Chương 4

Mơ dù có đẹp đến đâu cũng có lúc phải tỉnh, tôi từ từ mở mắt ra. Mẹ tôi để bàn tay lên trán tôi. Tôi đưa mắt nhìn quanh xem tôi đang ở đâu rồi nhìn mẹ tôi ngồi cạnh tôi, mẹ mỉm cười. Bây giờ tôi chắc chắn mẹ tôi ngồi đây, giữa các đồ đạc quen thuộc, các cửa sổ gỗ đóng để ngủ trưa trong bóng mát như mọi ngày, trên hai cái chiếu lớn, cùng với các em tôi đang say sưa ngủ. Đàn ve hát rầm rĩ trong cây ngọc lan bên kia đường, cạnh toà án Hàng Tre. Mùi thơm của cây lan đôi khi bay nhẹ tới tôi, y như mùi thị chín. Các bộ bàn ghế bằng gỗ gụ khảm xà cừ đã bị đẩy vào một góc để lấy chỗ rải chiếu. Trên trần, cái quạt điện bốn cánh từ từ quay tạo làn gió mát đều. Cứ như vậy, mỗi trưa hè, sau bữa cơm ồn ào, chúng tôi ngủ trưa, mỗi người theo một giấc mơ riêng.
Mẹ tôi đưa cho tôi một cái ly thạch đen mát rượi nước đá từng cục y như tôi ưa, thoảng mùi hoa chuối và mùi đường đen.
Tôi nhổm dậy, uống dè xẻn từng hụm nhỏ. Bỗng tôi sợ lạnh người: tôi nhìn thấy sau khe cửa một người đàn bà lạ, mặc áo tứ thân, quần vải đen, yếm trắng, tay bế một đứa trẻ nhỏ. Cô ta nhìn tôi với đôi mắt to tướng rồi thè cái lưỡi đỏ như máu dài lòng tới đầu gối. Rồi cô lại nhoẻn miệng cười rụt cái lưỡi vào trong mồm. Tôi nuốt vội miếng thạch đen cuối cùng, nằm co vào đùi mẹ làm mẹ tôi ngạc nhiên. Mẹ tôi không hay biết gì vì quay lưng về phía cô gái, mẹ không hiểu cái sợ hãi của tôi, mẹ chỉ vuốt tóc tôi và tôi chìm dần vào giấc ngủ trưa hè, cái sợ không còn nữa, vì nó ở phía bên kia, sau lưng mẹ tôi.
Tôi cảm ơn Trời Phật đã cho tôi giây phút sung sướng đó. Mẹ đã tận tâm nuôi nấng tôi, cho tôi một tình thương vô tận, sẵn sàng hy sinh tất cả để tôi được sống, nhưng bọn người vô tâm đã chà đạp tình thương đó, bắt cóc tôi, đẩy tôi vào một cái xe hơi Citroen mầu đen, trong khi tôi đang mải chơi với cái tầu hoả, xây đường sắt, xây cầu, giữa đống cát. Họ tàn nhẫn nếm tôi xuống một cái hầm sâu có một cửa sổ nhỏ. Tôi sống trong đó từ 6 tuổi đến 34 tuổi, không được gặp mẹ, cha, anh em tôi. Số phận tôi đã do thượng lệnh định đoạt. Mấy ngày đầu tôi ngạc nhiên, khổ sở, nhớ nhà khóc lóc. Rồi tuổi thơ dần dần làm tôi quen cuộc đời khác thường của tôi. Mười năm sau tôi nhận được bức thư đầu tiên của gia đình tôi, bức thư thứ hai tới tay tôi mười năm sau, nói về cưới xin, sinh đẻ, sức khoẻ, việc làm. Thư bị kiểm duyệt nhưng tôi cảm thấy một nỗi buồn vô hạn lọc qua những hàng chữ dè dặt, khô khan, một nỗi nhớ thương không nguôi qua nét chữ run run, vài chỗ nhòa vì nước mắt. Mẹ tôi nhắc lại cái cốc thạch đen mà tôi thích uống, cái xe hơi có bàn đạp tôi nhận được một buổi sáng tờ mờ, cái xe mà tôi ao ước mong đợi từ lâu, tôi nhẩy ngay vào trong xe, lái nó đi quanh giường, trong khi hè tới ngoài cửa sổ còn đóng kín. Mẹ cũng nhắc vài chi tiết nhỏ nối liền tôi với mẹ, chỉ vài chi tiết mà thôi.
