77. ƯU BA CÚC ÐADuyên khởi Vua A Dục tạo thápQuốc vương Tần Ðầu Bà La, vua nước Ba Liên Phất Ấp, sanh người con tên A Dục (Vô Ưu), thân hình thô xấu, khó coi. Khi vua láng giềng là Hằng Hưu Thi La làm phản, trong các người con, vua chỉ chọn A Dục đi chinh phạt nhưng cấp binh giáp hư nát và vài chục quân. Tùy tùng lo lắng thì A Dục cười nói:- Nếu ta có mạng làm vua thì tự nhiên sẽ có người đến giúp.Vừa nói xong, binh giáp dưới đất bỗng vọt lên. A Dục liền đem quân đi đánh giặc. Dân chúng nước kia nghe trên không trung có tiếng truyền:- Vương từ A Dục sẽ làm vua cõi này, các ngươi chớ dấy nghịch.Do đó, các nước đều được bình định đến sát bờ biển. Lúc ấy, vua cha ngọa bệnh, quần thần bèn phò A Dục đến, muốn lập làm vua. Vua Tần Ðầu Bà La nghe được chẳng vui liền băng hà. A Dục nghĩ thầm:- Ta xứng đáng làm vua thì chư Thiên tự nhiên sẽ làm lễ quán đảnh cho ta, lấy lụa trắng quấn đầu.Nghĩ xong có thiết luân bay đến, A Dục làm vua Diêm Phù Ðề thống lãnh một thiên hạ. Vua theo phép tắc chôn cha rồi tức vị, A Dật Lâu Ðà làm đại thần. Khi ấy quần thần tự đem thẻ đến lập công, sanh tâm cao ngạo. Vua biết ý liền ra lệnh chặt những cây có hoa quả và trồng gai góc. Ra lệnh ba lần mà quần thần không theo, vua liền cầm gươm giết hết. A Dật Lâu Ðà khuyên vua: Nên lập người đao phủ. Khi đó có một người hung ác tên Lê Tử, tự khoe khả năng. Vua bèn lập một căn nhà chỉ mở một cửa, trong bày cách thức trị tội giống như địa ngục. Ðao phủ tâu vua:- Nếu ai bước chân vào đây thì không cho ra.Vua bằng lòng.Một hôm có con một thương gia, chán khổ thế gian, xuất gia học đạo, rồi đi du hành qua các nước, lần lượt khất thực và bước lầm vào căn nhà ấy. Vị sa môn trông thấy trong nhà có xe lửa, lò than... sợ hãi, dựng tóc gáy vội vàng quay ra, nhưng bị đao phủ chận lại và đón bắt. Vị Tỳ kheo trong lòng thương tiếc hối hận, mắt đẫm lệ van nài được gia hạn sống thêm một tháng để tu nhưng đao phủ không cho. Nằn nì cho đến còn bảy ngày thì ông ta bằng lòng. Tỳ kheo bèn nổ lực tinh tấn, tọa thiền, ngưng tâm. Ðến ngày thứ bảy, thì gặp lúc vua đem cung nữ tống vào giao cho đao phủ. Ðao phủ bèn cô ta bỏ vào cối, lấy chày giã, phút chốc thịt nát xương tan. Tỳ kheo trông thấy chán ghét cùng cực biết rằng thân mình chẳng còn bao lâu cũng sẽ như thế; ông dứt hết mọi kiết sử thành bậc A La Hán. Khi ấy, đao phủ bào ngài rằng:- Kỳ hạn đã hết.Tỳ kheo đáp:- Tâm tôi được giải thoát, đã đoạn trừ hết các hữu. Nay thân hình này chẳng còn tiếc nuối.Ðao phủ liền nắm Tỳ kheo quăng vào chảo dầu sắt, sai người đốt lửa. Lửa chẳng nóng. Ông ta liền tự tay đốt lửa phừng phừng lên. Rồi mở nắp chảo, thấy vị Tỳ kheo kia đang ngồi trên hoa sen. Ông ta thấy việc lạ liền báo nhà vua. Vua liền dẫn mọi người đến xem. Tỳ kheo bay lên không trung như cánh nhạn chúa rồi làm đủ phép biến hóa, hướng về nhà vua nói kệ:Tôi là đệ tử Phật Ðược các lậu đã dứtSanh tử khủng bố lớnNay tôi đã thoát được.Vua A Dục nghe xong, sanh lòng kính tín đối với Phật, bạch Tỳ kheo rằng:- Lúc Phật chưa diệt độ, có thọ ký điều gì chăng?Tỳ kheo đáp:- Phật thọ ký: "Sau khi ta diệt độ hơn một trăm năm, ở nước Ba Liên Phất Ấp có ba ức nhà. Vua nước ấy tên A