống da thuộc và chưa thuộc, mùi lưu huỳnh khét lẹt. Tất cả những sản phẩm đó đều phải qua một công đoạn cuối cùng: quang dầu bằng mỡ rái cá cạn.
Mỡ rái cá cạn là loại mỡ động vật cao cấp kỳ lạ của thảo nguyên. Cao nguyên Mông Cổ rét ghê gớm, mỡ cừu, mỡ bò, dầu mazút đều đông đặc, chỉ mỗi mỡ rái cá cạn là không đông, ngay cả dưới 30 độ C vẫn rót được từ trong chai ra.
Mỡ rái cá cạn là đặc sản của thảo nguyên, là báu vật của mỗi gia đình mục dân, nhà nào cũng cất giữ. Trong những ngày bạch mao phong giá lạnh, các mã quan dương quan chỉ cần bôi lên mặt một lớp mỡ rái cá cạn là mũi không bị chết máu vì lạnh, da mặt không bị tróc vảy trắng. Bánh bột khỏa rán mỡ rái cá, vàng và thơm, mùi vị ngon tuyệt chỉ xuất hiện trong tiệc cưới hoặc trên bàn trà quan khách. Mỡ rái cá cạn còn chữa bỏng, công hiệu không thua mỡ lợn lửng.
Mỡ và da rái cá là một trong những nghề phụ quan trọng của mục dân. Hàng năm, khi rái cá cạn lông dày và béo núc, mục dân lên núi đánh bắt, thịt để ăn, còn mỡ và da đem lên Hợp cung tiêu đổi lấy chè gối, vải vóc, pin đèn, ủng đi ngựa, bánh kẹo. Một tấm da rái cá lớn giá 4 tệ, mỡ hơn 1 tệ một cân. Da rái cá cạn là nguyên liệu cao cấp may áo da nữ, toàn bộ xuất khẩu thu ngoại tệ. Rái cá nếu mỡ dày một đốt ngón tay, có thể được hai cân mỡ nước. Bắt được một con rái cá cạn, ngoài thịt để ăn, mục dân còn kiếm được năm sáu tệ. Một vụ thu bắn được khoảng trăm con là có sáu bảy trăm tệ, nhiều hơn công điểm trong một năm của Dương Quan. Mục dân nửa chăn nuôi nửa săn bắn ở thảo nguyên Ơlôn, tuy nghề chính là chăn nuôi, nhưng thu nhập chính lại từ săn bắn, riêng rái cá đã hơn cừu, nếu tính cả sói, cáo, cáo sa mạc, dê vàng… thì còn nhiều hơn nữa. Hồi đó, mức sống của mục dân Ơlôn bằng cán bộ trung cấp ở thành phố Bắc Kinh. Mục dân có số tiền gửi tại ngân hàng khiến người thành phố giật mình.
Nhưng thu nhập về săn bắn không ổn định, động vật hoang dã trên thảo nguyên giống như cây ăn quả dưới xuôi, năm được năm mất do nhân tố khí hậu, cỏ tốt xấu, thiên tai quyết định. Mục dân Ơlôn biết điều tiết quy mô săn bắn, không định ra chỉ tiêu cứng nhắc mỗi năm phải đạt bao nhiêu phần trăm, động vật hoang dã nhiều săn bắt nhiều, ít săn bắt ít, ít quá thì thôi. Hàng vạn năm như thế, gần như năm nào cũng đi săn.
Mục dân bắt được rái cá cạn, bộ da bán đi, nhưng phần lớn mỡ thì giữ lại. Mỡ rái cá tiêu thụ nhiều, nhất là với các sản phẩm từ da. Bôi mỡ lên, da có màu nâu sẫm, mềm và đẹp. Trong mùa mưa mà thường xuyên bôi mỡ rái cá cho yên cương ngựa thì sẽ không bị mục nát, tuổi thọ kéo dài, giảm bớt sự cố. Mỡ rái cá dùng nhiều, phạm vi sử dụng rất rộng, nên thường là chưa tới vụ sau đã hết.
Ông già nhìn các đồ da la liệt dưới thảm, bảo Trần Trận: Trong nhà chỉ còn nửa chai mỡ rái cá. Lúc này thịt rái cá ngon nhất. Xưa kia vua chúa không ăn thịt cừu vào lúc này, mà ăn thịt rái cá. Ngày mai tôi dẫn cậu đi săn rái cá một bữa.
Caxưmai nói: Hôm nào có mỡ rái cá, tôi làm bữa bánh bột khỏa các cậu nếm thử.
Trần Trận nói: Hay quá! Năm nay em cũng phải trữ nhiều một tí, không thể cứ đến đây ăn chực.
Caxưmai cười: Từ khi cậu nuôi sói con là quên luôn bọn tôi. Mấy tháng nay cậu đến nhà này uống trà mấy lần?
Trần Trận nói: Chị là tổ trưởng, em nuôi sói đã gây bao nhiêu phiền phức cho chị, nên ngại không dám gặp chị.
