Là một người xuất thân từ một gia đình nghèo chỉ quen cấy lúa, trồng khoai ở một vùng xương rồng cát trắng, Triệu Quảng Thành thấm nỗi nhục của sự nghèo hèn nên đã gắng dùi mài kinh sử. Năm 24 tuổi, Triệu Quảng Thành đậu Cử nhân. Vua ban cho Triệu Cử nhân một chức quan nhỏ và hành sự ở ngay trong triều. Nhân mấy tỉnh miền tây có biến, Vua kén người ra biên cương dẹp loạn, Triệu Quảng Thành xin được xuất chinh. Vua cân nhắc rồi chuẩn tấu. Nhưng Triệu Quảng Thành còn trẻ, e rằng sẽ khinh xuất, Vua đã cử thêm một viên quan tuổi tuy dã cao nhưng đa mưu túc trí làm phó tướng giúp Triệu Quảng Thành những lúc "tiến thoái lưỡng nan". Qua gần hai năm gội sương tắm gió, Triệu Quảng Thành đã dẹp được giặc dữ. Hơn thế nữa, Triệu Quảng Thành đã làm cho dân vùng biên viễn một lòng với triều đình. Lần đầu xuất binh, Triệu Quảng Thành đã "mã đáo công thành" khiến Vua mừng lắm. Bốn năm sau, Triệu Quảng Thành vinh thăng vượt cấp cầm ấn Thượng thư Bộ Binh. Hễ vùng nào có biến là Triệu Quảng Thành có mặt và vùng đó mưa tạnh, gió ngừng. Võ công nối tiếp võ công, chẳng những thế, Triệu Quảng Thành còn có tài an dân. Do đó, năm 42 tuổi, Triệu Quảng Thành chỉ còn khuất sau có một bóng là Vua. Đức Vua khai quốc ngày một già yếu. Là người có tầm mắt nhìn thấu trăm năm, Ngài biết những gì sẽ xảy ra sau khi người băng. Bởi vậy, Ngài đã cởi lòng cởi dạ với Thái tử. Trước hết, Ngài nói về Ngài: "Ta lập nghiệp gian nan những vì cứu dân nước lầm than, còn như chỉ vì vinh thân phì gia có khó gì. Nhưng đầu đội trời, chân đạp đất mà chỉ quanh quẩn với vinh thân phì gia thì sao xứng với một lần đứng trong trời đất. Hơn ba mươi năm đi qua bao lao lung tên đạn, ta mới nên cơ đồ. Nếu có một ai đó đủ tài đủ đức, ta sẽ giao giang sơn cho người đó không kể gì huyết thống. Vì sông núi đâu có là của riêng của một dòng họ. Cất được gánh nặng rồi, ta sẽ đến với suối, rừng, tùng, trúc. Những năm ta trị quốc chăn dân, ước muốn của ta mười phần mới làm được ba bốn phần. Có những việc, ý ta muốn làm cho dân yên vui, no ấm. Nhưng những vị quan chủ sự việc đó làm sai lạc đi khiến hàng vạn nhà oan ức, hàng nghìn người rơi đầu. Lỗi đó cuối cùng thuộc về ta. Ta không đau xót sao được! Lại có những vị quan làm gì cũng nói là làm theo ý ta, nhưng thật ra các vị đó lấy ta ra làm cái bình phong, mượn oai phượng hoàng để loè chim sẻ. Nếu làm theo ý ta, các vị quan đó không vơ vét của dân, không đục khoét quốc khố, không phè phỡn trên lưng dân, không kết bè kết cánh làm hại nhau. Từ cổ chí kim xem ra, những ai đó chưa có chút danh, chút quyền thì còn giữ được lòng, còn trọng tín nghĩa. Nhưng khi đã có chút danh chút quyền, mười người thì bảy tám người tìm mọi cách để được vinh thân phì gia, bất chấp nhân luân. Ngươi kế vị ta phải biết điều đó để xem xét ai thanh, ai tham. Nước phải có Vua có quan. Vua và quan phải lo cho dân no, dân vui. Nếu không như vậy, Vua cũng như quan có là cái gì. Vua cũng có khối cái sai, đã sai thì phải nhận. Ông Vua dám nhận cái sai là ông Vua tốt". Thái tử cảm kích lắng nghe từng lời của Vua cha. Chàng biết đức Vua bộc bạch tâm can cũng là để răn dạy con cách trị quốc. Đức Vua phóng tầm mắt thấu suốt sông núi vạn dặm rồi nói tiếp: "Còn với Tể tướng, ông ấy là hộ quốc công thần công không phải là nhỏ. Nhưng ta e rằng, sau này ông ấy sẽ lộng hành. Vì ngươi chưa đủ sức át vía ông ấy. Nếu điều ấy xảy ra, người phải xử cho khéo để giữ vững phép nước mà vẫn không mang