Dịch giả: Đặng Thu Hương
KINH TRƯA

Tìm thấy xác chết của Severinus

nhưng quyển sách Huynh đã tìm được
thì không còn nữa.
Chúng tôi đau khổ sải bước băng qua sân. Trưởng toán lính dẫn chúng tôi đến bệnh xá. Khi đến nơi, chúng tôi thấy trong lớp sương mù dày đặc nhiều bóng người xôn xao. Tu sĩ và tôi tớ chạy toán loạn. Các cung thủ đứng canh ở bên ngoài, ngăn không cho ai vào. Bernard nói:
- Những lính canh đó là do tôi phái tới để lùng kiếm một người có thể soi sáng nhiều điều bí ẩn.
Tu Viện trưởng sững sờ hỏi:
- Sư huynh dược thảo sư à?
Bernard mở đường vào trong, nói:
- Không. Cha sẽ thấy ngay thôi.
Chúng tôi bước vào phòng thí nghiệm của Severinus, và một cảnh tượng đau thương đập ngay vào mắt. Xác của dược thảo sư xấu số nằm giữa một vũng máu, đầu lai láng máu. Kệ ở tứ phía dường như bị một cơn bão tàn phá: các chai lọ, sách vở, tài liệu bị đập vỡ, xé rách tan hoang, nằm vương vãi khắp nới. Bên cạnh xác chết là một lồng cầu lớn, ít nhất bằng hai đầu người, gồm nhiều vòng kim loại chế biến tinh xảo ghép lại với nhau, trên đỉnh có một thập giá bằng vàng, được đặt trên một trụ ba chân ngắn, có trạm trổ. Mấy lần trước đến đây, tôi thấy nó được đặt trên chiếc bàn phía tay trái cửa trước.
Ở cuối phòng, hai người lính giữ chặt viên quản hầm đang vùng vẫy kêu oan. Khi thấy Tu viện trưởng, hắn hét tướng lên:
- Cha ơi! Tật đi đây đi đó đã hại con! Khi con bước vào, thì Severinus đã chết rồi, và họ bắt con con lúc con đang sững sờ nhìn cái chết thê thảm này!
Trưởng toán lính đến chỗ Bernard và được hắn cho phép báo cáo lại sự việc trước mặt mọi người. Các cung thủ được lệnh lùng bắt quản hầm và đã tìm hắn khắp tu viện trên hai giờ đồng hồ. Tôi nghĩ, hẳn Bernard đã ban lệnh này trước khi vào nhà nguyện, bọn lính vì còn lạ chỗ nên có lẽ đã tìm kiếm lung tung mà không biết quản hầm đang ở trong tiền sảnh của nhà nguyện cùng với các tu sĩ khác, chẳng hay biết gì về số phận của mình. Sương mù khiến việc tìm kiếm của họ càng khó khăn thêm. Suy từ lời nói của trưởng toán lính thì từ khi tôi không theo dõi Remigio nữa, hắn bèn đi về phía nhà bếp và có ai đó đã thấy và báo cho bọn lính. Lính đến Đại Dinh thì Remigio vừa mới đi được một lát. Jorge ở trong nhà bếp, khai rằng lão vừa nói chuyện với quản hầm xong. Toán lính liền lục xét khu vực phía vườn rau, và gặp già Alinardo, từ trong sương hiện ra như một bóng ma, có vẻ như lạc đường. Chính Alinardo bảo vừa mới thấy Remigio đi về hướng bệnh xá. Toán linh đến đấy, thấy cửa bệnh xá mở toang. Bước vào, họ thấy Severinus nằm chết còn quản hầm thì đang điên cuồng lục lạo khắp các kệ, quăng ném mọi thứ xuống đất như đang lùng kiếm một vật gì. Trưởng toán kết luận, sự việc đã rành rành: Remigio bước vào, tấn công rồi giết dược thảo sư, đoạn truy tìm vật đã khiến hắn giết người.
