Ngồi bật dậy vì tiếng rung của cái dụng cụ báo giờ, Eragon vơ vội con dao săn, nhảy khỏi giường, đề phòng bị tấn công. Nó há hộc mồm thở, toàn thân như kêu thét lên phản đối vì những lạm dụng quá sức trong hai ngày vừa qua. Eragon chớp mắt nhìn quanh, trời đã sáng bạch, Orik có lẽ đã ra đi từ lúc tinh mơ. Nó rên lên một tiếng rồi tập tễnh như ông già bị thấp khớp, bước vào phòng tắm. Sau mười phút cùng Saphira đứng chờ dưới gốc cây, Eragon mới thấy một thần tiên tóc đen, vẻ đạo mạo tiến lại, hai ngón tay chạm môi, cúi đầu rồi giành phần nói trước nó: - Cầu xin số phận tốt lành đến với người. Eragon cũng đặt ngón tay lên môi, cúi đầu đáp lễ: - Cầu xin các vì sao bảo vệ người. Sư phụ Oromis phái người tới, phải không? Không thèm nhìn lại và trả lời Eragon, vị tiên tóc đen quay sang Saphira: - Xin chào, ta là Vanir thuộc tộc Halbthin. Eragon bực tức rủa thầm trong khi Saphira cúi đầu chào lại. Lúc đó Vanir mới lên tiếng bảo Eragon: - Ta sẽ hướng dẫn mi tới nơi luyện kiếm. Hắn quay đi ngay không đợi Eragon kịp trả lời. Rải rác trong sân luyện kiếm đã có những cặp hoặc từng nhóm thần tiên đang tập luyện. Với sức mạnh thiên phú, những đường kiếm của họ ào ào như vũ bão, lanh lẹ như tia chớp. Hàng loạt tiếng vũ khí va chạm rung lên như chuông ngân. Dưới những tán cây quanh sân, một số thần tiên tách riêng lẻ, đang luyện Xà-Hạc quyền với những chiêu thức biến ảo, duyên dáng và phức tạp. Eragon tự nhủ mình không bao giờ đạt đến mức tuyệt chiêu như vậy được. Sau khi tất cả ngừng tay, cúi chào Saphira, Vanir rút khỏi bao thanh kiếm mảnh mai, bảo Eragon: - Bàn-tay-bạc, nếu bảo vệ được kiếm mình, chúng ta có thể bắt đầu. Eragon lo lắng nhìn những kiếm khách thần tiên phi phàm chung quanh, tự nhủ: “Mình chỉ sẽ làm trò cười cho họ mà thôi.” “Anh sẽ không sao đâu, đừng lo.” Tuy Saphira nói vậy, nhưng Eragon cảm thấy chính cô em rồng cũng đang lo lắng cho ông anh. Hai tay Eragon run lên vì sợ khi cầm thanh Zar’roc thủ thế. Thay vì xông lên tấn công, nó đảo bước, né tránh từ xa, ráng không để bất cứ điều gì có thể gây thêm một lần bị choáng ngất nữa. Nhưng dù cố gắng thoát khỏi những đường kiếm của đối phương, Eragon vẫn bị bốn chiêu chớp nhoáng của Vanir đánh trúng mạn sườn, ống quyển, hai vai. Vẻ mặt đạo mạo trầm tĩnh của Vanir lúc bắt đầu thoắt trở thành vẻ giễu cợt khinh khi. Phóng mình nhảy tới, hắn lướt nhẹ kiếm suốt chiều dài thanh Zar’roc, đồng thời xoay vòng Zar’roc, xoắn mạnh cườm tay Eragon. Không chịu nổi sức mạnh của thần tiên, Eragon buông thanh kiếm bay vọt khỏi tay. Vanir dí mũi kiếm ngay cổ Eragon, nói: - Chết. Gạt lưỡi kiếm của Vanir, Eragon lê chân, cúi nhặt thanh Zar’roc. Vanir lại nói: - Như vậy là chết rồi. Đánh đấm thế này, sao mi có thể mong hạ được Galbatorix? Dù biết mi là một con người yếu ớt, ta cứ tưởng mi khá hơn nhiều. - Vậy sao mi không tự đi mà đánh với Galbatorix, thay vì trốn chui nhủi trong đất Du Weldenvarden này? Vanir giận sôi gan, nhưng giọng nói vẫn