tiếng là một ông Vua tàn bạo. Làm Vua phải lấy phép nước làm đầu, lấy dân làm gốc, lấy đức làm trọng. Nhân từ mà vẫn giữ được phép nước, vẫn làm cho dân yên vui đó mới chính là một minh quân, có hay gì lưỡi gươm luôn dính máu…" Thái tử nghe sự lòng của Vua cha mà thấy lo lo … Điều mà Thái tử lo không bao lâu sau đã xảy ra. Khi Vua cha băng, Tể tướng lo hậu sự cho đức Thái tổ rất long trọng, chu đáo. Trong mắt dân chúng, ngày ấy Tể tướng như cây cột đá chống đỡ triều đình. Nhưng chẳng bao lâu sau ngày Thái tử lên nối nghiệp Tiên Vương, Tể tướng đã ngấm ngầm lấn át Vua. Những tấu chương nào có lợi cho Tể tướng, ông ta dâng lên nhà Vua. Những tấu chương nào bất lợi cho Tể tướng, ông ta ỉm đi. Ai hẩu với Tể tướng chắc chắn sẽ được Tể tướng cất nhắc. Ai trái ý Tể tướng không sớm thì muộn cũng bị cách chức. Ông ta tự ý sắp xếp lại các lộ, các trấn. Lợi hay hại, ông ta không để tâm đến miễn sao thiên hạ biết bóng ông ta che rợp núi sông. Những việc ông ta làm có việc Vua biết, có việc Vua không biết. Cũng may, Vua cha đã tiên báo cho đương kim Hoàng thượng từ lâu rồi. Vì vậy, đức Kim thượng lặng lẽ đi những nước cờ thích hợp. Tuy Tể tướng chưa làm nghiêng đổ sông núi nhưng những việc làm của ông ta đã khiến cho nước thêm nghèo, dân thêm khổ. Tiếng oan thán nổi lên khắp nơi. Tể tướng biết ông ta đã thất sủng. Ngôi cao mà không được lòng Vua thì cái đầu nay còn mai mất dễ như bỡn. Phải lấy lại quyền thế chốn triều trung, Tể tướng ngày đêm mưu tính. Chợt mắt Tể tướng sáng lên. Đức Vua còn khá trẻ, sức vóc cường tráng lại hào hoa chắc sẽ sập bẫy người đẹp. Vì mười vị Vua thì tám vị ham gái đẹp. Với người đẹp nghiêng nước nghiêng thành, nhiều vị Hoàng đế không khác gì con rối. Tể tướng quyết định đi nước cờ này. Vua mắc câu, Tể tướng thu lợi. Vua không mắc câu, tể tướng cũng không thua thiệt gì. Tổng quản thị vệ là chỗ thân tình với Tể tướng. Ông ta có con gái tuổi trăng tròn mắt phượng mày ngài, cười như hoa nở, nói như chim ca, dáng đi nhẹ như sương thoảng. Tể tướng sẽ "mượn" con gái Tổng quản thị vệ thực hiện cuộc chơi. Ông ta bèn đến thăm nhà Tổng quản. Tổng quản thị vệ bèn gọi con gái ra chào khách cốt là để khoe "báu vật". Dù đã biết mặt con gái Tổng quản, Tể tướng vờ như mới gặp lần đầu. Người đẹp chào khách xong lui vào. Tể tướng nửa đùa nửa thật nói nhỏ với quan Tổng quản: - Ngài có tài sản quý giá đáng nửa giang sơn mà không biết đặt đúng chỗ. Tổng quản hỏi: - Tể tướng nói gì tôi chưa hiểu. Tể tướng cười khẩy: - Công đức của đức Vua ngày nay đã gần ngang với đức Vua triều trước. Vậy mà Ngài vẫn buồn. Tổng quản thị vệ lại hỏi: - Đất nước thái bình thịnh trị, sao đức Vua lại buồn? Tể tướng đáp: - Nhà Vua mà thiếu người đẹp ấy là nỗi buồn của Ngài. Hoàng hậu không phải người mà nhà Vua yêu. Các Phi không ai sánh kịp Hoàng hậu.Tôi nói thế là ngài khắc hiểu. Tổng quản thị vệ băn khoăn: - Chắc gì Ngài vừa mắt con gái tôi. Tể tướng khẽ cười: - Việc đó là việc của tôi. Tổng quản thị vệ mừng rỡ: - Vậy trăm sự trông vào Tể tướng. Tể tướng bày cách cho Tổng quản thị vệ mời Vua đi săn. Cuộc đi săn ấy, Tổng quản thị vệ cho người đẹp đi theo. Tể tướng là chỗ thân tình của Tổng quản thị vệ nên từ trước hai người vẫn đi săn với nhau. Cuộc đi săn này có cả Tể tướng là chuyện đương nhiên. Đúng như nhận định của người bày ra cuộc chơi, đức vua sững sờ trước vẻ đẹp trời đất cũng phải ghen của tiểu thư con Tổng quản thị vệ. Tể tướng mừng thầm lại giăng