Dịch giả Trần Đình Hiến
Chương 6

Vũ khí của Đột Quyết có cung tên, minh đích tiên bắn đi phát ra tiếng kêu gặp thương đao kiếm.  Chốp cán có gắn đầu sói bằng vàng.  Lính thị vệ gọi là Phụ Ly, tiếng Đột Quyết nghĩa là sói.  Do sói sinh ra nên không quên gốc.
"Chu Thư. Đột Quyết"
Batu được Saxuleng tìm thấy trong một cái chuồng cừu cũ ở phía nam đầm lầy sau khi bão về một đêm và sáng hôm sau.  Khi ấy anh đã bị thương đi không nổi, sắp chết vì lạnh.  Saxuleng vực Batu lên con ngựa bị thương của cậu, đưa Batu về nhà.  Để tổ điều tra nắm được đầu đuôi sự việc, Batu gượng đau cùng đến hiện trường.  Hai mã quan kia tuy thương tích đầy mình, vẫn bị tạm giam để điều tra.
Trần Trận đi sau ông Pilich, cuối đoàn.  Cậu hỏi nhỏ: Bố, trên sẽ xử lý thế nào về anh Batu?
Ông già dùng bao tay gạt sương trên bộ râu dê lưa thưa, cặp mắt đồng tử màu hổ phách ẩn chứa một tình cảm phức tạp.  Ông không ngoảnh lại, mắt vẫn nhìn ra dãy núi xa xa, nói: Thanh niên trí thức các cậu thấy cần kỷ luật nó hay sao? - Quay lại, ông bổ sung một câu - ban quản lý mục trường và đại diện quân đội rất coi trọng ý kiến của các cậu.  Mời các cậu đi cùng là để các cậu cho ý kiến.
Trần Trận nói: Batu là một hảo hán, anh ấy vì đàn ngựa mà suýt mất mạng, tiếc rằng anh không gặp may.  Con thấy cứu được đàn ngựa hay không thì anh Batu vẫn là anh hùng thảo nguyên.  Con ở với bố một năm, Batu là anh cả của con.  Con hiểu thái độ của Bao Thuận Quý, ý kiến của con chẳng có ý nghĩa gì, sẽ không được coi trọng.  Với lại các thanh niên trí thức cũng không thống nhất ý kiến.  Con nghĩ, bố là đại biểu mục dân nghèo, lại là Ủy Viên Ủy ban cách mạng, mọi người đều nghe bố, bố nói thế nào, chúng con sẽ nói như thế.
- Những thanh niên trí thức khác nói gì? - Ông già hỏi.
- Các thanh niên trí thức đội con đều nhận xét tốt về anh Batu.  Đợt bão tuyết sói này khủng khiếp quá, ai rơi vào hoàn cảnh ấy cũng thế thôi.  Không thể kỷ luật anh Batu!  Vậy mà có người bảo, có kẻ lợi dụng thiê tai để phá hoại, chống quân đội, chống cách mạng, nhất định phải điều tra thành phần xuất thân bốn mã quan!
Sắc mặt ông già càng u ám, ông không hỏi nữa.
Đoàn người vòng qua phía đông đầm lấy tới địa điểm Batu nổ súng lần cuối.  Trần Trận cố trấn tĩnh, cậu chuẩn bị tinh thần mục kích cảnh tàn sát đẫm máu.
Vậy mà không trông thấy giọt máu nào.  Tuyết dày hơn thước đã phủ kín tất cả những gì đêm trước đã diễn ra, chí ít là đầu những con ngựa mà cũng không thấy.  Mặt đầm lổn nhổn những mô tuyết, giữa các mô là tuyết dày, sau mỗi mô là một đuôi tuyết dài do gió tạo nên, giấu đi những xác ngựa lẽ ra rất nổi bật.  Mọi người lặng nhìn, không ai xuống ngựa, không người nào muốn vén tấm chăn tuyết, chỉ đứng đó tưởng tượng sự việc đã diễn ra.
Tiếc quá - Ông Pilich mở miệng đầu tiên.  Ông giơ roi chỉ bờ đầm phía đông - Các vị xem, chỉ chạy thêm một quãng ngắn nửa là không việc gì.  Batu dẫn được đàn ngựa từ Bãi Bắc về đây quả không dễ.  Bão to sói đông cứ cho là người không sợ, nhưng con ngựa có sợ không? Batu từ đầu chí cuối bám đàn ngựa quyết tử với lũ sói.  Nó đã làm tròn trách nhiệm.
Ông già không câu nệ, thanh mình cho con trai.
Trần Trận lại gần Bao Thuận Quý, nói: Vì tài sản của tập thể mà Batu đã chiến đấu suốt đêm với sói.  Nên báo cáo lên trên sự tích anh hùng này.
Bao Thuận Quý trừng mắt quát: Gì mà anh hùng!  Anh ta bảo vệ được đàn ngựa thì mới là anh hùng - Quay lại, ông ta giận dữ bảo Batu - Tại sao hôm ấy cho ngựa ăn cỏ ở Bãi Bắc?  Chăn ngựa bấy nhiêu năm, chẳng lẽ anh không biết hể nổi gió bắc là đàn ngựa chạy xuống đầm lầy?  Trách nhiệm lớn nhất của anh là ở điểm này.
Saxuleng dập đầu vào bụng ngựa, ngẩng lên cãi: Đó là bãi chăn do bản quản lý chỉ định, còn nói rằng ở đó còn nhiều cỏ thu và cỏ xuân thì đã mọc mầm.  Những con ngựa chiến đi xa, cần được ăn uống tốt, béo lên một chút để các kỵ binh dân quân vui vẻ tiếp nhận.  Tôi còn nhớ anh Batu hôm ấy nói tại hội nghị "Năm khâu cách mạng, đẩy mạnh sản xuất", rằng chăn ở Bãi Bắc không an toàn.  Nhưng ban quản lý bảo, mùa xuân phần lớn là gió tây bắc.  Ai ngờ lại có gió bắc?  Ông cũng đồng ý với ban quản lý, vậy sao khi sinh chuyện ông lại đổ hết cho Batu?
Mấy ông trong ban quản lý không nói gì.  Trưởng bãi Ulichi đằngg hắng một tiếng, nói: Saxuleng nói đúng, quả là có chuyện ấy.  Mọi người ai cũng có tâm, muốn đàn ngựa béo khoẻ, góp chút công sức cho cuộc chiến.  Ai ngờ lại xảy ra cơn bão, lại là bạch mao phong, lại thêm đàn sói, trăm năm mới gặp một lần.  Tôi là người nắm sản xuất, tôi xin chịu trách nhiệm trong chuyện này.
Bao Thuận Quý giơ roi chỉ vào mũi Saxuleng, nói: Trách nhiệm của anh cũng không nhỏ.  Ông Pilich nói đúng, chỉ chạy một quãng nữa là thoát nạn, nếu ba anh không bỏ chạy mà cùng Batu dồn đàn ngựa thì không đến nỗi sinh chuyện.
Ông Pilich dùng cây gậy dằn cây roi của Bao Thuận Quý xuống thấp, nghiêm mặt nói: Thưa ông đại diện quân đội, ông tuy là người Mông nông nghiệp, nhưng cũng nên hiểu phong tục của người Mông du mục.  Trên thảo nguyên chúng tôi, không cho phép chỉ roi vào mũi người khác khi nói.  Chỉ có bọn vua chúa, bọn Đaichi, bọn chủ bãi chăn thả mới làm như thế.  Không tin, ông đi hỏi thủ trưởng phân khu.  Đợt kiểm tra sắp tới ông ấy về đây, tôi và ông sẽ hỏi.
Bao Thuận Quý chuyển roi ngựa sang tay trái, chỉ ngón trỏ vào mặt Saxuleng, quát: Còn anh nữa, sao không xuống ngựa xúc tuyết?  Xúc đi chứ!  Tôi cần kiểm tra từng cái xác, để xem sói lợi hại đến mức nào mà tất cả đều đổ lên đầu chúng?  Mao Chủ Tịch đã dạy: Nhân tố con người quyết định tất cả!