Dục, sẽ làm Chuyển Luân Vương cõi Diêm Phù, dùng chánh pháp cai tri, sau lại phân chia xá lợi của ta, lập 84,000 tháp khắp cõi Diêm Phù Ðề". Nay vua tạo địa ngục này, giết hại vô lượng. Nên vâng theo lời Phật thọ ký, y pháp tu hành.Vua A Dục chắp tay làm lễ:- Tôi mắc tội lớn, cúi mong Phật tử cho tôi sám hối, chớ trách móc sự ngu si của tôi.Tỳ kheo độ vua A Dục xong theo hư không mà đi. Khi ấy, vua muốn bước ra khỏi căn nhà, đao phủ chặn lại. Vua nói:- Ngươi muốn giết ta chăng?- Ðúng thế.Vua bảo:- Ai vào đây trước?- Tôi.Vua nói:- Nếu vậy, người phải chết trước. Rồi sai tả hữu bắt đao phủ bỏ trong bồn keo, lấy lửa đốt và sai phá địa ngục này, khiến mọi người nhẹ nhõm. Vua đến thành Vương Xá đem xá lợi trong tháp Phật làm 84,000 hòm vàng, bạc, lưu ly, pha lê, lại làm bình báu, sai các quỷ thần tạo 84,000 tháp. Tôn giả Da Xá duỗi tay phóng 84,000 tia sáng, sai quỷ "mau lẹ" đặt khắp thôn xóm, thành ấp ở Diêm Phù Ðề cứ mỗi ức nhà đặt một tháp. Ở nước Chấn Ðán (Trung Hoa) có 19 tháp.Xưa, Thế Tôn cùng các tỳ kheo đi theo thôn xóm khất thực, giữa đường gặp hai đứa bé, một tên Xà Da, một tên Tỳ Xà Da đang nghịch cát chơi. Từ xa trông thấy Thế Tôn, đầy đủ ba mươi hai tướng trang nghiêm. Xà Da nghĩ thầm:- Ta nên đem bột miến cúng Phật.Rồi bền lấy tay vốc cát bỏ vào bình bát của Thế Tôn. Tỳ Xà Da cũng chắp tay tùy hỷ. Chú bé phát nguyện:- Do công đức căn lành bố thí này xin được làm vua một thiên hạ, và ngay đời này được cúng dường chư Phật.Thế Tôn mỉm cười bảo A Nan:- Sau khi ta diệt độ một trăm năm. Ðứa bé này ở nước Ba Liên Phất Ấp làm Chuyển Luân Vương thống lãnh một thiên hạ, họ Khổng Tước, tên A Dục, dùng chánh pháp trị dân. Rồi lại phân phát xá lợi của ta, tạo 84,000 tháp. A Nan, ông đem cát trong bát này rải chỗ kinh hành của Như Lai. A Nan vâng theo lời Phật dạy.Vua A DỤC tham lễ ƯU BA CÚC ÐANước Ba Liên Phất Ấp có Thượng tọa tên Da Xá, vua A Dục rất kính lễ, lập tịnh xá Kê Tước, thỉnh Da Xá trụ trì. Ðến khi ấy, lại đến Kê Tước bạch Da Xá rằng:- Có Tỳ kheo nào được Phật thọ ký để làm Phật sự không? Tôi sẽ đến đấy cúng dường, cung kính.Da Xá đáp:- Lúc Phật Bát Niết Bàn, du hành đến nước Ma Thâu La, bải ngài A Nan: "Sau khi ta Bát Niết Bàn một trăm năm, sẽ có con trưởng giả tên Ưu Ba Cúc Ða xuất gia học đạo, hiệu là Vô Tướng Phật.Vua hỏi:- Vậy đã xuất thế chưa?Ðáp:- Ðã xuất thế rồi, đang ở trong núi Ưu Bàn Trà.Vua nghe xong liền muốn đến đó mới sai sứ giả báo trước. Ngài Ưu Ba Cúc Ða nghĩ, nếu vua đến thì thị tùng đi theo sẽ sát hại vô số côn trùng. Nên đáp sứ giả:- Tôi sẽ tự đến chỗ vua.Ưu Ba Cúc Ða đi đến vương cung, vua rất vui mừng đến trước Tôn giả cúi lạy, quì gối, chắp tay thưa:- Nay con thống lãnh cõi Diêm Phù Ðề, làm Chuyển Luân Vương cũng chẳng vui bằng gặp Tôn giả, như được gặp Phật, sung sướng vô cùng. Ðệ tử Như Lai có khả năng như thế.Vua lại hỏi:- Tôn giả nhan mạo đoan chánh còn tôi hình dung thô xấu. Vì sao vậy?Ngài Ưu Ba Cúc Ða nói kệ:Lúc tôi hành bố thí Tâm sạch, tài vật tốtChẳng như vua bố thí Ðem cát cúng cho Phật.Vua lại bạch:- Xin Tôn giả chỉ cho chỗ Phật thuyết pháp, du hành và Phật thọ ký chỗ tháp các đại đệ tử nên lễ bái cúng dường.