26 tháng Chín Đã một tuần nay tôi không viết thêm được dòng nào vào quyển nhật ký... Tối đến tôi thấy người mệt nhoài, mình mẩy đau nhừ... chỉ còn muốn đi ngủ, chẳng muốn làm gì nữa... Ước gì được ngủ suốt ngày!.. Làm việc ở nhà này mệt quá!... Cứ suốt ngày gọi... Vừa ngồi xuống, chuông đã lại kêu reng reng... lại trèo lên hai tầng thang gác... Không còn thở được nữa... Chuông không mấy lúc không reng reng... Chân cứ mỏi nhừ, chạy còn thiếu mà khụy xuống... Lưng đau, bụng đau... Reng reng, tai lúc nào các thấy o o... Chậm một tí là kêu: Làm gì ở dưới ấy mà gọi không thấy lên ngay! Tai điếc à? Gọi cứ hàng tiếng đồng hồ mới thấy ló mặt lên! Lấy cho tôi cái kim! Tôi vào rổ khâu lấy cái kim. Cả sợi chỉ nữa! Tôi lại quay lại lấy cuộn chỉ. Tìm cho tôi cái khuy. Tôi đi lấy khuy. Khuy này không được! Khuy màu trắng số 4 kia! Mau lên!... Tôi lại đi tìm chiếc khuy trắng số 4... Tôi những phát điên lên được. Cứ đi lên đi xuống, đi ra đi vào suốt đi như vậy. Rồi bà ấy lại thay đổi ý kiến nữa chứ! Thôi cất kim và khuy áo đi! Không cần nữa! Lưng tôi cứ muốn gẫy gập xuống... Hai chân mỏi nhừ... Không còn bước được nữa... Thế này chắc bà ấy hả hê lắm... Đối vối súc vật cũng không đến nỗi thế! Tối đến, vào phòng tôi, bà ấy làm như sấm sét: Thế nào! Mày không dọn dẹp gì à?... Tao thuê mày không phải để mày giong ra giong vào suốt ngày, nghe không!... Tôi tức quá, cãi lại: Tại bà cứ sai tôi suốt ngày, còn thì giờ đâu mà dọn dẹp. Tao sai suốt ngày à? Mà cấm mày không được cãi, nghe chưa!... Tao nói, cứ nghe thôi, không được phép có ý kiến lại!... Tao nói thế chưa đúng hay sao? Thê rồi bà ấy sập cửa ầm ầm! Quăng cái nọ, ném cái kia! Trong nhà, ngoài vườn, dưới bếp, cứ ầm ầm tiếng bà quát tháo... Bà ta mới lắm điều làm sao chứ!... Không hiểu trong người bà có cái gi mà lúc nào bà cũng như điên thế! Không mây khi thấy bà có câu nói dịu dàng! Có một lần tôi mệt quá!... Trong người như có con sâu con bọ gì nó gậm nhấm, nó cấu xé... sáng ra không còn muốn dậy nữa, người thấy choáng váng. Nhưng tôi vẫn cố ngồi dậy đi làm. Bước lên cầu thang gác tôi thấy mặt mũi tối sầm, phải bám vội vào tay vịn cầu thang cho khỏi ngã... Cũng vừa lúc bà chủ đi đến. Thấy tôi vậy bà hỏi: Cô sao thế? Tính tôi không muốn để cho ông bà chủ nghe những lời rên rỉ, nên tôi trả lòi: Tôi không sao. Không sao thì sao lại thế? - bà nói. - Tôi không muốn ai có bộ mặt như đưa đám đâu nhé. Cô làm tôi khó chịu lắm! Tôi những muốn tát cho bà ta mấy cái!... Gặp những lúc như thế, tôi lại nhớ đến những chỗ làm cũ... Nhất là nhà ông bà chủ ở phố Lincoln... Tôi là người hầu phòng thứ hai nên chẳng phải làm gì nhiều... Cả ngày bọn tôi ngồi với nhau ở trong phòng để quần áo, một căn phòng đẹp, tường căng vải phớt hồng trong phòng có những tủ lớn bằng gỗ đào hoa tâm, các ổ khoá sáng choang. Chúng tôi chỉ có việc đọc sách báo, trò chuyện bù khú với nhau, chế giễu trêu chọc chị này anh kia. Bà quản