Mọi người xuống ngựa, cầm lấy xẻng gỗ, xẻng sắt và chổi tre, bắt đầu dọn tuyết.  Bao Thuận Quý vẫn ngồi trên yên, lấy máy ảnh Hai Âu ra chụp làm tư liệu, miệng sa sả: Dọn sạch, dọn hết!  Vài hôm nữa, tổ điều tra quân sự Minh và Kỳ (cấp huyện) cũng về điều tra tiếp.
Trần Trận cùng các ông Ulichi, Pilich và Batu lội sâu vào tận trong cùng, băng phía dưới chưa tan, tuyết phía trên kêu lạo xạo dưới chân.  Ông già Pilich nói, chỉ cần xem con ngựa trong cùng có bị sói ăn thịt không, sẽ biết đàn sói lợi hại đến mức nào!
Trần Trận vội hỏi vì sao.
Ông Ulichi nói: Cậu thử nghĩ mà xem, vì rằng càng vào sâu bên trong càng nguy hiểm, sói cũng biết thế.  Vậy nếu con ngựa này cũng bị cắn chết, thì đúng là đàn sói vô cùng nguy hiểm.
Ông già ngoảnh lại bảo Batu: Có bắn cũng chẳng ăn thua!
Batu nhăn nhó khổ sở: Con đem theo có mười viên đạn, chỉ một lúc là hết nhẵn.  Bạch mao phong át hết tiếng sút.  Sói sợ bỏ chạy, nhưng khi thấy hết đạn, chúng liền quay lại.  Trời tối, đèn lại sắp hết pin, con nâng tầm bắn cao lên một thước.
- Khi ấy đâu có nghĩ dài dòng - Batu dùng ngón tay ấn nhệ vết thương trên mặt, nói - Trời tối mà tuyết thì lớn, chỉ sợ bắn phải ngựa.  Con cầu trời tạnh gió, đầm không đóng băng, sói không ra được, ngựa sẽ sống sót một số.  Con nhớ là đã nâng đầu nòng lên một thước.
Ông già Pilich và Ulichi thở dài nhẹ nhõm.
Đến bên mô tuyết trong cùng, Batu do dự một thoáng, rồi nhanh nhẹn xúc sạch tuyết ở chỗ đầu con ngựa.  Mội người lập tức bị sốc.  Con ngựa bạch to lớn bị cắn đứt một nửa cổ, đầu ngật ra phía lưng, mắt lồi hẳn ra ngoài như quả trứng muối bóc vỏ, trong suốt.  Sự sợ hãi tột độ còn hằn trên khuôn mặt ngựa.  Thật kinh khủng!  Tuyết dưới đầu ngựa  đã đóng băng, thấm máu tươi, xẻng xúc không vỡ.  Mọi người hì hục xúc và quyét, hai thân ngựa  lộ ra.  Trần Trận có cảm giác đây không phải là những vết cắn, mà như một quả tạc đạn nổ trong bụng, hai bên sườn vỡ toạc, ruột gan văng ra ngoài xa vài mét, một nửa mông không còn, xương lộ ra trắng hếu.  Rải rác trên tuyết những đoạn xương, những mảnh da và lông.  Sói chỉ ăn tim gan và một ít thịt bắp.  Con ngựa chỉ là đối tác cho sót trút cơn giận.  Trần Trận nghĩ, hình phạt phanh thây đối với  con người phải chăng học từ sói?  Hay là phần thú tính của nhân tính cùng một nguồn gốc với chất sói trong thú tính?  Trong các cuộc đấu tranh trong lịch sử nhân loại, quả thật người ta đã áp dụng luật sói đối với nhau.  Mục kích cuộc tàn sát quy mô lớn của sói, thú tính trong con người Trần Trận cũng nổi dậy, cậu tiếc không chộp ngay được một con sói để lột da, cắt gân cho hả giận!  Chẳng lẽ người đánh bạn với sói lâu ngày sẽ biến thành sói?  Hoặc con người ngày càng nhiễm chất thú!
Mọi người lặng nhìn.  Trần Trận cảm thấy chân tay lạnh thấy xương!
Ông già Pilich hai tay tì lên cán xẻng, vẻ đăm chiêu, nói: Có lẽ đây là đàn sói nếu không đông nhất nhì thì cũng đông thứ ba tôi thấy trong đời.  Con đầu đàn mà bị cắn xé đến như thế này, thì những con khác tôi không cần xem nữa, đảm bảo không còn con nào nguyên vẹn.
Ulichi mặt sa sầm, thở dài: Con ngựa này tôi cưỡi hai năm, bắt được ba con sói.  Nó chạy nhanh nhất nhì trong đàn.  Năm xưa tôi là đại đội trưởng kỵ binh đem quân đi tiễu phi, chưa khi nào được cưỡi con ngựa nào hay như nó.  Chiến lược chiến thuật của đàn sói này còn hay hơn cả bọn phỉ họ Mã năm xưa.  Chúng triệt để lợi dụng bạch mao phong và đầm lầy khiến ta cảm thấy con ngựa lười suy nghĩ.  Nếu tôi thông minh hơn sói một chút thì con ngựa này không chết.  Để xảy ra chuyện này, tôi xin chịu trách nhiệm, giá khi ấy tôi khuyên lão Bao một câu thì đâu đến nỗi!
Trần Trận vừa nghe chuyện hai ông già, vừa nghĩ chuyện của mình ở Trung Quốc, người ta thường coi hổ bảo sài lang là mãnh thú.  Nhưng hổ báo là loại thú hiếm, không sống theo bầy đàn, chuyện về chúng không nhiều.  Còn sài lang (sói) thì tương đối phổ biến, đâu cũng có.  Chúng sống thành đàn, có nhiều chuyện động trời.  Sói là loại thú dữ uy hiếp con người lớn nhất, nhiều nhất, lập lại nhiều lần nhất.  Trên thảo nguyên, sói là thiên đích lớn nhất của người, ngựa, bò, cừu. Vậy vì lẽ gì các tộc trên thảo nguyên lại sùng bái sói?  Trần Trận rút lại lập trường mà gần đây cậu mới xác lập.
Bãi tha ma đã dọn được quá nửa, mặt đầm thây ngựa ngổn ngang, máu loang tuyết trắng đỏ ngầu, chẳng khác mặt trăn bị bom đạn cày đi xới lại.  Những sinh mệnh đầy sức sống chuẩn bị ra trận bị phạt ngang, biến thành mồi cho pháo đạn.  Cảnh tượng thê thảm của từng con, cùng một đạng với con ngựa bạch.  Xác ngựa dầy đặc, xương cốt chân cẳng lẫn lộn, chỉ căn cứ vào cái đầu và màu lông để đếm.  Hai mã quan ngồi xổm trên băng, dùng bao tay và cả vạt áo khoác lau mặt ngựa, vừa lau vừa khóc.  Mọi người thẩn thờ vì thảm cảnh trước mặt.  Trần Trận và mấy thanh niên trí thức Bắc Kinh chưa bao giờ mục kích cảnh tàn sát tập thể dã man kiểu này, nên cứ đứng nhìn nhau, không thốt được lời nào.  Phản ứng đầu tiên của đám thanh niên trí thức là, người nào trong chúng ta gặp đàn sói này, thì có bị phanh thây như đàn ngựa không?
Trước mắt Trần Trận hiện ra cảnh thảm sát Nam Kinh, qua tính cách của sói, cậu nhìn thấy tính chất phát xít của bọn giặt Nhật.  Cơ thể cậu phản ứng dữ dội: Kinh tởm, phẫn nộ, buồn nôn, muốn nguyền rủa, muốn giết hết lũ sói.  Một lần nữa, cậu buột miệng nói trước mặt ông già Pilich: Loài sói dã man quá!  Dã man hơn cả bọn phát xít Nhật!  Phải xé xác chúng mới hả giận!