Trong hai tuần đầu tôi kêu khóc, đòi bố mẹ tôi. Tôi còn tìm cách đục đất dưới chân tường, đục lén, để trốn khỏi cái hầm vô lý này, như tôi đã được coi trong một phim trên máy truyền hình. Anh cai ngục để mặc tôi đào trong 6 ngày, rồi anh lấp cái lỗ, mặc cho tôi thất vọng trào nước mắt. Theo thời gian qua tôi đành cam chịu. Tôi dọn dẹp cái hầm cho tươm tất, có chỗ tôi thích ngồi, chỗ tôi thích nằm, chỗ tôi chơi với ngựa bằng gỗ gẫy một chân, tôi có ngày làm việc, ngày nghỉ, ngày lễ. Trẻ con như cục bột dễ nắn bóp, nếu nó được chọn để trở thành Đạt Lai Lạt Ma thì sẽ đọc kinh một cách thành khẩn, tin tưởng. Đứa trẻ sinh trong rừng thì trèo cây, bắn cung, bôi nhọ mặt để xua đuổi ma quỷ. Còn Oanh, sinh trưởng trong một gia đình nền nếp, thì ăn mặc sạch sẽ, sách cái cặp xinh xinh đi học, tóc buộc đuôi ngựa cao trên đầu. Tôi sống như cái cỏ hoang, trong hầm tù, thông minh và tình cảm bị giới hạn bởi bốn bức tường đá ẩm thấp. Nhờ một cái cửa kính nhỏ, nằm cao gần sát trần, tôi nhìn thấy trời xanh, mây trắng, đôi khi một con bướm, một con chuồn chuồn, vài con chim lạc vào hầm, làm bạn với tôi trong một thời gian. Không một người qua đường để ý đến tiếng kêu khóc của tôi, họ tưởng đó là tiếng kêu khóc thông thường của một đứa trẻ bị đòn. Rồi tôi đành yên lặng. Từ đó tôi bị cách biệt với thế giới bên ngoài.
Nhưng nhờ cái cửa sổ có kính đó phản chiếu các cửa kính khác bên ngoài, các cửa tiệm, các tủ gương, kính của xe hơi, một vũng nước, mặt kính của một máy truyền hình, mà tôi được chứng kiến một phần thế giới bên ngoài làm các người cai ngục ngạc nhiên về sự hiểu biết của tôi. Họ nghĩ rằng tôi là một đứa trẻ thông minh khác thường, nên đối đãi tử tế, kẻo sau này tôi có thể báo thù bằng tội cho trâu phân thây ra bốn mảnh. Họ còn phân bua với tôi nhiều lần là họ thương tôi lắm, họ chỉ tuân theo lệnh trên mà thôi.
Muốn được dự cảnh thế giới bên ngoài phải biết nhiều bí quyết: tìm chỗ đứng nhìn, khía cạnh cho cái cửa kính, dò giờ nào, lúc nào mặt trời chiếu đúng chỗ.
Hiện giờ có một cảnh tượng kỳ lạ, một phim truyện nhiều hồi về một anh chàng cao bằng ngón tay trỏ yêu một cô nàng luôn luôn đi khắp thế giới cũng cùng kỹ nghệ gia đầu đội mũ rơm. Anh chàng rất yêu cô gái, thực ra có hai cô gái, một cô có đôi mắt tím than, một cô có đôi mắt đen xanh.
Sống trong cảnh tù túng này khó mà có lý luận rõ rệt, chỉ có trí nhớ lộn xộn, đầu óc đầy ảo ảnh và ảo tưởng. Tôi mê say đời sống phía bên kia cửa sổ, ngồi thừ người ra nhìn, như con cóc ngồi đáy giếng, không bao giờ hiểu biết nhiều ngoài cái miệng giếng.
Tôi nhớ ngày còn sách cặp đi học cùng với Oanh, ăn sấu ngọt cắt bằng con dao bài, nhẩy lò cò trên lề đường, đánh khăng trên sân đất, cùng nhiều trò chơi khác. Tôi muốn nàng ở đây, cạnh tôi, trong mơ hoảng bùn lầy nước đọng, rau sậy tràn trề, cây trơ trọi không lá, dây kẽm gai rải rác, chim không thèm đậu, cá không sống nổi. Nhưng Oanh làm sao sẽ chịu nổi những thối nát đó, đã quen gấm vóc, hoa thơm, cỏ lạ, cao lương mỹ vị? Tôi có gì biếu nàng? Tôi chỉ là một đứa bé nửa khùng nửa điên, một thứ dẻ rách vùi mình trong cái dẻ rách khác, thối thăm, bẩn thỉu.
°
°
Tôi cầm máy nói, như sắp uống một thuốc độc êm ngọt, tôi bấm các số vội vàng để không thay đổi ý kiến nữa, tôi gọi Mây, vợ sắp cưới của tôi. Mây cũng là một tên hiếm như Ve Sầu, nghe nhẹ như mây, dịu như gió. Tôi yêu Oanh, nhưng sẽ cưới Mây, éo le, lủng củng như hành trình của tôi.
Sắp đến tết mà lạnh ngọt. Tôi đang ăn bún ốc với Du, nước dùng vừa nóng, vừa cay, ốc béo ngậy, Du thì vừa ăn vừa tập đọc bản thông tin để sửa soạn thi vào đài phát thanh, bằng một giọng đều đều rất nhà nghề.
Tiếng Mây nhẹ nhàng trong ống nghe:
- Tôi nghe đây!
Tôi muốn mời nàng đi một đêm quay cuồng, nhưng tôi chỉ nói:
- Đởm đây!
