Sau khi chiếm được Bắc ngạn sông Cầu, thì đã sang ngày 23 tháng Chạp, là ngày ông Táo chầu trời. Quách Quỳ sai ngựa lưu tinh thượng biểu về Biện-kinh, tâu thắng trận. Trong biểu nói rõ: Từ bản doanh của Quỳ tới lăng tẩm triều Lý còn ba mươi dặm (15 km), tới Thăng-long chỉ năm mươi dặm (25km). Hiện Quỳ cho quân nghỉ ăn tết, đợi sang giêng sẽ tiến quân vào ổ, bắt Lý Càn-Đức, với Lê-thị Yến-Loan đem về phục mệnh. Trong biểu, Quỳ xin triều đình cắt cử những chức quan cai trị gửi sang càng sớm càng tốt. Chiều ba mươi tết, Quỳ ban lệnh giết trâu, mổ bò khao quân, mừng giao thừa. Quỳ cho phép các doanh được tổ chức những trò giải trí để quân khỏi nhớ nhà: Nào thi bắn tên, thi đánh vật, thi leo dây, hoặc họp nhau ca hát. Trong khi quân-sĩ ăn thịt, uống rượu mừng Xuân Đinh Tỵ, thì Quỳ cho họp chư tướng tại bản doanh ở phía Bắc bến đò Như-nguyệt để định kế đánh Thăng-long. Hàng tướng Hoàng Kim-Mãn mách cho biết: Có ba con đường tới Thăng-long, Lý Thường-Kiệt đã cho lập phòng tuyến kiên cố chờ đợi. Con đường gần nhất là con đường qua bến đò Như-nguyệt. Lý Thường-Kiệt đã bố trí tại đây những lực lượng tinh nhuệ chờ đợi. Con đường gần thứ nhì là con đường Vạn-xuân, nằm cuối phòng tuyến Như-nguyệt, chỗ hội tụ ba con sông Lục-Nam, sông Cầu, sông Đuống. Tại đây cũng có phòng tuyến rất kiên cố. Ba là con đường bến đò Phú-lương men theo núi Tam-đảo, chỗ này cũng có phòng tuyến rất kiên cố. Quách Quỳ nhắc lại cho tướng sĩ hiểu tình hình: Ta đã phân chia quân làm ba mặt trận đóng dài trên sông Cầu. Thứ nhất, mặt trận trên bến đò Phú-lương trao cho Yên Đạt làm chánh tướng, Khúc Chẩn làm phó tướng, với ba tướng xung-kích Lôi Tự-Văn, Lữ Chân, Lý Hiếu-Tông; ngoài ra còn có bọn hàng tướng Hoàng Sầm-Mãn, Nùng Thuận-Ninh, Sầm Khánh-Tân làm hướng đạo. Mặt trận Vạn-xuân trao cho Tu Kỷ làm chánh tướng, Đào Bật làm phó tướng, với bốn tướng xung kích Địch Tường, Quản Vi, Giới Định, Lý Thật; hai hàng tướng Lưu Báo, Nùng Sĩ-Trung làm hướng đạo. Mặt trận Như-ngyệt, Triệu Tiết làm chánh tướng, Miêu Lý làm phó tướng, với năm tướng xung kích Diêu Tự, Vương Tiến, Bình Viễn, Đặng Trung, Lưu Mân; các hàng tướng Nùng Thịnh-Đức, Nùng Quang-Lâm, Hoàng Kim-Mãn làm hướng đạo. Hai tướng kị binh Trương Thế-Cự, Vương Mẫn lưu động, do chính Quách Quỳ chỉ huy. Quỳ nhấn mạnh: – Ta đã sai sứ hẹn với đô đốc Dương Tùng-Tiên, phó đô-đốc Tô Tử-Nguyên tiến quân chiếm cửa Đông-kênh, sau đó vượt sông vào Như-nguyệt để chở quân vượt sông Cầu đánh Thăng-long. Vậy chư tướng hãy cho quân ăn tết ba ngày. Sang ngày mùng bốn, thì