Ông già nhìn Trần Trận, mặt như chằm đổ nhưng giọng nói thì chắc nịch dây đàn, thoảng chút gíó là rung lên thành tiếng. Dân chăn ngựa đều nhớ nằm lòng câu châm ngôn bằng máu: Trên thảo nguyên Mông Cổ, phía sau bình yên không bình yên, đằng sau nguy hiểm vẫn còn nguy hiểm.
Batu vừa ra khỏi lều, liền ngửi thấy mùi bạch mao phong. Ngước nhìn hướng gió từ phương bắc tới, sắc mặt anh đang đỏ au bỗng xám ngoét, con ngươi màu hổ phách loé sáng. Anh lập tức trở vào lều đạp một phát cho anh bạn chăn Xaxưleng tỉnh dậy, rôi cầm lấy đèn pin, lên cò súng, lồng roi ngựa vào cổ tay, khoác áo da, dập lửa bếp, không quên đem theo hai áo khoác da cho hai người trực. Hai ngưòi khoác súng lên vai, cầm đèn pin dài hai thước, lên yên, nhằm phía đàn ngựa phóng đi.
Mặt trời vừa khuất sau dãy núi phía tây, thảo nguyên Ơlôn đã một màu xám xịt. Hai con ngựa vừa phi xuống dốc liền gặp bạch mao phong, người ngựa lập tức bị nuốt chửng, gíó cà rát mặt, mắt không mở đựoc vì tuyết hòn, ngựa liêu xiêu không vững.
Hai con ngựa như ngửi thấy mùi gì đó, đầu lắc liên hồi, chỉ rình chạy tháo thân. Hai người vẫn sát bên nhau nhưng Batu giơ tay nhìn không thấy ngón, sốt ruột gào toáng lên vẫn không thấy Xaxưleng đáp lại. Bão tuyết gào rú, nhận chìm tất cả. Batu gò cương lau mồ hôi và tuyết trên trán, định thần lại, rồi đổi tay cầm roi, cầm chắc đèn pin, bật công tắc. Bình thường đèn của anh sáng như đèn pha, ngoài trăm mét nhìn rõ ngựa, giờ chỉ nhìn được hơn chục mét, tuyết lông chim bay dày đặc trong quầng sáng. Lát sau, cặp người ngựa trắng như tuyết quét đèn lại phía anh, ánh đèn nhợt nhạt thảm hại. Hai người khua đèn một vòng tròn, tìm cách cho hai con ngựa đang kinh hoảng xáp lại gần nhau.
Batu kéo Xaxưleng lại gần, lột bao che tai của cậu ta, nói như quát: Dừng ở đây! Cho ngựa rẽ hướng đông, tránh hồ lớn! Không thì chết hết!
Xaxưleng cũng hét vào mặt Batu: Ngựa tôi sợ, e có sói. Bốn người làm sao chống lại?
Batu cũng hét: Phải chống thôi, chết bỏ!
Nói rồi, hai người giơ cao đèn pin rọi theo hướng bắc và liên tục khua tròn, phát tín hiệu cho hai mã quan và đàn ngựa.
Một con ngựa bờm và lông màu xám lao vào trong quầng sáng đèn pin rồi dừng lại đột ngột bên cạnh Batu như gặp được cứu tinh. Con ngựa chưa hoàn hồn, thở phì phì, dưới cổ có vết cắn máu chảy đầy ức, miệng vết thương bốc hơi, mảu rỏ giọt. Con ngựa của Xaxưleng hoảng sợ chồm hai chân trước rồi đầu cúi gằm, cổ vươn dài, nó bất chấp tất cả, phóng như điên theo chiều gió. Batu vội thúc ngựa bám sát Xaxưleng. Con ngựa xám cũng biến mất.
Loay hoay một lúc lâu, Batu mới tóm được cương con ngựa của Xaxưleng. Lúc này, đàn ngựa cũng đã chạy tới bên anh. Dưới ánh đèn pin loang loáng, những con ngựa mà anh nhìn thấy đều tỏ ra sợ hãi tột độ, hồn vía bay đâu mất, chẳng khác con ngựa xám lúc nãy. Đàn ngựa hí dài theo gió, vừa chạy vừa đá lung tung, hàng trăm cặp vó hất tuyết bay lên như sóng bạc đầu, trong tiếng gầm rú điên cuồng của bạch mao phong. Khi Batu và Xaxưleng rọi dèn xuống thấp, cả hai giật nảy người. Xaxưleng vội ghì chặt cổ ngựa để khỏi bị ngã. Tuy chỉ thoáng qua, nhưng với con mắt tinh tường của dân chăn ngựa, hai người đã nhìn thấy sói trong đàn ngựa. Những con ngựa ở vòng ngoài, gần như con nào cũng bị hai ba con sói đeo bám, những con sói trắng toát do bạch mao phong cài tuyết đầy người. Eo ngựa lớn hơn rất nhiều so với lúc thường, trắng lốp. Bầy sói như hung thần ác quỉ khiến cánh mã quan chết khiếp. Những con sói lúc thường thấy ánh đèn pin là bỏ chạy, lúc này chúng chẳng sợ gì cả, chúng đang nổi cơn điên vì căm thù.
Batu toát mồ hôi, chạm trán với bầy sói, anh cảm thấy như bị Trời trừng phạt. Tuy nhiên, là mục dân Ơlôn, ai mà chẳng chôn trong bụng sói, khi chết vẫn được sói xử lý gọn ghẽ để linh hồn được về với Trời. Nghìn năm qua là thế, nghìn năm nữa vẫn vậy. Nhưng người ta dù khoẻ mạnh hay đau yếu vẫn sợ sói, không muốn bị sói ăn thịt khi chưa hết tuổi trời.
Batu và Xaxưleng không nhìn thấy hai mã quan kia. Anh đoán hai người hoặc đã bị thương vì bạch mao phong, hoặc ngựa của họ khiếp đảm chạy bạt mạng. Hai người trực ban ngày, không súng, không đèn pin, không áo khoác dày. Batu đành phó mặc cho may rủi, bảo Xaxưleng: Kệ họ, cứu đàn ngựa đã!
Đàn ngựa vẫn chạy theo ánh đèn của Batu. Bảy tám mưoi con ngựa này là tinh hoa của các đàn ngựa trên thảo nguyên Ơlôn và là tâm huyết của mấy chục mã quan, toàn là ngựa thuần chủng, rất quí, giống ngựa Uchumuxin nổi tiếng thế giới, sách gọi là ngựa Đột Quyết. Chúng có thân hình tuyệt đẹp, sức chịu đựng tốt, giỏi nhịn đói nhịn khát, chịu mưa chịu nắng, chạy nhanh và dai sức. Thường ngày, người cưỡi chúng là mã quan và những người đứng đầu cơ quan quản lý mục trường. Giờ phải điều cho sư đoàn kỵ binh dân quân để chuẩn bị cho cuộc chiến, mục trường rất khổ tâm mà không nói ra. Đàn ngựa này mà bị sói ăn thịt, hoặc chết đuối dưới đầm lầy, thì đám mã quan sẽ xé xác anh ra! Batu điên đầu khi nghĩ đến những mã phu ngày thường vốn không phục anh.
