Cứ hôm nào nhà không có đủ tôm để làm nhân bánh cuốn và không nhằm ngày phiên chợ thì Bé phải cắp rổ sang mua tôm ở chợ bến đò làng Trò. Những ngày như thế ít khi xẩy ra nên buổi sáng nào thấy nhà không có tôm là Bé bắt đầu mong chóng đến giờ cô Mùi về để Bé đi mua tôm và gặp anh Đỗi chở đò và bán tôm. Bé và Đỗi gặp gỡ nhau lần đầu tiên, cách đây đã gần nửa năm. Gặp lần đầu, Bé để ý ngay đến Đỗi vì Đỗi đã để ý ngay đến con mắt của nàng. Bé đứng trên bờ cất tiếng hỏi mua tôm, nhưng Đỗi hình như không nghĩ gì đến việc mua bán. Đỗi thấy cô con gái đến mua tôm có đôi môi xinh và tươi nhưng mắt vì có khăn che nên chàng không biết ra sao. Đỗi nhìn vào chiếc khăn trắng che mắt rồi lại cúi đầu để cố tìm hai con mắt dưới khăn nhưng không thấy; chàng cất tiếng hỏi: "Đau mắt à?" Bé mỉm cười vì thấy anh chàng bán tôm lại tự nhiên hỏi về đôi mắt đau của mình, nàng đáp: "Trông thì biết." "Nhưng chẳng trông thấy gì cả." Rồi Đỗi vẫy Bé bảo xuống thuyền: "Xuống đây." Bé chưa biết nghĩ sao nhưng giọng nói của Đỗi thẳng thắn, quả quyết làm cho Bé phải nghe theo và xuống thuyền mặc dầu lúc đó bến đò vắng không có ai. "Lại gần đây. Ngồi xuống người ta xem cho." Rồi Đỗi cũng ngồi sát bên cạnh Bé. Đỗi hình như chỉ để ý đến con mắt nên chân Đỗi giẵm lên cả chân Bé, Bé phải vội vàng rút chân mình ra. Đỗi giơ tay từ từ nhấc miếng vải trắng lên, nhìn một lúc: "Hừ, đau nặng. Đau từ bao giờ rồi?" "Chẳng biết đau từ bao giờ!" Đỗi mỉm cười: "Đau mà không biết đau từ bao giờ. Rõ ngớ ngẩn." Bé cũng mỉm cười: "Nhà bác mắng tôi đấy à?" "Thế nhà chị có ngớ ngẩn không?" Tuy mới gặp có mấy phút mà hai người đã thấy như thân nhau từ lâu. "Tôi không đùa nữa. Để tôi xem cho, đau lâu không khéo đau mắt hột." Bé hốt hoảng: "Đau mắt hột thì sao?" "Đau mắt hột thì mù, chẳng sớm thì muộn, mà thuốc của tôi cũng chịu không chữa được. Nào đưa mắt đây..." Rồi Đỗi lật cả hai mi mắt trên của Bé lên xem: thấy không phải đau mắt hột, chàng lại cho hai mi mắt xuống. Bé lo sợ, quả tim đập mạnh; Đỗi đã buông tay ra rồi mà nàng vẫn còn ngửa mặt, mắt nhìn ngược lên trời và hai làn môi hé mở, hồi hộp đợi. Bỗng Đỗi lặng người nhìn Bé; không phải chàng thấy Bé đẹp nhưng chàng thấy cả người Bé toả ra một thứ gì nồng nàn, hơi là lạ mà chàng ưa thích, thấy hợp với mình lắm. Chàng để mặt mình sát gần thêm mặt Bé, ngây ngất về mùi tóc, mùi da thịt và nhất là về hơi ấm ở cổ, ở vú nàng đưa nhẹ lên có vẻ thân yêu ngay. Đỗi khẽ đưa bàn chân mình giẵm lên chân Bé, nhưng lần này không phải vô tình. Chàng