Một tên lính nhặt lồng cầu từ dưới đất lên, trình báo cho Bernard xem. Đó là một cấu trúc thanh nhã gồm nhiều vòng bằng thau và bạc, ghép lại với nhau nhờ một cái khung bằng những vòng đồng chắc chắn hơn, gắn trên một trụ ba chân. Vật này đã giáng xuống sọ nạn nhân, và khi va chạm, nhiều vòng mảnh, nhỏ, đã long ra, hay cong về một phía, chính là cái phía đã đập lên đầu Severinus, vì còn dính những vệt máu, và cả những chùm tóc và các mảng óc lầy nhầy đáng sợ.
Thầy William cúi xuống, xem Severinus có chết thực chưa. Đôi mắt đứng tròng của nạn nhân đã bị che phủ bởi dòng máu trên đầu chảy xuống. Tôi không biết còn có thể đọc được trong con người cứng đờ ấy hình ảnh của kẻ sát nhân, chứng tích cuối cùng về sự nhận thức của nạn nhân, như người ta đã có lần nói chăng? Tôi thấy thầy William giở đôi tay xác chết lên xem có vết tím đen trên ngón không, dầu lần này nguyên nhân gây ra cái chết rõ ràng khác hẳn: tuy nhiên, Severinus có mang một đôi găng tay bằng da mà Huynh ấy thường dùng để cầm những cây thuốc độc, rắn mối, hay các côn trùng lạ.
Trong khi đó, Bernard Gui nói với quản hầm:
- Này Remigio xứ Varagine, đó là tên ngươi phải không? Căn cứ trên những lời buộc tội và để khẳng định những mối nghi ngờ khác, ta đã lệnh cho người lùng bắt ngươi. Nay ta thấy mình đã hành động đúng, mặc dù đáng tiếc là quá chậm.
Bernard quay sang Tu viện trưởng:
- Thưa Cha bề trên, con hoàn toàn chịu trách nhiệm về vụ án mạng cuối cùng này, ngay từ sáng nay con đã biết nên tống giam người này, sau khi nghe những lời tiết lộ của tên khốn nạn bị bắt đêm qua. Nhưng như Cha đã biết, suốt buổi sáng nay con bận bịu với những trách nhiệm khác, và lính của con đã cố gắng hết sức…
Hắn nói lớn giọng cho mọi người có mặt đều nghe (phòng lúc ấy đông nghẹt, mọi người từ khắp nơi dồn vào, vừa nhìn các vật bị đập phá tung tóe, vừa chỉ vào xác chết, vừa xì xầm bàn tán về án mạng). Khi Bernard nói, tôi liếc thấy Malachi trong đám đông, đang lạnh lùng quan sát hiện trường. Quản hầm, khi sắp bị lôi đi, cũng liếc nhìn Malachi. Gã vùng vẫy thoát ra khỏi tay của tên lính và lao mình về phía người tu sĩ anh em, túm lấy áo và kề sát mặt quản thư viện, nói vội vã và tuyệt vọng, cho đến khi bọn lính xông vào túm lấy gã. Nhưng khi bị lôi xềnh xệch đi, một lần nữa gã lại quay về hướng Malachi và hét lớn: - Huynh thề, và tôi đã thề mà!
Malachi không trả lời ngay, dường như muốn lựa lời thích hợp nhất, và khi quản hầm bị lôi qua cửa, bèn nói:
- Tôi sẽ không làm gì để hại Huynh cả.
Thầy trò tôi nhìn nhau, không hiểu tấn tuồng này có ý nghĩa gì. Bernard cũng đã nhận thấy, nhưng không lộ vẻ bối rối, hắn còn mỉm cười với Malachi, như thể tán đồng lời lẽ của quản thư viện và thông đồng một âm mưu u ám. Rồi hắn tuyên bố: ngay sau bữa ăn, phiên tòa đầu tiên sẽ được nhóm tại đại sảnh, để công khai mở cuộc điều tra này. Hắn ra lệnh đem quản hầm xuống lò rèn, nhưng không cho phép nói chuyện với Salvatore.