Caxưmai nói: Nếu tôi không ủng hộ cậu thì con sói của cậu đã bị mã quan tổ khác đập chết từ lâu.
Trần Trận hỏi: Chị nói với họ thế nào?
Caxưmai cười, nói: Tôi bảo họ, người Hán đều ghét sói, thậm chí ăn thịt sói, chỉ có Trần Trận và Dương Khắc là yêu sói. Con sói nhỏ đó gần như là con nuôi của hai cậu ấy. Khi đã làm rõ những chuyện về sói thì hai cậu là người Mông Cổ mình.
Trần Trận rất cảm kích, luôn miệng cảm ơn Caxưmai.
Caxưmai cười khanh khách, nói: Ơn với huệ gì! Cậu cho chúng tôi một bữa “ăn hiệu”, cái món thịt cừu băm viên ấy, tôi rất thích. Caxưmai nháy mắt với Trần Trận về phía ông già, nói: Bố cũng thích món ấy lắm.
Trần Trận mừng quá, lập tức đề nghị: Hành tây Trương Kế Nguyên mua về còn nửa bó. Chiều nay em mang các thứ đến đây làm một bữa cả nhà ăn thoải mái.
Nét mặt ông già đã giãn ra đôi chút, ông nói: Thịt cừu thì không cần đem đến, nhà mới thịt một con. Món viên của Cao Kiện Trung ngon hơn của nhà hàng trên huyện nhiều. Bảo Dương Khắc, Cao Kiện Trung cùng đến uống rượu cho vui.
Buổi chiều, Cao Kiện Trung dạy Caxưmai làm món thịt cừu băm viên, mọi người ăn uống ca hát. Ông già bỗng đặt bát xuống, hỏi: Binh đoàn nói từ nay mục dân sẽ định cư để bớt ốm đau, đỡ vất vả. Các cậu thấy định cư có tốt không? Người Hán các cậu chẳng phải rất thích xây nhà để ở đó sao?
Dương Khắc nói: Chúng cháu cũng không biết đã du mục hàng ngàn năm có thể định cư được không? Cháu thấy hình như không được. Cỏ thảo nguyên mỏng quá, sợ giẫm nát. Một khu lều trại, người và gia súc bất quá chỉ trong vòng hai tháng là đã phải di chuyển. Nếu định cư, trong phạm vi vài dặm chỉ một năm là biến thành bãi cát, nối liền các bãi cát thì thành sa mạc chứ sao? Với lại chọn nơi nào để định cư? Khó đấy!
Ông già gật đầu, nói: Có lẩm cẩm mới tính chuyện định cư trên thảo nguyên Mông Cổ. Người khu vực nông nghiệp không hiểu thảo nguyên, nên thích định cư và bắt người khác cũng định cư như mình. Ai không biết định cư thoải mái, nhưng dân du mục đời đời kiếp kiếp không định cư là do Tăngcơli bảo phải như thế. Trước tiên nói về đồng cỏ, bốn mùa đồng cỏ công dụng khác nhau. Đồng cỏ mùa xuân cho cừu đẻ, cỏ ngon nhưng mọc thấp, nếu định cư tại đấy thì mùa đông bị tuyết phủ kín, cỏ sẽ chết hết, gia súc ăn gì để sống? Bãi cỏ mùa đông cỏ mọc rất cao không sợ tuyết vùi, nhưng nếu định cư tại đấy, ba mùa xuân hè thu gia súc ăn cỏ một chỗ, cỏ cao thế nào được. Đồng cỏ mùa hè dứt khoát phải gần nước, nếu không gia súc sẽ chết khát, nhưng gần nước thì phải ở trong núi, định cư ở đấy thì gia súc chết rét hết. Đồng cỏ mùa thu trông vào hạt cỏ, nhưng nếu định cư ở đấy thì qua mùa xuân và mùa hạ cỏ bị gặm sạch, mùa thu làm sao có hạt? Đồng cỏ mỗi mùa đều có mấy cái dở, chỉ có một cái được. Du mục là tránh cái dở, chọn cái hay của mỗi loại đồng cỏ. Nếu định cư ở một chỗ, tất cả những cái dở ập tới, cái hay cũng chẳng còn, nói gì chăn với thả!
Trần Trận, Dương Khắc, Cao Kiện Trung gật đầu tán thành. Trần Trận thấy định cư chỉ mỗi cái lợi trong việc nuôi sói, nhưng cậu không dám nói ra.
Ông già uống khá nhiều rượu, ăn bốn cái bánh nhân thịt, nhưng hình như tâm trạng càng tồi tệ.
Sáng sớm hôm sau, Trần Trận sau khi đổi phiên cho Dương Khắc, liền theo ông già vào trong núi bắt rái cá cạn. Bao tải đay dắt sau yên, trong đó có hơn chục cái thòng lọng cấu tạo đơn giản: Một cái cọc bằng gỗ dài nửa thước, đầu cọc buộc cáp lụa loại tám sợi, đầu kia thắt nút thành cái thòng lọng. Khi đặt thòng, cắm cái cọc bên cạnh, thòng lọng thì đặt trên miệng hang, cao hơn mặt đất hai đốt ngón tay như vậy mới thòng trúng cổ hoặc hông. Trần Trận từng đánh thòng rái cá nhưng chỉ được toàn những con nhỏ. Cậu định lần này học vài mánh ở ông già.