- À! Anh mạnh không?
- Mây muốn tới tiệm bún ốc không? Có cả Du, đang ăn.
- Nhưng lạnh quá anh ơi! Mây không muốn đi đâu cả.
Rồi nàng ngần ngừ. Tôi đợi. Rồi nàng nói tiếp:
- Nếu… nếu…
- Nếu muốn, tôi đi đón Mây. 15 phút nữa tôi sẽ đợi trước cửa.
- Anh biết rằng em còn trẻ quá. Em không nên…
- Mười năm nữa Mây sẽ nhớ đến giây phút này và sẽ cảm động. Em sẽ nghĩ tới anh nhắc nhở một kỷ niệm thời trẻ.
- Sao mà anh nản và buồn thế?
Mây ở trong một biệt thự đường Quan Thánh cách hồ Trúc Bạch 7 phút đi bộ. Đường này toàn biệt thự to lớn, có vườn cây cao um tùm. Đã nhiều đêm lạnh lẽo, ánh đèn chao đi chao lại dưới gió đông, tôi tới phố nàng để nhìn cửa sổ của nàng, và đôi khi nàng nhìn thấy tôi, gửi tôi một cái hôn mà nàng thổi bay đi trên bàn tay. Mẹ nàng coi chừng nàng là phải. Bà sợ Mây làm bậy cùng tôi, bà có ngờ đâu một trưa hè, sau một bữa bánh khúc chấm tương, nhậu với rượu đế, Mây để tôi đấm bóp nàng, cho đến khi nàng trần truồng như con nhộng, đôi chân lúc đầu khép song song, rồi mở dần như cái quạt để đón tôi hôn.
Tôi nhẩy lên cái Vespa, rồ máy, chạy như cái tên. Mây đã đợi dưới đường, cạnh cây me cổ thụ. Mây leo lên sau xe, ôm lấy lưng tôi, đôi vú nhỏ nhắn cọ nhè nhẹ:
- Anh tới lẹ quá!
- Anh lái như điên mà!
- Máy chỉ có 125 cm3, anh chạy vừa vừa chứ!
Tôi băn khoăn vì Mây trẻ quá, đẹp như đoá thủy tiên ngày tết, nét mặt đều đều, da mịn trắng hồng. Mây nhìn tôi khi tôi ngoảnh mặt lại. Rồi nàng hiểu ý tôi, nàng biết là tôi yêu nàng. Nàng thì thào qua gió lạnh:
- Mây yêu anh.
Những lời này rộn ràng trong tim tôi, ra khỏi tôi, bay vào không khí ngày cuối năm. Tôi không nói gì, lái như bay, đi về phía quán ăn bún ốc. Du đón chúng tôi bằng bản thông tin mừng năm mới sắp tới, năm cũ sắp qua.
°
°
Tôi giới thiệu Mây là em họ tôi, mà là em họ thực, nhưng em họ xa lắc xa lơ. Du nhìn Mây cúi đầu chào, mỉm cười tươi như hoa. Du người cao, mảnh khảnh, luôn luôn tươi cười, rất thông minh lanh lẹn. Anh muốn trở thành nhà báo cho đài phát thanh. Hiện anh đang trợ bút cho vài tờ báo và tuần báo.
Mây ăn bát bún ốc nhỏ, vì nàng đã ăn cơm rồi. Cay chẩy nước mắt mà nàng vẫn húp từng ngụm nước ốc béo đục mẻ cơm và cà chua. Ăn xong nàng đặt đôi đũa song song ở phía bên phải cái bút. Nàng nghe Du đọc một bài thơ bằng một giọng rất thấp:
Lời nói ngập và ngừng
Trên làn môi cứng
Anh ngước nhìn em
Như nhìn một vì sao
Xa và lấp lánh
Anh như một phi thuyền
Đã lạc máy chỉ đường
Đi quanh rồi đi quẩn
Trong vũ trụ mênh mông
Để nhìn em bằng mắt sỏi đá
Ngậm ngùi hàng tỷ năm.
Mây nắm khẽ tay tôi. Du tinh mắt nhìn thấy. Anh ta cũng để ý là Mây ngồi sát quá vào tôi, cô em họ mà lại có cử chỉ quá thân mật, tuy Mây cái áo măng tô dầy mầu đen chùm lên cái áo dài mỏng tanh bằng lụa Hà Đông.
Chúng tôi leo lên xe Vespa, tôi lái, Mây ngồi giữa, Du kẹp ở đằng sau làm Mây buồn cười và cười ròn rã khi Du thì thầm những chuyện tiếu lâm, thơ Hồ Xuân Hương. Chúng tôi đi nhẩy trên nhà Thủy Tạ. Đêm nay đông người, phần lớn tuổi trẻ, đẹp, ban nhạc chơi toàn các bản mới nhất, Du thấy Mây là em họ tôi thì bắt đầu tán dóc, còn tôi làm bộ làm ông anh nên bất cần, lại còn tỏ vẻ hững hờ, mà càng hững hờ thì Mây lại càng ngồi sát vào tôi. Du mời Mây nhẩy mấy bài liền. Nàng thướt tha trong cái áo lụa trắng, như một cô tiên, theo ý tôi, bay lượn trên sàn gỗ, cái quần mỏng gần loã lồ đôi chân dài, cười nói luôn miệng vì nàng biết mình xinh đẹp, vì tết sắp đến nơi, vì đã uống một cốc Cô nhắc, vì tưởng tôi đang ghen tuông Du.
Bây giờ, bao nhiêu năm sau, tôi vẫn hồi hộp khi nhớ tới cái đêm đó, nhớ lúc tôi nâng ly rượu Văn Điểm nốc một hơi cạn. Hai chị em Lý và Vi tới, cùng vài người bạn. Tôi kéo ngay Vi ra sàn nhẩy. Vi mỉm cười bí mật, ngoan ngoãn theo Đởm. Nàng nhẩy rất thong thả, tự nhiên ôm chặt lấy Đởm, làm ảnh cảm rõ thân thể Vi tròn như hạt mít, đôi đùi chắc nịch, cái bụng thẳng băng, và cái mu êm êm cọ lên Đởm.
Rồi tôi đổi vũ nữ với Du. Mây ôm chầm lấy tôi, chặt hơn Vi, uốn éo người như khi chúng tôi nằm trên giường. Lụa mỏng, quần sa tanh, thì che đậy được cái gì! Tôi có cảm tưởng nàng hoàn toàn trơ trụi.
Về bàn, Du hỏi riêng tôi:
- Cô em họ của anh…
- Tên nó là Mây.
- Cô Mây của anh có phải là em họ thực của anh không?
- Tại sao không?
- Em họ mà lại nhẩy như vậy hả?
- Thì như nó nhẩy với anh.
- Thôi đừng dấu tôi nữa.
Du và tôi đụng ly, từ đó tôi không thể quên đôi mắt Mây nhìn tôi, thân thể nàng ấm áp bao bọc tôi.
Tôi sẽ mất tích nàng, nhưng tôi sẽ tìm ra nàng.
°
°
Chiến tranh, loạn lạc. Mây lên miền thượng du. Tôi lạc xuống hạ lưu sông Hồng, trôi theo dòng nước cuồn cuộn đục ngầu. Càng cô đơn, tôi càng nhớ Mây, nhớ mối tình thơ ngây, không tính toán, yêu là yêu hết lòng, mãi mãi, nhớ cái thân thể đầy đặn, lúc nào cũng âu yếm. Rồi một ngày không hẹn mà lại gặp ở ngay thành phố New York, khu Greewich Village trong khi Mây đang ngồi uống cà phê một ngày hè nóng chẳng kém gì nắng Sài Gòn.
Tôi biết rằng:
Tôi đã muốn vài điều, nhưng tôi không dám, sợ nói toàn vu vơ. Cứ như thể trong nhiều năm quan hệ căn bản của đời tôi. Bây giờ thì quá muộn, không phải lúc, không có thì giờ và tôi không còn gì để nói. Chỉ còn nhớ và tiếc, tiếc thì nhiều, nhớ thì chẳng được bao nhiêu. Tuy vậy tôi đã sống đầy hạnh phúc cùng Mây, tại New York, gần các nhà chọc trời, trong một khu bình dân giống khu Cầu Gỗ tại Hà Nội. Chuyện như sau:
Tôi ngồi sau cái quầy thu tiền, trong bóng râm mát, như con cá trê rình mồi đưới đáy ao, đợi khách hàng vào mua và trả tiền trên cái mặt quầy bằng đá hoa, tôi nhét tiền vào ngăn kéo rồi đóng lại thành tiếng "clink". Tôi cai quản các đồ hàng quen thuộc: súc xích, jămbon, salami, dầu ô liu, rượu đỏ… đồ ăn gì cũng có, ngăn nắp, sạch sẽ. Tôi trở thành vui vẻ, có chút khôi hài. Tôi không đẹp, không xấu, nhưng đúng là kiểu người Mây thích, đó là điều cần nhất cho tôi, và tôi biết hát vài chục bản mở đầu ca kịch cổ điển Châu Âu như là Nabucco, "Con chim ăn cắp", "Carmen", "Thợ cạo thành phố Séville", v.v… tôi hát cho các bà nội trợ người Ý thường vào tiệm mua.