Ngay lúc đó, chúng tôi nghe tiếng Benno thì thầm từ phía sau lưng vẳng lên:
- Tôi vào tiếp ngay sau Huynh, khi phòng này mới đóng phân nửa, và Malachi lúc đó không có mặt ở đây.
- Chắc hẳn Huynh ấy vào sau.
Benno khăng khăng:
- Không. Tôi đứng sát cửa, thấy rõ từng người vào. Tôi nói thật, Malachi đã ở bên trong… trước đó rồi.
- Trước cái gì?
- Trước khi quản hầm vào. Tôi không đoan chắc, nhưng tôi tin rằng Huynh ấy bước ra từ sau bức màn kia, khi có một số chúng ta ở đây rồi. – Benno hất hàm chỉ về phía tấm màn lớn che khuất chiếc giường, nơi Severinus thường bảo những ai đang chữa trị vào nằm nghỉ. Thầy William hỏi:
- Huynh định ám chỉ Malachi đã giết Severinus và nấp ở đấy khi quản hầm bước vào ư?
- Hay là từ sau bức màn đó, Huynh ấy đã chứng kiến việc xảy ra ở đây. Nếu không, thì tại sao quản hầm lại van xin Huynh ấy đừng làm hại mình và Malachi đáp lại cũng hứa hẹn không làm hại Huynh ấy.
- Có thể lắm. Dẫu sao, đã có quyển sách ở đây, và nó hẳn vẫn nằm ở đây, vì cả Malachi lẫn quản hầm đều đi ra tay không.
Nhờ tôi báo cáo, thầy William hiểu Benno biết sự việc, và lúc đó thầy cần sự giúp đỡ. Thầy đến chỗ Tu Viện Trưởng đang rầu rĩ quan sát xác Severinus. Thầy yêu cầu Cha bảo mọi người lui ra, vì thầy muốn xem xét hiện trường kỹ hơn nữa. Tu Viện Trưởng chấp nhận và đi ra, còn ném cho thầy William một cái nhìn ngờ vực, như thể trách móc thầy lúc nào cũng đến quá trễ. Malachi cố nán lại, viện lý do này lý do kia, nhưng cả thảy đều rất mơ hồ. Thầy William nhấn mạnh rằng đây không phải là Thư viện, nơi này Malachi không có quyền hành gì. Thầy nhã nhặn nhưng rất cứng cỏi, trả đũa được lần Malachi không cho phép thầy xem xét bàn giấy của Venantius.
o0o
Chỉ còn ba chúng tôi ở lại. Thầy William dọn sạch các mảnh vụn và giấy tờ trên một chiếc bàn, rồi bảo tôi lần lượt đưa cho thầy xem các cuốn sách trong bộ sưu tập của Severinus. So sánh với kho sách mênh mông trong Mê Cung thì đây chỉ là một bộ sưu tập nhỏ, thế nhưng nó cũng có đến hàng mấy chục quyển, đủ mọi kích cỡ, trước đây được xếp gọn ghẽ trên các kệ, còn bây giờ thì nằm vương vãi trên mặt đất lẫn với các thứ khác, chúng đã bị đôi tay hoảng loạn của quản hầm xáo tung lên, vài quyển còn bị xé rách, dường như hắn không phải tìm một quyển sách mà tìm một cái gì đó có thể kẹp giữa những trang sách. Vài trang bị giứt đứt tung ra khỏi bìa. Không dễ gì thu nhặt chúng nhanh chóng, phân loại theo chủ đề và xếp lên bàn. Mọi việc phải làm khẩn trương, vì Tu Viện Trưởng cho chúng tôi quá ít thời giờ. Các tu sĩ sẽ vào tẩm liệm cái xác tan nát của Severinus để chuẩn bị chôn cất. Chúng tôi cũng phải đảo quanh tìm kiếm dưới bàn, sau kệ, trong tủ, xem có gì lạ mà lần khám xét đầu tiên chưa phát hiện ra. Thầy William không cho Benno giúp tôi mà chỉ để Huynh ấy đứng giữ cửa. Bất chấp lệnh của Tu Viện trưởng, nhiều người cứ nhất định lấn vào phòng: các tôi tớ nghe tin, hoảng sợ, các tu sĩ thương tiếc người anh em của mình, các tu sinh mang chậu nước để rửa và vải sạch để phủ lên xác chết…
Vì thế chúng tôi phải hành động thật nhanh. Tôi quơ những quyển sách ấy trao cho thầy William xem xét và đặt lên bàn. Khi thấy công việc này kéo dài, chúng tôi bèn đồng tiến hành cùng một lúc. Tôi nhặt sách lên, vuốt nó ra nếu bị nhàu, đọc tựa, và đặt xuống. Vài quyển chỉ còn lại những trang tơi tả.
