Ăn xong Lý Long đọc tiếp khẩu quyết luyện Vô-ngã-tướng thiền-công cho Tự-Mai, rồi hai anh em ngồi luyện. Chàng nói: - Sư phụ anh thường nói, nhà Phật có bốn loại Thiền-công. Bốn loại này thu góp trong kinh Kim-cương, Lăng-già, Tượng-đầu. Bốn loại mang tên như sau: Vô-ngã-tướng. Vô-nhân-tướng. Vô-chúng-sinh-tướng. Vô-thọ-giả-tướng. Người nhấn mạnh: - Trong bốn loại, thì Vô-ngã-tướng đứng đầu, tối cao, tối lợi hại của Thiền-công nhà Phật, nhưng đã thất truyền. Theo truyền thuyết khi Bồ-tát Tăng-gỉa Nan-đà đến Lĩnh-nam truyền cho ba bà Trần Năng, Phật-Nguyệt và Trần-thị Phương-Chi. Từ khi ba vị tuẫn quốc, chúng nhân ai cũng cho rằng loại Thiền-công này thực sự không có, chỉ là huyền hoặc. Không ngờ anh em ta có duyên gặp được. Nào chúng ta thử luyện xem sao! Chàng nhẩm những câu quyết, thấy gần giống với Thiền-công Tiêu-sơn của chàng. Còn Tự-Mai, nó nghe Lý Long đọc khẩu quyết, đến phân nửa giống nội công Đông-a. Hai anh em yên lặng luyện. Lạ lùng thay, không có gì khó khăn cả. Nó nghiệm thấy rằng sau mỗi lần luyện, chân khí trong người không chạy nhộn nhạo khắp cơ thể như trước đây nữa. Tất cả tự động quy liễm về đơn điền. Cứ như thế ba anh em bắt cá, bắt gà nướng ăn, rồi luyện võ. Thỉnh thoảng Lý Long nhận được thư do chim ưng đem vào. Chàng lại cầm bút viết lệnh cho nó đem ra. Ngồi ở trong động Xuân-Đài mà chàng biết hết những biến chuyển bên ngòai. Những mưu kế chàng thiết lập đều đem giảng giải cho hai người em kết nghĩa nghe. Cho đến một hôm Lý Long, Tự-Mai đã luyện xong hết Vô-ngã tướng thiền-công. Chàng nói: - Xưa công chúa Yên-lãng luyện nội công dương cương phái Tản-Viên, sau đó luyện vận khí bằng kinh mạch, cuối cùng luyện Vô-ngã-tướng thiền công. Bây giờ anh em mình đi ngược lại con đường ngài đã đi. Anh với Mai đã luyện Vô-nhân tướng công. Lúc vào hang, chúng ta luyện vận khí bằng kinh mạch, rồi mới luyện Vô-ngã tướng thiền công. Bây giờ luyện sang nội công dương cương phái Tản-viên. Chàng đọc tâm pháp nội công Tản-viên. Ba anh em cùng luyện. Luyện suốt một buổi, ngừng lại bắt cá ăn. Lý Long muốn ba anh em cùng trao đổi kinh nghiệm. Chàng hỏi Tự-Mai: - Em thấy thế nào? - Trước đây, em luyện nội công phái Đông-a, thấy nội tức sinh ra khắp người, căng phồng lên. Khi ngừng phải thu công. Chân khí về đơn điền tụ lại. Lúc luyện phương pháp dẫn khí bằng kinh mạch. Chân khí theo kinh mạch vận hành trơn tuột, rõ ràng, thông thương. Sau luyện Vô-ngã-tướng thiền công, chân khí biến đi hoàn toàn. Khắp người giống như một cái hồ trống rỗng, nhưng khi phát chiêu, chân khí bùng dậy mãnh liệt. Bây giờ luyện nội công dương cương Tản-Viên, em thấy chân khí nảy sinh cực mạnh. Nhưng chân khí vừa sinh ra, lại bị chân khí Vô-ngã tướng chuyển theo kinh mạch, tự động về đơn điền, không phải thu công. Tôn Đản phát biểu: - Em luyện nội công dương cương Cửu-chân, nội lực sinh ra rất mạnh. Em phải thu liễm chân khí về đơn điền. Lúc luyện vận khí bằng kinh mạch, khí tự động luân lưu, cuối cùng lại về đơn điền. Bây giờ em luyện nội công Tản-Viên, nội tức sinh ra mau hơn. Giữa dương cương của Cửu-chân, Tản-viên dường như không hoà hợp được làm một. Lý Long thấy hai sư đệ có nhận xét tinh vi, chàng phát biểu: - Anh thấy diễn tiến giống như Tự-Mai. Bây giờ chúng ta cùng luyện Phục-ngưu thần chưởng xem sao. Nào, hãy bắt đầu bằng phần tổng quyết. Ba anh em luyện. Khoảng nhai dập miếng trầu, Lý Long thấy chân khí chạy nhộn nhạo rất khó chịu. Chàng kiên nhẫn vận kinh khí một lần nữa, hiện tượng cũ lại xuất hiện. Chàng ngừng luyện, quay lại nhìn hai sư đệ. Cả hai cũng ngơ ngơ ngác ngác không hơn. Tự-Mai nhăn mặt: - Em thấy dường như có chỗ không ổn. Trong phần chép Phục-ngưu với Lĩnh-Nam chỉ, có nhiều thuật ngữ hơi trái với nguyên tắc vận hành kinh mạch. Vậy có thể công chúa Yên-Lãng cố tình chép như thế. Chúng ta không có thuật ngữ, luyện nữa chỉ thêm nguy hại mà thôi. Lý Long gật đầu đồng ý. Chàng là người biết tự chế, không dám cưỡng bách luyện. Điểm lại, ba anh em ở trong động Xuân-đài trải sáu tháng. Chàng bảo hai em cùng học thuộc lòng khẩu quyết Phục-ngưu thần chưởng, Lĩnh-nam chỉ rồi chuẩn bị ra ngoài động. Tự-Mai đề nghị: - Hang này rộng quá, chúng ta mới chỉ xem xét chỗ có ánh sáng chiếu vào, rồi cùng nhau luyện võ. Bây giờ chúng ta phải xem xét kỹ, biết đâu còn tìm ra được di tích gì nữa chăng? Lý Long tự chửi thầm mình tuy kinh nghiệm mà vẫn còn thiếu tinh tế hơn đứa trẻ này. Chàng bảo Tự-Mai: - Em với Đản ra ngoài chặt mấy cây nứa khô, đem vào đây làm đuốc. Chúng ta cần lật từng viên đá, từng hốc nhỏ, trước khi rời khỏi hang. Đản với Tự-Mai đã mang vào mười bó nứa khô. Nhưng khi lặn xuống nước vào hang, nứa bị ướt. Phải chờ một ngày, nứa mới khô. Tự-Mai đốt đuốc lên, ba anh em bắt đầu từ bậc thứ nhất của hang, kể từ biển đi lên. Lý Long bàn: - Anh em chúng ta vào đây, thấy bia đá của công chúa Yên-lãng Trần Năng, bị những bí quyết võ công làm say mê, cặm cụi luyện tập, không còn chú ý gì đến xung quanh nữa. Điều căn bản, chúng ta phải