Ưu Ba Cúc Ða đáp:- Lành thay, lành thay!Và dẫn vua đến các nơi ấy, chỉ từng chỗ một. Vua cúng dường xong, đến tháp A Nan, Tôn giả nói:- Vị này là thị giả Phật, đa văn bậc nhất, tuyển tập kinh Phật.Vua bèn truyền đem trăm ức trân bảo cúng dường tháp này và bảo quần thần rằng:- Thân thể của Như Lai, tánh pháp thanh tịnh, Ngài đều có thể phụng trì, nên cúng dường nhiều hơn. Ngọn đèn chánh pháp thường còn ở đời, tiêu diệt sự ngu si tăm tối này, đều do từ Ngài mà ra, nên ta cúng dường nhiều hơn.Vua lại đến dưới cây Bồ đề, tay bưng lò hương, hướng bốn phương làm lễ mong các bậc đệ tử hiền thánh của Như Lai ở các phương đều đến tụ hội. Khi ấy có ba vạn A La Hán tề tựu. Vua thấy tại tòa thứ nhất không có người, bèn hỏi lý do. Tôn giả Hải Ý nói:- Ðây là chỗ dành cho ngài Tân Ðầu Lô. Vị này đã đích thân gặp Phật. Vua hỏi:- Nay ở đâu?Hải Ý nói:- Hãy đợi chốc lát.Nói xong ngài Tân Ðầu Lô từ hư không hạ xuống. Vua mời đến tòa ngồi và đảnh lễ. Ngài chẳng thèm nhìn. Vua bèn hỏi:- Con nghe nói Tôn giả thân thấy Phật đến phải chăng?Ngài Tân Ðầu Lô lấy tay vén lông mi lên hỏi:- Hội chăng?Vua đáp:- Chẳng hội.- Long vương ao A Nậu Ðạt từng thỉnh Phật thọ trai, lúc ấy tôi cũng dự trong số đó.Ưu Ba Cúc Ða nhân một hôm đến nhà một lão Tỳ kheo ni vừa vào cửa liền đụng bể bát. Tỳ kheo ni nói:- Lục quần Tỳ kheo hạnh rất thô, mấy lần đến nhà tôi, cũng chưa hề như vậy. Tôn giả nối vị Tổ sao hạnh thô thế!Cúc Ða bèn thối đi.Có người chấp thân kiến, cầu ngài Ưu Ba Cúc Ða độ cho. Ngài bảo:- Pháp cầu độ cần phải tin lời ta, không được trái lời ta dạy. Người ấy đáp:- Ðã đến với Thầy, cố nhiên phải vâng lời.Ngài bèn hóa ra một cây cao vút bên triền núi hiểm trở, bảo người ấy leo lên cây. Rồi dưới gốc cây, hóa ra một hầm lớn, sâu rộng ngàn khuỷu. Ngài bảo ông ta buông chân, ông ta vâng lời buông hai chân. Ngài khiến buông một tay. Ông ta đáp:- Nếu buông tay nữa, rớt xuống hầm chết.Ngài nói:- Trước đã giao ước thọ giáo, sao lại trái ý ta?Khi ấy người kia sự yêu mến thân liền tiêu diệt, ông ta buông tay rơi xuống. Chẳng còn thấy cây, thấy hầm, bèn chứng đạo quả.78. PHỤC ÐÀ NAN ÐỀGặp Nan Sanh (Hiếp Tôn giả). Ngày xuất gia, ánh sáng lành chiếu chỗ ngồi có hai mươi mốt viên xá lợi hiện lên.79. HIỆP TÔN GIẢPhía Bắc Thiên Trúc có Vô Trước xiển dương tông giáo, em là Thiên Thân. Ban đầu người em theo Tiểu thừa, làm luận năm trăm bộ. Vô Trước thấy em căn duyên sắp thuần thục, bèn giả bệnh kêu đến. Khi gần tới, Ngài sai một đệ tử đi rước. Ðêm cùng ngủ trong quán trọ, đệ tử tụng kệ:Nhược nhơn dục liễu triTam thế nhất thế Phật Ưng quán pháp giới tánhNhất thiết duy tâm tạo.Thiên Thân nghe, hoát nhiên khai ngộ, hối hận tội đã bài xích Ðại thừa khi xưa đều do lưỡi tạo. Liền ngồi dậy lấy dao bén định cắt lưỡi.Ngài Vô Trước biết được, duỗi cánh tay, nắm lại dỗ ràng:- Em vì ngộ Ðại thừa vì thời tiết đến, xưa dùng lưỡi hủy báng, nay nên dùng lưỡi tán thán. Nếu cắt lưỡi đi, thì còn lợi gì?Thiên Thân bèn thôi, đội sao mà đi. Ðến chỗ ngài Vô Trước, lắng nghe từ chỉ rồi tạo luận Ðại thừa năm trăm bộ. Người đời gọi là Luận Sư Ngàn Bộ.Một hôm Vô Trước nhập Pháp Quang định, ban đêm lên cung trời Ðâu Suất thỉnh vấn Bồ tát Di Lặc về