lại giơ hai bàn tay lên để ngón tay vào mắt mà chỉ cốt cho lòng bàn tay được áp vào hai má mịn màng và nóng của nàng. "Không phải đau mắt hột, may quá." Rồi chàng bỏ tay ra, sợ để lâu Bé sinh nghi. Bé vui mừng nhắc lại câu của Đỗi: "May quá nhỉ." Đỗi nói: "Đau mắt này thì tôi chữa được." Nhưng giọng Đỗi đã mất vẻ tự nhiên lúc đầu. Thực tình mới trông thấy Bé, chàng chỉ nghĩ đến một người đau mắt mà chàng muốn thử cái môn thuốc lá riêng của chàng. Trước kia, Đỗi cũng đau mắt ròng rã đến sáu bảy tháng và đã chữa đủ mọi thứ thuốc. Nhà nghèo lại tốn nhiều tiền mà mắt vẫn không khỏi, chàng ra vườn sau gặp lá gì hái lá đó, đem về giã rồi đắp lên mắt: "Một là khỏi hai là mù thì mù quách đi." Hôm sau mắt chàng đỡ; chàng lại ra vườn hái đúng những lá ấy đem về đắp, trong vòng năm hôm bệnh khỏi hẳn. Từ độ ấy, hễ gặp ai đau mắt chàng lại đem thử thuốc và cũng có một vài người khỏi, chỉ trừ đối với những người đau mắt hột thì thứ thuốc lá của chàng vô công hiệu; vì thế hễ gặp ai đau, muốn thử thuốc lá của chàng, bất kể đàn bà con gái, việc đầu tiên của Đỗi là vạch mắt, uốn mi xem. Còn đắp bằng những thứ lá gì thì chàng giấu kín vì nghĩ nếu chữa khỏi nhiều người chàng sẽ lấy tiền. Đỗi ngồi kể hết ra với Bé và cả cái hy vọng của chàng được trở nên một ông lang chữa mắt. "Giỏi hơn cả ông Lang Hàn nữa. Rồi chị xem. Bây giờ ngày nào nhà chị cũng đến đây, tôi đắp lá chỉ năm hôm là khỏi. Khỏi thì thích biết bao, không cần phải lúc nào cũng che khăn..." Đỗi mỉm cười nhìn Bé rồi tiếp theo: "Chẳng ai nhìn được mắt mình." Đỗi thích chí tìm được câu có nghĩa ngầm: ai đây tức là chàng và mình đây là tiếng thân yêu chàng gọi Bé. Bé thì không chú ý đến chỗ đó, nàng hỏi: "Ngày nào cũng đến đây? Sao nhà bác không bảo tôi hái lá gì, tôi ở nhà đắp tiện hơn." Đỗi đáp, tiếng tự nhiên nhỏ hẳn đi như là sợ có người nghe thấy: "Đối với đằng ấy thì tôi cũng chẳng cần giấu nhưng sợ đằng ấy đi hái lá người ta biết mất. Vậy thế này thì tiện, chiều nào cũng giờ này đến đây tôi giã sẵn lá chỉ việc đem về đắp. Chiều nào cũng đến nhé!" Bé hỏi lại: "Chỉ năm hôm là khỏi?" "Cái đó chị cứ tin ở tôi." Bé sung sướng thầm cám ơn anh chàng bán tôm mà nàng cũng bắt đầu hơi mên mến. "Thích nhỉ, chỉ năm hôm?" Bỗng Bé lặng người, nhấc một bên mép khăn nhìn Đỗi. Nàng vừa nhận ra là chân Đỗi lại giẵm lên chân nàng. Nhưng lần này, Bé để yên không rụt chân lại. Ngày hôm sau Bé đến thì Đỗi đã để sẵn một gói lá giã ở thuyền. Chàng lại bảo Bé ngồi xuống bên cạnh và nói: "Cho tôi xem." Bé ngoan