tìm xem, trước công chúa Yên-lãng có ai vào đây chưa? Sau khi khắc bí quyết võ công vào vách đá, công chúa Yên-lãng cùng phò mã Hùng Bảo chết ở trong này hay chết ở chỗ khác? Sau công chúa Yên-lãng những ai đã vào đây? Lệ-Hải bà vương có thực học võ ở trong này hay học ở chỗ khác? Ba người soi đuốc từ ngưỡng cửa hang đi lên. Không thấy gì. Tiếp tục lục lọi, họ tìm ra một ngách nhỏ, chặn bởi viên đá lớn. Lý Long vận sức đẩy, tảng đá chỉ hơi nhúc nhích. Tự-Mai, Tôn Đản cùng hết sức đẩy với chàng, viên đá xê dịch đi, lộ ra một ngách khác, có ánh sáng rọi vào. Ba anh em hoan hô một tiếng, rồi chuồn sang. Bên kia chỉ là một hang nhỏ, có lỗ thông từ đỉnh núi xuống. Hình ảnh đầu tiên đập vào mắt họ là bốn bộ xương. Hai bộ trong tư thế ngồi. Một bộ trong tư thế nằm ngửa và một bộ trong tư thế nằm sấp. Cạnh bốn bộ đều có thanh đoản đao. Tôn Đản cúi xuống quan sát. Nó nói: - Cứ như quần áo của bốn người này, chắc họ là người Hoa. Hai người ngồi, xương ngực bị trấn động gẫy, hẳn họ bị chưởng lực đánh chết. Người nằm sấp xương sống bị tiện đứt, hẳn chết vì đao, kiếm. Còn người nằm ngửa xương đầu vỡ đôi, chắc cũng chết vì chưởng. Em nghi bốn người này đuổi theo một cao thủ người Việt. Khi vào đến đây, họ bị cao thủ đó giết chết. Tự-Mai thấy xác chết nằm sấp có cái túi da. Nó mở ra. Bên trong chứa khá nhiều vàng, bạc, và một cái ấn. Nó đưa nén vàng cho Lý Long: - Anh coi này. Vàng có khắc chữ Trinh-quán thiên bảo. Trinh-quán là niên hiệu của vua Đường Thái-tông (634-650). Thế thì ít ra bốn người này sang đây vào đời Đường. Tôn Đản cầm cái ấn bằng ngọc, tuy đã cũ, song chưa bị mờ. Trên ấn có mấy chữ rất nhỏ. Tự-Mai đưa đuốc sát vào. Nó đọc: An-nam đô hộ phủ. Hưng-quốc công Triệu Xương. Lý Long hỏi: - Tên Triệu Xương này là người thế nào? Tự-Mai à lên một tiếng, nó nói: - Triệu Xương được vua Đường Đức-Tông cử sang nứơc ta làm An-nam đô hộ phủ năm Tân-mùi, tức Trinh-nguyên thứ bẩy (791), nhằm đối phó với cuộc khởi binh của Bố-Cái đại vương. Tôn Đản ngơ ngác hỏi: - Bố-Cái đại vương à? Anh chưa nghe nói đến bao giờ? Tự-Mai kể: - Từ sau bà Triệu, dân Việt mình chịu ách đô hộ năm trăm bốn mươi ba năm (543) dài đằng đẵng. Trung gian có nhiều cuộc quật khởi, nhưng chỉ như ngọn lửa lóe lên rồi tắt đi. Phải đợi đến năm Tân-mùi (791), một đại hào kiệt thuộc phái Cửu-chân, quê ở Đường-lâm thuộc Phong-châu, họ Phùng húy Hưng mới nổi lên chiếm lại được đất nước. Vì ngài nhân cái nhục của dân mà khởi binh, vì vậy dân chúng tôn ngài làm Bố-Cái đại vương. Lý Long kinh ngạc: - Anh nghe nói cuộc khởi nghĩa nổ ra ở Phong-châu quê của ngài, cũng là quê hương vua Trưng. Mà sao Bố-Cái đại vương lại thuộc phái Cửu-chân? Tự-Mai đáp: - Điều bí mật này võ lâm ít ai hiểu. Chỉ biết thủa thơ ấu Bố-Cái đại vương được một di nhân nhận làm đệ tử, dạy võ công cho. Khi dị nhân chết, ông dặn ngài phải đem hài cốt về Cửu-chân an táng. Sau khi đưa linh cữu sư phụ về quê cũ chôn cất, xây mộ. Ngài tuyệt tích ba năm. Sau đó xuất hiện, võ công trấn áp quần hùng. Ngài đứng lên xuất lĩnh hào kiệt khởi binh. Võ công ngài cực cao. Bao nhiêu binh tướng, cao thủ của nhà Đường đều bị đánh bại. Lúc thành đại nghiệp, ngài qua đời. Sự thực không phải thế. Ngài chỉ bị bệnh nặng, nên ẩn thân điều trị. Lý Long hỏi: - Thế tại sao ngài không xuất hiện nữa? - Có đấy chứ, nhưng sử không ghi chép đó thôi. Nguyên sau khi bệnh ngài khỏi, Triệu Xương đã diệt nghĩa quân của con ngài là Phùng An. Ngài chán nản, ẩn thân hành hiệp. Năm Tân-tỵ, niên hiệu Trinh-nguyên thứ 17 đời vua Đường Đức-tông (801) ngài đột nhập thành Đại-la giết Triệu Xương. Việc không thành, nhưng cũng khiến cho Xương bị thương nặng ở chân phải bỏ về nước. Nhà Đường sai Bùi Thái sang thay thế. Tôn Đản hỏi: - Triệu Xương, Bùi Thái có biết võ công không? - Có. Triệu Xương thuộc giòng dõi Triệu Đà. Vì vậy y thông thạo hầu hết võ công Lĩnh-nam. Trong trận đấu, ngài với y chiết ba trăm chiêu. Cuối cùng đấu nội lực, đưa đến y bị kiệt quệ, rồi bị thương. Các võ sĩ phủ đô hộ xúm vào tử chiến, mới cứu được Xương. Tương truyền đêm đó ngài giết trên ba trăm võ sĩ phủ đô hộ. Lý Long vỗ vai Tự-Mai: - Đúng vậy. Ngài đã từng vào hang này, ắt luyện được Vô ngã tướng thần công. Tên Triệu Xương kia đấu nội lực với ngài, có khác gì tự tử? Bao nhiêu công lực của y bị bút hết. Y không bị giết chết cũng may lắm rồi đó. Tự-Mai tiếp: - Bùi Thái sang thay Triệu Xương được một năm, bị ngài giết chết. Bùi Thái võ công tầm thường. Nên ngài giết thực dễ dàng. Vua Đường lại sai Triệu Xương sang cai trị đất Việt một lần nữa. Nguyên Xương bị ngài hóa giải hết công lực, y về Trung-nguyên chữa trị, cùng luyện lại thần công. Hơn năm mới phục hồi. Niên hiệu Nguyên-hòa thứ ba (809) đời vua Hiến-tông, tự nhiên Triệu Xương mất tích. Thì ra y bị giết chết ở đây. Lý Long cầm cái ấn bỏ vào túi. Còn vàng bạc, chàng trao cho Tôn Đản giữ. Ba anh em lại soi tiếp lên trên, thấy một bộ xương trong tư thế ngồi. Xương ngực bị một vết kiếm đâm thủng. Tử thi mặc quần áo Việt, gần