- “Ba quyển sách về thảo mộc”. (1)
- Quỷ thật, không phải quyển này. – Thầy William nói và đập mạnh quyển sách lên bàn.
- “Kho tàng dược thảo” (2) – Tôi đọc, và thầy William quát: - Bỏ nó xuống. Chúng ta đang tìm một quyển sách tiếng Hy lạp!
- Quyển này chăng? – Tôi hỏi, và đưa thầy một tác phẩm có những trang đầy chữ trừu tượng. Thầy William bảo:
- Không. Đồ ngu! Đó là tiếng Ả Rập. Thầy Bacon có lý: bổn phận đầu tiên của một học giả là phải học ngoại ngữ!
- Nhưng thầy có biết tiếng Ả rập đâu! – Tôi bực bội cãi lại, và thầy đáp:
- Ít ra thầy cũng hiểu đó là tiếng Ả rập.
Tôi đỏ mặt lên vì tiếng Benno cười khúc khích sau lưng.
Sách đã nhiều mà còn có nhiều ghi chú, bản cuộn nhiều hình vẽ, vòm thiên đàng, thư mục các kỳ hoa dị thảo được chép lên những trang giấy rời, có lẽ là bút tích của người quá cố! Chúng tôi lục xét mọi ngõ ngách trong phòng thí nghiệm một lúc lâu. Thầy William mặt lạnh như tiền, còn nhích cả xác chết để xem bên dưới có gì không, rồi lục lạo bên trong chiếc áo dòng. Chẳng có gì hết. Thầy William giải thích:
- Phải làm thế thôi. Severinus giam mình trong phòng với quyển sách, còn quản hầm thì cũng không giữ nó…
Tôi hỏi: - Liệu quản hầm có giấu nó trong áo dòng không?
- Không. Quyển sách thầy thấy hôm nọ dưới bàn Venantius rất to, nếu quản hầm dấu nó dưới áo thì ta phải thấy ngay.
- Bìa nó như thế nào?
- Thầy không biết. Nó mở ngỏ và thầy chỉ thoáng thấy có vài giây, đủ để biết nó bằng tiếng Hy Lạp, ngoài ra thầy không nhớ gì hơn. Chúng ta hãy tiếp tục, quản hầm không mang theo nó và thầy nghĩ Malachi cũng không.
Benno xác nhận: - Chắc chắn là không. Khi quản hầm túm lấy ngực Huynh ấy, rõ ràng là Huynh không thể dấu gì ở dưới áo được.
- Tốt. Hay cũng có thể là xấu. Nếu quyển sách không có trong phòng này, hiển nhiên đã có ai khác ngoài Malachi và quản hầm vào đây trước.
- Thế thì có một người thứ ba đã giết Severinus ư?
- Có quá nhiều người - thầy nói.
Tôi hỏi: - Nhưng mà, ai có thể biết được quyển sách nằm ở đây?
- Jorge chẳng hạn, nếu Huynh ấy nghe lén chúng ta.
- Đúng, nhưng Jorge không thể giết một người khỏe mạnh như Severinus, với một vũ lực như thế.