lạnh lùng đầy ngạo mạn: - Vì ta không phải là một kỵ sĩ rồng. Nếu là kỵ sĩ, chắc chắn ta sẽ không là một kỵ sĩ hèn nhát như mi. Khắp bãi tập bỗng im lặng như tờ. Quay lưng lại Vanir, Eragon ngửa mặt nhìn trời, thầm rít lên: “Đây là một thử thách nữa mình phải vượt qua.” Vanir vẫn tiếp tục: - Ta nhắc lại: đồ hèn. Máu mi loãng như tất cả dòng giống loài người của mi. Ta nghĩ chắc Saphira đã mắc mưu Galbatorix, nên đã bối rối chọn lầm mi làm kỵ sĩ. Các thần tiên chung quanh sững sờ trước những lời nói của Vanir, họ râm ran với nhau, công khai phản đối thái độ vi phạm thô bạo nghi thức xã giao của hắn. Eragon nghiến răng. Nhục mạ nó, nó còn chịu nổi, nhưng không được đụng tới Saphira. Saphira lập tức chuyển động khi cảm thấy sự giận dữ, đau đớn, sợ hãi bùng lên trong lòng ông anh. Eragon quay phắt lại, mũi kiếm rít lên trong không khí. Đường kiếm đó có thể giết chết Vanir, nếu hắn không kịp chống đỡ. Hắn kinh ngạc vì chiêu kiếm cực kỳ hung hãn của Eragon. Không trì hoãn một giây, Eragon đẩy lùi Vanir vào giữa sân, với những đường kiếm đâm, chém tới tấp; quyết tâm làm hắn phải bị thương. Nó rạch mạnh một đường trên hông Vanir đủ có thể làm tóe máu, dù thanh kiếm đã được bao phủ, làm cùn bằng phép thuật. Nhưng ngay lúc đó, cơn đau như bẻ gãy lưng, Eragon nhận biết sự đau đớn bằng cả năm giác quan: tai nó ù lên như ào ào toàn tiếng thác đổ, lưỡi tanh mùi kim loại, nước mắt cay sè, hai lỗ mũi nồng nặc mùi chua như giấm; và trên tất cả là cảm giác. Tà Thần vừa xé banh lưng nó ra. Nó còn có thể thấy Vanir đứng nhìn xuống nó với nụ cười nhạo báng. Lúc đó nó mới nhận ra Vanir còn rất trẻ. Sau cơn choáng váng, Eragon chùi máu trên miệng, rồi xòe tay trước mắt Vanir, hỏi: - Loãng lắm không? Thay vì trả lời, Vanir tra kiếm vào bao, quay bước. Eragon hỏi lớn: - Đi đâu? Việc chúng ta chưa xong mà. - Sức khỏe mi không thể đấu được nữa. - Cứ thử coi. Dù thua sút thần tiên, nhưng nó không để cho họ có dịp coi thường. Nó sẽ làm họ phải nể phục, quyết đấu cho đến phút cuối cùng. Sau khi Eragon hoàn tất luyện kiếm cùng Vanir đúng thời gian Oromis đã quy định, Saphira tiến tới, đặt cái móng to đùng lên ngực Vanir, nói: “Chết.” Các thần tiên vội lảng ra xa. Mặt Vanir xanh nhợt như tàu lá. Vừa cất cánh lên cao, Saphira nói ngay: “Sư phụ nói đúng.” “Đúng chuyện gì?” “Anh ráng sức hơn khi có đối thủ.” Trở về lều sư phụ, thời gian còn lại trong ngày tiếp tục như thường lệ: Eragon ở lại, còn Saphira bay theo Glaedr để học tập. Hốt hoảng vì sư phụ ra lệnh luyện thêm mấy đường Xà-Hạc quyền mới, nhưng Eragon vẫn cố lấy can đảm tuân theo. Tuy nhiên mấy chiêu thức nhẹ nhàng không làm nó bị chấn thương. Điều đó, cùng với sự tĩnh tọa trong trảng trống, cho nó cơ hội suy ngẫm câu hỏi sư phụ đã đưa ra ngày hôm trước. Trong lúc suy ngẫm, Eragon quan sát bầy kiến đỏ của nó đang ào ạt xâm lăng và cướp lương thực của một tổ kiến nhỏ hơn. Kết thúc cuộc tàn sát, đối phương chỉ còn lại ít con sống sót – bơ vơ vô vọng – trêng khoảng trống đầy lá thông cằn cỗi. “Giống như những con rồng ở Alagaesia”, Eragon thầm nghĩ. Liên tưởng từ những con kiến vừa biến mất, nó so sánh với số phận hẩm hiu của rồng. Dần dần câu trả lời cho vấn đề của nó hé lộ. Một giải pháp làm nó có thể tin và ứng dụng vào cuộc sống. Chấm dứt buổi tĩnh tọa, Eragon trở về lều. Khi Oromis đang dọn ăn trưa, Eragon lên tiếng nói: - Con hiểu vì sao dù hàng ngàn người có thể chết, việc chiến đấu cùng Galbatorix vẫn là điều đáng phải làm. - Vậy sao? Hãy nói cho thầy biết. - Vì suốt mấy trăm năm qua, sự đau khổ do Galbatorix đã gây ra, lớn hơn rất nhiều những gì chúng ta có thể gây ra trong một thế hệ. Chúng ta cũng không thể đợi chờ lão chết, vì lão không giống một bạo chúa bình thường. Lão còn có thể thống trị nhiều thế kỷ, thậm chí cả thiên niên kỷ - và suốt thời gian đó lão vẫn tiếp tục hành hạ, đày ải nhân dân - trừ khi chúng ta… bắt lão ngừng lại. Nếu lão trở nên mạnh hơn, lão sẽ tiến tới tàn sát và bắt làm nô lệ cả người lùn và thần tiên tại Du Weldenvarden này. Và… Nó ngập ngừng tiếp: - …và vì việc giải thoát hai trứng rồng khỏi tay Galbatorix là cách duy nhất để cứu loài rồng. Ấm nước trên lò than réo sôi sùng sục. Oromis đứng dậy, lấy ấm khỏi bếp, pha trà. Ông hỏi: - Vậy là con đã hiểu? - Con hiểu nhưng không được vui. - Đúng là không vui. Nhưng bây giờ chúng ta có thể tin tưởng là con sẽ không chùn bước khi phải đối đầu với những bất công và tàn bạo mà Varden sẽ khó tránh không phạm phải. Chúng ta không muốn con bận trí vì những hoài nghi, thắc mắc; trong khi sức lực và sự tập trung của con là điều vô cùng cần thiết. Con có tin Galbatorix là kẻ độc ác không? - Tất nhiên con tin. - Con có tin là hắn cho mình là kẻ có tội không? - Không, con không tin. - Vậy thì chắc con tin Tà Thần Durza là quỷ dữ? Những mảnh vụn quá khứ Eragon đã moi được từ Durza trong cuộc đấu tại Tronjheim trở lại trong tâm trí, gợi Eragon nhớ lại thời trai trẻ của Tà Thần – khi đó là chàng trai Carsaib, rồi khi hắn trở thành nô lệ của đám âm binh do chính hắn chiêu hồn, để trả thù cho cái chết của Haeg, sư phụ hắn. - Bản thân hắn không là quỷ dữ, chính những âm binh điều khiển hắn mới là quỷ dữ. Oromis nhấp ngụm trà, hỏi tiếp: - Còn Urgal, chúng có phải là ác quỷ không? Eragon nắm chặt cái muỗng đến nỗi làm những lóng tay nhợt hẳn ra: - Mỗi khi nghĩ đến cái chết, mặt của một tên Urgal lại hiển hiện trước mắt con. Chúng xấu xa ghê tởm hơn cả loài ác thú. Những gì chúng đã làm… Nó lắc đầu không thể nói tiếp nổi. - Eragon, con sẽ nói sao về loài người, nếu tất cả những gì con biết, đều là những hành động của họ ngoài chiến địa. - Điều đó không là… Không, đó lại là chuyện khác. Tụi Urgal đáng quét sạch không còn một mống. - Kể cả đàn bà trẻ con? Những kẻ vô tội không – và có lẽ họ không bao giờ - muốn làm hại con? Con cũng sẽ giết họ và đày đọa tất cả dòng giống họ xuống đáy hỏa ngục sao? - Nếu có dịp, chúng chẳng tha ta đâu. - Eragon, thầy không bao giờ muốn nghe con bào chữa kiểu đó nữa. Không phải những gì kẻ khác làm, thì con cũng sẽ làm. Đó là sự nhỏ nhen, đố kỵ, thành kiến và là những biểu hiện của một tâm trí thấp kém, không sáng suốt. Con rõ chưa? - Dạ, thưa thầy. Suốt thời gian đưa cốc trà lên môi uống, mắt Oromis không rời Eragon: - Thật sự con biết những gì về Urgal? - Con biết sức mạnh và yếu điểm của chúng. Con biết phải giết chúng cách nào. Con chỉ cần biết bấy nhiêu thôi. - Vì sao chúng căm hận và gây chiến với loài người? Lịch sử và truyền thuyết về chúng, hay chúng sinh hoạt ra sao? Con biết không? - Chuyện đó có quan trọng không ạ? Oromis thở dài, nhẹ nhàng nói: - Hãy nhớ rằng, trên một phương diện nào đó, kẻ thù của con cũng có thể trở thành một đồng minh. Đó là chuyện rất tự nhiên trong đời. Cố không cãi lại thầy, Eragon quậy cốc trà đến sủi bọt. Sau cùng nó lên tiếng hỏi: - Có phải đó là lý do Galbatorix kết nạp Urgal? - Đó không phải thí dụ ta định đưa ra, nhưng cũng đúng. - Lão thỏa hiệp với Urgal dường như là một chuyện lạ lùng. Vì chính chúng là những kẻ đã giết con rồng của lão. Hãy nhớ lại những gì lão đã ra tay với các kỵ sĩ, mà kỵ sĩ có trách nhiệm gì với sự mất mát của lão đâu. - A, có thể hắn điên, nhưng hắn vẫn cứ là một con chồn tinh quái. Ta đoán hắn có ý định sử dụng Urgal để tiêu diệt Varden và người lùn, và… cả các phe phái khác nữa. Nếu cuộc tấn công Farthen Dur vừa qua thành công, hắn trừ khử được hai kẻ thù, đồng thời làm suy kiệt Urgal, như vậy lão sẽ ung dung rảnh tay sai khiến chúng. Buổi chiều, sau khi học cổ ngữ, hai thầy trò luyện phép thuật. Hầu hết bài giảng của Oromis hôm nay chú trọng vào phương pháp điều khiển những hình thức khác nhau của năng lượng như: ánh sáng, hơn nóng, điện năng… kể cả trọng lực. Ông cắt nghĩa, vì sức phá hủy của những nguồn lực này mạnh hơn bất cứ loại thần chú nào, chúng lại có sẵn trong thiên nhiên. Chỉ cần định hình chúng bằng phép thuật, thay vì phải cố gắng tạo ra từ cái không có. Oromis bỗng chuyển đề tài, hỏi Eragon: - Con sử dụng phép thuật để sát thủ như thế nào? - Con sử dụng nhiều cách. Con đi săn với một viên đá cuội – di chuyển, nhắm con mồi, rồi phóng - giống như con niệm chú câu jierda để bẻ cổ vặn chân Urgal. Có lần, với câu thrysta, con đã lấy mạng một người. - Còn nhiều phương pháp hiệu quả hơn. Eragon, điều gì gây nên cái chết của một con người? Một lưỡi gươm xuyên qua ngực? Một cú bẻ cổ? Sự thất thoát máu? Tất cả chỉ là làm cho một động mạch não nghẽn lại, hay nói rõ hơn là cắt đứt một vài dây thần kinh. Với một câu thần chú chính xác, con có thể xóa sổ một đoàn quân. - Đáng lẽ con phải biết điều này từ khi ở Farthen Dur. Sư phụ, cho con hỏi lần nữa, vì sao ông Brom không dạy con phương pháp này? - Vì hắn tưởng phải nhiều tháng, nhiều năm nữa con mới phải đối mặt kẻ thù. Hơn nữa, phương pháp này không dành cho những kỵ sĩ chưa qua kiểm tra năng lực. - Nếu giết người dễ dàng như vậy, lý do gì chúng ta và Galbatorix phải thành lập