như đã mục nát. Cạnh đó có thanh kiếm.Lý Long cầm kiếm lên coi, chuôi có khắc chữ Cửu-chân Phùng Hưng. Chàng reo lên: - Đây rồi, thì ra bọn Triệu Xương bị Bố-Cái đại vương giết ở đây. Vì vậy người đời sau không biết tại sao y mất tích, cũng không biết Bố-Cái đại vương mất năm nào, ở đâu. Chàng tiếp: - Ta giải đoán như thế này. Dị nhân dạy Bố-Cái đại vương vốn người thuộc phái Cửu-chân. Sau khi ông mất, đại vương đưa di thể sư phụ về cố thổ an táng. Rồi một cơ duyên nào đó, ngài tìm ra hang này, tự luyện võ công, thành anh hùng vô địch, khởi nghĩa. Sau khi ngài giết Bùi Thái, Triệu Xương lại sang. Y cho điều tra, theo dõi tung tích ngài. Cuối cùng y với ba cao thủ cùng đột nhập vào đây, bị ngài giết chết cả bốn. Tuy nhiên ngài cũng bị trúng một nhát kiếm vào ngực, mà qua đời. Lý Long cùng hai em, nhặt hài cốt Bố-Cái đại vương, sắp xếp lại. Ba anh em quỳ xuống lạy tám lạy. Lý Long khấn: - Đại vương xưa vì cái nhục của dân, nổi dậy, oai danh một thời. Bởi có đức, dân chúng mới tôn kính dâng cho danh hiệu Bố cái. Xin đại vương phù hộ cho anh em đệ tử, trước đòi lại đất tổ. Sau mưu hạnh phúc cho dân. Ba anh em cầm đuốc soi khắp hang, không thấy còn vết tích gì nữa. Lý Long nói: - Ta nghĩ Lệ-hải bà vương không vào hang này. Vì nếu bà vào đây, ắt luyện võ công Cửu-chân, chứ có đâu luyện kiếm pháp Long-biên? Vậy có thể từ khi Yên-lãng công chúa qua đời, sau mới chỉ có Bố-Cái đại vương có cơ duyên tìm ra. Sau Bố-Cái đại vương, đến lượt anh em mình. Chàng cởi áo, bọc hài cốt Bố-Cái đại vương lại, đeo lên lưng nói: - Anh đem hài cốt ngài về táng tại đền thờ, để dân chúng ngày đêm được kính lạy anh linh một vị cha gìa của đất Việt. Chàng gọi chim ưng xuống, gửi lệnh về trấn Thanh-hóa, bảo đem đến chân núi cho chàng ba con ngựa chiến. Thành ra khi ba anh em ra khỏi động, đã thấy ba con ngựa thắng yên cương để sẵn đó từ hồi nào. Ba anh em lên ngựa về trấn Thanh-hóa. Sau sáu tháng xa Huệ-Sinh, bây giờ chàng gặp lại sư phụ. Huệ-Sinh hỏi: - Chủ nhân, mừng chủ nhân luyện được Thiền-công tối cao nhà Phật. Lý Long biết sư phụ mình đã đắc đạo. Ông thường xuất hồn đi khắp nơi. Vì vậy ông xuất hồn theo bên cạnh mình, không việc gì ông không biết. Chàng nói: - Sư phụ. Tin mới nhất cho biết bọn Triệu Thành đi Thiên-trường rồi mới về Thăng-long. Vậy chúng ta về Thăng-long trước. Huệ-Sinh lên ngựa cùng anh em Lý Long về Thăng-long. Trên đường đi, chàng thuật cho Huệ-Sinh biết, trong khi ở động Xuân-đài, chàng vẫn nhận được đầy đủ tin tức về bọn Triệu Thành, và chàng ứng phó kịp thời. Từ truyện Thanh-Mai, Bảo-Hòa, Mỹ-Linh dò thám đền thờ Nhâm Diên, Tích Quang rồi bị bắt theo. Chàng ra lệnh cho Bảo-Hòa cứ để chúng bắt. Chàng lại thư cho chị gái là công chúa An-quốc với phò mã Đào Cam-Mộc bố trí Vạn-hoa sơn trang, cùng cho người giả bán thú ở xã Vạn-thảo. Những truyện xẩy ra trong Vạn-thảo sơn trang, Bảo-Hòa báo cho chàng biết hết. Chàng gài bẫy, để cho Ngô Tích mắc tròng. Những việc xẩy ra trong Hồng-hương cốc, chàng thuật lại một lượt. Tới Trường-yên, anh em vào phủ Khai-quốc, tức dinh tổng trấn toàn bộ phía Nam Đại-Việt. Tôn Đản thấy bố giữ chức quản Khu-mật viện phủ Khai-quốc, nó mừng lắm. Khai-quốc vương dành ra mười ngày, để hội họp với tướng sĩ, văn võ bá quan, cùng ban chỉ dụ cần thiết. Bất cứ làm gì, dù khi ăn, lúc ngủ, lúc làm việc, vương cũng để hai người em bên cạnh, giảng giải chi tiết công việc tại sao phải làm thế này, tại sao phải làm thế kia. Tự-Mai, Tôn Đản được đọc các báo cáo, phúc trình. Vì vậy nó biết hết những gì xẩy ra cho Thanh-Mai, Mỹ-Linh, Bảo-Hòa. Tự-Mai rất chú ý tới việc mụ Anh-Trần, cùng đệ tử của mụ tên Nguyễn Quý-Toàn. Vì hiện mụ ở làng Yến-vĩ sương sen, khá gần trang Thiên-trường của phái Đông-a. Nó hỏi Khai-Quốc vương: - Anh cả! Cứ như phúc trình, thì mụ Anh-Trần thuộc Hồng-thiết giáo Đại-Việt. Mụ vốn họ Đặng, cháu tên Đặng Trường. Mà tên Đặng Trường là đệ tử Nhật-Hồ lão nhân. Y giữ chức trưởng lão. Anh thử đoán xem, hiện y ở đâu? - Nhật-Hồ lão nhân có mười đệ tử, đều giữ chức trưởng lão Hồng-thiết giáo. Người ta chỉ nghe tên, mà không mặt mũi chúng ra sao. Theo anh nghĩ, mụ Anh-Trần làm hương trưởng Hồng-thiết ở làng Yến-vĩ, có lẽ Đặng Trường cũng ẩn hiện trong vùng này. Tôn Đản à lên: - Thiên-trường thuộc quản hạt Trường-yên. Mụ Anh-Trần bầy trò dơ bẩn Vu-sơn đại hội, cực kỳ đồi phong bại tục. Đúng ra anh cho bắt bọn chúng chặt đầu. Song anh lờ đi, để có thể lần ra manh mối thủ lĩnh Hồng-thiết giáo. Có phải thế không? - Em chỉ đoán đúng có một nửa. - Còn nửa kia? Tự-Mai vỗ lưng Tôn Đản: - Em biết rồi. Vì quanh đây, các làng đều có bọn du thủ du thực, trốn chúa lộn chồng. Trong khi triều đình dùng nhân đức trị dân, vì vậy anh không thể bắt giam, giết hết chúng đi. Anh nhắm mắt để mụ Anh-Trần tập trung chúng lại, sống với nhau như bầy thú, cho tiện kiểm soát. Lý Long mỉm cười đầy niềm vui: - Hai chú này tiến mau quá. Đoán được hết ý anh. Đang trên đường về Thăng-long, chàng được chim ưng đưa thư khẩn cấp của Bảo-Hòa