sai quân vào rừng đốn nứa, đốn tre làm bè. Ngày mười lăm phải xong. Còn quân sĩ thì kể từ ngày mười lăm đều đặt trong tình trạng ứng trực, để khi có lệnh là vượt sông liền. Miêu Lý hỏi: – Thưa nguyên soái, nếu đã có thủy quân chở mã bộ quân qua sông, thì sao phải làm bè? – Giặc có mười vạn binh ở Nam ngạn. Ta muốn thắng giặc, thì phải đem ít nhất ba mươi vạn binh một lúc. Với quân số này, thì thủy quân không đủ khả năng vận tải trong một chuyến, vì vậy ta phải đóng bè. Quỳ nói lớn: – Đúng ngày mười sáu, cả ba cánh quân cùng vượt sông, phá chiến lũy. Chiếm được chiến lũy rồi, thì cánh quân Như-nguyệt tiến nhanh về đánh Thăng-long. Cánh quân của Yên Đạt tiến dọc theo Nam ngạn sông Cầu, tiến về vây Tây Thăng-long. Cánh quân Tu Kỷ đi song song tiến về vây phía Đông Thăng-long. Y bảo Nguyễn Dư và bọn du thủ du thực theo trong quân: – Người là em ruột Nguyễn Căn, mà Nguyễn Căn hiện trấn ở bên kia sông. Ta muốn dùng người làm hướng đạo. Nhưng sợ người xót tình anh em, nên không muốn người dự vào trận đánh này. Triệu Tiết biết Quách Qùy khích Nguyễn Dư, y làm bộ bênh hắn: – Tôi xin bảo đảm với nguyên soái là Nguyễn Dư sẽ trung thành với ta. Dư theo ta, chỉ với mục đích muốn giết thằng anh Căn mà thôi. Để chứng tỏ trung thành với ta, Dư đã cho người dò thám tình hình Thăng-long, tôi xin để Dư trình bầy. Ghi chú, QTNC chép về Nguyễn Dư như sau: Đứng xa mà trông Nguyễn Dư với Nguyễn Căn, thì ai cũng tưởng rằng một, nhưng nhìn kỹ ra, thì cái mặt y gẫy như lưỡi cầy, cái cằm nhọn hoắt. Mỗi khi nói, y hay làm điệu bộ, chù mỏ ra phụng phịu. Được Triệt Tiết bênh vực, Dư đứng lên nói. Y không biết nói tiếng Hán, mà nói tiếng Việt, thành ra chỉ bọn Quách Quỳ, Triệu Tiết, Khúc Chẩn, Yên Đạt, Tu Kỷ đã từng học tiếng Việt, từng sang Đại-Việt hiểu được mà thôi: – Bẩm nguyên soái, tên Căn là kẻ thù truyền kiếp của con. Nó đắc tội với con vô cùng, con chỉ muốn ăn tươi nuốt sống nó. – Được! Ta tin người! Thế người cho ta biết, từ Như-nguyệt tới Thăng-long có quân Việt trấn đóng không? – Thưa quan đại nguyên soái có. Có rất nhiều. Từ Như-nguyệt tới Cổ-pháp, lăng tẩm của triều Lý, có tới mười sáu xã. Như tất cả xã thôn Đại-Việt, các xã này đều có lũy tre bao bọc, ngoài lũy tre có hào sâu. Nếu nguyên soái muốn tiến quân về Cổ-pháp thì phải đánh các xã này, bằng không khi quan quân đi qua, chúng sẽ đánh tập hậu thì nguy lắm. Quách Quỳ khen: – Giỏi, người quả có tài đại tướng mà tên Thường-Kiệt không biết dùng. Người tiếp đi. – Từ phòng tuyến Như-nguyệt tới Thăng-long chỉ có năm mươi