Hai con ngựa phóng nhanh về phía đông bắc. Cỏ thu đã vàng nửa thân trên, nửa dưới vẫn còn xanh. Rái cá tranh thủ tự vỗ béo đợt cuối, ra vào hang như con thoi. Chúng ngủ đông bảy tháng, thiếu mỡ sẽ không sống nổi đến mùa xuân sau. Vì vậy đây là lúc rái cá béo nhất. Trần Trận hỏi: Dây thép con lấy từ chỗ bố, vậy sao chỉ thòng được những con nhỏ?
Ông già cười khì: Tôi chưa bày cho cậu cách đặt thòng. Người thảo nguyên Ơlôn không phổ biến kỹ thuật săn bắn cho người ngoài, sợ họ bắt hết thú hoang. Này con, ta già rồi, ta truyền lại cho con nghề này. Thòng lọng dân ngụ cư là thòng lọng chết, rái cá lớn rất khôn, nó biết thu mình chui qua thòng lọng ra ngoài. Cái thòng lọng của ta co dãn chỉ cần chạm nhẹ là nó thắt lại, không trúng cổ thì trúng hông, chạy không thoát. Khi đặt nhớ cho cái thòng lọng nhỏ hơn miệng hang một chút để căng ra thì vừa.
Trần Trận hỏi: Vậy cố định cái thòng như thế nào?
Ông già nói: Một đầu dậy thắt một cái khuyết, lồng sợi cáp qua phía sau thành cái thòng vừa khít, lỏng quá không được, vì gió thổi thòng lọng co lại; chặt quá cũng không được, vì thòng lọng không xiết lại, phải không lỏng không chặt mới cố định được. Rái cá chui vào một nửa và đụng phải là thòng lọng lập tức thắt lại. Theo cách này, mười thòng được đến sáu bảy con rái cá lớn.
Trần Trận vỗ trán nói: Tuyệt! Tuyệt quá! Chả trách con không thòng được con nào, thì ra thòng của con là thòng chết, rái cá vào ra thoải mái.
Ông già nói: Lát nữa tôi làm cho cậu xem, không dễ đâu, còn phải xem hang lớn hay nhỏ, dấu chân rái cá to hay bé, khi đặt thòng phải đúng mẹo là quan trọng nhất. Lát nữa tôi vừa làm vừa dạy, cậu ngó cái là biết. Có điều chỉ mình cậu biết thôi, đừng phổ biến cho bất cứ ai.
Trần Trận nói: Con xin hứa.
Ông già nói: Con ơi, còn nhớ phải nhớ điều này: Chỉ bắt rái cá đực và rái cá cái không bận con nhỏ. Bắt được rái cá mẹ hoặc rái cá con là phải thả ngay. Người Mông Cổ ta bắt rái cá hàng trăm năm nay mà vẫn có thịt rái cá ăn, có da để bán, có mỡ để dùng, là do không dám phá hoại quy củ của tổ tông. Rái cá cạn hủy hoại thảo nguyên, nhưng chúng rất có ích đối với người Mông Cổ. Xưa kia, mục dân nghèo ăn thịt rái cá sống qua mùa đông. Rái cá cạn đã cứu được bao nhiêu người nghèo, người Hán các cậu đâu có biết!
Hai con ngựa phóng nhanh trong cỏ thu rậm rạp, vó ngựa khua động những con thiêu thân màu trắng, nâu và phấn hồng, những con côn trùng màu xanh lá cây, màu vàng, ba bốn con chim én bay lượn trên đầu hai người, thưởng thức bữa tiệc côn trùng do vó ngựa đem lại. Hai con ngựa chạy vài chục dặm, những con én cũng bay theo vài chục dặm, khi những con này đã no, những con khác lại sung vào đội ngũ những con trước.
Ông già Pilich dùng cây mã bổng trỏ mấy mỏm đồi trước mặt, nói: Đây là Núi Rái Cá của thảo nguyên Ơlôn. Rái cá ở đây nhiều, to con, mỡ dày, bộ da tốt. Đây là núi vàng núi bạc của đại đội ta. Phía nam và phía bắc còn hai quả Núi Rái Cá nhỏ nữa, rái cá ở đây cũng không ít. Mấy hôm nay các gia đình đều đến đây. Rái cá năm nay dễ bắt.
Trần Trận hỏi: Vì sao?
Ông già mắt đượm buồn, thở dài: Sói ít đi thì rái cá rất dễ bị tròng cổ. Sói mùa thu béo được nhờ ăn thịt rái cá, sói không béo không qua nổi mùa đông. Sói bắt rái cá cũng chỉ bắt con to không bắt con nhỏ, do đó năm nào cũng có rái cá ăn. Trên thảo nguyên, chỉ mục dân Mông Cổ và sói Mông Cổ mới hiểu những quy củ trên thảo nguyên là do Tăngcơli định đoạt.