cho biết ý đồ bọn Triệu Thành tại Thiên-trường. Khai-quốc vương đem truyện ấy bàn với Tự-Mai. Tự-Mai cười lớn: - Anh cứ để em về thăm bố. Cam đoan em sẽ làm cho bọn Triệu Thành thất điên bát đảo một bữa. Anh đừng lo. Huệ-Sinh mỉm cười, ghé miệng vào tai Tự-Mai, Tôn Đản dặn dò. Hai đứa trẻ từ biệt Huệ-Sinh, Lý Long lấy ngựa lên đường đi Thiên-trường. Xa nhà đã gần năm, bây giờ trở về quê, lòng Tự-Mai rộn lên không biết bao nhiêu cảm giác kỳ lạ. Trong gần năm, nó từ thiếu niên chỉ biết những gì trong sách vở, do bố, chú, cô dạy dỗ. Về quốc gia đại sự, nó thấy ra xôi quá, coi như truyện thời xưa. Từ khi gặp Lý Long, nó được dịp áp dụng những gì đã học. Trong thời gian ở động Xuân-đài, một mặt Lý Long luyện võ với hai em. Một mặt chàng tiếp nhận thư tín, ban lệnh bằng chim ưng. Bất cứ vấn đề gì, chàng cũng giảng giải chi tiết cho hai cậu em kết nghiã hiểu. Hoá cho nên, chưa đầy một năm, mà Tôn Đản, Tự-Mai có kiến thức của một quan đại thần. Đường Trường-yên đi Thiên-trường mất khoảng hai giờ sức ngựa. Con đường này, Tự-Mai đã đi nhiều lần. Khi thì với bố, khi thì với chị. Những lần đó, nó chỉ biết hỏi, biết nghe. Lần này đi với Tôn Đản, nó được đóng vai hướng dẫn. Buổi trưa, ngựa qua một khu đầm lầy. Tự-Mai chỉ vào ngôi làng cách đường hơn trăm trượng: - Kia là thôn Yến-vĩ. Quanh năm, khu đầm sen bốc khói lên, trông mờ mờ, vì vậy gọi sương này là sương sen. Đại-Việt mình có hai làng Yến-vĩ. Một ở gần Thăng-long, một ở Thiên-trường. Nhân thôn này đầy sương sen, người ta ghép lại thành Yến-vĩ sương sen để phân biệt. Hai anh em đang nói truyện, bỗng có tiếng lộp cộp phía sau, rồi một kị mã vượt qua mặt hai người như mũi tên. Tôn Đản bật lên tiếng kêu: - Tiểu hoà thượng! Tự-Mai nhìn theo, quả kị mã là nhà sư, mình mặc áo nâu, đầu đội mũ tu lờ. Lạ một điều, nhà sư đeo trên lưng thanh kiếm. Nó nhìn phía sau nhà sư rất quen thuộc, thân ái, mà không biết ông là ai, nó đã gặp ở đâu. Nó hỏi Tôn Đản: - Anh biết nhà sư này ư? - Biết! Khắp trấn Thanh-hoá, ai cũng biết ông. Ông tu ở chùa Sơn-tĩnh. Không biết ông có phải đệ tử của Nguyên-Hạnh không? Nhà sư tới chỗ rẽ vào Yến-vĩ sương sen, ông gò cương lại quan sát, tần ngần, rồi cho ngựa chạy vào làng. Tôn Đản đề nghị: - Chúng ta theo nhà sư này. Không chừng có tin tức gì của Nguyên-Hạnh cũng nên. Từ lúc thấy lưng nhà sư, trong lòng Tự-Mai dâng lên niềm tình cảm kỳ lạ, nhớ nhung bâng khuâng. Nghe Tôn Đản nói, nó đồng ý liền: - Ừ phải đấy. Hai đứa cho ngựa rẽ vào làng. Thấy trước cổng làng có một bầy ngựa bốn con. Trong đó có ngựa của nhà sư. Tôn Đản, Tự-Mai tháo yên cương treo lên cành cây, rồi thả ngựa cho ăn cỏ. Tự-Mai giảng: - Trong vùng này, mỗi cổng làng đều có bãi cỏ, dành cho ngựa của khách viếng thăm, ăn cỏ. Chỉ ngựa của dân làng mới được vào trong. Năm hoàng nam gác cổng làng thấy hai thiếu niên lạ, hỏi: - Này, hai cậu từ đâu đến, vào làng có việc gì? Tự-Mai nói dối: - Tôi thuộc hội Vu-sơn. Tôi cần vào trong làng thăm bà Anh-Trần. Một hoàng nam nhổ nước bọt đánh toẹt, rồi vẫy tay: - Vào đó mà tự tử! Tự-Mai, Tôn Đản đi rồi còn nghe phìa sau có tiếng cười chế diễu của đám hoàng nam: - Tổ bà con mụ Anh-Trần, làm đĩ trọn đời, mà cũng có người gọi bằng bà. Hai thằng ôn vật này mới tý tuổi đầu, đã chui vào cái lỗ già đó, rồi cũng đến toi mạng vì dương mai mà thôi. Mặc đám hoàng nam chửi rủa. Hai người đi vòng quanh làng quan sát. Hôm nay ngày phiên chợ Yến-vĩ, dân chúng các làng xung quanh kéo tới họp. Kẻ đi, người lại tấp nập. Tôn Đản nói sẽ vào tai Tự-Mai: - Đói không? - Đói lè lưỡi ra rồi đây. - Ăn quà chăng? - Ăn là cái chắc. Ăn gì bây giờ? - Bún ốc, bún riêu, chả cá, bánh đậu, bánh tôm. Thiếu gì! Anh có mang tiền theo không? - Lúc rời vương phủ, anh cả đưa cho ta mấy lượng vàng cùng ba quan tiền. Tiêu bằng thích. Hai trẻ vào ngôi đình bán quà. Tiếng người ồn ào. Khói bay nghi ngút. Cô hàng bán bánh tôm đon đả chào: - Mời hai cậu xơi bánh tôm. Bánh tôm ăn với rau muống chẻ ngon tuyệt vời, vừa dòn, vừa thơm. Hai đứa ngồi xuống hai cái ghế thấp. Cô hàng gắp từ trong xanh đầy mỡ tám cái bánh tôm. Cô dùng kéo cắt thực nhanh, thực dòn. Cô múc một muôi nước chấm, đổ vào hai cái bát. Tay kia bưng ra chiếc rá nhỏ, trên đựng đầy rau muống chẻ, với kinh giới, tía tô, lá mùi: - Mời hai cậu xơi. Xơi nóng mới ngon. Thời bấy giờ, tuy hơn nghìn năm Bắc thuộc, mà tôn ty, lễ nghiã vẫn còn. Tôn Đản, Tự-Mai kết làm anh em. Đản lớn tuổi hơn làm anh. Vì vậy Tự-Mai đợi anh cầm đũa rồi nó mới dám cầm theo. Hai trẻ đang tuổi ăn không bao giờ biết no. Thoáng một cái, chúng ngốn hết tám cái bánh tôm. Tôn Đản hất hàm hỏi Tự-Mai: - Được nửa bụng chưa? - Gần. Ăn gì nữa giờ? Tôn Đản hít hà chỉ hàng bún chả: - Mình ăn bún chả chăng? Cô hàng bún chả không đợi Tự-Mai trả lời. Cô chỉ vào mấy xâu thịt nướng than đỏ tươi: - Hai cậu xơi mấy xâu? Cô hàng nháy Tự-Mai một cái. Nó kinh ngạc chưa hiểu tại sao, đưa mắt quan sát cô thực kỹ. Nó chợt thấy nút áo cổ của cô có sợi chỉ đỏ. Biết đó là ký hiệu của Khu-mật viện Đại-Việt. Nó