- Dĩ nhiên là không. Ngoài ra, con đã thấy Jorge đi về phía Đại Dinh, và toán lính đã thấy Huynh trong nhà bếp, ngay trước khi họ gặp quản hầm. Thế nên Huynh không có đủ thời giờ để đến đây rồi đi về bếp.
- Hãy để con suy nghĩ – Tôi nói, cố tình bắt chước thầy – Alinardo cũng quanh quẩn trong khu vực gần đây, nhưng lão đứng còn không vững, nên không thể áp đảo được Severinus. Quản hầm có ở đây, nhưng thời gian từ lúc hắn rời bếp đến khi toán lính ập vào quá ngắn ngủi, con nghĩ, thật khó có thể kịp gọi Severinus mở cửa, tấn công và giết người, rồi lục lạo lung tung. Malachi có thể đến trước tiên, vì Jorge nghe chúng ta nói chuyện ở tiền sảnh, bèn vào phòng thư tịch kể cho Malachi có một quyển sách của Thư viện đang ở trong phòng thí nghiệm của Severinus. Malachi đến đây, thuyết phục Severinus mở cửa và giết Huynh ấy, chỉ có Trời mới biết tại sao. Nhưng nếu Huynh tìm được sách thì nhận ra nó ngay, đâu cần lục lọi làm gì, vì Huynh là quản thư viện mà! Thế còn ai nữa?
- Benno, - thầy William nói.
Benno lắc đầu quầy quậy. – Không, thưa sư Huynh William, Huynh biết tính tôi tò mò ghê lắm. Nếu tôi đã vào đây và có khả năng đi ra cùng với quyển sách, thì tôi còn đứng đây với Huynh làm gì. Lúc này tôi sẽ chiêm ngưỡng báu vật của mình ở nơi nào khác…
Thầy William mỉm cười nói: - Lý luận khá vững vàng đấy. Tuy nhiên, Huynh cũng không biết quyển sách ấy như thế nào. Có lẽ Huynh đã giết người và bây giờ nấn ná ở đây để nhận diện quyển sách.
Mặt Benno đỏ bừng, hắn lên tiếng phản đối: - Tôi đâu phải là kẻ sát nhân!
Thầy William triết lý nói: - Mãi đến khi phạm tội giết người thì mình mới thành kẻ sát nhân. Dẫu sao, quyển sách đã mất, và điều này cũng chứng minh Huynh đã không để nó ở đây.
Nói xong, thầy quay lại ngắm nghía xác chết. Đến lúc đó, thầy mới thấm thía cái chết của người bạn mình rồi nói: - Tội nghiệp Severinus! Tôi đã nghi ngờ cả Huynh và các thuốc độc của Huynh nữa. Huynh biết trước sẽ bị bẫy thuốc độc nên đã đeo găng tay vào. Huynh sợ tai họa ở trần gian, nào ngờ nó đến từ thiên đàng…
Thấy lại nhặt chiếc lồng cầu lên và chăm chú quan sát nó: - không hiểu tại sao họ lại dùng vũ khí kỳ lạ này…
- Vì nó ngay tầm tay…
- Có lẽ. Nhưng còn có những vật khác như chai lọ, dụng cụ làm vườn… Đây là một kiểu mẫu tiêu biểu cho kỹ xảo kim loại và thiên văn học. Nó bị hỏng rồi… Lạy chúa tôi! – Thầy la lên.
- Phần thứ ba của mặt trời bị đập nát, phần thứ ba của mặt trăng và phần thứ ba của tinh tú… - Thầy trích dẫn.
Tôi thừa biết đó là từ sách Mặc khải của thánh Tông đồ John, bèn thốt lên: - Hồi kèn thứ tư.
- Đúng rồi. Trước tiên là mưa đá, rồi máu, rồi nước và bây giờ là tinh tú… Nếu đúng như vậy thì phải xem xét lại mọi việc… Kẻ sát nhân không ngẫu nhiên tấn công, mà đang theo một phương án… Nhưng có thể tưởng tượng được chăng, có một đầu óc quỉ quyệt đến nỗi chỉ ra tay giết người khi có dịp theo lời dạy trong sách Mặc khải?