gia, là một bà người Anh, cho chúng tôi uống nước chè bà chủ gửi mua từ Anh quốc. Ông đầu bếp cũng mang đến cho chúng tôi bánh ngọt, rượu, giăm bông, xúc xích và nhiều món ăn khác, toàn loại cực ngon... Tôi còn nhớ một hôm trong lúc vui đùa, bọn họ còn bắt tôi mặc quần áo của ông chủ, một bộ đồ bằng vải rất đẹp... Người ta làm đủ mọi trò. Bắt tôi đi đứng, nói năng như ông chủ, chết cười được. Tôi làm bắn cả nước bọt vào chiếc quần hộp của ông chủ... Một chỗ làm việc thật dễ chịu! Dần dần tôi hiểu ông chủ chỗ tôi đang làm bây giờ. Ông là người tốt bụng, đại lượng, đúng như người ta nhận định. Nhưng vì muốn làm điều tốt lành nhân hậu nên cũng có khi ông phạm sai lầm... Ông có ý định làm điều hay nhưng có khi lại quay ngược và phản tác dụng. Sau đây là một ví dụ: Thứ ba trư, và ông cảnh sát biển... Tôi sợ quá, tôi tụt chiếc khăn quàng trên người, chạy đến đứng lọt vào háng những người ấy và tôi gào lên "bố ơi... bố ơi..." rồi một bà hàng xóm bế vội tôi đi chỗ khác... Từ ngày ấy trở đi mẹ tôi uống rượu, lâu rồi thành nghiện... Mẹ uống nhiều lắm, nhiều phát khiếp được... Thời gian đầu mẹ tôi đi làm ở xí nghiệp cá hộp, nhưng mẹ say rượu luôn nên người ta không mướn nữa. Không đi làm ở nhà mẹ tôi lại càng có điều kiện rượu chè, ủ rũ, rồi đánh chúng tôi. Sợ quá, tôi bỏ nhà đi lang thang, suốt ngày ở ngoài bến tàu, không thì lại vào các vườn ăn trộm hay lội hàng giờ ở ngoài bờ biển lúc triều xuông. Cũng nhiều lúc tôi đi dong trên đường Plogoff, đến một trảng cỏ, chung quanh cây cối rậm rạp, kín gió, để đùa nghịch với bọn con trai... Có một hôm đi chơi về, tôi thấy mẹ tôi nằm vật trên nền nhà ngay ở ngưỡng cửa, nôn mửa nhầy nhụa, trong tay đang cầm một cái chai vỡ... Tôi phải bước qua mẹ mà vào, không dám làm mẹ thức. dậy; mẹ tôi mà thức dậy thì sợ lắm.... đập phá lung tung, rồi lôi tôi ra khỏi giường, đuổi đánh, đấm đá, dập đầu tôi vào tường, rồi quát: - Tao phải giết mày mới được! Tao phải giết mày. Tôi đã tưởng chết mất. Rồi mẹ tôi bê tha, truy lạc, để có tiền rượu chè... Đêm nào cũng có tiếng gõ cửa... Một thuỷ thủ vào, đem theo mùi cá, mùi mắm tanh tưởi... Ngủ lại một tiếng rồi đi... Người ấy đi, một người khác lại đến, lại ngủ một tiếng rồi lại đi... Cũng có lần thấy có tiếng người cãi nhau, đánh nhau, lục đục trong đêm tối, nhiều lần cảnh sát phải đến can thiệp... Nhiều năm trôi qua như thế... chẳng ai muốn cưu mang tôi, cả anh tôi, chị tôi cũng vậy... Thấy chúng tôi đi ngoài đường mọi người tránh xa... Thấy chúng tôi lân la vào vườn ăn trộm hay đến nhà xin ăn, họ lấy đá ném chúng tôi... Một hôm chị Louise tôi chẳng chớ với một anh lính thuỷ rồi bỏ nhà đi... Tiếp theo là anh trai tôi vào lính rồi cũng biệt tăm... Thế là còn lại mình tôi với mẹ. Hơn mười tuổi, tôi đã mất trinh.... theo gương xấu của mẹ, tôi cũng sa vào con đường tình ái với bọn trẻ con con trai... người tôi đẫy đà ra... Tuy đói ăn, lại bị đòn vọt luôn, nhưng sống giữa nơi