tự nghĩ: - Anh cả tổ chức ghê thực. Chỗ nào cũng có tai mắt Khu-mật viện. Không hiểu sao cô này biết mình là người nhà, mà nháy mắt? Tôn Đản chìa ra hai ngón tay: - Chị cho mỗi đứa hai xâu. Cô hàng vừa quạt lửa, vừa nói nhát ngừng: - Bún chả của tôi ngon nhất vùng này. Cô hạ giọng: - Hãy nhìn bên trái. Rồi cô nói lớn: - Hai cậu ăn thấy ngon, ăn thêm mấy xâu nữa! Tôn Đản nhìn trái. Hàng bên cạnh có một thiếu phụ, mặc quần áo theo lối quê. Nhưng vẫn không dấu được nét đài các. Nó nghĩ thầm: - Chắc bà này ở vùng khác đến. Ờ sao có người đẹp đến thế nhỉ? Thiếu phụ ngoáy tay xuống đất như vẽ cái gì. Tôn Đản thấy bà viết chữ: Ăn xong, ra gốc đa, bên bờ sông. Có lệnh. Nó thấy nút áo trên cổ bà có sợi chỉ đỏ, biết bà làm việc cho Khu-mật viện. Thiếu phụ ăn xong đứng lên ra đi. Hai trẻ ăn bún thịt nướng, rồi mỗi đứa ăn ba bát bún riêu nữa. Mấy bà, cô bán quà trố mắt nhìn hai thiếu niên ăn không biết no. Tôn Đản trả tiền, rồi hai đứa đi một vòng chợ, sau cùng rẽ ra bờ sông, chỗ gốc đa. Thiếu phụ đã chờ ở đó từ bao giờ. Nhìn trước, nhìn sau không có ai, thiếu phụ chỉ con đò: - Hai cậu xuống đó. Ba người xuống thuyền. Thuyền rời bến. Tới giữa sông, thiếu phụ nói: - Có lệnh cho hai cậu. Bà đưa ra cái ống nhỏ. Tôn Đản biết ống này Khai-Quốc vương thường đựng thư, sai chim ưng mang đi. Nó tiếp lấy mở ra. Trong có tờ thư, bút tích Khai-quốc vương: Vị sư trẻ không phải đệ tử Nguyên-Hạnh đâu. Ông làm gì, phải giúp, không được cản trở. Cho tự do phá phách, cấm giết người dù đó là kẻ ác, kẻ thù. Tôn Đản kiểm soát Tự-Mai gắt gao. Anh cả. Tôn Đản trao cho Tự-Mai đọc, rồi nó nhúng thư vào nước, xé nát ra. Bấy giờ hai đứa mới nhìn thiếu phụ. Bà tuổi khoảng bốn lăm, bốn sáu. Khuôn mặt, dáng người đẹp không thể tưởng tượng nổi. Nhất là cái lưng tròn, đôi mắt ánh ra đa tình, mà lại sáng chói. Thiếu phụ cười tươi lạ lùng. Tự-Mai nhìn nụ cười quen thuộc, mà nó không nhớ tên bà là gì. Bà nói nhỏ: - Hai cậu muốn thám thính nhà mụ Anh-Trần hả? Phải cẩn thận đấy nhá. Chớ có dùng võ mà gây tai vạ. Nhà mụ phần đông chứa bọn lưu manh, trốn chúa, lộn chồng. Tuy vậy, mụ làm hương trưởng Hồng-thiết giáo, có liên hệ với trưởng lão Đặng Trường. Vì thế người của Khu-mật viện lẫn lộn vào, tìm tông tích Đặng cũng không ít. Nếu hai cậu dụng võ, những người này phải bênh che mụ, e hai bên hao tổn nguyên khí. Chợt Tự-Mai kêu lớn lên, tay vào người thiếu phụ: - Bích-Hòa! Đúng rồi, chị là Bích-Hoà. Thảo nào lúc mới gặp, em thấy quen quen. Bích-Hòa cười: - Trần nhị công tử lớn mau quá. Thanh tiểu thư đâu rồi? - Chị của em đã về Thiên-trường từ mấy hôm nay. Tự-Mai chỉ Bích-Hoà, giới thiệu với Tôn Đản: - Anh Đản! Chị đây có tên Bích-Hòa. Từ năm mười sáu, nức danh đế đô Đại-Việt về tài cầm ca. Mỗi khi đức Thuận-thiên hoàng-đế tế Quốc-tổ, Quốc-mẫu cùng các bậc tiên hiền đều mời chị vào hát hầu. Chị nổi danh Giầu sang mấy cũng không mời được. Nghèo hèn mấy cũng mời được. - Thế nghĩa là thế nào? - Khi chị thích, không mời chị cũng tới. Khi chị không ưa, dù vương tôn, đại thần cũng không thỉnh được. Hồi trước, qua Thiên-trường hát, bố em mời chị ở lại làm thượng khách trong mấy ngày. Chị dạy chị Thanh-Mai hát. Bích-Hoà cảm động: - Từ sau khi gặp đại hiệp, tôi không hát nữa, mà dùng hết tâm huyết dạy lớp trẻ đi sau. Tôi quên thế nào được lời đại hiệp rằng Đại-Việt có hơn mười triệu người, mà chỉ có một đệ nhất tài danh Bích-Hoà. Bích-Hoà được quyền chết, mà danh kỹ Bích-Hoà không được quyền chết. Từ ngày ấy đến giờ, tôi dạy không biết bao nhiêu đệ tử mà kể. Tự-Mai trở lại thực tại; - Em muốn biết tình trạng bọn trốn chúa lộn chồng trong hương Yến-vĩ sương sen này. Bích-Hoà khoan thai kể: - Làng này có hơn nghìn nóc gia. Dân chúng cực kỳ phức tạp. Đa số họ thuộc thành phần trộn cắp, đĩ điếm, bị hương đảng khinh khi. Hồng-thiết giáo tập trung họ, lập ra làng trong thời thập nhị sứ quân. Vì vậy kỷ cương coi như không có. - Mụ Anh-Trần xuất thân thế nào? - Hồi hoa niên mụ có chút nhan sắc, lấy thầy lang tên Trần Tấn-Khang. Tự-Mai nhớ ra: - Em biết thấy lang Khang rồi. Thầy đẹp trai đáo để. Dáng người nho phong, điềm đạm. Hồi trước em bệnh. Bố mời thầy đến trị. Thầy cho em uống mỗi một thang thuốc, bệnh hết liền. À, em nghe nói thầy Khang theo đạo Phật, dường như thầy gặp bất hạnh trong tình trường, nên bỏ việc đời, tu tại gia. - Đúng thế. Thầy Khang lấy mụ Anh-Trần. Thầy trị bệnh mát tay, nên gia tư cũng có bát ăn bát để. Tính thầy điềm đạm, chiều vợ rất mực. Còn mụ Anh-Trần thuộc loại đành hanh đỏ mỏ, điêu ngoa. Tuy vậy thầy Khang vẫn nhỏ nhẹ khuyên bảo. Mụ càng làm già, đi đâu cũng bịa truyện nói xấu chồng. Cuối cùng mụ nhập Hồng-thiết giáo, đem thân cho bọn trưởng lão làm cây thuốc luyện công. Vì vậy hai người bỏ nhau. Thầy Khang giác ngộ bỏ đi tu. Tôn Đản kể truyện mụ Anh-Trần tới trấn Thanh-hoá mở hội Vu-sơn; vào Hồng-hương mật cốc biểu diễn ngậm củ sâm cùng thổi ống đu đủ như thế nào, rồi nó đặt vấn đề: - Em thấy có sự nghịch lý. Bởi mụ Anh-Trần thuộc Hồng-thiềt giáo, chống