Bây giờ tôi phải nói về Mây, vợ tôi, cái may mắn nhất trong đời tôi, y như của trời cho, như được trúng số độc đắc, vì thánh nhân hay đãi kẻ khù khờ. Đến nỗi tôi khó tin là Mây có thực, nàng chỉ là một nhân vật do tôi tưởng tượng ra, hay một người đẹp trong tranh Từ Thức. Vì vậy khi tôi đè lên người nàng, nàng gác hai chân lên vai tôi, nhìn tôi qua đôi mắt hé mở, nụ cười vẫn nửa kín nửa hở như xưa, tôi nghĩ rằng nàng chỉ là một con búp bê bằng cao su, tôi muốn tỉnh giấc mơ hão huyền nên thò tay sờ từng bộ phận thân thể Mây, đôi vú tròn như cái bát ăn cơm, cái rốn sâu như cái giếng, đám lông mượt như lông mèo, đen hơn đêm tối, hai đùi chắc tròn như cột đình, làm Mây rên rỉ mạnh hơn, tôi liền véo tôi rồi véo nàng, để tỉnh dậy nếu đây là mơ, làm nàng ngạc nhiên dơ hai chân cao hơn để nhìn chỗ bị véo còn hằn đỏ vết ngón tay tôi, vì nàng dơ chân nên người nàng gần như gấp lại làm nàng cảm rõ tôi đâm sâu vào trong nàng. Mây không còn giữ gìn nữa, dù đã được giáo dục trong trường Đạo, buông thả cho sự khoái lạc tràn trề người nàng. Không còn hạnh phúc nào hơn nữa: bán đồ ăn, ăn đồ ăn, ngủ với vợ, ngày ngày trôi qua, êm đềm, giản dị. Còn đâu cái hầm cô liêu, còn đâu cai ngục mù quáng. Oanh chỉ là một quá khứ mơ hồ, tôi không nghĩ tới nàng nữa. Nhưng tôi lầm, vì đời là bể khổ, người chứ không phải tình là dây oan, đã gây ra nghiệp chướng – giết nhau, tù đầy nhau – thì ráng chịu hậu quả luân hồi. Đó là chuyện về sau.
Khi chúng tôi cưới nhau thì cửa tiệm rất chạy. Tôi liền cho người tới sửa lại hết. Gạch đá hoa bóng loáng như gương phản chiếu ánh mặt trời buổi sáng và chân các bà cô mặc váy làm tôi có dịp khen họ có đôi chân đẹp. Đá hoa dễ lau chùi, đưa cái dẻ là sạch ngay, nhiều khi chỉ quét chổi cũng đủ. Tất cả các tủ hàng, kệ, quầy đều bằng gỗ dâu mầu nâu tươi, hàng hóa được sắp xếp gọn gàng: dầu ô-liu vàng ánh với một cành nhỏ lá thơm, các hộp spaghetti đủ loại, tagliatelle tươi do tôi làm, mầu xanh vì có trộn rau muống tây, ravioli nhồi thịt, salami đỏ tươi điểm các hạt mỡ trắng, rượu đỏ, rượu trắng, xếp hàng như lính đi biểu diễn, các đùi jămbon treo trên trần như đèn lồng ngày hội, các món ăn ngon lành bầy trong tủ kính lạnh, các thứ pizza nóng hổi ăn ngay tại chỗ không kịp nguội thì đã có đầy người xếp hàng mua, lại còn có nhiều thứ bánh mì thơm nức vì còn nóng làm ấm áp tim mọi người, nhất là tim tôi. Tóm lại: thiên đường trên địa giới.
Hàng năm chúng tôi nghỉ hè ở trại Quang, trại nằm cạnh một dòng sông nhỏ nước lúc nào cũng chẩy xiết đục ngầu, có cái cầu tre làm bằng bốn thân tre song song, trước cửa trại là một bãi trống nhỏ đầy cỏ may, cỏ gà, một con đường đất chạy vòng vèo ra tới đường cái ở chân trời xa, qua các thửa ruộng đầy nước, như tôi tả ở đầu cuốn sách này. Trại trồng nhiều nhãn, vải, xanh um. Bao quanh trại là hàng rào tre, dâm bụt. Một con đường bằng gạch chạy vòng nối cửa trước ra cửa sau.
Năm đó Mây cũng về nghỉ hè cùng chúng tôi. Đây là lần đầu tiên tôi gặp cô em họ xa, cô mới lên 9 tuổi, còn tôi 12 tuổi. Tôi bèn sững người nhìn đôi mắt đen láy đang nhìn thẳng vào mắt tôi. Khi lại gần thì tôi nhận thấy mắt Mây đen xanh thẫm chứ không hoàn toàn đen có lẽ vì phản chiếu lá vải, lá nhãn. Tôi đưa cho Mây một quả mơ.
- Mơ xanh, chua lắm đấy, phải ăn với muối ớt.
Mây móc trong túi ra một gói giấy:
- Em có muối ớt đây.
Nàng chấm mơ vào muối, cắn một miếng, nhăn mặt nuốt. Tôi hỏi:
- Ngon không?
Mây thè lưỡi gật đầu:
- Ngon ghê!
Chúng tôi không còn để ý tới ai chung quanh. Ve Sầu đang kêu tới tấp, mặt trời đã lên cao, mùi cỏ cây thơm nồng, lũ châu chấu nhẩy lách chách trong đám cỏ tranh dài và sắc như dao. Cần câu tôi vác trên vai, cái giỏ cá ở bên trái, cái hộp giun ở bên tay phải, tôi nói:
- Nóng thế này thì cá đang ngủ trưa dưới chân bèo.