Thấy Xaxưleng còn chần chừ, Batu thúc ngựa vọt lên, gõ roi vào đầu anh ta, cho ngựa ép anh ta về phía đàn ngựa. Anh huơ đèn pin mấy vòng trên đầu làm hiệu, quát: Cậu mà bỏ chạy, tôi bắn chết! Xaxưleng la to: Tôi không sợ, nhưng ngựa tôi sợ! Xaxưleng cầm cương vụt liền mấy cái lên đầu con ngựa của cậu ta, nó mới chịu áp sát đàn ngựa. Hai người dùng ánh đèn pin chỉ huy đàn ngựa, vụt thẳng cánh những con không tuân lệnh và những con vẫn chạy theo chiều gió, cố lái đàn ngựa chạy chếch về hướng đông. Batu đoán hồ lớn ngày càng gần, chỉ khoảng hai chục dặm. Những con ngựa chiến này đều là ngựa thiến, cổ cao ức nở, không lấn bấn vợ con như những con ngựa khác nên di chuyển nhanh, với tốc độ này thì chỉ sau nửa giờ là cả đàn tới đầm lầy. Cái đầm này nguy hiểm ở chỗ chiều bắc nam hẹp, đông tây rộng, án ngữ ngay trên đường chạy. Nếu gió không đổi chiều thì khó thoát. Batu hình dung cái đầm như miệng con quái vật há hốc, đang chờ thần gió và thần sói dẫn đàn ngựa tới.
Bạch mao phong không đổi hướng, tiếp tục lồng lộn từ bắc xuống nam. Trong đêm tối, Batu có thể qua tiếng chân ngựa chạm đất mà đoán được địa hình cao thấp, chất đất mịn thô, để biết mình đang ở đâu và gió chiều nào. Giờ đây lòng như lửa đốt, anh cảm thấy những con sói mẹ mất con còn điên cuồng hơn sói chúa. Bất chấp đang bị đàn sói bao vây, bất chấp con ngựa anh cưỡi có thể bị cắn chết, bị té, quẳng anh xuống đất cho đàn sói xé xác, anh chỉ một ý nghĩ: Phải lái đàn ngựa rời hướng bắc nam, chạy vòng hồ lớn để tập kết chúng tại khu lều Mông Cổ rồi huy động đàn chó và mọi người ra đối phó với đàn sói.
Đàn ngựa chạy theo sánh sáng đền pin, hai mã quan bám sát, luôn miệng gào thét và quất roi tới tấp. Chúng hình như đã có con đầu đàn: Một con ngựa bạch cao lớn tách ra, vươn cổ hí dài, tỏ ý tự nguyện đảm nhiệm vai trò của người hướng đạo. Batu và Xaxưleng vội rọi đèn về phía con ngựa bạch. Có ngựa đầu đàn, đàn ngựa tỏ ra phấn khởi, tinh thần bầy đàn lập tức đựoc khôi phục, thế trận truyền thống tự ngàn đời lập tức được tổ chức để đối phó với bầy sói. Con đàu đàn bỗng phát tiếng hí lệnh, đàn ngựa đang bị sói phá tan đội hình, lập tức co cụm về phía con đàu đàn, vai ken vai, bụng ken bụng đến mức gió thổi không lọt. Hàng trăm cặp vó đồng loạt nện mạnh xuống phía dưới. Lũ sói trở tay không kịp, mất lợi thế, đã có những con bị què chân, gãy xương sống, vỡ đầu chảy máu. Giờ thì tiếng rú tiếng kêu thảm thiết của sói át cả tiếng gầm gào của bạch mao phong. Batu nhẹ cả ngưòi. Anh thấy chí ít có bốn con sói bị chết hoặc bị thương. Anh nhớ nơi này, đợi khi gió tạnh trời quang, anh sẽ trở lại lột lấy da. Đàn ngựa sau khi làm cuộc đại sát giới, nhanh chóng chỉnh đốn đội hình, con yếu vòng trong, con khoẻ vòng ngoài, hình thành cụm phòng ngự với những cú đá hậu như trời giáng bởi những cặp vó đóng cá sắt.
Khoảng cách với hồ lớn không còn xa. Batu rất bằng lòng về đội hình chính qui của đàn ngựa vừa được tổ chức lại. Đó là đội hình có thể hành động theo chỉ huy, chỉ cần điều khiển được con đầu đàn là trong khoảng thời gian ngắn có thể lái đàn ngựa chạy về phía đông của hồ lớn. Nhưng Batu vẫn còn một mối lo: Đàn sói này không bình thường. Không nên đả thương những con sói khùng, vì càng bị đánh chúng càng dữ. Ai cũng biết sói thảo nguyên trả thù ghê gớm như thế nào. chắc chắn đàn sói nghe thấy tiếng kêu thảm thiết của những con sói bị thương ban nãy, đoạn đường sắp qua sẽ đầy nguy hiểm. Batu nhìn lướt đàn ngựa, nhiều con đã bị thương. Đàn ngựa này toàn ngựa tốt, ngựa chiến, vừa đánh nhau với sói, dù bị thưong sẽ vẫn chạy theo đàn, không chịu rớt lại để sói có dịp tấn công.
Nhưng đàn ngựa cũng có chỗ yếu chí mạng: Là ngựa thiến nên chúng thiếu tính dũng mãnh chủ động tấn công của con đực. Thảo nguyên Mông Cổ có hơn chục dòng ngựa lớn nhỏ, mỗi dòng có một con đầu đàn, vó bằng, bờm chấm đất, cao hơn những con khác một cái đầu, tướng mạo khôi ngô hùng vĩ. Đó là con đầu đàn, dìu dắt cả đàn và là sát thủ thực thụ. Gặp sói, dưới sự chỉ huy của con đầu đàn, đàn ngựa lập tức quây thành vòng tròn, ngựa cái và ngựa con bên trong, ngựa khoẻ bên ngoài. Con đầu đàn đứng riêng, tấn công trực diện kẻ thù. Nó lắc bờm, khịt mũi, hí vang, hai chân trước chồm lên, đứng bằng hai chân sau sừng sững như quả núi nhỏ trên đầu sói, rồi bổ cặp vó xuống đầu sói bằng cả sức nặng của cơ thể. Nếu sói bỏ chạy, ngựa đầu đàn đuổi theo, đầu cúi gằm, vừa cào vừa cắn. Những con đầu đàn to lớn còn biết ngoạm sói tung lên trời, quật xuống đất rồi giẫm chết. Trên thảo nguyên, sói dữ đến mấy cũng không phải là đối thủ của ngựa đầu đàn. Ngựa dầu đàn bảo vệ đàn ngựa không kể ngày đêm. Khi gặp sói đàn, gặp sấm sét, cháy đồng, ngựa đầu đàn tận tâm bảo vệ dòng họ, biết cách giảm thiểu thương vong, đưa bầy đàn đến nơi an toàn.
Lúc này Batu rất nhớ con ngựa đầu đàn của anh. Con ngựa bạch và đàn ngựa đều là ngựa thiến, khoẻ đấy, nhưng đã mất nam tính, chiến đấu không hăng. Batu nghĩ mà buồn. Mấy năm liền bộ đội chính qui không về tuyển ngựa chiến, mọi người đã quên khuấy sự tai hại của một đàn ngựa chiến mà không có con đầu đàn. Có người đã nghĩ tới, nhưng lại thấy không cần, vì chỉ vài hôm là đàn ngựa sẽ chuyển đi., mà đã chuyển đi thì chẳng còn chuyện gì liên quan tới mục trường. Tưởng không thể sinh chuyện, ai đè đó chính là điểm yếu cho sói lợi dụng. Batu càng nghĩ càng phục con sói chúa. Có thể nó phát hiện rất sớm đàn ngựa chiến không có con đầu đàn. Batu áp sát tận nơi mới vụt cho con đầu đàn một roi thật mạnh, bắt nó rẽ sang hướng đông, đồng thời xoay khẩu bán tự động ra trước ngực, mở chốt an toàn, nhưng nếu không thật cần thiết thì anh cũng không nổ súng. Đàn ngựa hãy còn là tân binh, nổ súng không những không doạ được sói, mà còn khiến ngựa vỡ đàn. Xaxưleng cũng làm mọi công việc chuẩn bị như Batu. Bạch mao phong ngày càng mạnh, hai người tay đã mỏi dừ, giơ không nổi chiếc thòng lọng dài thượt. Hồ lớn cũng ngày càng gần, bình thường đã có thể ngửi thấy mùi muối. Batu cáu tiết bèn lấy độc trị độc. Anh vụt con ngựa đầu đàn một roi thật mạnh, tiếp theo là tiếng huýt sáo gọi đàn đi uống nước. Con đầu đàn và đàn ngựa rất hiểu ý chủ, hướng nam chính là hồ lớn mà cứ hai ngày một lần chúng đến đó uống nước. Mùa xuân năm nay hạn liên tiếp, nước đã rút xuống giữa hồ, xung quanh là bãi lầy, chỉ còn đôi chỗ đất cứng vì là lối đi của gia súc nên tương đối an toàn, những nơi khác đều nguy hiểm. Từ đầu xuân đến giờ rất nhiều gia súc đã bị sa lầy mà chết. Đàn ngựa đi uống nước, dù là theo chân mã quan, chúng vẫn hết sức dè dặt. Ngay dù ban ngày, không một con ngựa nào dám chạy ào ra đầm lầy.