Trung-quốc rất cực đoan. Tại sao mụ lại tiếp phái đoàn Triệu Thành? Vì lý do đó, em mới đến đây tìm cho ra lẽ. - Em không biết đâu. Sau khi bị thầy lang Trần Tấn-Khang bỏ. Mụ ấy phiêu bạt khắp nơi, làm đĩ không tiền. Gần đây lấy một người rất có tư cách tên Nguyễn Đắc-Vạng. Ông này thuộc con nhà danh gia, văn hay, chữ tốt. - Ủa tại sao ông Đắc-Vạng không lấy con nhà tử tế, mà lấy mụ? - Cũng tại ông tự tin. Ông muốn lấy mụ, rồi dùng đức cảm hoá, đưa mụ về đường ngay. Nào ngờ chỉ được ít lâu, ngựa quen đường cũ, đi đâu mụ cũng bịa truyện nói xấu chồng. Bây giờ mụ coi như không có ông. Mụ công khai đi mở hội Vu-sơn khắp nơi. - Tại sao mụ làm thế? - Dễ hiểu thôi. Đó là chủ trương của Hồng-thiết giáo. Có mở hội Vu-sơn mới phá được thuần phong mỹ tục, mới làm tan nát nền tảng gia đình hầu theo Hồng-thiết giáo. - Chị đến làng này có việc gì? - Khai-quốc vương nhờ chị mượn cớ dạy mụ Anh-Trần ngâm thơ, rồi nhân đó khuyên mụ về đường ngay. - Mụ có nghe lời chị không? - Chưa chắc. Phải từ từ mới được. Em phải biết mụ đã sáu mươi lăm tuổi rồi, dễ gì chị nói, mụ nghe? - Đêm nay đường như mụ mở hội Vu-sơn phải không? - Đúng đấy. Hai cậu muốn dự à? Tôn Đản dơ tay làm hiệu như chém đầu: - Bọn em mà dự, bố chém đầu. Nhà mụ ở đâu? - Cậu đi theo bờ sông, quẹo trái, thấy căn nhà phía trước có nhiều tượng thú vật, chính là nhà mụ, cũng là nơi mụ mở hội Vu-sơn đó. Thôi, chúc hai cậu thành công. Tôn Đản, Tự-Mai men theo bờ sông, rồi quẹo trái, quả nhiên thấy căn nhà, phía trước có nhiều tượng đá, đất, hình dạng kỳ dị. Nhìn trước, nhìn sau không có ai, hai đứa lẻn ngay vào khu vườn bên cạnh. Nhún chân một cái, hai đứa vọt lên mái nhà. Đứng trên cao nhìn, căn nhà tọa lạc giữa một thửa vườn lớn. Phía sau vườn, một cái ao. Bờ ao xây gạch, có nhiều bậc đi xuống. Bên kia bờ ao, lại một căn nhà nữa. Tôn Đản gỡ viên ngói, ghé mắt nhìn xuống. Nó thấy một mụ đàn bà ăn mặc diêm dúa ngồi trên cái ghế. Dưới chân mụ, một gã đàn ông, trông mặt đần độn, đang quỳ gối, khoanh tay, đầu cúi xuống. Mụ đàn bà hất hàm hỏi: - Tên Nguyễn Qúi-Toàn kia! Ta đã bảo mi rằng, mi phải bỏ con Phượng-Ánh. Mi hứa đoạn tuyệt với nó. Tại sao hôm qua mi còn về thăm nó? Tự-Mai nghe đến tên Nguyễn Qúi-Toàn, nó cười thầm: - À, quái nhân đã từng theo mụ Anh-Trần đến Hồng-hương mật cốc đây. Không biết mụ kia là ai? Gã Quí-Toàn rập đầu xuống đất kêu lộp cộp: - Thưa sư mẫu, đệ tử đã đoạn tuyệt với con Phượng-Ánh từ lâu rồi. Bởi nó ỷ học giỏi, không coi đệ tử ra gì. Nó lại có tài buôn bán, tiền của vào tay như nước. Trong khi đó đệ tử vừa đần, vừa ngu. Chỉ có sư mẫu với Hồng-thiết giáo cưu mang. Nhưng... - Nhưng sao? - Đệ tử nhớ con quá, lén về thăm con, chứ nào có phải thăm mụ Phượng-Ánh đâu? Tự-Mai nhủ thầm: - Con mụ này đúng thực Anh-Trần rồi đây. Mụ Anh-Trần sưng mặt lên: - Được! Ta tha cho mi lần này. Lần sau đừng trách ta. Bây giờ có năm bà bạn ta bên cạnh. Mi phải dĩ dương dưỡng âm cho năm bà. - Dạ. Đệ tử tuân lệnh sư mẫu. Mụ Anh-Trần cất tiếng gọi: - Các chị đâu, sang đây đi thôi. Năm mụ đàn bà, tuổi từ sáu mươi tới bẩy mươi, từ phòng bên cạnh đẩy cửa bước sang. Không đợi mời ngồi, cả năm ngồi xuống chiếc phản bên cạnh. Tự-Mai nói nhỏ vào tai Tôn Đản: - Coi mặt năm con mụ này cực kỳ dâm dãng. Không biết dĩ dương dưỡng âm ra sao? Mụ Anh-Trần khoan thai ra giọng kẻ cả: - Hôm nay, nhân danh hội trưởng Vu-sơn, tôi mời năm chị tới đây thưởng thức thuật dĩ dương dưỡng âm. Dương là gì? Là liền ông. Âm là gì? Là liền bà. Trong con người cũng có âm dương. Nửa người trên là dương. Nửa người dưới là âm. Mụ chỉ tên Nguyễn Qúi-Toàn: - Tên quái này theo học với tôi đã lâu. Các chị nhìn xem, gã là liền ông, thuộc dương. Nửa người phía trên gã thuộc dương. Thế có phải miệng, lưỡi của hắn thành hai lần dương không? Còn các chị, là liền bà, thuộc âm. Con cá diếc của các chị ở nửa người phía dưới, thuộc âm. Thế là hai lần âm. Khi tuổi chúng ta trên năm mươi, kinh huyết không còn, thận khí cũng tuyệt, da trở thành nhăn, tóc bạc. Nếu như có dương khí truyền vào con cá diếc. Âm, dương hoà hợp, cơ thể bình hoà, tâm hồn thư thái. Chúng ta trở thành trẻ mãi không? Một mụ da nhăn, tóc bạc, mặc quần nái đen rộng thùng thình, người béo nục, béo nạc hỏi: - Có phải chị bảo tên quái này dùng lưỡi mớm con cá diếc của bọn em, để truyền dương khí vào người không? - Đúng thế. Chị thưởng thức đi. Mụ già đến ngồi vào chiếc ghế cao, hai bên có chỗ dựa tay. Mụ nằm ngửa trên ghế, miệng cười khích khích: - Thưởng thức mục này một lần, rồi chui xuống lỗ cũng cam lòng. Mụ Anh-Trần hất hàm cho tên Nguyễn Qúi-Toàn: - Tên đệ tử kia. Mi hãy phục vụ đi. Tên Qúi-Toàn lê đến đưới chân mụ già. Y quỳ hai gối xuống, rồi kéo giải rút quần mụ. Y từ từ lôi quần khỏi người mụ, rồi ghế mũi vào con cá diếc của mụ khịt khịt mấy cái. Mụ già lên tiếng: - Mi yên tâm. Chị Anh-Trần bảo ta rằng, mi thích ăn mắm cá diếc. Nên đã ba ngày, ta không tắm, cũng không rửa ráy người, để con cá diếc có mùi mắm. Thôi mi làm đi. Tên Qúi-Toàn thè lưỡi ra