Hai người tiếp cận Núi Rái Cá, bỗng phát hiện hai chiếc lều hình cánh buồm bằng vải bạt dựng bên khe suối, bên ngoài lều khói bếp bay lên, bên cạnh có một cỗ xe lớn và một xe chở nước. Tình hình có vẻ nơi tạm trú của công trường nào đó.
Hai con ngựa chưa đến bên lều đã ngửi thấy mùi thơm của thịt và mỡ rái cá. Hai người vội xuống ngựa, trông thấy bên ngoài căn lều, nửa nồi mỡ rái cá màu nâu to tướng đang sôi lăn tăn trên bếp, mấy con rái cá đang nhào lộn trong nồi, mỡ đã chảy ra hết chỉ còn lại thịt, vàng hươm và rất giòn. Một dân công trẻ vớt con rái cá vừa chín tới, đã lập tức bỏ vào nồi một con rái cá đã lột da, bỏ sạch nội tạng, béo núc ních. Lão Vương và một dân công ngồi bên một chiếc hòm gỗ vỡ, trên để bát tương đậu nành, một đĩa muối ớt và một đĩa hành sống. Hai người vừa uống rượu vừa ăn thịt rái cá rán cực kỳ vui vẻ.
Bên cạnh nồi lớn là chiếc chậu giặt cỡ lớn bằng tôn đựng đầy những con rái cá đã lột da, trong đó phần lớn là những con rái cá nhỏ chỉ dài khoảng một thước. Trên mặt đất bày mấy tấm cánh cửa và hơn chục chiếc bàn ăn đan bằng nhành liễu, trên phơi kín da rái cá lớn nhỏ, khoảng hơn trăm bộ. Trần Trận và ông già bước vào trong lều. Trong lều xếp đống da rái cá đã khô, cao ngang thắt lưng, cũng khoảng một trăm bộ. Chính giữa lều là một vỏ thùng xăng cao hơn mét, đựng đầy mỡ rái cá, bên cạnh đó còn có một số thùng nhỏ hoặc chai đựng mỡ rái cá.
Ông già lại ra ngoài lều, đến bên chiếc chậu tôn, dùng mã bổng gạt những con rái cá nhỏ trên mặt chậu, ông phát hiện phía dưới có mấy con rái cá mẹ gầy nhom.
Ông già nổi cáu, gõ gậy cành cạch vào chậu tôn, gầm lên với lão Vương: Ai cho phép ông giết cả rái cá mẹ lẫn rái cá con? Đây là tài sản của đại đội, là những con rái cá mục dân Ơlôn để lại cho đời sau. Các ông to gan thật, chưa có ý kiến đại đội mà giết bao nhiêu là rái cá thế này!
Lão Vương ngà ngà say, tiếp tục ăn uống. Lão thủng thẳng nói: Tôi đâu dám bắt rái cá trên địa bàn của ông. Đại đội của ông đã thuộc về binh đoàn, xin nói để ông biết, chính Đoàn bộ cử tôi xuống đây đấy. Tham mưu Tôn nói: Rái cá hủy đồng cỏ, rái cá còn là thức ăn chủ yếu của sói trước khi sang mùa đông. Diệt rái cá, đàn sói sẽ không qua nổi mùa đông. Lệnh của Đoàn bộ, phải diệt hết rái cá cùng với chiến dịch diệt sói. Bác sĩ quân y sư đoàn nói: Rái cá có thể truyền bệnh dịch hạch, lúc này rất nhiều người tập trung ở một khu vực, nếu xảy ra bệnh dịch thì ông chịu trách nhiệm nhé?
Ông già Pilich lặng đi một lúc rồi lại gầm lên: Chỉ thị của Đoàn bộ cũng thế thôi. Các người giết hết rái cá rồi lấy gì cho mục dân làm nghề. Nếu dàm ngựa đứt, ngựa lạnh, người bị thương thì ai chịu trách nhiệm. Các người là phá hoại sản xuất!
Lão Vương phà hơi rượu, nói: Trên bảo giết chắc là có người chịu trách nhiệm, ông có giỏi thì đi gặp cấp trên, nạt nộ mấy anh em lao động chân tay chúng tôi làm gì! Lão Vương liếc cái bao tải bên yên ngựa, nói: Ông cũng đến bắt rái cá đấy thôi. Ông được bắt, tại sao tôi không được bắt? Động vật hoang dã không phải do nhà ông nuôi, ai đánh bắt được người ấy hưởng.
Ông già cáu, chòm râu rung lên, ông quát: Hãy đợi đấy, lát nữa tôi về gọi mã quan ra. Chỗ da và mỡ này, tôi đem về đại đội.