thoáng đãng của vùng biển, được tự do thoải mái, tôi lớn như thổi, mới mười một tuổi, tôi đã dậy thì, trông tôi đã ra vẻ một phụ nữ tuy vẫn còn là một thiếu niên. Đến mười hai tuổi, tôi đã thành một phụ nữ hẳn hoi, đồng thời cũng không còn trinh trắng... Có phải tôi bị cưỡng dâm không?... Không hoàn toàn như thế... Hay là thông dâm?... Gần như thế. Một ngày chủ nhật, sau buổi lễ, ông đốc công già của nhà máy cá hộp, người đầy lông lá, râu tóc lồm xồm như một bụi rậm, mùi hăng như mùi dê đực, kéo tôi ra bãi biển Saint Jean, dẫn tôi vào một cái hốc đá tối om, nơi cho chim cú làm tổ và thuỷ thủ giấu những vật vớt được ở ngoài biên. Đến đấy, ông đặt tôi nằm trên một cái ổ bằng rong biển đã thối rửa. Ông cho tôi một quả cam và chiếm lấy tôi... Tôi chẳng chống cự, cũng chẳng quẫy đạp... Ông đôc công già ấy có cái tên kỳ cục là Cléophas Biscouille... Thật là một điều khó hiểu tôi chưa từng đọc ở các tiểu thuyết. Ông Biscouille vừa già vừa xấu lại có vẻ tàn bạo rất ghê tởm. Bốn năm lần ông đưa tôi vào hang đá tối om nằm trên ổ rong biển thối, chẳng có chút gì gọi là thích thú, trái lại rất tởm lợm. Vậy mà sao cứ mỗi lần nghĩ đến ông - mà tôi nghĩ đến luôn - tôi không bao giờ có ý nghĩ khinh ghét và nguyền rủa. Trái lại tôi chỉ thấy biết ơn ông và tiếc rằng chẳng bao giờ còn gặp lại ông, con người ghê tởm ấy nữa... Nhân dịp, xin cho phép tôi được đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào tiểu sử các vĩ nhân. Ông Paul Bourget là bạn thân đồng thời là người hướng dẫn của bà bá tước Fardin, bà chủ cũ của tôi năm ngoái. Tôi có nghe nói ông là người duy nhất biết được thấu, đáo tâm hồn phức tạp của phụ nữ. Đã nhiều lần tôi muốn viết thư hỏi ông về trạng thái tâm lý này. Nhưng rồi tôi không dám... Các bạn đừng ngạc nhiên thấy tôi quá bận tâm như thế. Tôi cũng biết rằng đối với những kẻ làm đầy tớ như vậy là không hợp. Nhưng ở thính phòng của bà bá tước, người ta chỉ rặt thảo luận về mỗi vấn đề tâm lý... Nên trí lực của bọn tôi cũng rập khuôn trí lực của chủ, ở thính phòng thảo luận cái gì thì ở sau nhà cũng thảo luận cái ấy. Chỉ buồn một điều ở nhà chúng tôi không có một người như ông Paul Bourget có khả năng làm sáng tỏ những vấn đề về tâm lý phụ nữ mà chúng tôi bàn bạc... Ngay cả những lời giải đáp của anh Jean cũng không làm chúng tôi thoả mãn... Một hôm bà chủ tôi bảo tôi mang một bức thư khẩn cho ông thầy trứ danh của bà. Tôi củng được giao nhận thư ông trả lời... Tôi nhân dịp mạnh dạn nêu vấn đề đã từng làm tôi băn khoăn để hỏi ông. Tôi cũng nói thác đi đây là của một cô bạn tôi... Ông Paul Bourget hỏi tôi: Bạn cô làm gì? Một dân thường hay một người nghèo? Một người hầu phòng cũng như tôi, thưa ông. Ông Bourget nhăn mặt, bĩu môi, vẻ tự cao, khinh người. Ông ghét người nghèo mà! Tôi không quan tâm đến những người ấy. Họ không phải, không đáng, là người để môn tâm lý học của tôi nghiên cứu. Tôi hiểu rằng trong giới khoa học