nghĩa kinh Kim Cang. Ngài Di Lặc bèn thuyết tám mươi bài tụng, ngài Vô Trước phân mười tám trụ xứ, tạo luận hai quyển. Thiên Thân ước đoán hai mươi bảy nghi, tạo ba quyển luận. Thiên Thân lại giảng Bà Sa Luận cho chúng, đem bài giảng mỗi ngày làm một bài tụng nhiếp hết nghĩa. Lại đi khắp các nước, các luận sư các nơi không thể hiểu nổi. Do đó Ngài lại tự tạo trường hàng để giải thích bài tụng tức Câu Xá Luận.Một hôm Thiên Thân từ nội cung của đức Di Lặc xuống. Vô Trước hỏi rằng:- Nhân gian bốn trăm năm, trời kia chỉ có một ngày đêm. Ðức Di Lặc ở trong một thời (giờ) thành tựu cho năm trăm ức Thiên tử chứng Vô sanh pháp nhẫn, chưa rõ thuyết pháp gì?Thiên Thân nói:- Cũng chỉ thuyết pháp này. Chỉ là Phạm âm thanh nhã khiến người ưa nghe.80. PHÚ NA DẠ XATông Cảnh Lục nói: "Tây Thiên trong núi Vân Ðà Sơn có một La Hán tên Phú Lâu Na, Mã Minh đến gặp thấy ngồi yên trong rừng, chí khí cao vời không sanh lường được, Mã Minh bảo:- Sa Môn thuyết pháp. Tôi có chỗ sáng tỏ muốn khuất phục ông. Tôi nếu không hơn sẽ chặt đầu tạ lễ.La Hán làm thinh, mặt không lộ vẻ thua hay thắng; Mã Minh đến gõ mấy cái cũng không trả lời. Mã Minh bèn lùi suy nghĩ:- Ta thua rồi! Ông ta đã thắng ta. Ông ta lặng thinh không nói, ta không thể khuất phục được. Ta dùng lời nói, tuy như lời có thể khuất phục mà tự ta chưa thể thoát khỏi lời. Thật đáng xấu hổ.Ngài bèn xin xuất gia.Thuyết này cùng Truyền Ðăng không đồng.81. MÃ MINHDạ Xa bảo chúng: "Ðại sĩ này xưa là vua nước Tỳ Xá Lợi, vì nước ấy có một loại người khỏa thân, như ngựa lộ hình. Vua vận thần thông, phân thân làm tằm, những người ấy được áo mặc. Sau Ngài sanh vào Ấn Ðộ, Mã nhân cảm luyến kêu thương, nên gọi là Mã Minh, sau thuyết pháp dẹp các dị luận".Có một ngoại đạo đến đòi luận nghĩa, nhóm các quốc vương, đại thần và bốn chúng tụ họp tại luận trường.Mã Minh nói:- Nghĩa của ông lấy gì làm tông?Ngoại đạo đáp:- Hễ có ngôn thuyết, tôi đều có thể phá.Mã Minh bèn chỉ quốc vương nói:- Hiện nay đất nước khang ninh, quốc vương trường thọ. Mời ông phá đi!Ngoại đạo khuất phục.82. LONG THỌNgài được phó tháp, trong 90 ngày tụng thông kinh sách ở Diêm Phù Ðề, lại nghĩ:- Kinh Phật cõi đời tuy diệu mà cú nghĩa chưa hết, ta nên phu diễn thêm để khai ngộ người sau.Ngài liền dùng thần lực đến Long cung mở rương bảy báu lấy kinh điển Phương Ðẳng trong 90 ngày thông hiểu rất nhiều. Long Vương nói:- Ngài xem kinh hết chưa?Ngài đáp:- Kinh của ông vô lượng chẳng coi hết được. Chỗ tôi đạt đủ gấp 10 lần ở Diêm Phù.Long Vương nói:- Các kinh trên trời Ðao Lợi hơn đây gấp trăm ngàn ức lần.Ngài ở Long Cung tu hành, thâm nhập vô sanh. Rồng đưa Ngài ra khỏi cung, từ đây về sau Ngài hoằng dương Phật pháp rộng lớn, tạo các luận Ðại vô úy... mấy mươi vạn kệ (Trung Quán Luận là một phẩm, Ðại Trí Ðộ Luận).Kinh nói:Sau khi Phật Niết Bàn,Ðời vị lai sẽ cóTỳ kheo Nam Thiên TrúcCó hiệu là Long ThọHay phá tông Hữu – VôHiển pháp Ðại thừa taÐắc sơ hoan hỷ địaVãng sanh An Dưỡng Quốc.Ngài vào Long cung xem tạng kinh, thấy kinh Hoa Nghiêm có 3 bản.Bản thượng có 13 thế giới vi trần số kệ, 1 tứ thiên hạ vi trần số phẩm.Bản trung có 498,800 bài kệ, 1,200 phẩm.Bản hạ có 100,000 bài kệ, 48 