quân đội? - Nói ngắn gọn, đó là chiến thuật. Các pháp sư có những yếu điểm thể chất khi bị lôi cuốn vào những cuộc chiến tinh thần. Do đó cần phải có những chiến binh để bảo vệ họ. Còn các chiến chiến binh cũng cần được bảo vệ, dù chỉ một phần, những khi bị tấn công bằng phép thuật, nếu không họ sẽ bị giết ngay. Những giới hạn này có nghĩa: khi hai đoàn quân đương đầu với nhau, pháp sư của họ được rải khắp trong hàng ngũ, gần giới tuyến, nhưng không gần quá để tránh nguy hiểm. Pháp sư của cả hai phe đều mở tâm tưởng để dò la đối phương có đang, hay sắp, sử dụng phép thuật không. Đề phòng địch thủ có thể là những tay cao thủ hơn, các sư còn tạo nên một rào cản quanh họ và các chiến binh, để ngăn chặn hoặc giảm thiểu sự tấn công từ xa, chẳng hạn như một hòn đá phóng từ cả dặm tới, trúng ngay đầu. - Nhưng một con người chắc chắn không thể bảo vệ cho cả một đoàn quân. - Một mình thì không. Nhưng có đầy đủ pháp sư, con có thể bố trí một lượng lớn bảo vệ hợp lý. Điều nguy hiểm nhất trong chiến thuật này là, một pháp sư cao tay có thể tìm ra cách tấn công độc đáo: lách qua rào cản phép thuật mà không bị phát hiện. Chính điều đó, có thể, đủ để quyết định trận chiến rồi. Ngoài ra, con nên nhớ một điều, dù trong loài nào cũng hiếm có kẻ vượt trội về khả năng sử dụng phép thuật. Thần tiên chúng ta cũng không ngoại lệ, mặc dù chúng ta là mảnh đất sản sinh ra nhiều cao thủ sử dụng phép thuật hơn bất cứ loài nào. Có dược kết quả đó là nhờ chúng ta đã sống khép kín từ bao nhiêu thế kỷ nay. Đa số những kẻ được ca tụng, phép thuật rất tầm thường, thậm chí không có chút tài năng nào. Chúng chỉ có khả năng chữa lành một vết thương nho nhỏ. Eragon gật đầu. Nó đã từng gặp loại pháp sư này trong đoàn thể Varden. - Thưa thầy, nhưng họ cũng cần một lượng nội lực tương đương để hoàn tất một công việc chứ ạ? - Đúng vậy. Nhưng, những pháp sư yếu kém không dễ gì cảm nhận được dòng luân lưu của phép thuật. Họ bị phép thuật nhận chìm. Cũng có một vài pháp sư đủ mạnh để tạo ra mối đe dọa, uy hiếp cả một đoàn quân. Những người này thường sử dụng phần lớn thời gian ngoài mặt trận để theo dõi, lẩn tránh và chiến đấu với đối phương. Với người lính, đó là điều may mắn, vì nếu không nhờ vậy họ sẽ sớm bị mất mạng rồi. Eragon áy náy nói: - Varden ko có nhiều pháp sư. - Đó là một lý do vì sao con quan trọng đến thế. Một lát sau Eragon nhớ lại lời sư phụ nói về những “rào cản”! - Những rào cản chỉ làm hao tổn nội lực của ta khi chúng hoạt động, phải không ạ? - Phải. - Vậy thì, nếu có đủ thời gian, ta có thể tạo ra vô vàn lớp rào cản thì… không có gì đụng được tới ta nữa, ta sẽ thành người bất khả xâm phạm sao?... Bất khả xâm phạm ngay cả với bất kỳ cuộc tấn công nào, dù là phép thuật hay con người? - Rào cản tùy thuộc vào nội lực. Nếu sử dụng nội lực quá giới hạn, con sẽ chết. Bao nhiêu lớp rào cản không là vấn đề, vấn đề là con chỉ có thể ngăn được sự tấn công lâu chừng nào cơ thể con còn duy trì được việc tạo ra