Tiếng huýt sáo lệnh của Batu quả nhiên linh nghiệm. Đàn ngựa vốn quen thuộc bãi chăn, nhận ra ngay mối nguy đang chờ đợi ở phía nam. Chúng hí vang, cả đàn chỉ dừng lại trong một thoáng rồi tất cả chuyển hướng, liều chết rẽ sang hướng đông nam, mặc cho bão tuyết tạt sườn với sức mạnh khủng khiếp. Phía nam là đầm lầy, phía bắc ngược gió, chỉ còn mỗi phía đông nam là con đường sống, Lũ ngựa mở to cặp mắt thất thần, cắm đầu chạy, thở hồng hộc, không hí lấy một tiếng. Đàn ngựa chạy đua với thần chết trong một tâm trạng kinh hoàng.
Đàn ngựa vừa đổi hướng, tình hình đã đổi khác. Khi chuyển sang hướng đông nam, đội hình ngựa bị hở sườn cho sói công kích. Không còn đội hình ken dày, đá hậu là môn võ sở trường không còn phát huy tác dụng. Gió tạt sườn làm chậm tốc độ - vũ khí chống lại sói của đàn ngựa. Nhưng gió tạt sườn lại giúp sói, như hổ mọc thêm cánh. Thông thường, tốc độ của sói dù xuôi gió hay ngược gió đều nhanh hơn tốc độ của ngựa. Thuận gió, sói chạy nhanh, nhưng ngựa cũng không chậm. Nhưng sói không dám nhảy lên lưng ngựa từ phía sau, vì gặp phải con ngựa tinh khôn tăng tốc đột ngột, sói sẽ rơi vào chân sau của ngựa, không chết cũng bị thương. Muốn đạt kết quả, sói chỉ có thể nhảy tạt ngang, nhưng nếu tạt ngang thì tốc độ của sói bị ảnh hưởng, vồ trúng cũng hoá trượt, giỏi lắm cũng chỉ cào rách da, tỉ lệ cắn chết không đáng kể. Lúc đàn ngựa đổi hướng, tốc độ chựng lại, đã tạo cho sói một cơ hội vàng, sói nhanh vồ ngựa chậm, sói không cần tạt ngang mà chỉ cần bổ nhào từ trên không xuống lưng ngựa, hàm răng rắn như thép bập một phát vào chỗ chí mạng rồi nhảy trái ra. Ngựa dùng cách lăn đất để rũ sói trên người, nếu là sói độc, một chọi một còn khả dĩ, nếu là sói đàn thi khi ngựa lăn đất, đàn sói bu lại xé tan xác.
Đàn ngựa hí thảm thiết, từng con bị thương một bên eo hoặc một bên ức, máu me vung vãi, thịt da tơi tả, cuộc tàn sát đẫm máu khiến đàn sói càng hung hăng lạ thường. Chúng không kịp ăn, mà chỉ điên cuồng cắn xé. Ngựa bị thương ngày càng nhiều, còn sói thì liên tục tấn công, đợt này tiếp đợt khác. Sói chúa và sói đầu đàn vượt lên trước, chồm lên mình ngựa cắn một miếng ngập răng rồi hai chân sau làm điểm tựa, hai chân truớc làm điểm tì, mình cong như cánh cung, dùng sức bật khủng khiếp bứt miếng thịt trên mình ngựa. Con sói nhả miếng thịt còn cả lông ra, lộn ba vòng, rồi nhảy lên, cắn tiếp. Đàn sói theo sau, tranh nhau bắt chước sói chúa và con sói đầu đàn, phát huy đến tận cùng bản năng săn mồi trong huyết quản.
Đàn ngựa thương vong nhiều, máu me vung vãi, tuyết lạnh lại phủ lên, xoá sạch dấu vết. Cảnh tàn khốc tái diễn trên thảo nguyên tàn khốc. Đàn sói ngốn ngấu biết bao sinh linh của thảo nguyên, đời này sang đời khác lưu lại dấu ấn bằng máu.
Dưới ánh đèn pin loang loáng, Batu và Xaxưleng thêm một lần mục kích cảnh tàn sát trên thảo nguyên, nhưng lần này thì lại càng không chịu đựng nổi, vì đây là số ngựa được tuyển mộ cho quân đội. Chúng là những con ngựa chiến nổi tiếng làm vẻ vang cho thảo nguyên Ơlôn, đã bao lần thoát hiểm từ miệng sói, những đứa con cưng được mã quan trong nhiếu năm ra công chăm chút. Giương mắt mà nhìn lũ sói cắn xé đàn ngựa, Batu và Xaxưleng khóc không ra tiếng, lửa giận bừng bừng nhưng phải cố nén để đủ tĩnh trí bảo về cho số còn lại. Batu mỗi lúc mỗi lo, bằng vào kinh nghiệm bản thân, anh thấy đàn sói này không bình thưòng, kẻ cầm đầu của chúng rất mưu mẹo, tính toán, thông thạo vùng Ơlôn. Đó là con sói trắng. Đàn sói này, những con sói đực thì căm thù vì bị cướp mất miếng ăn, những con sói cái thì điên dại vì mất con. Nhưng con sói chúa thì không điên. Nhìn đàn sói ép đàn ngựa chạy về hướng nam, có thể đoán sói chúa định giở trò gì? Nó định dồn đàn ngựa xuống đầm lấy! Đây là chiêu thức quen dùng của sói chúa trên thảo nguyên. Batu càng nghĩ càng hãi. Trước đây anh có lần chứng kiến sói chúa dồn dê vàng xuống đầm lầy, cũng từng thấy sói dồn bò, ngựa xuống đầm lầy, nhưng số lượng không nhiều. Còn như dồn cả một đàn ngựa thì anh chỉ được nghe người già kể lại. Chẳng lẽ đàn sói hôm nay cũng làm thế? Chẳng lẽ chúng ăn gỏi cả một đàn ngựa? Batu không dám nghĩ tiếp.
Batu huơ đèn gọi Xaxưleng. Hai người liều mạng chạy vòng từ tây sang đông, trực tiếp cản đàn sói, dùng thòng lọng, đèn pin để doạ sói. Sói vốn sợ thòng lọng, sợ ánh đèn chói mắt. Hai người hai ngựa tả xung hữu đột dưới ánh đèn, tạm thời bảo vệ được mạn sườn phía đông của đàn ngựa. Đàn ngựa từ trạng thái kinh hoảng, dần trấn tĩnh lại, nhanh nhẹn điều chỉnh bước chân, tranh thủ chạy về phía đông của đầm lầy. Chúng biết rằng, chỉ cần vòng qua đầm lầy từ phía đông, thuận gió chạy về khu lều nuôi cừu mới đẻ, nơi có rất nhiều căn lều, có nhiều người quen, có nhiều tiếng hò, nhiều ánh sáng chói mắt, lại có những người bạn thân - đàn chó săn. Đàn chó trông thấy sói là choảng liền, cùng với những chủ chó cứu đàn ngựa.