dặm. Nhưng trên đường đi phải qua khu rừng tre mênh mông. Sau rừng tre là chiến lũy Cổ-pháp. Trong chiến lũy Cổ-pháp, rừng tre có đến bốn hiệu binh trấn đóng, đó là hiệu Quảng-thánh, Quảng-vũ, Ngự-long và Phù-đổng. Quách Quỳ à lên một tiếng: – Từ hôm vợ chồng Tôn Mạnh, Đinh Hoàng-Nghi rút khỏi Quyết-lý, Chi-lăng, ta cứ lo lắng rằng chúng ẩn náu trong rừng Bắc-biên để đánh sau lưng ta. Nào ngờ chúng rút về Cổ-pháp. Hà, tại Như-nguyệt chỉ có hai hiệu Thiên-tử binh thôi. Còn tại Cổ-pháp chúng có tới ba hiệu Thiên-tử binh với hiệu kị binh Phù-đổng. Khó đấy. Đến đây hỏa đầu quân loan báo: – Tiệc rượu đã xong, xin mời nguyên soái cùng chư tướng nhập tiệc mừng Xuân. Quỳ bước ra khỏi căn lều, ngước mắt nhìn trời: Đúng là đêm ba mươi tết, màn đêm một mầu đem đặc, đến nỗi xoè bàn tay ra mà không nhìn thấy gì. Quỳ cầm cây pháo thăng-thiên châm lửa, tung lên trời. Chiếc pháo nổ đến đùng một tiếng, rối toả ra ánh sáng như ngôi sao. Lập tức các trại khác cũng đốt pháo, đánh trống, khua chiêng mừng Xuân mới. Không khí mừng Xuân, mừng chiến thắng thực là nhộn nhịp. Lại có đội quân làm được con lân, múa trước cửa trướng Quách Qùy. Nhiều sòng bạc mở ra, quân sĩ tụ nhau đỏ đen, reo hò. Quỳ cùng chư tướng nhập tiệc, người người đưa lời chúc tụng lẫn nhau. Rượu được hai tuần, Quỳ uống hết một bát lớn, rồi nói: – Hôm nay là ngày tết. Hồi nãy ta ra lệnh chuẩn bị đổ bộ sau rằm tháng giêng. Ta muốn cùng chư tướng vào Thăng-long ngày hai mươi tháng giêng, hái một cành đào, sai ngựa mang về Biện-kinh dâng hoàng thượng. Chư tướng hồ hởi vỗ tay hoan hô. Giữa cái không khí đó, Triệu Tiết hơi cau mày lại, vì y nghe đâu đó có tiếng quân reo hò, la hét ở phía Đông. Y vẫy tay cho chư tướng im lặng. Chư tướng cùng đã nghe thấy tiếng reo. Họ đưa mắt nhìn nhau. Trong căn trại có đến hơn trăm người mà không một tiếng động. Nùng Quang-Lâm nói cứng: – Chắc binh sĩ vui đùa la hét đó thôi! Lát sau, tiếng la hét lại từ phía Tây vọng lại, rồi tiếng la hét ngay doanh đóng ở bờ sông. Lần này lẫn cả tiếng trống báo động. Quỳ với các tướng bỏ tiệc rượu ra ngoài nhìn: Ba doanh Đông, Tây, Nam lửa bốc cháy ngùn ngụt. Lôi Tự-Văn chỉ về phía Phú-lương: – Kìa! Chết thật! Quân của ta ở Phú-lương có sự, lửa đang bốc cao. Lý Thật chỉ tay về phía Vạn-xuân: – Kìa, trại của ta ở phía Nham-biền cũng bốc cháy. Đến đó quân báo: – Giặc dùng thuyền đổ bộ dọc bờ sông, xung phong đánh ba doanh trung ương, Đông, Tây. Hai trại sát bờ sông bị tràn ngập. Địch đã đánh vào tới trại thứ ba. Chư quân đang ra sức chống trả. Quách Quỳ ban lệnh: – Bỏ tiệc, chư tướng đâu trở về đó. Quỳ buột miệng ban lệnh rồi, y tự biết rằng lệnh đó khó thi hành, vì đường từ Như-nguyệt đến Phú-lương, Nham-biền đâu có gần? Dù võ công cao, địch tấn công tứ phía thì liệu trong đêm tối, chư tướng có thể về tới nơi không? Tuy nhiên các tướng ở vùng Phú-lương, Nham-biền cũng lên ngựa với tùy tòng đốt đuốc ra đi. Còn các tướng tại trại Như-nguyệt thì trở về với quân. Quân báo liên tiếp: – Giặc từ sông đổ bộ lên ba doanh. Chúng rất hung hãn, lại có hổ, báo, chó sói yểm trợ. Quân ta không phòng bị, chết rất nhiều, ba dẫy trại sát bờ sông bị chọc thủng. Chúng đang đánh vào dẫy thứ tư. – Giặc cũng từ sông đổ bộ vào căn cứ Nham-biền, Phú-lương. Tại hai nơi này, mỗi nơi chúng đổ bộ làm hai cánh, đánh ép lại. Hai nơi này chạm đích rất nặng. Ta với giặc đang hỗn chiến. Quách Quỳ, Triệu Tiết lên đài cao đứng nhìn: Dưới ánh đuốc chập chờn, quân Việt như đàn hổ đói, dàn hàng ngang xung sát. Quân Tống chống không nổi, cứ lùi dần. Tại khu Tây, do Miêu Lý, Vương Tiến, Bình Viễn đã trở về trại, đang đứng đốc quân chống trả. Tại khu giữa, Diêu Tự, Nùng Thịnh-Đức, Nùng Quang-Lâm, Hoàng Kim-Mãn đã giữ vững được phòng tuyến. Tại khu Đông, Lưu Mân, Đặng Trung trở về tới nơi, thì trại bị vỡ, quân sĩ bỏ chạy tán loạn. Quân lại báo: – Giặc dùng hạm đội Thần-phù chở ba hiệu Thiên-tử binh. Chúng lợi dụng đêm tối đổ binh lên ba nơi đánh trộm. Đạo đột kích ở phía Tây là hiệu Thần-điện do tướng Triệu Thu với vợ là Phương-Liễu chỉ huy. Đạo đột kích ở giữa là hiệu Bổng-thánh do tướng Mai Cầm với vợ là Phương-Đơn chỉ huy. Đạo đột kích ở phía Đông là hiệu Hùng-lược do tướng Ngô Ức với vợ là Phương-Dược chỉ huy. Quân Tống bị bất ngờ, hỗn loạn, bốn doanh trại gần bờ sông bợ vỡ, người chết la liệt. Quân Việt đánh đến hàng thứ năm, thì quân Tống đã kịp thời chỉnh đốn hàng ngũ chống lại rất gắt. Quách Quỳ đã nhìn rõ ba tướng Việt, cùng với ba bà vợ đứng đốc chiến. Y nói với Ôn Cảo, Triệu Tiết: – Hôm trước ta tưởng trong các tướng chỉ huy Thiên-tử binh, chỉ có vợ chồng tên Đinh Hoàng-Nghi, Lý Tam là ghê gớm. Hôm nay ta mới biết đứa nào cũng thế cả. Phải làm cách gì giết đi một cặp, thì họa may chúng mới chùn nhụt. Y ra lệnh: – Báo cho Miêu Lý giữ vững mặt Tây, Đặng Trung giữ vững mặt Đông. Ta dồn chủ lực diệt vợ chồng Mai Cầm, Phương Đơn. Quân chấp lệnh đi rồi, y bảo Triệu Tiết: – Điều hai đội thiết-đột, hai đội cung thủ từ doanh Bắc về, giết cho bằng được thằng Mai Cầm với con Phương Đơn. Quân chấp lệnh đi liền. Thoáng một cái thiết đột với cung thủ tới; quân