nội lực. - Nội lực của Galbatorix mỗi năm mỗi mạnh hơn. Vì sao lão không thể làm được điều đó? Oromis im lặng. Đôi mắt hình trái hạnh của ông chăm chú theo dõi ba con chim én bay vòng trên đầu. Eragon thấy ông đang cân nhắc cách tốt nhất để trả lời nó. Mấy con chim rượt đuổi nhau mấy phtú rồi bay vụt đi. Lúc đó Oromis lên tiếng: - Lúc này chưa thích hợp để bàn luận vấn đề này. Eragon kêu lên: - Như vậy là sư phụ biết? - Ta biết. Nhưng phải đợi tới sau này, khi con đã được huấn luyện thêm. Bây giờ con chưa được trang bị để sẵn sàng lãnh hội những điều này đâu. Vừa nói ông vừa lom lom nhìn Eragon, như chờ nó phản đối. Nhưng Eragon chỉ cúi đầu nói: - Tùy ý sư phụ. Nó biết ông chỉ nói khi nào muốn, có năn nỉ cũng vô ích mà thôi. Tuy nhiên, nó vẫn tự hỏi, điều gì nguy hiểm tới nỗi Oromis không dám nói cho nó biết và giữ bí mật luôn cả với quân cách mạng Varden? Một ý tưởng chợt lóe trong đầu làm Eragon bật hỏi: - Nếu những trận đánh được điều khiển bởi các pháp sư như thầy nói, vì sao thủ lãnh Ajihad để con chiến đấu tại Farthen Dur mà không có rào chắn phép thuật nào? Thậm chí con cũng không biết là phải mở tâm tưởng cho kẻ thù dò la, để mình phát hiện ra chúng; và tại sao Arya đã không giết nhiều, thậm chí tất cả tụi Urgal? Vì ngoài Tà Thần Durza, không có một pháp sư nào chống lại cô ta. Tà thần cũng đã không thể bảo vệ cho quân của hắn khi ở dưới đường hầm. - Ajihad đã không bảo Arya hay một người trong nhóm Con đường Lãng du làm hàng rào bảo vệ con sao? - Không, thưa sư phụ. - Nhưng con vẫn chiến đấuu? - Thưa vâng. Đứng trầm ngâm trên bãi cỏ, một lúc sau sư phụ bỗng thốt lên: - Ta đã lưu ý Arya chuyện này, và cô ấy bảo cặp sinh đôi đã được lệnh đánh giá khả năng của con. Chúng báo cáo lại với Ajihad là con đầy đủ khả năng trên mọi lãnh vực, kể cả rào chắn phép thuật. Cả Ajihad lẫn Arya đều không hề tỏ ra nghi ngờ nhận xét của chúng. Eragon nghiến răng nguyền rủa: - Hai thằng miệng trơn như bôi mỡ, đồ dòi bọ, đồ chó má xảo quyệt đó đã định làm con phải chết. - Đừng làm ô uế không khí như thế chứ… Tuy nhiên, ta ngờ rằng cặp sinh đôi để con lâm trận không có rào chắn, không có ý định để con phải chết đâu, mà để Tà Thần Durza bắt được con. - Sao ạ? - Theo những gì con kể lại, thì khi Galbatorix khởi sự khủng bố các đồng minh của Varden một cách gần như chính xác, Ajihad đã nghi ngờ trong hàng ngũ Varden có kẻ phản bội. Anh em sinh đôi đã bị âm thầm theo dõi và bị phát hiện là những kẻ cộng tác với địch. Ngoài ra, chúng còn lùa con vào trung tâm Tronjheim; bằng cách đó chúng cách ly con khỏi Saphira và đặt con trong vòng tiếp cận của Tà Thần. Những điều đó cắt nghĩa rất logic, chúng là những kẻ phản bội. - Nếu chúng thật sự phản bội cũng không thành vấn đề nữa. Anh em sinh đôi chết lâu rồi. Oromis gật gù: - Arya cho biết trong hàng ngũ Urgal có nhiều pháp sư trong trận Farthen Dur và chính cô đã từng chiến đấu với họ. Không pháp sư nào tấn công con sao? - Thưa không. - Càng thêm