ngoãn nhấc hai mép chiếc khăn lên để Đỗi xem mắt: nhưng Đỗi "nhìn" chứ không xem vì hôm nay đã có gì khác hôm qua đâu mà phải xem. Bé lại thấy chân Đỗi giẵm lên chân mình. Cứ như thế luôn năm hôm mà mắt Bé vẫn không đỡ chút nào. Đỗi bảo Bé cố chữa thêm năm hôm nữa. Bé chỉ thất vọng là mắt không khỏi, chứ chữa thêm năm hôm hay mười hôm nữa Bé cũng không ngại. Bé đã bắt đầu thấy thinh thích mỗi khi chân Đỗi đặt lên chân mình song nàng vẫn làm như mải nghĩ về con mắt, không biết tới chỗ đó. Mỗi lần đến là Bé ngồi ngay xuống cạnh Đỗi và không cần Đỗi bảo, nàng đã nhấc chiếc khăn lên để hở mắt cho Đỗi xem. Nhưng bây giờ thì về phần riêng Đỗi, Đỗi biết là mình không xem xét gì cả và về riêng phần Bé, Bé cũng không phải giơ mắt Đỗi xem. Trong một lúc, hai người "nhìn lẫn nhau". Hai người đường hoàng nhìn nhau ở nơi vắng mà không ai thẹn ngượng cả. Dần dần hai người sau khi "nhìn lẫn nhau" xong, cũng không nói đến đau mắt và thuốc đau mắt nữa. Họ nói đến những chuyện xa gần đâu đâu, hay có khi cũng không cần nói chuyện gì. Sau khi nhìn nhau và sau khi chân Đỗi đã đặt lên chân Bé một lúc khá lâu thì Bé đứng dậy cầm gói lá giã, chào Đỗi đi về. Đến hôm thứ mười, Đỗi mới hỏi Bé: "À quên, đằng ấy tên gì?" "Thế còn nhà bác tên gì?" Mặc dầu Đỗi gọi Bé là "đằng ấy" ngay từ đầu mà Bé cũng chưa lần nào dám gọi Đỗi là "đằng ấy". Hai người hỏi nhau thế nhưng cũng không nói tên mình ra. Lúc Bé đứng dậy ra về, mặc dầu đã biết ngày hôm ấy là ngày thứ mười chàng cũng cứ bảo Bé: "Mai lại đến." Quả nhiên ngày hôm sau Bé lại đến. "Bé đến tức là Bé đã ưng mình" Đỗi nghĩ thế và hôm ấy bạo dạn hơn mọi ngày. Bến đò vắng người vì giờ ấy ngày nào cũng ít người qua lại. Cũng như mọi lần chàng xem mắt và để chân lên chân Bé. Một lúc lâu sau, bỗng Bé tự nhiên quay mặt cúi nhìn xuống nước sông; nàng vừa nhận thấy mấy ngón chân Đỗi ấn xuống chân nàng rồi lại khẽ nhấc lên rồi lại ấn xuống, ấn rất nhẹ nhưng nàng cũng nhận rõ. Nàng thấy cả người nóng ran, nóng từ đầu ngón chân nóng lên. Người nàng phiêu phiêu và quả tim như ngừng đập. Bé lo sợ và đứng thẳng lên: "Thôi tôi đi về, thuốc đâu?" Đỗi cũng rụt mau chân lại, quả tim vẫn còn hồi hộp: "Hôm nay quá mười ngày rồi." Bé nói nhanh mắt vẫn nhìn xuống sông: "Mai tôi không phải lại nữa."
°