Lão Vương nói: Chỗ thịt và mỡ này do nhà ăn đoàn bộ đặt hàng, mai phải đem về cho họ. Nếu ông cho người đến cướp thì cứ cướp, rồi sẽ có người nói chuyện phải quấy với ông. Chỗ da này cũng có ông cốp đặt rồi, Chủ nhiệm Quý còn phải đích thân chở đi nữa kia!
Ông già thõng tay, hồi lâu chẳng nói được câu nào.
Trần Trận lạnh như tiền: Các ông giỏi thật! Diệt một lèo bấy nhiêu con rái cá. Rái cá lớn nhỏ diệt cả ổ, để xem sang năm các ông bắt cái gì?
Lão Vương nói: Các ông gọi chúng tôi là quân lưu manh, lưu manh lưu manh, quân manh động. Không cần đợi sang năm, chỗ nào có ăn là chúng tôi mò đến, được năm nào hay năm đó, các ông lo cho lũ rái cá, vậy ai lo cho lũ lưu manh chúng tôi!
Trần Trận biết nói lý lẽ với bọn lưu manh này cũng bằng thừa. Cậu chỉ muốn  biết chúng bắt bằng cách nào mà được nhiều rái cá như thế, chẳng lẽ chúng cũng có thòng lọng đàn hồi? Liền đổi giọng, hỏi: Các vị bắt bằng cách nào mà được nhiều đến vậy?
Lão Vương đắc ý, nói: Định học tôi phỏng? Muộn mất rồi. Mỏm này sắp hết rồi. Hôm kia tôi đã cho chở lên Sư một xe tải thịt và mỡ rái cá. Muốn biết tôi bắt như thế nào hả? Lên núi mà xem, chậm nữa là không còn thấy gì nữa đâu.
Trần Trận đỡ ông già lên ngựa, phóng lên núi. Trên một mỏm ở góc đông bắc có bốn năm người đang lúi húi làm gì đó. Hai người vội cho ngựa phi tới. Ông già quát: Dừng tay! Dừng tay! Đám dân công dừng công việc đứng lên ngó. Hai người xuống ngựa, Trần Trận trông thấy trận thế bày trước mắt thì rủn cả người. Trên mỏm có năm sáu cái hang rái cá. Cậu thoạt nhìn đã biết, đây là những cái hang thông với nhau của một ổ rái cá lớn. Bốn cái hang khác đã bị bịt kín bằng đất. Điều khiến cho cậu kinh khủng nhất là một dân công cầm một con rái cá con dài chưa đến một thước, đuôi buộc một tràng pháo tép, cái đuôi còn buộc vào sợi thừng một đầu buộc miếng thảm len to bằng nắm tay tẩm rất nhiều ớt bột và dầu mazút, mùi hôi sặc sụa. Một dân công đứng bên tay cầm bao diêm, chậm chút nữa là họ châm lửa thả con rái cá vào trong hang cho nổ và hun khói từ trong ra.
Ông Pilich vội chạy tới dùng chân bịt một miệng hang, quát đám dân công bỏ tất cả các thứ trên tay xuống. Vài người trong bọn họ thấy ông già quản lý lão Vương suốt cả mùa hè thì không dám cưỡng, vội cởi dây thừng.
Trần Trận chưa bao giờ thấy cách đánh bắt tham lam tàn nhẫn độc địa như thế trên thảo nguyên, tàn nhẫn hơn cả tát cạn bắt lấy cá. Nếu như con rái cá chạy vào trong hang cùng với pháo tép, bột ớt và dầu mazút, thì gia đình rái cá này tai họa tày trời! Hang rái cá là loại hang sâu nhất, dốc nhất, kết cấu bên trong phức tạp nhất trên thảo nguyên, nó có công sự chống khói, một khi bị hun khói, nó đủn đất mau chóng lấp kín chỗ hang hẹp nhất. Nhưng đám dân công đến từ khu vực nông nghiệp này giở độc chiêu, lũ rái cá trở tay không kịp. Con sói được thả vào hang sợ quá chạy tuột xuống chỗ đàn rái cá tập kết, kéo theo pháo đã châm ngòi, sẽ nổ và hun khói từ trung tâm, tiếng nổ liên tục và bột ớt cùng khói cay xè đánh gục lũ rái cá, chỉ còn một con chạy thoát lên mặt đất, đón nó là cây mã bổng và bao tải. Chiêu này rất độc mà dễ thực thi, chỉ cần bẫy được một con làm “kẻ dẫn đường” là xong. Chỉ trong mấy hôm đã hủy hoại quả núi rái cá tồn tại hàng nghìn năm, họ hàng nhà rái cá gần như tuyệt diệt!
Ông già chọc cây mã bổng xuống đất khiến đất đá bay tứ tung, vừa chọc vừa quát: Bỏ tràng pháo ra! Cắt dây buộc ớt ra! Trả con rái cá về hang! Đám dân công chậm rãi cởi dây thừng, nhưng không thả con rái cá.