- Việc gì sẽ xảy ra với hồi kèn thứ năm – Tôi kinh hoàng hỏi, óc cố nhớ lại: “Ta trông thấy một ngôi sao từ trời rơi xuống, và người đó được ban cho chìa khóa của hố sâu không đáy…”. Ai đó sẽ chết đuối trong một giếng nước à?
- Hồi kèn thứ năm còn tuyên hứa nhiều điều khác nữa. “Từ hố sâu bốc khói từ một lò nung lớn, từ đó lũ cào cào sẽ nhảy ra chích đốt loài người, nọc của chúng cũng độc như nọc bọ cạp. Bọn cào cào hình dáng trông như ngựa, đầu đội vương miện vàng, miệng mọc răng sư tử…” Kẻ sát nhân của chúng ta có thể có sẵn nhiều phương tiện khác nhau để thực hiện các lời dạy trong sách… Nhưng chúng ta không nên theo đuổi những điều hão huyền, mà nên thử nhớ lại điều Severinus nói, khi Huynh ấy báo cho chúng ta đã tìm được quyển sách…
- Thầy bảo Huynh ấy đem quyển sách đến cho thầy, Huynh nói không được…
- Huynh có nói thế và liền đó cuộc nói chuyện của chúng ta bị gián đoạn. Tại sao Huynh ấy không thể mang nhỉ? Một quyển sách mang đi đâu mà chẳng được. Và sao Huynh ấy lại đeo găng tay? Trên bìa sách có chất gì liên hệ đến thuốc độc đã giết Berengar và Venantius chăng? Một cái bẫy bí ẩn, một đầu ngón tẩm thuốc độc…
- Một con rắn!
- Sao không phải là cá voi chứ? Không, chúng ta lại theo đuổi những điều hão huyền rồi. Như chúng ta thấy, thuốc độc phải ngấm vào bằng đường miệng. Ngoài ra, Severinus không nói chính xác rằng không thể mang sách đó đến được, mà chỉ nói muốn cho thầy xem nó ở đây. Sau đó, Huynh mang găng tay vào… Như thế, chúng ta biết phải mang găng tay mới cầm sách được. Benno, nếu Huynh tìm được quyển sách như vẫn hằng hy vọng, thì Huynh cũng làm như thế. Vì Huynh rất sốt sắng, nên hãy giúp tôi thêm điều này. Trở lại phòng thư tịch và theo dõi Malachi. Chớ để Huynh ấy lọt khỏi mắt Huynh.
- Xin vâng! – Benno đáp và đi ra, trông có vẻ vui sướng vì nhiệm vụ mới.
Chúng tôi không thể cầm chân các tu sĩ khác lâu hơn nữa, nên họ tràn vào phòng. Đã qua giờ ăn, có lẽ Bernard đang nhóm phiên tòa trong phòng nguyện. Thầy William nói: - Chúng ta chẳng làm gì được hơn.
Ra khỏi bệnh xá, hai thầy trò vất bỏ cái giả thuyết nghèo nàn của tôi. Khi băng qua vườn rau, tôi hỏi thầy có thực tin Benno không. Thầy đáp:
- Không hẳn, nhưng điều mà chúng ta bảo thì Huynh ấy đã biết rồi, và chúng ta đã làm Huynh ấy sợ quyển sách. Rốt cuộc, bảo Huynh ấy rình Malachi, chúng ta cũng khiến Malachi theo dõi Huynh ấy, hiển nhiên chính Malachi cũng đang tự tay tìm quyển sách.
- Vậy thì quản hầm muốn gì?