Từ hôm ấy Bé không đến nữa. Cách những dăm ngày sau, nhà không tôm lại không gặp ngày phiên chợ, Bé lại phải sang bến Trò, nàng thấy mình vui sướng khi cắp rổ ra. Mới lờ mờ trông thấy Đỗi đằng xa, Bé đã vội nói ngay: "Hôm nay tôi sang để mua tôm." Đỗi cũng sung sướng nói to: "Hôm nay tôi có nhiều tôm lắm." Khi Bé đến bờ sông, Đỗi bảo: "Xuống đây tôi xem mắt cho. Cách mấy hôm có khi đỡ đi chăng?" Giọng chàng tự nhiên và thẳng thắn như lần đầu tiên và Bé cũng thấy việc ấy rất tự nhiên: nàng ngoan ngoãn ngồi xuống cạnh Đỗi lật khăn lên cho Đỗi xem mắt. Nhưng lần này Đỗi xem thật chứ không phải "nhìn" và Bé ngạc nhiên không thấy Đỗi giẵm chân mình. Xem xong Đỗi nói: "Đã đỡ được một tí." Thế rồi cứ hôm nào có dịp mua tôm là Bé lại đến. Tuy ngày nào cũng vậy, cứ độ bốn giờ cô Mùi về nhà rồi là Bé đóng cửa hàng không có việc gì làm nữa, muốn đi gặp Đỗi lúc nào cũng được, nhưng chưa một lần nào nhà có tôm mà Bé dám đi. Có một lần lâu không thấy Bé sang, Đỗi nhờ mẹ chở đò thay, đánh bạo ra Xóm Cầu Mới thăm Bé. Cũng may sáng hôm ấy cô Mùi vào chơi trong ấp cụ Án, chỉ có mình Bé ngồi hàng. Đỗi vào ngồi, lật bát nước chè rồi với cái điếu cầy hút làm như một người khách thường. Nhìn chung quanh, chắc chắn không có ai, Đỗi bảo Bé: "Lâu ngày quá cho xem nào." Ý ngầm của Đỗi là định nói lâu ngày nhớ quá muốn nhìn mắt Bé một tí cho đỡ nhớ. Bé đưa mắt nhìn sang nhà trước cửa rồi khẽ lật khăn lên nhìn lại Đỗi. Tuy là xem mắt nhưng hai người ngồi cách nhau một cái chõng và xa nhau đến hai thước. Bàn chân Đỗi đã đặt lên bực cửa. Như thế một lúc lâu, Đỗi nói: "Thôi đủ rồi." Câu ấy có thể muốn nói xem mắt đủ cẩn thận rồi nhưng cũng có thể muốn nói "nhìn" thế đủ nhớ rồi. Bé nói: "Ăn vài chiếc bánh cuốn nhân tôm. Bánh ngon lắm." Đỗi cười nói to: "Không có tiền." Bé ngắt: "Nói khẽ chứ." Nhưng cả hai người đều không chú ý đến chỗ vô lý: tại sao phải nói khẽ. Bé muốn lấy bánh mời Đỗi ăn nhưng không dám, vì lúc trước khi Mùi đi, Bé đã đếm bánh xem còn bao nhiêu và bảo cho chủ biết. Bỗng nàng sực nghĩ ra, khẽ bảo Đỗi: "Cứ ăn đi, tôi có tiền đây." Đỗi lấy làm lạ sao Bé không mời mình ăn lại nói là trả hộ? "Thôi chịu thôi, với lại tôi sợ ăn tôm lắm rồi." "Thế thì ăn bánh nhân thịt. Ngon lắm có cả cà cuống ở Hà Nội mới về." Câu ấy Bé bắt chước lời cô chủ vẫn nói với khách hàng. Đỗi nói: "Ừ thì ăn." Bé gắp bánh ra đĩa vui sướng nhìn Đỗi ăn, Đỗi chưa bao giờ được ăn thứ bánh ngon như thế. Đỗi đi rồi, Bé lần hầu bao lấy sáu xu rón rén đặt ở cạnh đĩa, rồi lại nhặt lên và cho xu vào khe hòm thu tiền của cô chủ, cố ý làm cho những đồng xu rơi kêu to để mọi người chung quanh nghe thấy. Lần thứ hai Đỗi đến thì gặp lúc có cả cô Mùi và Bé ở cửa hàng. Chàng khó chịu vì có cô Mùi ở nhà; nhưng đã trót rẽ vào