phẩm.Bản thượng chỉ có Phật mới biết được.Bản trung chỉ có Bồ tát trụ địa mới biết được. Ngài bèn ghi chép bản hạ, trở về Ấn Ðộ. Ấn Ðộ truyền đến Trung Hoa 80 quyển kinh, 39 phẩm. Phẩm chia ra làm bảy chỗ, chín hội.Hội 1: Ở Bồ Ðề đạo tràng thuyết 6 phẩm, 11 quyển, ngài Phổ Hiền làm hội chủ.Hội 2: Ở điện phổ Quang Minh thuyết 6 phẩm, 4 quyển, ngài Văn Thù làm hội chủ.Hội 3: Ở trời Ðao Lợi, thuyết 6 phẩm, 3 quyển, Pháp Huệ làm hội chủ.Hội 4: Ở trời Dạ Ma, thuyết 4 phẩm, 3 quyển, Công Ðức làm hội chủ.Hội 5. Ở trời Ðâu Suất, thuyết 3 phẩm, 12 quyển, Kim Cang Tràng làm hội chủ. Hội 6: Ở trời Tha Hóa, thuyết 1 phẩm, Kim Cang Tạng làm hội chủ.Hội 7: Lại ở điện Phổ Quang Minh, thuyết 11 phẩm, 13 quyển. Phổ Hiền và Như Lai. Phẩm Phổ Hiền nói về nhân bình đẳng, phẩm Như Lai Xuất Hiện nói về quả bình đẳng.Hội 8: Ba lần ở Phổ Quang Minh Ðiện, thuyết 1 phẩm, 7 quyển. Cũng ngài Phổ Hiền làm hội chủ.Hội 9: Trong rừng Thệ Ða thuyết 1 phẩm, 21 quyển, thì Như Lai cùng Thiện hữu.Ðây là bản hạ, phần trước 3 vạn 6 ngàn kệ. Còn 6 vạn 4 ngàn kệ, 9 phẩm ở Ấn Ðộ.83. CA NA ÐỀ BÀÐề Bà đắc pháp rồi, danh vang khắp nơi. Nhưng vẫn lo người không tin lời mình. Khi ấy ở Thiên Trúc có thờ tượng Trời Ðại Tự Tại, ai cầu gì được nấy.Ðề Bà đến miếu xem, vạn chúng đi theo vào. Quả nhiên tượng trợn mắt như nổi giận. Ðề Bà nói:- Thần thì phải xứng là thần, sao lại nhỏ nhen thế! Chính đáng là phải dùng oai linh để cảm hóa người, dùng trí đức để dạy dỗ vật, chứ sao lại mượn vàng làm thân, pha lê làm mắt để mê hoặc đời. Ðó chẳng phải chỗ người trông mong.Rồi bắc thang vào vai tượng, leo lên đục con ngươi của tượng ra. Người xem sanh nghi nói: - Trời Ðại Tự Tại lại bị một chú Bà Là Môn nhỏ bắt nạt sao? Ðề Bà nói:- Thần minh cao xa nên lấy việc gần để thử tôi. Tôi được tâm của Ngài nên mới dám làm thế.Nói xong, bày các thứ cúng dường. Ðêm ấy trời Ðại Tự tại giáng xuống thọ nhận đồ cúng và nói:- Ông được tâm tôi, người được hình tôi. Ông đem tâm cúng, người đem vật chất dâng. Người biết mà kính ta là ông. Người sợ mà vu oan ta là mọi người. Nhưng ông tuy cúng rất tốt đẹp, nhưng thiếu cái tôi cần.Ðề Bà nói:- Thần cần vật gì?Trời Ðại Tự Tại nói:- Tôi thiếu con mắt trái, cho ta được chăng?Ðề Bà cười, móc mắt mình đưa ra. Càng móc càng sanh hoài không hết. Từ sáng đến chiều, mắt móc mấy vạn. Thần khen:- Lành thay, Ma nạp! Thật là bố thí cao thượng nhất. Ông muốn cầu gì?Ðề Bà nói:- Tôi đã sáng tâm, không cần nhờ ở ngoài.Sau Ðề Bà đến thành Ba Liên Phất, nghe các ngoại đạo muốn ngăn chướng Phật pháp, tính kế đã lâu. Ðề Bà bèn cầm tràng phan vào trong chúng kia, họ bèn hỏi:- Sao ông không đi trước?Ðề Bà nói:- Sao ông không đi sau?- Ông hình như người bần tiện?- Ông giống người cao quý.- Ông hiểu pháp gì?- Ông trăm thứ chẳng hiểu.- Tôi muốn được Phật.- Tôi rõ ràng được Phật.- Ông đâu đáng được.- Tôi vốn đã được đạo, còn ông thực chẳng được.- Ông đã chẳng được, tại sao nói được?Ðề Bà nói:- Ông có ngã do đó chẳng được. Còn ta không ngã nên ta đáng được.Họ bèn chịu thua, hỏi Ðề Bà:- Ông tên gì?- Tôi tên Ca Na Ðề Bà.Người kia trước đã nghe tên Ðề Bà, bèn hối lỗi đến tạ tội. Trong chúng còn thay nhau vấn nạn, Ðề Bà dùng biện tài vô ngại chiết phục hết.