- Rồi chúng ta sẽ biết. Dĩ nhiên hắn cần một vật gì đó và cần nó ngay để thoát khỏi mối nguy hiểm đang đe dọa. Vật này chắc Malachi phải biết, nếu không, làm sao giải thích được sự van xin khẩn khoản của Remigio…
- Dẫu sao, quyển sách đã biến mất…
- Đây là một việc kỳ cục nhất. – Thầy William nói, khi chúng tôi đến nhà nguyện. – Nếu quyển sách ở đó, như Severinus đã nói, thì hoặc giả nó đã bị lấy đi hay vẫn còn ở đó.
Tôi kết luận: - Vì nó không có ở đấy, vậy có người đã lấy nó đi.
- Cũng có thể suy luận trên một bình diện nhỏ hơn. Vì mọi bằng chứng đều khẳng định rằng không ai có thể lấy nó đi…
- Vậy thì nó vẫn ở đó. Nhưng nó lại không có đó.
- Khoan đã. Chúng ta nói nó không có đó vì chúng ta đã không tìm thấy nó. Nhưng có lẽ chúng ta không tìm ra vì không thấy nó nằm ở chỗ nào.
- Nhưng chúng ta đã tìm khắp nơi mà!
- Chúng ta tìm, nhưng không thấy. Hay là thấy, mà không nhận ra… Adso, Severinus tả quyển sách như thế nào? Huynh ấy nói câu gì?
- Huynh ấy bảo đã tìm thấy một quyển sách không phải của mình, bằng tiếng Hy Lạp.
- Không! Thầy nhớ ra rồi. Huynh ấy bảo một quyển sách lạ. Đối với người học thức như Severinus thì một quyển sách bằng tiếng Hy Lạp chẳng có gì lạ, cho dù Huynh ấy không biết tiếng Hy Lạp thì vẫn có thể nhận ra mặt chữ. Và một học giả cũng không gọi một quyển sách Ả Rập là lạ lùng, dù người ấy không biết tiếng Ả Rập chăng nữa…
Thầy ngưng nói – Sao lại có quyển sách Ả Rập trong phòng thí nghiệm của Severinus?
- Nhưng sao Huynh ấy gọi quyển sách Ả Rập là lạ?
- Đó mới là vấn đề. Nếu Huynh ấy gọi nó là lạ lùng thì do vì nó trông lạ lùng, ít ra là đối với Huynh ấy, một dược thảo sư, chớ không phải quản thư viện… Trong thư viện có thể có nhiều quyển sách xưa, đóng lại thành một tập, gồm những bài lạ lùng khác nhau, bài thì tiếng Hy Lạp, bài thì tiếng Xy-ri…!
- …Và bài thì tiếng Ả Rập! – Tôi hét lên, choáng váng vì sự sáng ý này.
Thầy William lôi tôi xềnh xệch ra khỏi tiền sảnh và đẩy tôi chạy về phía bệnh xá.
- Đồ quỉ Đức! Đồ ngỗng đực! Đồ ngu! Mi chỉ nhìn những trang đầu mà không xem hết.
Tôi há hốc mồm cãi lại: - Nhưng thưa thầy, chính thầy là người xem những trang con đưa và bảo nó là tiếng Ả Rập chớ không phải Hy Lạp.
- Đúng thế, Adso, thầy mới chính là đồ quỉ. Nào lẹ lên! Chạy!
Chúng tôi trở lại phòng thí nghiệm, nhưng vất vả lắm mới vào được, vì các tu sinh đang khiêng xác ra. Những người hiếu kỳ khác đang đi lung tung trong phòng. Thầy William chạy xổ đến chiếc bàn và nhặt các quyển sách lên để tìm quyển sách giết người. Thầy quăng đi hết quyển này đến quyển kia trước đôi mắt kinh ngạc của những người có mặt, rồi lại mở chúng ra đóng chúng lại. Than ôi, quyển sách Ả Rập không còn ở đó nữa. Tôi chỉ lờ mờ nhớ quyển sách bìa cũ, không cứng cáp, mòn nhiều, bọc những nẹp kim khí mỏng.
- Ai đã vào đây sau khi tôi đi? – Thầy William hỏi một tu sĩ. Người này nhún vai: rõ ràng ai muốn vào thì vào, sao biết đấy là ai.