cửa hàng mất một bước và thấy cô Mùi đã biết là mình định vào cửa hàng rồi nên chàng không dám quay ra. Trong khi Đỗi uống nước, Bé khó chịu thấy Mùi cứ nhìn Đỗi không chớp mắt, Bé nghĩ thầm: "Hay cô ấy biết rồi." Bé lại thấy tự nhiên Mùi mỉm cười nhìn Đỗi rồi lại nhìn Bé một cái. Bé thấy hai tai nóng bừng. Mùi nói: "Tôi trông bác quen quen?" Đỗi chưa kịp trả lời thì Mùi lại nói tiếp: "À phải rồi, bác chở đò ở bến Trò." Nàng vừa nhớ lại trước đây đã lâu lắm đi qua bến đò Trò, thấy người chở đò có nhiều tôm, nàng có hỏi chuyện và chính nàng bảo Bé đến mua khi nào thiếu tôm. Nàng chỉ vào Bé: "Chị này vẫn sang mua tôm của bác luôn." Nàng gọi Bé và làm Bé giật mình: "Chị vẫn sang mua tôm của bác ấy có phải không? Thế sao bác ấy vào mà không chào hỏi gì cả. Chị này lạ quá." Đỗi đáp hộ Bé: "Tại chị ấy đau mắt, không nhìn thấy." Chuyện xẩy ra chỉ có thế thôi nhưng ngay chiều hôm sau đợi Mùi trở về nhà, Bé chạy vội sang bến đò Trò mặc dầu hôm ấy nhà có tôm. Nàng bảo Đỗi giọng như cự: "Đừng đến nữa." Đỗi cũng gắt, đáp lại: "Thế sao lâu không đến?" Thế là hai người đã ngỏ tình yêu cho nhau biết mà không ai định tâm cả. Nhưng cả hai người chỉ thấy vui sướng chứ không thẹn vì cả hai đều làm như không chú ý đến nghĩa ngầm ẩn trong những câu nói ấy. Đỗi nói tiếp: "Bánh cuốn ngon quá. Mai lại phải đến." Bé gắt: "Con khỉ, người ta đem đến cho mà ăn." "Mai nhé." "Mai không được. Sao đằng ấy nóng nẩy thế?" Lần đầu tiên Bé gọi Đỗi là "đằng ấy’’ và lại mắng cả Đỗi "con khỉ". Nhưng còn đến với Đỗi luôn mà không có cớ mua tôm thì Bé chưa dám. Không phải Bé ngượng với Đỗi, nàng chỉ ngượng với mọi người trong phố và nhất là sợ họ đoán biết. Bé đợi mấy hôm bên nhà mẹ nàng mới không có tôm. Bé vội đem cất đi một chục chiếc bánh. Bé không sợ Mùi nghi ngờ vì từ lúc đến ở với Mùi chưa lần nào nàng lấy vụng bánh. Hôm ấy, dịp may Mùi có việc về nhà sớm hơn mọi khi. Nàng hạ những cái phên đóng cửa hàng rồi lấy bánh ra. Nhưng Bé không biết cất bánh ở đâu và không dám để ở cái rổ mua tôm trống trải quá. Bé nghĩ mãi mới tìm được một cách; nàng gói cẩn thận từng cái một vào trong lá chuối khô rồi cho vào thắt lưng buộc tròn quanh bụng: ở ngoài buộc thêm hai cái thắt lưng nữa. Đũa thì không cần, ăn bốc cũng được, nhưng phải đem đi cái đĩa đựng nước mắm chấm; Bé bỏ một cái đĩa vào trong túi áo cánh. Nàng đi tìm một cái chai nhỏ để đựng nước mắm nhưng tìm khắp nhà không có cái chai nhỏ nào cả. Chỉ có một cái chai nước chanh cũ. Bé rót nước mắm vào trong chai nước chanh