- Em muốn đi câu cùng anh. Em sách mồi cho anh. Nàng cầm cái hộp giun, nhìn lũ giun đang quằn quại bò, kêu lên:
- Eo ơi! Thế mà cá nó dám ăn!
- Tụi nó khoái ăn giun.
- Nhưng có cái lưỡi câu.
- Vì thế mình mới câu được cá chứ!
Chúng tôi đi cạnh nhau trên con đường gạch ra phía bờ ao, nói huyên thuyên, cắt lời nhau, đôi khi cầm tay nhau, như muốn tìm hiểu, muốn làm quen, và đã muốn yêu nhau.
Đến gần một bụi dâm bụt tôi chợt ngừng lại, rón rén rình mấy con chuồn chuồn đang bay lên, bay xuống, đậu trên cành lá xanh muốt. Mây áp ngực lên lưng tôi để nhòm. Đây là loại chuồn chuồn nhỏ, mầu đỏ, đen, xanh, xanh lam, mượt như nhung, nhẹ như lông hồng. Mây nói thì thầm, sợ chuồn bay mất:
- Em thích đi câu cá với anh.
- Thế à?
- Em có thể ngồi yên hàng giờ cạnh anh, ngắm hàng trăm mặt trời chiếu qua lá cây trên đầu chúng ta.
Tôi tóm được một con chuồn chuồn mầu xanh da trời:
- Cho Mây đó!
- Nếu nó biến thành chuồn chuồn bằng kim cương thì hay quá!
Mây thả nó bay cao lên ngọn cây.
Mặt trời lấp lánh chiếu qua cá lá cây. Tôi thì thầm vào tai Mây, cố ý làm nàng buồn buồn, rồn rộn:
- Mỗi một lỗ tròn do các lá tạo ra là một thứ ống kính, như ống kính của một cái máy ảnh, mà ngày xưa người ta gọi là camera oscura, nghĩa là "phòng tối" – Vì nhiều lỗ nên chúng ta nhìn thấy nhiều hình ảnh mặt trời, tuy rằng mặt trời chỉ có một.
Tôi sờ lên cánh tay May:
- Cái vệt ánh sáng này là ảnh của mặt trời.
- Anh thích mặt trời?
- Cố nhiên, nhất là cánh tay của Mây cũng tròn trĩnh.
Nàng phá ra cười:
- Mây nhớ rồi. Cái "phòng tối" là cái hộp có một lỗ nhỏ, hình ảnh Mây lọt qua đó, trở thành một hình ảnh lộn ngược trên tờ giấy bóng, và anh lấy bút chì tô lại ảnh của Mây, thành một cô gái xinh đẹp.
- Anh biết là em đẹp.
- Cám ơn anh, anh muốn nghe hát?
- Anh thích giọng của Mây, trong trong, như gió mùa thu, mà lại kể bao nhiêu điều ngọt ngào.
Mây cất giọng hát, đưa ngón tay trỏ đánh dịp:
Đã đến lúc
Chúng ta cùng bay
Qua các biển cả
Hướng về các vì sao
Để lại làn bụi sánh
Như dải ngân hà
Để các cặp yêu nhau
Ngước mắt cùng nhìn theo
Cuộc hành trình vô tận.
Mây quay tròn. Vài con chuồn chuồn bay lên, rồi lại đậu xuống.
Mây hỏi tôi:
- Anh không bắt chuồn chuồn nữa hả?
- Không! Bây giờ đi câu cá.
- Vâng, anh yêu của em.
- Anh là anh họ chứ không phải là anh yêu của em.
- Nhưng em quá yêu anh!
- Đã một ngàn lần anh nói là không được yêu nhau. Cấm! chúng ta không có quyền yêu nhau và lấy nhau.
- Nhưng em cứ yêu anh.
- À! Các cô gái thực rắc rối! Đi mau không thì cá không cắn nữa!
Tôi sách cần câu chạy, Mây vội theo sau:
- Đởm! Đợi em với!
- Mau lên! Quàng chân lên cổ mà chạy!
- Khi em ngủ thì quàng chân lên cổ được, mà chạy thì em chịu. Anh biết em mềm như bún, chân tay muốn quàng đâu cũng được.
Chúng tôi ngồi trên vệ cỏ, bên bờ ao. Trưa hè tĩnh mịch, trời nắng chang chang, cá lờ đờ nấp dưới chân bèo. Tôi thả dây câu xuống, cái phao nổi bồng bềnh. Mây luôn luôn nhìn tôi, tôi bực mình:
- Làm sao mà nhìn anh hoài?
- Tại sao? Vì em yêu anh! Em nhìn anh như một cô gái đang yêu.
- Đưa cho anh một con giun.
Mây nhón tay cầm một con giun ngọ nguậy:
- Tội nghiệp cho thân phận con giun! Người ta sẽ thọc cái lưỡi câu dọc thân thể mày! Anh họ ơi, sao anh ác thế?
Tôi giật lấy con giun:
- Thôi, đừng nhiều lời nữa. Phải hành động!