của ông chỉ nghiên cứu những người, có từ một trăm nghìn francs lợi tức trở lên. Khác hẳn với ông, ông Jules Lemaitre, một bạn quen, tính xuề xoà của gia đình. Cũng được hỏi về vấn đề ấy, ông bẹo tôi và vui vẻ trả lời: Cô Célestine ạ, bạn cô là một người tốt bụng. Nếu cô cũng giống như cô bạn ấy thì tôi chỉ trả lời hai tiếng: Hay! Hay! Người ông xấu xí, lưng gù, mặt choắt, nhưng giản dị, chẳng làm bộ làm tịch gì, trông y như một đứa trẻ... Tiếc rằng ông lại rơi vào hàng ngũ những linh mục... Nếu các bà xơ ở Ponteroix thấy tôi thông minh và kháu khỉnh lại nhặt tôi về thì không biết tôi sẽ thế nào ở cái địa ngục Audierne ấy! Tôi đã gặp mấy đứa cũng bằng tuổi tôi, cũng nghèo túng, nhưng trong trắng, nhân hậu. Chúng không chịu ngửa tay đi xin ở dọc đường hay đến các nhà. Chúng tìm cách này hay cách khác để sống lương thiện. Mặc dầu hoàn cảnh khó khăn nhưng chúng vẫn vui vẻ vẫn hát như những con hoạ mi. Bọn chúng dạy tôi học đọc, học viết, học khâu vá, làm nội trợ, rồi đưa tôi vào làm con sen tại nhà một ông đại tá về hưu. Mùa hè nào ông cũng đưa vợ và hai con gái đến nghỉ ở một lâu đài cũ kỹ gần thị trấn Confort... Họ là những người tốt nhưng lúc nào cũng thấy buồn rười rượi... và bị ám ảnh. Không bao giờ thấy họ cười... Quần áo toàn một màu đen. Ông đại tá suốt ngày ngồi ở phòng sát nóc, loay hoay một mình vói những quân cờ và bàn cờ. Bà thì hết vá cái nọ lại khíu cái kia, nhiều lúc khâu vào rồi lại tháo ra. Còn hai cô con gái có một luống đất nhưng cào chả có, cuốc thì không, muốn tưới cũng không có nước. Tôi làm với ông bà được vừa vặn tám tháng rồi thôi... ° ° ° Sau bữa ăn tối, thấy tôi buồn, chị bếp Marianne lại gần an ủi. Chị vào tủ buýtphê lấy ra một chai nước quả, hai cái cốc, rót đưa tôi một cốc. Nhắp một ngụm rồi đặt cốc xuống giường, chị chậm rải nói: Đừng buồn chị Célestine. Cố gắng nén chịu. Đời là thế đấy. Nhiều nỗi gian truân, chẳng mấy ai tránh khỏi. Suốt trong gần tiếng đồng hồ, vừa uống vừa trò chuyện, chị Marianne đã kể cho tôi nghe nhiều nỗi buồn phiền của đời chị: ốm đau bệnh tật, sinh con đẻ cái, bố mẹ chết, các em chết... Giọng chị mỗi lúc buồn thêm, vừa nói vừa khóc. Đừng buồn chị Célestine ạ, - chị Marianne lau nước mắt bảo tôi, - mẹ chị mất là một tổn thất lớn... nhưng biết làm thế nào... Người ta ai cũng phải chết... Gắng chịu đựng... Rồi tự nhiên chị khóc nức lên, vừa khóc vừa rên rỉ. Đừng buồn.... đừng buồn... Trước chị rên rỉ se sẽ, sau rống lên thảm thiết. Cái bụng to kềnh của chị, cái ngực đồ sộ của chị, cái cằm ba ngấn của chị, rung lên bần bật, nổi thành từng cục... Khẽ chứ chị Marianne, - tôi khuyên, - không bà chủ nghe thấy lại đến... Nhưng chị Marianne không thôi, chị vẫn rên rỉ vẫn kêu gào to hơn... Ôi chao đau xót quá! Đau xót quá!... Thế là tôi xúc động trước những tiếng than vãn của chị bếp, tôi cũng nức nở lên... Tôi buồn quá. Những muốn chuyển đi làm chỗ khác để may ra có khuây khoả được chăng.