và cho chai vào thắt lưng cuộn lại buộc nút ở hai đầu cho khỏi rơi, rồi bỏ thõng lẫn với những đầu dây thắt lưng khác. Ra đến ngoài đường Bé mới bắt đầu thấy khó chịu, phải đi chậm bước lại vì lá chuối khô gói bánh cứ lạo xạo chung quanh bụng, cái đĩa cứ đập vào sườn và khó chịu nhất là cái chai lủng lẳng lúc thì va vào đùi bên trái, lúc va đùi bên phải. Khi đi qua cửa nhà cụ Huế Hai, cụ gọi giật lại: "Chị Bé đi mua tôm đấy à? Mua cho tôi một mớ với." Bé đi tạt vào, hỏi: "Cụ làm bánh xèo?" "Ừ, lâu lắm chưa làm. Chị sang ăn, tôi để dành cho hai chiếc." Tuy chỉ có một mình và rất hà tiện nhưng vì nhớ Huế và nhớ lũ cháu ở quê nhà nên mỗi lần làm bánh cụ làm đến hai chục chiếc, cụ chỉ ăn có một chiếc đầu rồi ra cửa hễ thấy đứa trẻ nào là cụ gọi lại cho ăn. Thành thử mỗi khi làm bánh xèo nhà cụ đông như cái chợ; trẻ con ngồi la liệt đợi và đứa nào đến trước thì được ăn trước. Thấy số trẻ con đủ số bánh rồi, cụ đóng cửa lại. Bé nhận lấy tiền rồi đáng lẽ đi thẳng, nàng lại quay trở về báo cho lũ em ở nhà biết để chúng đến nhà cụ giữ chỗ, và làm giúp đỡ cụ và như thế được ăn hai chiếc. Khi tôm về cụ rán ngay, nên Bé phải quay lại báo trước các em mới kịp. Thấy Tý, em nàng đứng xem con yểng của cụ Hai hàng cơm, Bé bảo: "Hôm nay bên cụ Huế Hai làm bánh xèo." Tý vui mừng chạy đi. "Về bảo các em mày nữa chứ. Mày chỉ biết ăn một mình." Tý hỏi: "Hôm nay chị sang bến Trò?" "Ừ tao sang bến Trò mua tôm." Bé khó chịu thấy Tý cứ nhìn vào chỗ thắt lưng mình. "Mày hỏi làm gì?" Tý không trả lời lại nói thêm: "Chị sang bác Đỗi?" Bé giật nẩy mình, lo sợ; vội nhấc khăn che mắt để nhìn rõ mặt Tý: "Mày biết bác ta à?" "Thì ngày nào em cũng sang học bác ấy cách thức câu tôm. Bác ấy bảo bác ấy có thuốc đau mắt hay lắm. Sao chị không chữa?" Bé hết lo nhưng vẫn còn khó chịu; nàng vội quay đi sợ đứng lâu Tý có thể nhìn thấy cả những chiếc bánh cuốn chung quanh bụng mình. "Nó ranh mãnh lắm." Bé vừa đi ra bến Trò vừa tức Đỗi; nàng lẩm bẩm luôn miệng. Đỗi thấy Bé đến với một cái rổ không, vội hỏi: "Bánh đâu?" Bé không trả lời, quăng mạnh cái rổ không xuống thuyền. Đỗi cười nói: "Người ta hỏi ăn bánh lại cho người ta ăn cái rổ." Bé gắt: "Sao lại cho thằng Tý nó đến?" "Thì nó cứ đến, cấm thế nào được nó." "Sao lại dậy nó câu tôm?" "Nó đến, nó bảo dậy nó thì dậy nó. Nó chịu khó lắm, chịu khó nghe, chịu khó hỏi. Tôi thích nó lắm." Nghe mấy tiếng "chịu khó hỏi" Bé lại giật mình. "Mai đừng dậy nó câu nữa. Nó tinh lắm." "Nó tinh thì mới dậy nó chứ." Bé gắt: "Con khỉ, đùa