đẩy vào con cá diếc mụ già, rồi y lắc đầu liên tiếp. Mụ già bật lên tiếng rên nho nhỏ. Tự-Mai, Tôn Đản tuy được huấn luyện chu đáo về đạo lý dân tộc. Song đối với vấn đề tình ái, hai đứa tuyệt chưa có ý niệm gì. Bây giờ phải chứng kiến cảnh cực kỳ dâm đãng. Chúng trố mắt ra nhìn. Tự-Mai bẹo Tôn Đản, sẽ đậy viên ngói lại, rồi cả hai cùng nhảy khỏi mái nhà. Hai đứa vừa đi vừa lắc đầu. Tới cuối thôn, thấy có miếu thổ thần. Hai đứa ngồi trước miếu. Tự-Mai bàn: - Tối nay chúng mở hội Vu-sơn. Anh em mình có nên phá chơi cho bõ ghét không? - Phá. Nhưng phá cách nào? Tự-Mai cười: - Khắp vùng này chỗ nào cũng có cà độc dược, móc mèo với han. Một trong ba thứ chạm vào da, ngứa đến chết chịu không được. Bọn mình kiếm ít quả cà độc dược nghiền lẫn với lá han, quả móc mèo. Đợi khi chúng nó trần truồng, tung phấn vào cho chúng gãi chơi. - Bây giờ chúng ta đến dò thám lần nữa xem sao? - Ừ, thì đi. Hai đứa ra chợ ăn mỗi đứa ba bát bún riêu, rồi trở lại nhà mụ Anh-Trần. Mụ đang đứng trước nhà ngắm nhìn những tượng lớn nhỏ đủ loại. Thấy hai thiếu niên, mụ đon đả chào: - Hai cậu vào chơi? Hai cậu xem tượng tôi nặn có đẹp không? Tự-Mai giả tảng: - Tôi chưa xem kỹ. Liếc qua, nó biết mụ nặn tượng mười hai con giáp. Nó chỉ vào tượng con chuột nói với Tôn Đản: - Anh coi, tượng này chắc là con cáo. Nó nghẹo đầu nghẹo cổ: - Không phải cáo. Dường như con chồn núi. Tôn Đản biết ý Tự-Mai. Nó chỉ vào hình con trâu: - Đố Mai biết tượng con gì đây? - À tượng con nai? Ồ không phải, chắc tượng con lừa. Ừ mà con lừa có sừng. Mặt mụ Anh-Trần tái như gà cắt tiết. Mụ chỉ tượng con cọp: - Tượng con cọp của tôi trông có hùng dũng không? Tự-Mai lắc đầu: - Không giống cọp tẹo nào cả. Hơi giống con nghé tơ ; mà có râu. Nó chỉ vào tượng con mèo: - Tượng này sao trông giống sóc hay con chuột chù quá. Đúng rồi con chuột chù! Tôn Đản chỉ tượng con rồng: - Tượng này chắc khắc con lươn. Con lươn gì mà có vảy thế này? À, con cá quả. Tự-Mai thấy mặt nụ Anh-Trần cực kỳ khó coi. Nó được thể, chỉ vài tượng con dê: - Em đố anh biết tượng con gì đây? Tôn Đản làm bộ nghẹo đầu, nghẹo cổ ngắm nghía một lúc, rồi nhăn mặt: - Không biết con gì! Nhìn không ra. Tự-Mai cười ha hả: - Con rái cá. Đúng rồi, con rái cá. Nó biết mụ Anh-Trần đang nổi đoá. Nó chỉ vào con gà: - Em đoán chắc đây là con quạ. Đúng rồi quạ khoang. Nó lại chỉ vào con chó: - Con này trông giống hệt mèo! Mèo lớn quá há! Chắc giống mèo rừng ở Bắc-biên. Tự-Mai reo lên: - Để em tính thập nhị chi nghe. Tý là cáo. Sửu là lừa. Dần là nghé. Mão là chuột chù. Thìn là lươn. Tỵ là cá bống kèo. Ngọ là bò không sừng. Thân là con sóc. Dậu là quạ. Tuất là mèo rừng. Hợi là voi. Nào, ta tính mười hai con giáp: Cáo, lừa, nghé, chù, lươn, kèo, bò, sóc, quạ, mèo rừng, voi. Mụ Anh-Trần nổi cơn tam bành lên: - Hai thằng ôn con, trời đánh, thánh đâm. Cút ngay! Tự-Mai làm bộ không nghe rõ lời mụ: - Cái gì? Mụ nói gì? Tôi điếc nghe không rõ. Mụ gọi tôi bằng ông, xưng con ư? Con chim cút bay ư? Mụ Anh-Trần càng đổ lôi đình: - Hai thằng chưa ráo máu đầu. Đi ngay! Tự-Mai càng đùa hơn: - Mụ nói sao? Bay à? Những con thú này biết bay à? Mụ Anh-Trần dơ tay tát Tự-Mai một cái. Nó trầm mình tránh khỏi. Mụ quay mặt vào nhà lên tiếng: - Tên Quí-Toàn đâu? Tên Nguyễn Qúi-Toàn từ trong chạy ra: - Sư mẫu gọi con? Mụ Anh-Trần chỉ Tự-Mai, Tôn Đản: - Mi tống cổ hai tên ôn con kia đi cho ta. Tên Qúi-Toàn chạy lại vung tay tát Tự-Mai. Nhìn cái tát, Tự-Mai biết y chưa tập võ. Phái Đông-a cấm ngặt dùng võ với người không biết võ công. Nó lùi lại một bước. Tên Quí-Toàn tát hụt. Hai đứa làm bộ chạy, rồi quay đầu lại thè lưỡi ra trêu. Tên Qúi-Toàn đuổi theo. Đuổi tới cuối thôn, y mệt, thở dốc. Tự-Mai lại để tay lên mũi trêu. Y hăm hở đuổi theo. Tự-Mai chạy tới phía trước mấy bụi ré. Biết phía sau là chuồng hôi công cộng. Nó chạy vào. Tên Quí-Toàn đuổi theo vào trong. Hai đứa lại cười, để tay lên mũi cười. Tên Qúi-Toàn dơ tay tát Tôn Đản một cái. Nó né đầu tránh khỏi, rồi thuận tay đẩy vào vai y. Y ngã lộn xuống dưới chuồng hôi. Vào thời Lý, Trần, Lê, thường mỗi xóm, mỗi làng có một cầu tiêu công cộng, gọi là chuồng hôi. Chuồng hôi sâu đến hai, ba mét ngày nay. Xung quanh trồng cây ré, để che cho người xử dụng. Lá ré có mùi thơm. Người xử dụng thấy mùi phẩn hôi thối, chỉ ngắt chút lá ré để lên mũi, có thể chống được cái khó chịu. Thường cứ hai ngày, phẩn nhiều, người ta đem tro đổ lên trên. Khi phẩn đầy, mới múc lên, pha nước, tưới cây. Cạnh chuồng hôi còn có cái ao, để sau khi đi cầu, người ta rửa trôn. Tên Qúi-Toàn ngã xuống chuồng hôi. Phẩn ngập tới ngang lưng. Y dẫy dụa, làm phẩn bắn tung toé lên hôi thối kinh khiếp. Tự-Mai, Tôn Đản định bỏ đi. Thình lình nhà sư trẻ xuất hiện. Nhà sư nhìn Tự-Mai chăm chú, mắt đầy thương cảm. Nhà sư tiến tới ôm lấy vai nó. Tự-Mai không chống lại. Nó để cho ông ôm. Trong võ lâm Đại-Việt, bất cứ trường hợp nào cũng không thể để người lạ ôm lấy mình. Bởi nếu họ ôm, rồi ra tay ám hại, chỉ có nước chịu chết. Vì đã nhận được thư Khai-quốc