Tống ở phòng tuyến doanh giữa dạt ra, các đội thiết đột, cung thủ tiến lên trước. Một đội thiết đột, một đội cung thủ đi cánh phải; một đội thiết đột cung thủ khác đi cánh trái. Cung thủ bắn, thiết đột xung lên, tiến ra bờ sông, rồi cánh trái quay về phải, cánh phải quay về trái. Thế là hiệu Bổng-thánh bị vây ba mặt như hình chữ U, sau lưng là sông. Mai Cầm thấy thế nguy, hầu lấy tù và rúc lên một hồi, hiệu Bổng-thánh chia làm ba, cánh trước, thờ hai ngài làm thần thành hoàng. Tài liệu: Bắc-giang tỉnh thần tích. 2. Đình Châu-xuyên, Ở thôn Châu-xuyên, xã Thọ-chân, tổng Thọ-xương, phủ Lạng-giang, tỉnh Bắc-giang, nay là tỉnh Hà-Bắc, thờ hai ngài làm thần thành hoàng. Tài liệu: Bắc-giang tỉnh thần tích. 3. Đại Đương-giang thần từ, Ở phố Như-nguyệt, xã Tam-giang, huyện Yên-phong, tỉnh Hà-Bắc, chính là nơi lập chiến lũy Như-nguyệt, thời Lý. Nay là thị xã Đáp-cầu, Bắc-ninh. Thoát-hiên Đặng Minh-Khiêm có thơ vịnh như sau: Sất mã quân vương nhập thủy tần, Đệ huynh nhẫn tác sự thù nhân. Nguyệt-giang thanh dạ cao ngâm hậu, Nam-quốc càn khôn tận tảo trần. Ngạn-Xuyên dịch như sau: Ruổi ngựa nhà vua nhảy biển trầm, Anh em quyết chẳng chịu vong ân. Nguyệt-giang đêm vắng thơ vừa dứt, Trời đất Nam-bang sạch bụi trần. Tài liệu – Đại-Việt sử ký toàn thư (Lý kỷ, Nhân-tông kỷ), – Việt điện u linh, – Thiên Nam vân lục liệt truyện, – Hoàng Việt nhất thống địa dư chí, – Trương tồn thần sự tích, – Đại Việt địa chí. Hình chụp tượng thờ hai vị Đại-vương Trương Hát, Trương Hống tại thị xã Đáp-cầu, Bắc-ninh. Hình dưới là cổng đền thờ. Cổng này là cổng chung, phía trong còn thờ bà sinh mẫu của Thánh-Gióng. (Hình chụp tháng 8-2001)4. Tam-giang thần từ, Tại xã Loa-lâu, huyện Tư-nông, tỉnh Thái-nguyên, nay là tỉnh Bắc-thái. Tài liệu – Bắc thành địa dư chí, – Đại-Nam nhất thống chí. Quỳ cho Nguyễn Dư về, trầm ngâm không nói gì, mặc cho tướng sĩ bàn tán xôn xao. Tiếng người đọc Thiên-hư tiếp tục cho đến hết canh hai mới dứt. Trước khi khởi hành Nam chinh, Vương An-Thạch sai bộ Lễ cho in bộ Thiên-thư nghị chế ra hàng vạn bản, truyền phát cho tướng sĩ, để họ biết rằng vua Trung-quốc là con trời, nay Giao-chỉ đem quân phạm cảnh, triều đình mang quân đi chinh tiễu là đúng với Thiên-thư. Cho nên sách này binh tướng Tống đã đọc thuộc làu. Bây giờ nghe thần nhắc, họ mới kinh hoàng: – Thôi rồi! Hy-Ninh đế nghe lời Vương An-Thạch bắt họ Nam chinh, vượt cương giới Thiên-thư định, thì trước sau gì rồi cũng bại. Sang ngày thứ tư, các tướng Tống đem quân đi đẵn tre, đẵn nứa, đẵn gỗ, cắt dây đem về bờ sông đóng