mãi. Tôi về đây." Đỗi vội nói: "Ừ thì mai không dậy nó câu nữa." "Mai đừng cho nó đến nữa." Bé bước xuống thuyền, nhìn hai bên bờ sông nói: "Nào ăn bánh." Dưới con mắt ngơ ngác của Đỗi, Bé rút ở túi ra một cái đĩa đặt trên sàn thuyền, mở nút thắt lưng lấy ra một cái chai đổ nước mắm vào đĩa, rồi nói: "Ăn đi." Đỗi nhìn vào hai túi áo cánh của Bé tìm, nhưng hai túi đều dẹt, không có hình bóng một chiếc bánh nào cả, Đỗi lại nhìn vào mắt Bé hất đầu một cái. Bé cười: "Thong thả đã." Đỗi thấy Bé cởi dây lưng ngoài rồi lại cởi cả dây lưng trong, cho tay vào lần cái dây lưng thứ ba và rút ra một cái gói lá chuối đưa cho mình. Đỗi hỏi: "Chỉ có một cái?" "Ăn đi không cần đếm. Cô Mùi biết thì chết." Đỗi mỉm cười, nghĩ đến chuyện ma xó ở đường ngược và cô Mùi là con ma xó. Đỗi chấm bánh vào đĩa rồi ngửa mặt cho cả chiếc bánh vào mồm. Bé rút cái thứ hai, ngồi nhìn Đỗi ăn ngon lành, trong lòng sung sướng. Nàng chợt nghĩ nếu Mùi biết chắc chắn sẽ bị đuổi; về nhà, nhà cũng không chứa nữa và nếu lại biết cả là ăn cắp bánh đem cho trai thì... Bé không dám nghĩ đến chỗ đó, định tâm lần sau không chiều Đỗi như thế nữa và cất tiếng bảo Đỗi: "Ăn thế thôi chớ." Đỗi tưởng lầm vội nói: "Chỉ có hai cái thôi à?" Bé rút luôn ra ba bốn chiếc, nói: "Còn nhiều, ăn cho chán chê đi." Ăn đến sáu bẩy cái, Đỗi mới sực nhớ mời Bé: "Hai người cùng ăn mới ngon." Trong lúc Bé cầm miếng bánh cắn từng miếng nhỏ, Đỗi khẽ rón rén đưa chân mình lại gần chân Bé và đặt chân mình lên bàn chân Bé. Bỗng Bé giật nẩy mình kêu "ấy chết" lên một tiếng to làm Đỗi sợ rụt ngay chân lại. Bé đặt vội cái bánh xuống sàn thuyền còn bao nhiêu bánh cuốn trong người trút ra hết giơ hai tay với các đầu dây lưng, rối rít buộc lại và trong lúc cuống quít buộc lẫn đầu dây nọ với đầu dây kia, thành một mớ lung tung ở trước bụng. Bé vừa sực nghĩ đến việc ngồi ngay trước mặt một người con trai mà dây lưng trong dây lưng ngoài lại cởi tung hết ra cả. Bé bảo Đỗi: "Thôi ăn mau lên người ta về đây." Nghĩ đến cái nguy hiểm ăn cắp bánh và ngồi ăn với Đỗi, Bé nói tiếp: "Con khỉ, lần sau đừng có hòng người ta đem bánh cho mà ăn nữa." Đỗi thì cho là Bé tức giận mình giẵm lên chân. Chàng tự hỏi mình đã giẵm lên chân Bé không biết bao nhiêu lần rồi mà sao bây giờ Bé mới biết và mới giận. Chàng nghĩ thầm: "Mà giẵm chân thế thì thích chết người, có việc gì đâu mà phải giận." Tuy nghĩ vậy nhưng từ hôm đó Đỗi không dám giẵm lên chân Bé nữa và lại đến lượt Bé lấy làm lạ vì sao Đỗi lại bỏ hẳn cái thói rất thú vị ấy đi.