Nhưng sói là thần chiến tranh kiên trì tìm kiếm cơ hội và biết chờ đợi cơ hội trên thảo nguyên. Mỗi khi chộp được một cơ hội, sói quyết không buông, chưa vắt kiệt sức chưa bỏ cuộc. Đang nổi khùng mà có cơ hội như thế này, sói lập tức ăn sống nuốt tươi, không cho con ngựa nào chạy thoát. Đàn ngựa đã chạy đến bãi cỏ ven đầm, vó ngựa cày tuyết trên mặt và cả đất phèn phía dưới, mùi cay xộc lên mắt lên mũi người và ngựa, họ hiểu rằng, đang trên bờ vực thẳm. Xung quanh một màu đen kịt, không nhìn thấy nhưng vẫn cảm nhận được mùi vị của đầm lầy. Người và ngựa bất chấp mắt mũi cay xè tiếp tục chạy. Khi nào không thấy mùi cay bốc lên từ vó ngựa, có nghĩa là đã tới con dốc thoai thoải phía đông đầm lầy. Khi ấy đàn ngựa sẽ tự động chuyển hướng, men theo bờ phía đông, xuôi gió chạy về nam.
Người, ngựa, sói cùng chạy. Sói tạm ngừng tấn công, nhưng Batu vẫn căng thẳng tới mức bàn tay cầm súng ướt đẫm mồ hôi. Kinh nghiệm mười máy năm chăn ngựa đã mách anh, đàn sói sắp sửa phát động cuộc tổng công kích lần cuối, nếu không, sẽ chẳng còn dịp nào khác. Đàn sói quyết không bỏ lỡ một dịp trả thù. Chịu đựng hơi phèn đỏ mặt mũi, chúng chạy mò cùng ngựa một đoạn đường. Chỉ cần đàn ngựa chạy lên dốc là Batu nổ súng, vừa giục ngựa chay nhanh vào đưòng rẽ, vựa giết sói doạ sói, vừa báo động cho mọi người đến cứu. Batu cố kìm cho tay bớt run, nhằm chỗ sói đông nhất lẩy cò. Xaxưleng cũng làm như anh.
Batu chưa kịp trở tay, đàn ngựa bỗng hí vang, kinh hoảng tột độ. Con ngựa anh cưõi hình như bị vướng chân. Anh dụi mắt soi đèn lên phía trước. Dưới ánh đèn, mấy con sói gộc chụm vào nhau chạy tới trước ngựa anh. Chúng không sợ ngựa xéo để cản mũi anh. Batu ngoảnh lại nhìn, Xaxưleng cũng đang bị sói chặn hậu. Lũ sói bắt đầu tấn công con ngựa của Xaxưleng. Batu hươ đèn ra hiệu cho Xaxưlen: Tính phát xít của Nhật Bản là có từ trong máu, không phải học từ sói. Tôi đã đánh Nhật tôi biết, Nhật không có thảo nguyên lớn, không có đàn sói lớn.  Người Nhật thấy sói bao giờ chưa?  Vậy mà chúng giết người như ngoé?  Tôi dẫn đường cho Hồng quân Liên Xô, đã từng thấy những việc lầm của người Nhật.  Đường Thạch Tử là con đường từ mục trường ta đi Cát Lâm, Đông Bắc, riêng sửa đường đã chết bao nhiêu người?  Xương trắng đầy hai bên đường, mỗi hố to chất đống mười mấy sinh mạng, một nửa là người Hán, một nửa là người Mông.
Ulichi nói: Chuyện này cũng không nên chỉ quy tội cho sói.  Con người cướp hết lương thực cứu đói của sói, bắt đi bao nhiêu sói con, làm sao nó không trả thủ?  Có trách là trách chúng ta không trông nom đàn ngựa cẩn thận.  Sói rất ham sống, nếu không cùng đường, sói không cắn người.  Người có chó, có súng, có thòng lọng.  Trên thảo nguyên sói sợ người, đa phần sói bị người giết.  Còn giặc Nhật thì sao?  Trung Quốc chúng ta chưa bao giờ xâm lược họ, còn giúp họ nhiều chuyện, vậy mà họ giết người Trung Quốc như ngoé!
Ông già Pilich rõ ràng là không bằng lòng, lườm Trần Trận, nói: Người Hán ngồi không vững trên yên ngựa, ngồi đã không vững thì khi bị vấp dễ lộn cổ xuống đất.
Trần Trận rất ít khi bị ông già mắng.  Lời ông khiến đầu óc cậu sáng ra.  Cậu hiểu ý tứ trong câu nói của ông.  Cậu nhận thấy tôtem sói ngự trong ông già vững vàng hơn kỵ sĩ Mông Cổ ngồi trên lưng ngựa.  Các dân tộc thảo nguyên qua ngàn năm vật đổi sao dời, nhưng tôtem sói thì nghiễm nhiên tồn tại cho đến bây giờ, không dao động mảy may vì cái chết của bảy tám chục con ngựa chiến.  Trần Trận chợt nhớ lại những câu: Hoàng Hà trăm hai, không lai một giầu", "Hoàng Hà vỡ đê, người biến thành cá", "Hoàng Hà sông Mẹ", "Hoàng Hà - cái nôi của dân tộc Trung Hoa".  Dân tộc Trung Hoa không vì Hoàng Hà gây trăm hại mà không gọi bằng "Mẹ".  Thì ra, trăm họa có thể song hành với Mẹ.  Tôtem sói của dân Mông Cổ cũng được coi trọng như "sông Mẹ" của dân tộc Trung Hoa.
Bao Thuận Quý cũng không nhăn nhó nữa.  Ông ta vẫn ngồi trên mình ngựa để quan sát hiện trường rõ ràng hơn.  Ông ta không hề nghĩ rằng sói Mông Cổ lại tàn bạo đến như vậy, cũng không nghĩ rằng đàn ngựa đông như thế mà vẫn bị sói xơi tái.  Ông ta ngạc nhiên từ đầu đến cuối.  Trần Trận trông thấy ông  ta run run khi cầm máy ảnh, ông ta liên tục đổi cách cầm mới không bị rơi.
Ông già Pilich và ông Ulichi xúc tuyết bên một lô xác ngựa ở giữa đầm, hai ông đào bới như đang tìm cái gì ở đó.  Trần Trận vội đến đào giúp.  Cậu hỏi ông già Pilich: Bố tìm cái gì thế?  Ông già trả lời: Tìm đường đi của sói.  Kìa cậu, xúc nhẹ thôi!  Trần Trận cẩn thận lựa chỗ đặt chân rồi cúi xuống quan sát.  Lát sau ba người đã tìm ra con đường của sói - con đường tuyết dày bốn lóng tay, rất rắn, được hình thành trên mặt bùn nhão.  Quét sạch lớp tuyết xốp mới phủ bên trên thì thấy dấu chân sói, to thì như chân bê, nhỏ như chân chó gộc.  Mỗi dấu để lại vết lỏm, có vết còn vương máu ngựa.
Ông Ulichi và ông già Pilich gọi mọi người lại, tập trung quét sạch con đường sói.  Ông bảo, quét sạch tuyết sẽ đoán được đàn sói lớn hay nhỏ.  Quét được một lúc, mọi người nhận thấy đường sói không thẳng mà cong, quét tiếp lại thấy đó là đường cánh cung, quét hơn một giờ, thì ra nó là một đường tròn, một đường tròn bằng tuyết rắn, trong tuyết có máu, mặt đường cao hơn mặt bùn một cạnh bàn tay, băng thấm máu tươi khiến người kinh hãi, y như con đường dẫn xuống âm phủ, như một đồ thị đầy những ký hiệu quái quỉ.  Đường rộng hơn mét, chu vi năm sáu chục mét, bên trong tập trung rất nhiều xác ngựa.  Mặt đường dày đặc những dấu chân sói vấy máu.  Mọi người sợ run, bàn tán sôi nổi:
- Tôi ngần này tuổi đầu chưa bao giờ thấy dấu chân sói to như thế?