Lão Vương đánh cỗ xe nhẹ đã lên kịp. Lão hình như đã tỉnh rượu, cười nhăn nhở, liên tục mời thuốc ông già và không ngớt mắng đồng bọn. Lão bước tới giằng lấy con rái cá từ tay dân công, dùng dao cắt đứt đoạn dây rồi trở lại trước mặt ông già, nói: Ông đứng lên để tôi thả nó về ổ.
Ông già chậm rãi đứng lên phủi đất trên người, nói: Dù ông có thả con này, thì từ nay ông đừng hòng làm công việc xây dựng ở đại đội tôi.
Lão Vương cười nịnh: Tôi chẳng qua là làm theo lệnh trên, chứ mình tôi đâu dám. Không triệt rái cá thì không thể cắt đường rút lui của sói. Đây cũng là trừ hại cho dân. Có điều, cụ nói cũng có chỗ đúng, không có mỡ rái cá thì yên cương hỏng hết, vậy nên phải để lại cho mục dân một số…
Con rái cá nhỏ vừa đặt xuống bậc thềm, liền chui luôn vào hang.
Lão Vương thở dài, nói: Thực ra, bắt ổ rái cá cũng không dễ. Sáng nay mãi mới bẫy được một con “dẫn đường”. Những ngày này rái cá sợ pháo không chui lên mặt đất nữa.
Ông già kiên quyết: Chuyện chưa biết! Ông chở ngay những thứ này về đại đội bộ. Chuyện này mà Lanmutrăc và bọn mã quan biết, chúng sẽ đập nát xe và lều của ông.
Lão Vương nói: Chúng tôi thu dọn rồi đi luôn, còn phải báo cáo Chủ nhiệm Quý.
Ông già nhìn đồng hồ, lo cho mỏm phía bắc, bảo lão Vương: Tôi đi tìm người, lát nữa quay lại. Hai người lên ngựa chạy về phía đường biên phòng.
Vừa qua hai khúc rẽ, chợt nghe sau lưng có mấy tiếng pháo nổ, lát sau không nghe thấy gì nữa. Ông già nói: Hỏng rồi! Chúng mình bị lừa rồi. Hai người vội vã quay ngựa trở lại chỗ mỏm núi, thấy lão Vương che khăn ướt nửa mặt đang chỉ huy bọn dân công bắt rái cá. Bên miệng hang xác rái cá la liệt, mùi cay xộc mũi vẫn liên tục từ trong hang bay ra. Mấy con cuối cùng ló đầu lên liền bị đập chết tươi. Ông già Pilich bị sặc khói ho rũ rượi, Trần Trận phải dìu ông ra chỗ đầu gió đấm lưng liên tục.
Đám người bịt khăn ướt như bọn cướp đường, nhét tất cả rái cá vào bao tải quẳng lên xe, vội vàng kéo xuống núi.
Trần Trận nói: Con không hiểu họ lấy đâu ra con rái ca nhanh thế?
Ông già nói: Chắc chắn họ bẫy được hai con, giấu trong tải một con mà ta không nhìn thấy. Cũng có thể họ dùng sào dài đưa pháo xuống sâu trong hang, tác dụng cũng như dùng rái cá dẫn đường. Quân thổ phỉ! Còn đáng ghét hơn bọn trộm ngựa ngày trước. Ông già chống cây mã bổng đứng dậy nhìn cái hang rái cá lâu đời, giọng run rẩy: Ác quá! Tôi biết cái hang này, họ hàng nhà tôi đời nọ tiếp đời kia năm nào cũng bắt rái cá ở hang này nhưng chưa bao giờ để chúng tuyệt tự, năm nào cũng có rái cá lớn nhỏ vui vẻ nô đùa, năm nào cũng no đủ. Không ngờ chưa hút tàn điếu thuốc, cái hang tuổi thọ hàng trăm năm trở thành cái hang rỗng.
Trần Trận buồn rầu, nói: Bố đừng giận, ta phải tính kế mới được.
Ông già nói: Sao không thấy Đanchi? Tôi nghĩ cậu ta dẫn người lên ngọn đồi phía bắc rồi… Họ có xe, chạy nhanh, thường là đến trước mình. Mau lên! Hai con ngựa phóng nhanh về hướng bắc, qua mấy con dốc thoai thoải đã trông thấy dãy núi lớn Ngoại Mông - đường biên giới.
Ông già trỏ một quả đồi xanh phía xa nói: Xưa kia có thể bắt rái cá ở đó, nhưng nay thì không vì tình hình căng thẳng. Giờ muỗi ít, chắc chắn sói bắt rái cá ở đó. Sói đã nghĩ thế thì bọ Đanchi sao lại không nghĩ như sói?
Trần Trận hỏi: Biên phòng để họ tự do à?
Ông già nói: Đằng ấy núi nhiều, biên phòng không dễ phát hiện, mà nếu bắt gặp thì thấy cùng là xe quân đội, chỉ dăm câu là êm chuyện.