- Đã muốn thì được. Đây là một động tác của hành động…
Mây lấy tay đẩy tôi lăn tùm xuống ao. Tôi tóm lấy cỏ để tìm cách leo lên bờ, nhưng cỏ trơn, mà Mây lại lấy chân đạp tôi xuống, cười ròn tan. Tôi tóm lấy chân nàng, kéo tuột nàng vào đám bèo. Nàng bơi cuống cuồng, bám vào người tôi, nhưng tôi cứ đẩy nàng ra:
- Cười người hôm trước hôm sau người cười!
Rồi chúng tôi leo lên vệ cỏ, quần áo ướt sũng. Tuy mới có chín tuổi, thân mình của Mây đã nẩy nở, đùi khít, ngực tròn. Nàng ngồi duỗi chân:
- Tuy trời nóng mà cứ để quần áo ướt như thế này sẽ bị cảm. Vậy anh bỏ quần áo ra.
- Trước mặt em? Không tiện ư?
- Sao mà anh nhút nhát thế! ở đây vắng vẻ, cả nhà đi vắng, ve kêu, mặt trời đã lên tới đỉnh đầu.
- Mà em cũng ướt nhẹp có phải chỉ có một mình anh?
Không chút ngần ngừ, nàng cởi áo, tuột quần, chỉ còn cái quần lót mỏng manh làm rõ cái khe chưa có lông của nàng.
- Nằm đây, anh, cạnh em. Sưởi nắng cho khô người.
Mây lấy tay đập lên cỏ:
- Chỗ này cỏ êm lắm.
- Không! Cỏ ngứa lắm. Tôi muốn đứng nhìn ruồi bay. Con ruồi bay tại chỗ, không động một chút nào.
- Con ruồi làm tôi nhớ những ngày hè đẹp. Thân thể nó chia ra từng khúc, như các côn trùng khác. Đầu có hai mắt to tướng, gồm hàng trăm mắt nhỏ hình sáu cạnh, hai cái râu để tiếp nhận đủ mọi tin tức. Cái ngực chia làm ba phần, như hộ tâm của một cái áo giáp. Và cái bụng mềm, phập phồng theo nhịp thở.
Mây trở mình, nằm sấp, tay chống cằm:
- Anh thông thái quá. Anh có muốn trở thành nhà côn trùng học?
Tôi cười, nhìn đôi mông nho nhỏ xinh xinh của Mây:
- Tôi thích tất cả cái gì thuộc về khoa học. Tôi bỏ cả ngày để làm máy bay, tầu thủy, nam châm, cánh quạt có thể bay vụt lên không trung, hỏa tiễn, súng thần công.
- Và em lúc nào cũng là yểm trợ viên của anh, em muốn anh nói thêm về con ruồi.
Tôi ngồi xuống cạnh Mây, nhìn cái lưng thẳng băng, làn da mịn còn lấm chấm vài hạt nước:
- Con ruồi có cánh mỏng và trong, gắn trên lưng, chuyển động do các bắp thịt rất mạnh, có thể đập 10.000 lần trong một phút.
Mây lắng nghe, rồi chậm rãi nói:
- Em thường thấy loại ruồi này, mỗi mùa hè, khi không khí yên tĩnh. Nó có thể bay tại chỗ, như máy bay trực thăng, rồi bất chợt phóng vèo ra chỗ khác rồi ngừng ngay lại. Thực là một tuyệt phẩm của thiên nhiên. Còn anh, ác độc, anh vặt đầu nó, để xem nó sẽ sống ra sao, vặt cánh để nó chỉ bò chứ không bay được nữa, nhổ chân để nó phải bay hoài không đậu được.
- Tôi không ác như Mây tưởng. Tôi có một thái độ khoa học khách quan, không để tình cảm vào thí nghiệm.
Mây nghiêng đầu nhìn tôi, mỉm cười. Tôi nói:
- Nhìn kỹ đi! Em đoán thử xem làm sao tôi lại trở thành tôi lúc này?
Mây nhổ một cọng cỏ, đưa vào miệng nhấm nháp:
- Càng nhìn anh, em càng không hiểu làm sao anh lại trở thành "anh bây giờ, đẹp trai và có duyên bí mật, một khuôn mặt chăm chú cúi trên một con dế mèn, một con bò quay múa dưới ánh nắng chiều, một con thiêu thân bay lạc trong gió lạnh của hoàng hôn. Và kỳ lạ hơn nữa, nhiều lúc em tự kể chuyện em và anh, câu chuyện độc nhất che trở cho em khỏi sợ hãi khi em giật mình tỉnh dậy giữa đêm khuya không có anh ở bên cạnh.
Tôi để bàn tay áp lên vai nàng, làm nàng nổi da gà, lim dim mắt. Nàng nói:
- Gãi lưng cho em đi, em đang ngứa. Lên trên một chút, sang phải, đúng chỗ rồi, xuống một chút, xuống nữa đi, nữa đi!
- Có gì lạ đâu. Chỉ vì một cái hạt giống gồm 180 chữ.
- Làm sao? Một cái hạt, một cái mầm, như một hạt lúa?