- Đâu phải sói, yêu quái thì có!
- Đông khiếp!
- Ít nhất cũng bốn năm chục con.  Batu bợm thật!  Một mình mà dám chơi đàn sói này.  Phải tôi thì đã ngã ngựa, làm mồi cho sói rồi!
- Đêm ấy tối trời mà tuyết thì lớn, cháu chẳng nhìn thấy gì, đâu biết đàn sói đông như thế.
- Rồi ta sẽ gặp nhiều rắc rối đây!
- Đám con gái còn dám đi đêm nữa không?
- Các ông trên mục trường bộ thiển cận quá, cướp sạch thức ăn dự trữ cứu đói của sói, khiến chúng nổi khùng.  Tôi mà là sói, tôi chén sạch gà lợ của các vị ấy.
- Ông nào dở thế không biết.  Đào bắt bao nhiêu là sói con, hèn gì chúng chẳng nổi điên?  Những năm trước bắt ít, đàn ngựa có sao đâu!
- Ban quản lý cũng nên làm vài việc nghiêm chỉnh. Phải tố chức diệt sói. Cứ đà này, sói sẽ ăn thịt người!
- Bớt họp đi, tập trung vào những việc thiết thực.
- Tình hình này thì đàn gia súc không đủ cho sói tráng miệng.
- Lãnh đạo mục trường có một số xuất thân nông nghiệp, làm toàn những chuyện thất đức nên Trời sai sói xuống cho một bài học.
- Đừng có phát ngôn bừa bãi!  Có muốn đấu tố không?
.......
Bao Thuận Quý cùng Ulichi và ông già Pilich quan sát, chụp ảnh con đường của sói, chốc chốc lại trao đổi ý kiến.  Nét mặt cau cau của ông, Bao Thuận Quý bắt đầu giãn ra.  Trần Trận đoán ông già đã tác động được vào "nhân tố con người quan trọng nhất" của ông ta.  Tai họa cỡ này, con người làm sao chống lại?  Tổ nào về điều tra cũng vậy thôi, nhìn hiện trường là thấy sức người khó mà đối phó, nhất là với bầy sói ranh ma quỷ quyệt lợi dụng bạch mao phong tấn công về đêm.
Trần Trận thấy đỡ lo cho ông già Pilich và ông Ulichi.
Trần Trận bắt đầu suy nghĩ về con đường của sói, một đường tròn ma quái khiến người rợn tóc gáy.  Nó như xiết từng vòng quanh ngực cậu, vòng sau chặt hơn vòng trước, khic tới bên con ngựa ngã xuống nhưng chưa chết, ngoạm luôn một miếng. Nó không bỏ qua cơ hội cuối cùng. Chỉ cần còn miệng, còn răng thì dù không còn cái bụng con sói vẫn ăn, miếng thịt ngựa trôi qua họng rồi truồi ra ngoài, con sói không còn bụng làm cữ là con sói tham ăn nhất, ăn nhiều nhất, và chắc chắn nó là con sói ăn nhiều thịt ngựa nhất trong một bữa ăn tàn bạo cuối cùng của cuộc đời. Những con ngựa bị sói xé rách bụng vốn no căng, dạ dày chứa toàn cỏ non năm nay và cỏ thu năm ngoái, thuỷ phần đầy đủ nên rất nặng, một khi bụng rách, dạ dày và ruột lập tức văng ra ngoài, lòng thòng trên tuyết. Hai chân sau của ngựa vẫn chạy theo quán tính giẫm rách dạ dày, cuốn ruột vào chân, chỉ nháy mắt dạ dày vỡ toạc, thức ăn tung toé, ruột gan nát bét. Vậy mà con ngựa sợ đến mất trí vẫn lồng lên, cuốn vào chân sau tất cả nội tạng: dạ dày và ruột, cuối cùng đến tim phổi, khí quản đều bị lôi hết ra. Con ngựa chết vì chính nó giẫm lên gan ruột của nó, có thể tự giẫm phải mật, chết vì vỡ mật; có thể tự dẫm phải tim, chết vì vỡ tim; có thể tự dẫm bẹp phổi, chết vì nghẹt thở. Tự sát của sói vô cùng đau đớn và tàn khốc, do vậy sói không cho đối thủ được chết thanh thản, bắt đối thủ nếm trải nỗi kinh hoàng của tự sát Ngựa bị sói giết, nhưng một nửa cái chết của ngựa là tự sát. Cái chết của ngựa càng đau đớn càng oan khuất càng thê thảm.
Cuộc tấn công tự sát cuối cùng của đàn sói, đập tan sự chống trả có tổ chức của đàn ngựa, thảo nguyên trở thành chiến trường, những con ngựa tự dẫm lên gan ruột đang giẫy chết, khoang bụng khoang ngực vẫn nóng hôi hổi, chỉ một thoáng đã lạnh ngắt vì tuyết lọt vào. Những con khác lần lượt ngã xuống, không ngừng co giật, máu phun có vòi, nhuốm đỏ những bông tuyết bay qua. Hàng triệu viên tuyết hòn nhuốm đỏ đuổi theo những con ngựa kinh hoàng thất thố mà bỏ chạy. Bão tuyết càng mạnh lên, tiếp tục rượt theo đàn ngựa đến hơi thở cuối cùng.
Batu đứng như trời trồng trước cảnh báo thù tự sát của bầy sói, chân tay run bắn, mồ hôi trên người cũng đã đóng băng. Anh biết đại sự đã hỏng, không thể cứu vãn, nhưng anh vẫn muốn cố giữ lại vài con đầu đàn, bèn gò cương cho ngựa lấy đà rồi thúc ngựa bằng gót ủng, nhả cưong cho con ngựa ô vọt qua đầu lũ sói chặn đường, lướt tới con ngựa đầu đàn. Nhưng đàn ngựa đã bị sói quần cho tơi tả, binh bại như núi lở, toàn bộ số ngựa còn lại chạy xuôi gió tháo thân, nhanh như tên bắn, quên phắt phía nam là đầm lầy.
Con dốc xuôi về phía đầm lầy, thành ra đàn ngựa tăng tốc tự nhiên, bạch mao phong càng mạnh, đẩy sau lưng với sức mạnh khủng khiếp, đàn ngựa như vừa bay vừa chạy, ào ào núi lở đá lăn, lao tuột xuống đầm lầy. Tức thì băng mỏng vỡ vụn, bùn lầy tung toé, đàn ngựa đã sa xuống đầm. Chúng tuyệt vọng hí vang, giãy giụa điên cuồng mong thoát hiểm. Ngựa khiếp đảm trước hành động phục thù mang tính khủng bố của bầy sói, do dự một lát, rồi ra sức trườn vào nơi sâu hơn, thà chết đuối còn hơn rơi vào miệng sói, không cho kẻ thù truyền kiếp vớ bở. Những con ngựa đã bị con người diệt mất nam tính này khi cận kề cái chết đã vùng lên phản kháng lần cuối, lấy tự sát tập thể đối phó với tấn công tự sát của bầy sói. Chúng là những sinh mệnh mạnh mẽ nhất trên thảo nguyên.
Nhưng thảo nguyên tàn nhẫn coi khinh và không hề thương xót kẻ yếu. Khí ôn về đêm đã mau chóng kết thành một lớp băng mỏng trên mặt đầm, ven đầm tuy đông cứng, nhưng bên trong đầm vẫn lút một phần chiều cao của ngựa. Khi đàn ngựa lao xuống đã đụng lớp bùn đặc quánh so với lúc thường, bão tuyết và giá lạnh càng làm cho bùn đặc như keo níu chân đàn ngựa. Đàn ngựa ra sức trườn, miết, gồng mình lên mà bò, nhưng sau mỗi cử động, gió lại lùa tuyết vào khe hở giữa thân ngựa và đất bùn nhiều hơn, cuối cùng đàn ngựa kiệt sức, không cử động gì nữa. Con ngựa đầu tiên xông vào vẫn hở đầu, hở cổ, hở lưng, không lún sâu thêm. Những con phía sau thì mới lút bốn chân, mình vẫn trên mặt bùn. Lúc này đàn ngựa y hệt những tử tù trên pháp trường, băng tuyết trên mình như trói kiểu ngũ hoa, muốn chết mà không chết cho, hí thảm thiết, hơi phả ra như sương bám trên mặt lông. Đàn ngựa hiểu giờ đây không ai cứu nổi chúng, không ai cản được cuộc tàn sát tập thể đối với chúng.