° Bên Trung Hoa thời này nhằm đời Hán Cao Ðế năm Canh Thìn.Hán Vũ Ðế, niên hiệu Nguyên Thú năm thứ hai (121 trước Công Nguyên). Tướng quân Phiêu Kỵ về phương Nam để dẹp Hung Nô, khi qua Cư Duyên bắt vua Hưu Ðồ, được một người vàng cao hơn một trượng. Vua cho là đại thần đặt ở cung Cam Tuyền, không tế tự, chỉ đốt hương lễ bái mà thôi. Ở đây đạo Phật lưu thông chậm.84. LA HẦU LA ÐALa Ða lấy tay phải nâng bát vàng lên đến Phạm cung lấy cơm thơm về thiết trai đại chúng. Ðại chúng chợt đem tâm chán ghét. La Ða nói:- Chẳng phải lỗi của ta, mà do nghiệp của các ông.Rồi bảo Nan Ðề cùng ăn, chúng lấy làm lạ, La Ða nói:- Ông chẳng ăn được đều do đây vậy. Nên biết người chia tòa với ta tức là Phật thời quá khứ Ba La Thọ Vương, xót thương loài người mà thị hiện. Bọn ông cũng ở trong kiếp Trang nghiêm, đã chứng Tam quả mà chưa chứng vô lậu.Chúng nói:- Thần lực của thầy ta, điều này đáng tin. Còn nói ông ta là Phật quá khứ thì chúng con trộm ngờ.Nan Ðề biết chúng sanh ngã mạn bèn nói:- Thế Tôn lúc tại thế, thế giới bằng phẳng, chẳng có gò nỗng, sông suối, ngòi lạch, nước rất ngon ngọt, cây cối tươi tốt, đất nước hưng thịnh. Không có tám khổ, hành mười thiện. Từ khi ngài nhập diệt ở song thọ hơn 800 năm, thế giới gò trống, cây cối khô héo. Người không có lòng tin, chánh niệm nhỏ ít, chẳng tin chân như, chỉ thích thần lực.Nói xong lấy tay phải ấn xuống đất cho đến mé Kim Cương luân, lấy nước cam lồ đựng vào bình lưu ly, đem vào hội. Ðại chúng vừa thấy, tức thời khâm mộ, hối lỗi làm lễ.85. TĂNG GIÀ NAN ÐỀNgài khi phó chúc xong, tay phải vịn cây mà tịch. Ðại chúng bàn luận:- Quần chúng quy tịch dưới gốc cây là điềm che mát cho người sau.Họ định đem toàn thân lên đất cao, dựng tháp. Nhưng chúng dùng toàn lực cũng không nâng lên được, bèn đem mấy voi tới kéo cũng không động. Bèn thiêu thân ngay tại gốc cây, cay càng thêm tươi tốt.°Niên hiệu Hồng Gia năm thứ hai. Quang Lộc đại phu là Lưu Hướng, tuyển truyện thần tiên, nói:- Từ Hoàng đế trở xuống đến nay. Người đắc tiên đạo được 149 người mà 74 người đã thấy kinh Phật.Lại nói:- Xem khắp sách vở, thường thường thấy có kinh Phật.Niên hiệu, Nguyên Thọ nguyên niên năm Kỷ Mùi (2 trước Công nguyên), Cảnh Hiến đi sứ nước Ðại Thị Nguyệt trở về được kinh Phù Ðồ, người đời ấy không ai biết.86. CƯU MA ÐA LACưu Ma Ða La là con Bà La Môn nước Ðại Nguyệt Thị, xưa là trời Tự Tại Thiên Dục giới lục thiên, thấy Bồ tát Anh Lạc, chợt khởi lòng tham ái, bị đọa xuống trời Ðao Lợi, nghe Kiều Thi Ca thuyết Bát nhã Ba la mật, do được pháp thù thắng nên lại sanh lên Phạm Thiên. Vì căn tánh lanh lợi, khéo thuyết pháp yếu, chư thiên tôn làm Ðạo sư. Thời tiết kế tục Tổ vị đến, Ngài giáng sanh nước Nguyệt Thị.87. BÀ TU BÀN ÐẦUXưa Như Lai tu ở Tuyết Sơn có ổ Dã Thước ở trên đảnh. Phật thành đạo rồi, Dã Thước thọ báo làm vua nước Na Ðề. Phật thọ ký rằng:- Ông đến 1,000 năm sau sanh trong nhà Tỳ Xá Khư ở thành La Duyệt, cùng một bào thai với Thánh.Nay quả không sai.Sau độ Ma Noa La con thứ hai vua nước Na Ðề. Trước, nước Na Ðề có voi dữ làm hại, Noa La sanh thì voi ngừng, ba mươi năm không ai biết lý do. Khi Tổ Bàn Ðầu thuật lại