Chúng tôi cố suy nghĩ các khả năng có thể xảy ra. Malachi ư? Có thể. Quản thư viện biết vật mình cần, có lẽ đã rình thấy chúng tôi đi ra tay không, bèn quay lại, đầy tự tin. Còn Benno? Tôi nhớ khi thầy trò tôi chế giễu nhau về quyển sách tiếng Ả Rập, Huynh ấy đã cười khúc khích. Lúc ấy tôi tưởng Huynh cười sự dốt nát của tôi, nhưng có lẽ Huynh cười vì sự ngờ nghệch của thầy: Huynh đã biết rõ những lớp vỏ khác nhau ngụy trang các bản viết xưa, và có lẽ đã nắm được cái điều mà khi ấy chúng tôi chưa kịp nghĩ ra – đó là, Severinus không biết tiếng Ả Rập và do đó sẽ thật kỳ quặc nếu Huynh ấy giữ trong đám sách của mình một quyển sách không đọc được. Hay có một người thứ ba chăng.
Thầy William ngượng chín người. Tôi cố an ủi thầy, bảo suốt ba ngày nay thầy đã tìm kiếm một quyển sách Hy Lạp thì đương nhiên là khi xem xét, thầy phải loại đi tất cả các sách không phải tiếng Hy Lạp. Thầy đáp rằng con người tất phải sai lầm, nhưng có những kẻ sai lầm hơn người khác bị gọi là ngốc, trong đó có thầy. Thầy tự hỏi, không biết một người không có khả năng nghĩ ra rằng các bản văn cũng được đóng thành bộ, điều mà ngay cả tu sinh cũng biết, trừ những thằng ngu như tôi, người ấy có xứng đáng theo học ở Paris và Oxford không? Hai tên hề như thầy trò tôi sẽ thành công vẻ vang tại các chợ phiên, và chúng tôi nên theo nghề đó thay vì đi gỡ rối các bí ẩn, nhất là chúng tôi còn phải đấu trí với những kẻ khôn ngoan hơn mình nhiều. Thầy kết luận:
- Than vãn cũng chẳng ích chi. Nếu Malachi lấy sách thì Huynh ấy đã trả nó cho Thư viện. Và chúng ta chỉ tìm ra nó nếu biết cách xâm nhập “finis Africae”. Nếu Benno lấy sách, Huynh ấy phải suy đoán rằng trước sau gì thầy cũng nghi ngờ và sẽ trở lại phòng thí nghiệm và như thế Huynh ấy phải vội vã hành động ngay. Vậy Huynh ấy phải đang cất giấu nó, và ắt hẳn không giấu nó trong phòng mình, là nơi mà chúng ta sẽ đến thẳng để tìm gặp. Thôi, hãy trở lại nhà nguyện, xem thử trong cuộc hỏi cung, quản hầm có khai điều gì hữu ích không. Dẫu sao, thầy vẫn chưa rõ kế hoạch của Bernard, hắn lùng bắt nạn nhân của mình trước khi Severinus chết, hẳn vì những lý do khác.
Chúng tôi trở về nhà nguyện. Lẽ ra chúng tôi nên đến phòng Benno, vì sau này chúng tôi mới biết, anh bạn trẻ này không đánh giá cao thầy William và không ngờ thầy quay lại phòng thí nghiệm nhanh như thế. Nghĩ rằng mình không bị lùng kiếm trong khu vực đó, Benno đi thẳng về phòng để giấu quyển sách.
Nhưng tôi sẽ kể việc này sau. Trong lúc này, nhiều biến cố rối ren và quan trọng đang diễn ra, khiến mọi người tạm quên đi quyển sách bí ẩn. Dầu không quên nó, chúng tôi đã bị lôi cuốn vào những trách nhiệm khẩn cấp khác liên quan đến sứ mệnh mà thầy William chung qui hoàn thành.
Chú thích:
(1) “De plantis libri tres
(2) “Thesaurus herbarum