Chạy hồi lâu, hai con ngựa tự động giảm tốc độ, thi thoảng lại cúi xuống bứt vài cọng cỏ. Trần Trận thấy cỏ ngựa đang ăn xanh tươi hơn nhiều so với cỏ chăn nuôi trên đồng, hơn nữa thân có rất mập, bông trĩu quả, loại chất lượng cao. Cúi nhìn kỹ hơn, Trần Trận còn thấy trên mặt đất có rất nhiều đống cỏ non to bằng tổ chim khách, rõ ràng đây là lương thực mùa đông của chuột thảo nguyên phơi bên miệng hang, khô rồi thì kéo từng cọng vào trong. Lúc này cỏ thảo nguyên đã vàng nửa thân, nhưng cỏ của lũ chuột thì chúng cắn từ ba bốn hôm trước, còn xanh hoàn toàn. Ngửi thầy mùi cỏ thơm, hai con ngựa không chịu chạy nhanh là phải.
Ông già gò cương trước những đống cỏ dày đặc, nói: Nghỉ lát đã, cho ngựa giành lại ít cỏ từ ổ chuột. Không ngờ sói v!!!9688_38.htm!!! Đã xem 154260 lần.

Đánh máy: only_want_love
Nguồn: ThuyNguyen - HuyTran
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 20 tháng 9 năm 2007

Triều Nguyên ở Trung Quốc do Mông Cổ lập nên đã góp phần to lớn trong việc giao lưu văn hoá giữa phương đông và phương tây. Đối với Trung Quốc và dân tộc Hoa Hạ, công lao cũng không thể mai một:
Trước hết, Mông Cổ đã đem lại cho Trung Quốc một cương vực chưa bao giờ rộng lớn đến thế, diện tích vượt cả thời Hán Đường, một lần nữa trưng ra cho thế giới thấy phạm vi không gian sinh tồn của người Trung Quốc. Triều Nguyên giữ vai trò quan trọng trong cuộc bảo vệ lãnh thổ Trung Quốc, nếu không, khoảng hai ba trăm năm sau Hán Đường nhiều vùng không còn dưới sự quản hạt của chính phủ Trung Quốc, có khả năng mất vĩnh viễn, trở thành lãnh thổ của nền văn minh khác, khiến Trung Quốc mất đi tấm bình phong che chắn cho khu vực nông canh. Thời Minh, đế quốc Đột Quyết hùng mạnh Xưtan Thiếp Mộc Nhĩ từng rêu rao sẽ bắt người Trung Quốc cải theo đạo Ixlam. Thiếp Mộc Nhĩ đại Khan suýt dẫn một triệu quân kỵ tấn công Trung Quốc. Sau đó, Thiếp Mộc Nhi bị ốm chết, Trung Quốc mới thoát đại hoạ này. Giả dụ Thiếp Mộc Nhĩ không chết, giả dụ tây nắc không còn trong tay Trung Quốc mà bị dân tộc Ixlam chiếm giữ, lại giả dụ hàng triệu quân từ Cam Túc Ninh Hạ tấn công Trung Quốc, lãnh thổ và nền văn minh Trung Quốc có còn không? Vì vậy, triều Nguyên khôi phục lãnh thổ Trung Quốc mở rộng từ thời Hán Đường, có công lớn trong việc mở rộng tấm bình phong tây bắc, đảy lùi rất xa đường biên các nước có nên văn minh cao mà hung hãn, đồng thời đặt nền móng cho hai triều Minh Thanh sau này tiếp tục thu hồi, bảo vệ và mở rộng lãnh thổ, điều này rất quan trọng cho người Trung Quốc sinh tồn và phát triển thời hiện đại.
Thứ nữa, là một cuộc tiếp máu to lớn về tính cách dân tộc. Điều này có thể xem xét từ bốn phương diện sau: Một, Mông Cổ làm chủ Hoa Hạ, đem theo tinh thần du mục dũng cảm kiên cường và phong tục thảo nguyên: đấu vật, cưỡi ngựa bắn cung, đua ngựa, săn bắn, ăn thịt bò cừu, ăn uống thả giàn, phụ nữ không bó chân, phụ nữ xuất đầu lộ diện nơi công cộng, quét sạch những hủ tục thời Bắc Tống như tục bó chân chẳng hạn; Hai, tuy một số trong tầng lớp trên như Hốt Tất Liệt đa bị lún sâu trong tinh thần Nho gia, nhưng đông đảo âun chức và binh sĩ Mông Cổ vẫn không thay đổi tính cách thảo nguyên, chống lại có hiệu quả thế lực Nho gia, khiến một bộ phận dân tộc Hoa Hạ được giải phóng; Ba, dân tộc thống trị bao giờ cũng áp đặt tính cách, phong tục tạp quán dân tộc mình lên dân tộc bị trị, còn tính cáchphong tục tập quán dân tộc bị trị lại là đối tượng bị dân tộc thống trị bắt chước. Mối quan hệ hai chiều áp đặt và mô phỏng ấy chính là "tiếp máu" và "nhận máu" về tính cách dân tộc. Ngoài ra, giữa các dân tộc, thông hôn lai tạo ngày càng nhiều, tăng cưòng một bước huyết tính và tính cách dân tộc Hoa Hạ; Bốn, Do triều Nguyên là một triều đình lớn do dân tộc du mục thảo nguyên lần đầu tiên trong lịch sử thiết lập trên cả nước Trung Quốc, dân tộc thảo nguyên dân số ít ỏi đã đánh bại dân tộc Hán dân số khổng lồ trên thế giới, thống trị toàn bộ Hoa Hạ. điều này là một cú sốc đối với dân tộc Hán vốn tự cao tự đại, khinh rẻ các dân tộc khác. Do đó, dân tộc Hán cũng cảm thấy xấu hổ về tính cách ươn hèn và thất bại của dân tộc mình, từ đó kích phát những người con ưu tú của dân tộc Hoa Hạ tự giác hành động, học tập tính cách mạnh mẽ của dân tộc Mông Cổ. Chu Nguyên Chương là một ông vua người Hán rất khâm phục người Mông Cổ.