bằng chứng là con và Saphira không bị giết là để Tà Thần Durza bắt về cho Galbatorix. Một cái bẫy rất tinh vi. Suốt một tiếng sau, Oromis dạy Eragon mười hai phương pháp sát thủ, phương pháp nào cũng nhẹ nhàng như việc cầm lên cây bút, không hề tốn hao công lực. Vừa thuộc lòng chiêu cuối xong, Eragon chợt tủm tỉm cười: - Lần sau gặp lại, tụi Ra’zac đừng hòng thoát khỏi tay con. Oromis cảnh giác đệ tử: - Đối với chúng, con vẫn phải hết sức thận trọng. - Vì sao ạ? Con chỉ lẩm bẩm ba câu là chúng hết ngáp. - Hải âu ăn gì? - Tất nhiên là cá rồi, thưa sư phụ. - Vậy nếu một con cá nhanh hơn, thông minh hơn anh em nó, liệu nó có thoát khỏi cuộc săn đuổi của hải âu không? - Khó lắm. - Đó là vì hải âu được tạo ra để trở thành những thợ săn cá đại tài, cũng như sói là thợ săn trừu. Tất cả loài vật đều được phú cho một khả năng thích hợp. Cũng như Ra’zac được tạo ra để săn mồi là con người. Chúng là quái vật của bóng tối, là cơn ác mộng ám ảnh đồng loại của con. Tóc gáy Eragon dựng lên vì khiếp đảm: - Thật ra là chúng là sinh vật thuộc loài gì? - Chẳng là thần tiên, không là người, người lùn hay rồng. Chúng không thuộc loài thú lông mao, lông vũ, bò sát hay côn trùng; chúng không thuộc bất kỳ loài sinh vật nào. Eragon phì cười: - Chẳng lẽ chúng là thực vật. - Cũng chẳng phải là cây cối. Chúng sản sinh bằng cách đẻ trứng, giống như rồng. Khi mới nở, con nhỏ - hay có thể gọi là nhộng có lớp vỏ cứng bên ngoài giống hình dạng của người. Sự mô phỏng có vẻ kỳ dị, nhưng vẫn đủ để cho phép Ra’zac tiếp cận nạn nhân mà không gây nghi ngờ, cảnh giác nào. Nơi nào con người yếu đuối, thì Ra’zac mạnh mẽ. Chúng có thể nhìn trong đêm tối; đánh hơi thính hơn, nhảy cao hơn, di động lẹ làng hơn chó săn. Tuy nhiên ánh sáng chói chang làm chúng đau đớn và chúng sợ nước sâu đến bệnh hoạn, vì không biết bơi. Vũ khí lợi hại nhất của húng là hơi thở nồng nặc mùi xú uế, làm u mê đầu óc con người. Nhưng hơi thở ma quỷ đó lại kém tác dụng với người lùn và hoàn toàn miễn nhiễm đối với thần tiên. Eragon rùng mình nhớ lại lần đầu tiên nhìn thấy Ra’zac, chân nó tê dại không thể nào bỏ chạy được. - Vừa thấy chúng con tưởng như đang ở trong một giấc mơ, cố chạy nhưng không thể nào chạy được. - Con diễn tả rất chính xác. Dù Ra’zac không thể sử dụng phép thuật, nhưng đừng bao giờ đánh giá thấp chúng. Nếu biết đang bị săn lùng, chúng sẽ lẩn ngay vào bóng tối – vì trong bóng tối chúng rất mạnh - rồi bày mưu phục kích, như chúng đã làm tại Dras-Leona. Kinh nghiệm như Brom còn bị sa vào bẫy chúng. Đừng bao giờ quá tự kiêu, vì sự cao ngạo sẽ làm con bất cẩn và kẻ thù sẽ lợi dụng yếu điểm đó của con. - Con hiểu rồi, thưa thầy. - Ra’zac lớn lên trong thân xác nhộng suốt hai mươi năm. Đêm trăng tròn thứ nhất của năm thứ hai mươi mốt, chúng lột bỏ vỏ ngoài, xòe cánh, hoàn toàn trưởng thành, sẵn sàng bay đi săn tất cả sinh vật khác, chứ không chỉ riêng loài người đâu. - Còn vật mà chúng cưỡi, có thật là… - À, đó là cha mẹ chúng.