vương cho biết nhà sư là người thân. Nên Tự-Mai để ông ôm nó. Tay ông sẽ tát lên má nó hai cái như cha mẹ nựng con. Hơi nhà sư bốc ra, nó thấy hơi quen, mà tuyệt không nhận được. Tên Nguyễn Quí-Toàn đã lên khỏi chuồng hôi. Nhà sư móc trong túi ra cuộn dây. Ông vung tay một cái. Cuộn dây cuốn lấy người y, bó chân tay y lại như mớ rau. Tên Quí-Toàn run run: - Đại sư! Xin đại sư mở lượng từ bi, tha cho con lần này. Nhà sư lắc đầu: - Lần trước mi đã thề rằng: Từ nay, vĩnh viễn không bao giờ tới nhà con đĩ già Anh-Trần. Nếu sai lời, sẽ bị giết chết ném vào chuồng hôi cho dòi ăn. Thế sao vừa rồi mi tới liếm cá diếc năm con mụ già? Tên Quí-Toàn run run: - Đại sư xét cho. Con bị bệnh, mỗi tháng hai lần, phải mút kinh nguyệt ba người, bằng không sẽ lên cơn mà chết. Vả lại, con trúng Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng. Nếu không tới nhà mụ Anh-Trần, mụ sẽ không cho thuốc giải. Nhà sư lắc đầu: - Mi thề sao ta cho mi được vậy. Như đã chuẩn bị trước. Nhà sư móc trong bọc ra một cái ống sậy, to bằng ngón chân cái. Ông nói: - Bây giờ ta ném mi xuống chuồng hôi. Vì sợ mi bị phân ngập mũi, miệng mà chết. Ta cho mi ngậm cái ống này mà thở. Nhà sư nhét cái ống vào miệng tên Quí-Toàn, rồi vung tay một cái. Tên Quí-Toàn rơi xuống chuồng hôi. Cả người y chìm dưới lớp phẩn lỏng đầy dòi bọ nhung nhúc. Chỉ có cái ống thò lên, cho y thở. Tự-Mai chắp tay hướng nhà sư: - Đại sư! Xin đại sư cho biết pháp danh? Nhà sư nhìn Tự-Mai bằng con mắt đầy yêu thương. Thình lình ông xoa đầu nó một cái, rồi vọt mình, dùng khinh công biến mất. Tôn Đản hỏi Tự-Mai: - Mai này! Dường như nhà sư với Mai có liên hệ gì sâu sa lắm. Cho nên ông mới thương yêu Tự-Mai như vậy? Không chừng ông là sư huynh của Tự-Mai cũng nên! Tự-Mai lắc đầu: - Em cũng nghĩ như vậy. Nhưng võ công ông xử dụng, không phải của phái Đông-a, mà của phái Sài-sơn. Chiêu vung dây có tên Thiên-vương hồi thể. Chiêu hất tên Qúi-Toàn có tên Thiên-vương kị mã. Cho đến khinh công, ông cũng dùng khinh công phái Sài-sơn. Tuổi ông dường như trên hai mươi, mà công lực e không thua gì bố em. Người như vậy, mà sao chúng mình chưa nghe qua nhỉ? Tự-Mai chỉ cái ống thở của tên Nguyễn Quí-Toàn: - Mình phải cứu y lên. Bằng không y chết mất. Tên Quí-Toàn ngụp trong hố phẩn, nhờ miệng ngậm ống sậy, vẫn thở được, nên chưa chết. Y dẫy dụa một lúc, đầu thò lên trên vũng phẩn, mặt mũi kinh tởm. Tự-Mai, Tôn Đản cắt mấy bẹ chuối khô nối với nhau thành dây. Tôn Đản vung tay hai cái, dây cuốn lấy đầu tên Quí-Toàn. Nó giật mạnh, y bay bổng lên mặt đất. Tự-Mai rút kiếm đưa ba nhát, dây cuộn quanh người Quí-Toàn đứt hết. Y loạng choạng đứng dậy. Tôn Đản phát nhẹ một chưởng, y bay xuống dưới ao. Ngụp lặn một lúc, phẩn sạch sẽ. Y lóp ngóp lên bờ. Tự-Mai hất hàm: - Mi đã biết tội chưa? - Tôi nào có tội tình chi. Không hiểu sao, đây là lần thứ năm, nhà sư vô danh đó hành hạ tôi khốn khổ như thế này. Hai cậu có biết nhà sư đó là ai không? - Ta cũng đang muốn hỏi ngươi câu đó. Tự-Mai rút kiếm, đưa vào cổ y, khiến y rú lên kinh hãi. Nó hỏi: - Nhà mụ Anh-Trần thường tổ chức hội Vu-sơn. Vậy hội Vu-sơn ra sao? Tên Qúi-Toàn sáng mắt ra: - Hội Vu-sơn được tổ chức mỗi tháng hai kỳ. Một bên hai mươi người nam. Một bên hai mươi người nữ. Hai mươi người nam vào một buồng tối. Hai mươi người nữ vào một buồng khác. Ai cũng phải cởi hết quần áo. Khi trống điểm ba tiếng, cửa hai phòng kéo lên. Trong bóng tối người nam chụp được người nữ nào, lập tức hành dâm. Hành dâm xong, lại trở về phòng cũ. Như vậy, không biết mình đã hành dâm với ai. - Mi có biết tên Đặng Trường, trưởng lão Hồng-thiết giáo hiện ở đâu không? - Tôi không biết. Tự-Mai định hỏi nữa, thình lình có tiếng phụ nữ thanh thoát: - Các cậu thuộc thiếu niên danh môn. Tại sao lại hành hạ kẻ không biết võ như vậy? Tôn Đản nhìn lại, một thiếu phụ tuổi khoảng trên bốn mươi, da trắng, môi hồng, lưng thon. Mái tóc của bà óng mượt, rõ ra vẻ phụ nữ trâm anh. Cạnh bà, danh kỹ Bích-Hoà thản nhiên nhìn tên Qúi-Toàn. Lời thống trách của thiếu phụ, làm hai đứa trẻ vội tra kiếm vào vỏ. Tôn Đản chống chế: - Chính chúng tôi cứu tên này thoát khỏi ngộp phẩn mà chết. Vì vậy chúng tôi muốn y cung cấp cho một số tin tức. Bích-Hoà vẫy tay: - Hai công tử khỏi biện luận. Chúng tôi núp ở đây từ nãy đến giờ, biết hết rồi. Chị xin hai cậu tha cho tên này. Bà chỉ vào thiếu phụ: - Bà này tên Phượng-Ánh, theo học cầm ca với chị đã lâu. Tự-Mai nghe đến tên Phượng-Ánh, nó kinh hãi: - Bà... bà là vợ tên quái ư? Khắp vùng này ai cũng biết bà. Tôi nghe danh bà đã lâu. Người ta đồn rằng: Bà thuộc con nhà danh gia. Tuy phận gái, mà văn hay, chữ tốt. Lại nổi tiếng kinh doanh, trở thành giầu có. Bà hay làm phúc, giúp đỡ người khó. Hừ... hừ... không ngờ chồng bà. Thiếu phụ thở dài: - Vâng! Tôi xin hai công tử tha cho ông chồng tôi. - Xin bà cứ tự tiện. Phượng-Ánh vẫy tay gọi chồng: - Thôi, đi về thôi. Tên Quí-Toàn đứng dậy, mắt lườm lừơm nhìn vợ, rồi uể oải đi về phía nhà mụ Anh-Trần, chứ không đi theo vợ.