Batu điều khiển con ngựa ô thận trọng tiến vào ven đầm. Chân vừa chạm bùn, con ngựa khịt khịt mũi, cúi thấp nhìn mặt đầm băng tuyết, không dám bước tiếp. Batu rọi đèn vào bên trong, trong tic tắc tuyết ngừng rơi, anh nhìn thấy bóng dáng đàn ngựa. Vài con cố lúc lắc cái đầu kêu cứu về phía chủ. Batu thúc ngựa tiến lên, con ngựa dụt dè bước lên năm sáu bước rồi hoảng hốt nhảy giật lùi cho đến khi gặp đất cứng mới dừng lại. Batu vụt con ngựa một roi vào mông, nó vẫn ỳ ra không chịu tiến. Anh định bỏ ngựa, tiếp cận đàn ngựa rồi bảo vệ chúng bằng súng. Nhưng nếu không cưỡi ngựa mà gặp sói thì mất lợi thế từ trên đánh xuống, đàn sói sẽ không sợ anh, cả người lẫn ngựa sẽ bị xé xác. Với lại, anh chỉ có mười viên đạn, bản lĩnh bằng trời thì cũng chỉ mỗi phát một con, không thể bắn chết hết. Mà dù anh có đuổi được đàn sói đi, thì chỉ qua nửa đêm bạch mao phong càng lạnh, sẽ đóng băng toàn bộ đàn ngựa dưới đầm lầy. Còn nếu như anh chạy về đại đội bộ cầu cứu thì đang lúc bão to như thế này, nhà nhà đang dốc sức bảo vệ đàn cừu, đại đội không thể điều lao động và xe đi cứu. Batu băng bám trên mặt, anh ngoảnh về phía đông, khấn: Lạy trời, lạy ông trời trường sinh bât tử! Hãy cho con trí tuệ, hãy cho con sức khoẻ như thần, hãy giúp con cứu lấy đàn sói! Nhưng ông Trời phồng mang mà thổi cho bạch mao phong át đi lời thỉnh cầu của anh.
Batu dùng bao tay bằng da cừu non lau nước mắt, lồng dây gậy vào cổ tay, sau đó anh gỡ quai, cầm súng trong tay cùng đèn pin, đứng đợi đàn sói. Lúc này, trong đầu anh chỉ một ý nghĩ: phải giết thêm mấy con nữa!
Sau đó một lúc Batu rét đến nỗi không thể ngồi vững trên yên. Bất chợt đàn sói lướt bên anh mà xuống đầm như một làn khói đen, chúng dừng lại ở rìa phía đông, làm tung lên một đám tuyết trắng. Một con sói nhỏ dáng thanh mảnh tách ra, thận trọng bò về phía đàn ngựa, thăm dò độ cứng của đất dưới chân. Batu thấy con sói nhỏ, không bắn. Con sói bò một quãng ngắn rồi chạy gằn về phía đàn ngựa, nó chưa đến nơi thì một cơn lốc hình thành từ mép đầm di chuyển về phía nó, đất trời nhập làm một, trắng xoá, cảnh tượng như bộ tộc bán khai tóc tai bù xù nhảy múa quanh đống lửa, người và gia súc bị làm vật hiến tế.
Batu không mở được mắt vì tuyết hòn. Anh cảm thấy rất lạnh, run cầm cập. Con ngựa ô khứu giác cực nhậy của anh đã bị nhiễm lạnh, run lẩy bẩy, cất tiếng hí đứt quãng. Đêm đen nặng nề, tuyết đầy trời, lại một lần nữa xoá sạch dáu vết cuộc thảm sát trên thảo nguyên.
Batu lạnh cứng người, anh lóng ngóng tắt đèn pin để bản thân anh chìm hẳn trong bóng tối, rối chĩa súng rất thấp về phía đầm lầy, nhưng sau đó đột nhiên anh nâng đầu nòng cao hơn nửa mét, lẩy ba phát: đoàng, đoàng, đoàng!
Chú thích:
[1]Thông tin chi tiết: Samuel Huntington, Sự xung đột giữa các nền văn minh (The Clash of Civilizations and the Remaking of World Order, 1996), Nhiều dịch giả, Nxb. Thế giới; Hà Nội 1998; Thomas L. Friedman, Chiếc Lexus và cây ôliu (The Lexus and the Olive Tree, 1999), Lê Minh dịch, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội 2005; Thomas L. Friedman, Thế giới phẳng (The World Is Flat: A Brief History of the Twenty-first Century, 2005), Nguyễn Quang A dịch, Nxb. Trẻ, Hà Nội 2006; Jared Diamond, Súng, vi trùng và thép - Định mệnh của các xã hội loài người (Guns, Germs, and Steel: The Fates of Human Societies, 1997), Trần Tiễn Cao Đăng dịch, Nxb. Tri Thức, Hà Nội 2006; Jared Diamond, Loài tinh tinh thứ ba - Sự tiến hoá và tương lai của loài người (The Third Chimpanzee, 2000), Nguyễn Thuỷ Chung và Nguyễn Kim Nữ Thảo dịch, Nxb. Tri Thức, Hà Nội 2007, Jared Diamond, Sụp đổ - Các xã hội đã thất bại hay thành công như thế nào (Collapse. How Societies Choose to Fail or Succeed, 2005), Hà Trần dịch, Nxb. Tri Thức, Hà Nội 2006; Jonathan Weiner, Mỏ chim sẻ đảo - Câu chuyện tiến hoá (The Beak of the Finch - A Story of Evolution in Our Time, 1995), Nguyễn Ngọc Hải dịch, Nxb. Tri Thức, Hà Nội 2006; James Surowiecki, Trí tuệ đám đông (The Wisdom of Crowds, 2004), Nguyễn Thị Yến dịch, Nxb. Tri Thức, Hà Nội 2006.
Tác giả Khương Nhung (Jiang Rong)
Sinh năm 1947 tại Bắc Kinh. Thời kỳ cách mạng văn hoá, xung phong đi lao động ở vùng thảo nguyên Nội Mông 11 năm. Năm 1979, trở lại Bắc Kinh. Tiểu thuyết Tôtem sói (Lang đồ đằng) được Khương Nhung thai nghén và viết trong vòng 30 năm (từ 1971 đến 2003). Khi tác phẩm được xuất bản lần đầu năm 2004, lập tức nó trở thành cuốn sách bán chạy kỷ lục tại Trung Quốc và trở thành cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Trung Quốc được một nhà xuất bản nước ngoài mua bản quyền với giá 100.000 USD.
Dịch giả Trần Đình Hiến
Sinh năm 1933 tại Vĩnh Phúc. Trần Đình Hiến từng là giảng viên Đại học Ngoại ngữ trước khi chuyển sang ngành ngoại giao. Là cán bộ Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc, ông từng có 10 năm công tác tại Bắc Kinh. Hiện Trần Đình Hiến sống và hoạt động dịch thuật tại Hà Nội.
Các tác phẩm dịch tiêu biểu:
Đàn hương hình của Mạc Ngôn (Giải thưởng Hội Nhà văn năm 2003), Báu vật của đời của Mạc Ngôn, Cây không gió của Lý Nhuệ, Ngân thành cố sự của Lý Nhuệ, Tuyển tập kịch của Lão Xá và Tôtem sói của Khương Nhung.