Vì vậy mình cho rằng, dân tộc Mông Cổ triều Nguyên đã làm một cuộc tiếp máu kịp thời và có hiệu quả, ảnh hưởng và tiếp máu non một thế kỷ, khiến dân tộc Hoa Hạ trỗi dậy lần nữa. Đến cuối triều Nguyên đã xuất hiện hàng loạt những lãnh tụ nghĩa quân dũng cảm kiên cường. Đó là kết quả trực tiếp của lần tiếp máu này.
Nguyên nhân thất bại sau đó của dân tộc Mông Cổ cũng giống như Bắc Nguỵ Tiên Ty, nước Liêu Khiết Đan, nước Kim Khiết Đan. Một dân tộc dù dũng mãnh đến mấy, nhưng một khi sa vào thế giới ruộng đồng mênh mông của dân tộc Hoa Hạ, đèo lên cổ tinh thần Nho gia, qua vài thế hệ là sói tính bị thoái hoá. Do đồng ruộng Hoa Hạ lớn nhất thế giới, nên sức mạnh mềm hoá của nó cũng lón nhất thế giới. Dân tộc Mông Cổ thiết lập trên thế giới bốn nước Khan, nhưng triều Nguyên ở Trung Quốc thất bại sớm nhất.Người Hán chỉ trong tám chín mươi năm là đã đuổi được người Mông Cổ về thảo nguyên. Năm 1368 Chu Nguyên Chương lật đổ triều Nguyên, thành lập vương triều Minh.
Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương và con trai Minh Thành Tổ Chu Đệ là những ông vua Trung Quốc kiệt xuất ra đời trên đại lục Hoa Hạ sau khi tiếp máu. Trong người họ, sói tính trong máu họ rất ít thấy ở người Hán: dũng mãnh, trí tuệ, ngoan cường, tàn nhẫn, khí phách và chí lớn. Chu Nguyên Chương có thể làm được như Đường Thái Tôn xung phong hãm trận, đi đầu quân sĩ. Sau khi chiếm lĩnh Nam Kinh, không ở lại hưởng lạc như lãnh tụ nghĩa quân nông dân Hồng Tú Toàn, mà dốc hết quân mạnh tướng giỏi tiến lên đánh chiếm Đại đô. Sau đó đánh chiếm Tứ Xuyên, bình định Vân Nam, cơ bản hoàn thành thống nhất cả nước. Ông ta không nương tay, giết đại tướng tham quan và công thần phạm pháp, cực kỳ tàn nhẫn. Chu Đệ luôn đi đầu trong những cuộc giao chiến với kỵ binh Mông Cổ, rèn luyện được tính cách dữ như sói. Ông ta thoán quyền đoạt ngôi tàn ác kinh người, sáng tạo hình phạt "giết 10 họ" thảm khốc chưa từng thấy. Hành động chuyên chế bạo ngược của cha con Chu Nguyên Chương cần phê phán, nhưng tính cách sói mạnh mẽ của cha con ông ta trong chiến đấu cũng cần khẳng điịnh. Hai người hoàn toàn không giống các vua triều Minh sau đó chỉ tàn bạo với dân chúng mà không dám chống lại kẻ địch mạnh, các vị này không còn là sói thảo nguyên, mà là lũ chuột đồng, khi hữu sự, cháy nhà ra mặt chuột.
Vì sự nghiệp vĩ đại khôi phục trung nguyên, đuổi kỵ binh Mông Cổ về thảo nguyên, Chu Đệ dám từ bỏ Nam Kinh gạo trắng nước trong, khí hậu ấm áp, dời đô lên phòng tuyến quân sự số một Bắc Kinh, hơn nữa còn năm lần thân chinh cầm quân đánh giặc cho đến khi ốm chết trên đường tiến quân. Một vị hoàng đế đang tại vị mà dám từ bỏ hưởng thất trắc, m đời quân ngũ "da ngựa bọc thây". Người như thế không chỉ mình ông. Vĩnh Lạc đại đế không thẹn với danh hiệu đg Kết