bè. Theo tế tác loan báo, thì quân Việt ở Nam ngạn được chia thành từng tốt (100 người), trấn xung quanh một ụ phòng thủ; cần đổ bộ mỗi đơn vị năm trăm người một lúc, mới đủ sức đàn áp một tốt. Vì vậy phải đóng loại bè có khả năng chở năm trăm người một lúc. Đêm đó, chư thần lại đọc Thiên-thư, lại đọc thơ. Lòng binh tướng Tống càng căng thẳng, mà Quách Quỳ cũng không biết giải quyết ra sao. Tướng Yên Đạt nghiên cứu binh thư cùng kinh nghiệm các đời về phương thức vượt sông. Y đã tìm thấy phương pháp vượt sông Độ-khẩu của Hán-trung vương Đào Kỳ thời Hán là toàn vẹn. Nay y đem ra giảng giải cho chư tướng. Đầu tiên cho thủy quân cùng trăm bè chở năm vạn quân vượt sông, ào ạt leo lên chiến lũy đánh với quân thủ. Dĩ nhiên trận đánh sẽ rất khủng khiếp.(Xin xem Anh-hùng Lĩnh-Nam, quyển 4, của Yên-tử cư-sĩ, do Nam-á Paris xuất bản). Sau khi đổ quân lên, lập tức dùng trăm bè nhanh chóng kết thành ba cái cầu nổi, các cánh quân khác nhất tề vượt cầu nổi tiếp viện cho đạo quân tiên phong; còn thủy quân dàn ra bảo vệ cầu nổi, cùng các đầu cầu. Chư tướng đem phương pháp này giảng giải rất kỹ cho binh tướng. Trong khi bảo-binh bắt tay vào việc đóng bè. Ngay ngày đầu, quân Tống đã đóng được hơn hai mươi bè. Sang ngày thứ nhì đóng được bốn mươi bè. Ngày thứ ba đóng được bốn mươi bè nữa, như thế là đủ số một trăm như Quách Quỳ muốn. Chỉ còn chờ thủy quân tới nữa là đổ bộ. Ngày mùng bẩy tháng giêng. Nguyên-soái Quách Quỳ được phúc trình rằng bè đã đóng xong, quân sĩ luyện tập cách chèo, chống, tập đổ bộ rất thuần thục. Quỳ mừng lắm, sai họp chư tướng bàn định kế hoạch chi tiết việc vượt sông phá chiến lũy Như-nguyệt. Ôn Cảo trình bầy tình hình quân Việt: – Tên Lý Thường-Kiệt quả thực tài không thua Kinh-Nam vương. Y phối trí quân rất cẩn thận. Đầu tiên là chiến lũy cao tới ba trượng, mười lớp rào. Trấn lớp rào là một hiệu Thiên-tử binh của bọn Tây-hồ thất quái, bọn này rất giỏi thủy chiến. Nếu như ta phá được mười lớp rào, đánh tan được hiệu binh trấn ở đây, tiến vào sâu một chút lạo gặp một hiệu Thiên-tử binh khác của bọn Giao-chỉ ngũ-kiêu chặn đường. Ngoài ra, y còn phối trí bốn hiệu binh, cũng do bọn Tây-hồ thất quái chỉ huy, lưu động dọc sông với hạm đội Thần-phù. Nếu như tiền quân ta vượt sông, bọn này sẽ đánh cắt ngang lưng ta. Khúc Chẩn hỏi: – Trong ba nút chặn, thì tên Thường-Kiệt phối trí các hiệu ra sao? – Đối diện với Nham-biền có hai hiệu, thì hiệu Long-dực trấn ở chiến lũy trên bờ sông; hiệu Đằng-hải trấn phía sau. Đối diện với Phú-lương có hai hiệu, thì hiệu Vũ-thắng