thêm bẫy... Mấy ngày sau, Tổng quản thị vệ lại mời Vua đi săn. Vua chỉ chờ có thế. Lần này, Tổng quản thị vệ không cho tiểu thư đi theo. Vắng bóng người đẹp, Vua tỏ ra mất hứng. Những mũi tên của Vua bay đi hươu nai không rụng một cái lông. Lúc quay về, Tổng quản mời Vua quá bộ đến thăm nhà riêng. Vua bằng lòng ngay. Vua vừa vào tới dinh Tổng quản thị vệ, tiểu thư con Tổng quản đã ra vái lạy, tung hô vạn tuế rồi lui vào ngay. Như bị chọc tức, Vua sa sầm nét mặt nhưng không nói gì. Vì dù sao Ngài đường đường là một vị Vua. Về tới cung, Vua truyền Tể tướng vào ngay. Có lệnh Vua truyền, Tể tướng mỉm cười biết bẫy sắp sập. Con mồi mà Tể tướng sắp bắt được là một vị Hoàng đế. Vua biết rằng Tể tướng đang tìm cách lấy lòng Vua. Vì thế Vua bảo gì Tể tướng cũng nghe theo. Nhưng nhà Vua có biết đâu, ngài đang bước vào đường hầm tối tăm mà Tể tướng là phù thuỷ. Tể tướng vào cung, lòng rất vui nhưng mặt cố tỏ ra sợ sệt. Ông ta vừa sụp trước bệ rồng, Vua đã quát: - Khanh to gan thật! Khanh giám đùa bỡn cả trẫm. Vẫn phục trước bệ rồng, Tể tướng kêu. - Tâu đức Vua, oan cho thần. Cái đầu của thần trong tay đức Vua. Hạ thần gan có to bằng trời cũng không giám đùa bỡn. Hạ thần và quan Tổng quản có ý tốt với đức Vua nhưng còn e... Vua phán: - Có gì cứ tấu không phải e ngại. Tể tướng cố lấy lại vẻ tự nhiên. - Tâu đức Vua, quan Tổng quản muốn dâng con gái yêu vào cung. Nghe được mấy lời của Tể tướng, Vua mừng lắm. Là Vua tất có cách nói của Vua, vừa che đậy ham muốn lại vừa tỏ rõ uy quyền: - Đã là ý tốt thì cứ làm, việc gì phải e ngại, cho lui. Vua đã sập bẫy thì phải khoá Tổng quản dù là thân tình. Bởi trong tay Tổng quản có hàng nghìn tay đao, chúng như hùm sói. Không khống chế được chúng, cái đầu củaTể tướng cũng dè chừng. ống tay áo đã có Tổng quản bóp núi núi cũng phải nát. Tể tướng mời Tổng quản lên: - Con gái của ngài được hầu Vua thì ngài là hổ thêm nanh. Năm ngày nữa, ngài đưa tiểu thư vào cung. Ngài phải cho người dạy dỗ tiểu thư cách hầu Vua. Những nước cờ sau, ngài và con gái ngài nhất nhất phải theo cách thức của ta. Cờ đã vào thế không được sai một nước. Bọn mọt sách thế nào cũng chống phá. Lúc đó, ta cần đến thanh gươm trong tay ngài. Tổng quản thị vệ là kẻ võ biền được Tể tướng "nghĩ" hộ thì vui lắm bèn nói: - Tể tướng mưu kế hơn người đã sắp đặt việc này đâu ra đấy có lẽ nào tôi lại không nghe theo. Được Tể tướng bày cho, Tổng quản thị vệ cho người tới mời chủ Hồng Lâu hí viện về dạy dỗ ngón nghề cho tiểu thư con Tổng quản. Được hầu hạ Vua là cơ hội nghìn năm có một của tiểu thư con viên quan gian ác nên cô ta dốc lòng dốc sức lĩnh hội bài bản... Đúng hạn, nghề đã giỏi, người đẹp lên kiệu vào cung. Khi người đẹp đã trong vòng tay Vua, Tể tướng nâng chén rượu cười một mình. Tổng quản thị vệ cũng mở tiệc lớn thết vây cánh. Người đẹp quả là có sức mạnh nghiêng luỹ xô thành. Nó còn hơn thuốc mê nhiều lần. Lời nào của người đẹp cũng lọt tai Vua. Người đẹp muốn gì Vua cũng chiều. Một cái nhăn mặt của người đẹp Vua cũng áy náy. Một nét cười của người đẹp khiến Vua cũng mát lòng. Ngày ngày Vua đắm đuối bên người ngọc. Nghe nói nơi nào có cảnh đẹp là Vua dẫn người đẹp tới xem. ở đâu có chim quý, thú lạ là Vua sai lính rinh về cho người đẹp. Việc triều chính Vua giao cả cho Tể tướng. Đang là kẻ bị Vua ghét, thoắt một cái Tể tướng đã chui vào bụng Vua, quyền nghiêng cả thiên hạ. Người trung chính nhưng nhút nhát chỉ còn biết nín lặng thở dài.