- Đúng vậy! thôi, chúng ta tạm gọi cái đó là "mầm". Người ta tìm được cái mầm trong một thứ ruồi tên là "Drosophile melanogaster".
Mây trỏ một con ruồi đang bay im tại chỗ:
- Không phải thứ ruồi này, ruồi này bụng đen có vòng vàng?
Tôi đập tay lên mông nàng:
- Im! Nếu không thì…
Nàng ngoan ngoãn hỏi:
- Nếu không thì sao?
Tôi bực mình:
- Nếu không thì nó bay ra chỗ khác!
Quả nhiên con ruồi đổi chỗ ra xa hơn. Mây thản nhiên:
- Gãi lưng đi anh, gãi bằng ngón tay trỏ thôi.
- Đã bảo mà! Bây giờ nó đi mất rồi. Đàn bà nhiều khi lạ thực! Không để yên cho người ta thực nghiệm quan sát!
- Vì anh nói to quá đấy chứ!
- Tại em cứ hỏi lẩn thẩn.
- Xin lỗi anh.
- Từ giờ trở đi, nói gì thì phải nghe nhé!
- Em xin vâng.
Tôi liếc mắt nhìn Mây. Nàng đã ngồi dậy, hai tay quàng lên đầu gối, đôi chân thu trước ngực. Tôi tự nhủ rằng phải nhớ giây phút này thật lâu, một ngày nào, khi tôi già nua, nếu trí óc tôi còn sáng suốt, tôi sẽ ôn lại từng giọng nói, từng cử chỉ, từng cảm giác, cảm tưởng, sống cùng với cô bé Mây mà tôi không thèm để ý vì còn ham mê nhận xét con ruồi. Tôi nói tiếp:
- Vậy con ruồi "Drosophile", thuộc loài ruồi muỗi có hai cánh, thường gọi là ruồi dấm, dấm là dấm chua để pha nước mắm, tiếng Hy Lạp, "drosos" nghĩa là sương (buổi sáng), "philos" nghĩa là thích. Nó có khả năng sinh sản rất mau chóng, chỉ trong vài ngày đã tạo ra mấy thế hệ.
- Thưa anh, vâng!
- Lúc nào cô cũng chỉ nói "vâng".
- Không nói "vâng" với anh thì nói "vâng" với ai?
Tôi dịu mặt, mỉm cười, lấy ngón tay trỏ vẽ chung quanh môi nàng, mắt nàng, mũi và cổ:
- Chúng ta ai cũng có định mệnh, làm thế nào thì làm cũng không thoát khỏi, như một cái luật hóa học hay vật lý học, cho tay lên lửa thì bị nóng bỏng, nước lạnh quá thì thành nước đá.
Mây mím môi suy nghĩ:
- Vì định mệnh nên lúc nào em cũng phải yêu anh?
- Cảm ơn Mây. Em yêu anh vì nhiều lý do: tâm lý, sinh vật lý, tế bào, v.v…, chứ thực ra tự ý thì em chẳng yêu anh đâu.
Nàng đứng phắt dậy, đôi chân song song, ngực mới nớm nở, mắt mở to:
- Không phải! Không phải!
Tôi nhặt một cành cây nhỏ, chọc vào một con ruồi chết:
- Em hãy nhìn con ruồi này, qua cái kính phóng đại.
Mây lại sát vào người tôi để nhìn qua cái kính tròn phóng to hình con ruồi. Tôi giảng giải:
- Con ruồi này, khi còn là con ròi, có trong các hạch làm ra rãi, một thứ "chromosomes" khổng lồ, dễ quan sát qua máy hiển vi. Người lại có thể "cloner" chúng, để nghiên cứu.
- "Cloner"là gì?
- Là làm ra nhiều bản giống hệt nhau.
- Vậy chúng ta có thể làm ra nhiều Đởm và Mây?
- Cố nhiên. Nhưng hiện giờ khoa học của chúng ta chưa làm nổi việc đó.
- Và những Đởm, Mây đó sẽ yêu nhau?
- Đồ ngu!
- Thưa anh, vâng!
- Nhờ các "chromosomes" mà mỗi sinh vật có một hình thể riêng biệt. Em là em, anh là anh, chẳng hạn.
- Nhưng số mệnh chúng ta là ý niệm trừu tượng, thì cái gì có thể quyết định được?
- Được chứ! Tất cả các sự vật khi tác động vào nhau thì tạo ra các định luật… trừu tượng và lý thuyết.
- Em hiểu rồi. Hôn nhẹ em một cái.
Tôi đành hôn lên má Mây, rồi chúng tôi nhìn nhau yên lặng giữa trưa hè, giữa lũ ve sầu vẫn kêu inh ỏi. Mây hát:
Từ hàng tỷ, hàng triệu năm
Chúng ta vẫn sáng tạo một thiên đường
Trên trái đất
Có anh và có em
Đi theo chúng ta, những cảm giác
Của thân thể, dưới cây có quả cấm
Mãi mãi cho đến khi
Cùng ăn và cùng thương nhau.