vua nghe thì có sứ giả đến báo có 10,000 voi lớn đang phá thành, vua lo lắng. Tổ nói đưa Ma Noa La ra thì yên. Vua thử sai Ma Noa La ra. Ma Noa La ra đến cửa thành phía Nam, vỗ bụng hét lớn, thành bị chấn động, bầy voi điên đảo, chạy tán loạn. Lúc ấy dân chúng mới biết nước được an nổn là nhờ Ma Noa La.88. MA NOA LA (°1)Khi được truyền kệ, bầy hạc bay lên vừa kêu vừa đi.Ma Noa vọt lên hư không làm 18 phép thần biến trở về tòa chỉ xuống đất, phát ra một dòng suối thần. Ngài lại nói kệ:Tâm địa thanh tịnh tuyềnNăng nhuận ư nhất thiếtTùng địa ư dõng xuấtBiến mãn thập phương tế.Hặc Lặc Na vui vẻ kính vâng phụng hành.Ngài truyền pháp xong, ngay chỗ ngồi lặng lẽ thị tịch. Chúng hỏa táng và lượm xá lợi xây tháp thờ.Tháp xá lợi có bốn mặt:Trước: Vua Thi Tỳ cắt đùi tặng ó để cứu bồ câu.Sau: Vua Từ Lực chích thân đốt đèn.Trái: Thái tử Tát Ðỏa nhào xuống bờ vực để hổ ăn thịt.Phải: Vua Nguyệt Quang thí bỏ đầu báu, đều là tiền thân của Phật.1. Xin xem Tiểu sử Ngài trong cuốn "33 vị Tổ Thiền Tông" của Hòa thượng Thích Thanh Từ, trang 122.89. BỒ ÐỀ ÐẠT MAThuyết pháp Nam Ấn Ðộ:Bát Nhã Ða La thị tịch, Bồ Ðề Ðạt Ma giáo hóa ở bổn quốc. Có hai sư là Phật Ðại Tiên và Phật Ðại Thắng Ða, vốn cùng Ðạt Ma đồng học Thiền quán Tiểu thừa. Sau Phật Ðại Tiên cùng Ðạt Ma gặp Bát Nhã Ða La, tu theo chánh pháp. Còn Phật Ðại Thắng Ða chia đồ chúng làm 6 tông:1- Hữu tướng tông. 2- Vô tướng tông.3- Ðịnh huệ tông.4- Giới hạnh tông.5- Vô đắc tông. 6- Tịch tĩnh công.Rồi triển hóa riêng.Ðạt Ma than:- Họ có một thầy đã là lọt vào vết chân trâu, huống là phân làm sáu tông. Ta nếu chẳng trừ, họ sẽ bị cột mãi trong tà kiến.Nói xong, hiện chút thần lực, đến chỗ tông Hữu tướng hỏi:- Tất cả các pháp, cái nào là thực tướng?Trong chúng có một tôn trưởng là Tát Bà La đáp:- Ở trong các tướng, không lẫn các tướng đó gọi là thực tướng.- Ở trong các tướng mà không lẫn thì làm sao định được?- Ở trong các tướng thật không có định; nếu nhất định các tướng sao gọi là thực?- Các tướng chẳng định gọi là thực tướng, nay ngươi chẳng định, sẽ được thực tướng chăng?- Tôi nói chẳng định chẳng phải nói các tướng. Nên nói các tướng, nghĩa của nó cũng thế.- Ngươi nói bất định là thực tướng, thì định mà bất định vậy là chẳng phải thực tướng.- Ðịnh đã bất định thì không phải thực tướng, nhưng cái biết tôi chẳng phải, cái đó bất định bất biến.- Nay ông bất biến, thì cái gì là thực tướng? Ðã biến thì qua rồi, nghĩa này cũng vậy.- Bất biến sẽ còn, còn mà không chỗ nơi nên biến là thực tướng để định cái nghĩa này.- Thực tướng bất biến, biến thì chẳng phải thực. Ở trong có, không, sao gọi là thực tướng?Tát Bà La thầm biết thánh sư huyền giải, thầm đạt ý chỉ. Bèn lấy tay chỉ hư không nói:- Ðây là hữu tướng của thế gian, cũng có thể thành không. Nên thân này của con, có được như thế không?- Nếu hiểu thực tướng, tức thấy không phải tướng. Nếu rõ không phải tướng thì sắc này cũng vậy. Nên ở trong sắc mà không mất sắc thể. Ở trong phi tướng mà chẳng ngại có. Nếu hiểu như thế, thì đây gọi là thực tướng.Chúng kia nghe xong, tâm ý rỗng rang, đảnh lễ tín phục.°Bồ Ðề Ðạt Ma lại đến tông Vô tướng hỏi:- Ngươi nói vô tướng, làm sao chứng được?Trong chúng có Ba La Ðề đáp:- Tôi gọi vô tướng là tâm không hiện.- Tâm ngươi không hiện, làm sao rõ được?- Tôi rõ vô tướng, tâm không thủ xả. Ngay lúc rõ cũng không có người đang (rõ).- Ở các tâm có không, không có thủ xả, lại không có người đang (rõ). Thì các sự rõ biết là không.- Nhập Phật tam muội còn không sở đắc, huống là vô tướng mà muốn biết nó.- Tướng đã chẳng biết thì ai nói có không? Còn không sở đắc, sao gọi là tam muội?- Tôi nói không tướng là chứng mà không chỗ chứng, chẳng phải tam muội nên tôi nói tam muội.- Chẳng phải tam muội, làm sao có tên gọi? Ông đã chẳng chứng; không phải chứng thì chứng cái gì?Ba La Ðề nghe xong, ngộ được bổn tâm, lễ tạ và sám hối những sai lầm cũ.Ðạt Ma thọ ký:- Ông sẽ đắc quả, không bao lâu sẽ tự chứng. Nước này có ma, chẳng bao lâu ông sẽ hàng phục chúng. Nói xong Ngài biến mất.Ðến tông Ðịnh huệ hỏi:- Ông học định huệ, là một hay hai?Trong chúng có Bà Lan Ðà đáp:- Ðịnh huệ của tôi, không một không hai?- Ðã không một, hai sao lại gọi là định huệ?- Tại định mà không phải định. Ở huệ mà không phải huệ, một mà không một, hai cũng chẳng hai.- Ðáng một mà chẳng một, đáng hai mà chẳng phải hai, đã chẳng phải định huệ, thì theo định huệ nào?- Chẳng một, chẳng hai, mà định huệ hay biết; chẳng phải định, chẳng phải huệ cũng lại như thế.- Huệ chẳng phải định thì làm sao biết? Chẳng một, chẳng hai thì ai định, ai huệ?Ba Lan Ðà nghe rồi, tâm nghi tan biến.°Ngài đến tông Giới hạnh hỏi:- Cái gì gọi là giới? Thế nào gọi là hạnh? Giới hạnh này là một hay là hai?Trong chúng có một hiền giả thưa:- Mộ, hai hay hai, một đều do kia sanh. Y theo giáo không nhiễm. Ðậy gọi là giới hạnh.- Ông nói y giáo tức có nhiễm, một hay hai đều phá, sao nói y giáo? Hai cái này trái ngược. Hành chẳng đến được, trong ngoài chẳng rõ, sao gọi là giới?- Ta có trong ngoài, điều đó đã biết rõ, đã được thông đạt, thì đó là giới hạnh. Nếu nói trái ngược; đều phải hoặc đều trái. Còn nói đến thanh tịnh thì tức là giới, tức là hạnh.- Ðều phải, đều trái sao nói là thanh tịnh?Ðã được thông thì sao lại nói trong ngoài?Hiền giả nghe xong, hổ thẹn chịu phục.°Ngài đến tông Vô đắc hỏi:- Ông nói vô đắc là không đắc cái đắc nào?Ðã không chỗ đắc thì cũng là đắc cái vô đắc.Trong chúng có Bảo Tĩnh đáp:- Tôi nói vô đắc, chẳng phải đắc cái vô đắc. Nên nói đắc đắc, vô đắc tức là đắc.- Ðắc đã không đắc, đắc cũng chẳng phải đắc. Ðã nói đắc đắc, thì đắc đắc cái nào?- Thấy đắc chẳng phải đắc, chẳng phải đắc là đắc. Nếu thấy không có đắc gọi là đắc đắc.- Ðắc đã chẳng phải đắc, thì đắc đắc chẳng có đắc. Ðã không có chỗ đắc, thì lấy cái đắc nào để đắc?Bảo Tĩnh nghe rồi, chóng trừ lưới nghi.°Ngài đến tông Tịch Tĩnh hỏi:- Sao gọi là tịnh tĩnh? Ở trong pháp này?Cái gì tịch? Cái gì tĩnh?Có một tôn giả đáp:- Tâm này bất động gọi đó là tịch, ở pháp không nhiễm gọi là tĩnh.- Bổn tâm nếu không tịch, cần mượn tịch tĩnh; xưa nay đã tịch đâu cần tịch tĩnh?- Các pháp vốn không, vì không nên không, ở cái không kia không nên gọi là tịch tĩnh.- Không không đã không, các pháp cũng vậy. Tịch tĩnh không tướng, cái gì tĩnh? Cái gì tịch?Người ấy nghe chỉ dạy, hoát nhiên khai ngộ. Rồi từ đó năm chúng đều quy y Ngài.