trấn ở chiến lũy trên bờ sông, hiệu Bổng-nhật trấn phía sau. Đối diện với Như-nguyệt có bốn hiệu. Hai hiệu Bổng-thánh, Bảo-thắng trấn ở chiến lũy trên bờ sông; Ngự-long, Quảng-thánh, Phù-đổng trấn ở dọc đường về Thăng-long. Còn lưu động có ba hiệu Hùnglược, Vạn-tiệp, Thần-điện. Khi Ôn Cảo nhắc đến tên ba hiệu Thần-đic vẫn đánh thẳng vào trung ương; cánh phải, trái quay lưng lại nhau chống với thiết đột, và cung thủ. Thoáng một cái, quân thiết đột với quân Bổng-thánh lẫn vào nhau, thành ra đội cung thủ Tống hóa ra vô dụng. Quách Quỳ nghiến răng dậm chân: – Thần diệu! Sao trên đời lại có đội quân tinh nhuệ, can trường thế kia? Chúng đổi trận thế quá nhanh, quân ta bì thế nào được! Đội cung thủ của ta hóa vô dụng mất rồi. Triệu Tiết ra lệnh cho đám hàng tướng đem quân khê động tiếp viện quân Tống: – Nùng Thịnh-Đức đánh vào bên phải, Nùng Quang-Lâm đánh vào bên trái, Hoàng Kim-Mãn đánh vào giữa. Đám hàng binh được tung vào trận, nhưng hiệu binh Bổng-thánh vẫn không nao núng, người người sát cánh xung sát... đao vung, giáo đâm tiến về trước lên. Đám hàng binh bị giết chết, ngã lổng chổng. Đứa còn sống thì bật lui trở lại. Thịnh Đức thấy một nữ tướng rất xinh đẹp mặc quần áo trắng đang xung sát ở hàng đầu, y vung đao lên chém ngang vào lưng đối thủ. Nữ tướng cười nhạt, chuyển tay một cái đã bắt được đao Thịnh-Đức, tay kia đưa một nhát kiếm, đầu y rơi xuống đất. Trong khi cánh bên trái, Nùng Quang-Lâm đang đấu với một thiếu niên mặc quần áo trắng. Sau mười hiệp, y cứ phải lùi dần. Trong ánh đuốc chập chờn, y nhận ra tướng đó là Hùng Nghĩa. Y bật lên tiếng kêu: – Hùng Nghĩa! Quang-Lâm đây! Xin dung tình! Hùng Nghĩa quát lên: – Ta không thể tha thứ cho bọn cõng rắn cắn gà nhà. Coi đây! Choang một tiếng cây đoản thương trên tay của y chạm vào kiếm Hùng Nghĩa, bị bay vọt lên cao. Y còn đang bàng hoàng, thì đầu đã bay khỏi cổ. Phương Đơn đứng đốc chiến reo lên: – Anh Hùng Nghĩa, chị Âu Thanh, mau quay lại giết tên phản bội Hoàng Kim-Mãn. Hoàng Kim-Mãn đang chiến đấu ở cánh giữa, y giết được hai Thiên-tử binh, làm phòng tuyến Việt bị hở một quãng. Thình lình một bóng trắng từ trên cao như con đại bàng chụp xuống đầu y. Y vung đôi song kiếm lên đâm vào bóng đó. Choang một tiếng, đôi song kiếm của y bật tung trở lại, hai cánh tay y tê rần. Bóng trắng đã đứng trước mặt y. Y nhận ra đó là Âu Thanh. Âu Thanh đưa kiếm vào cổ y. Y cười nhạt vung song kiếm tấn công. Đấu được mười chiêu, kiếm bị văng mất, Kim-Mãn kinh hoàng vội phát chưởng đánh Âu Thanh. Âu Thanh cười nhạt, vận đủ mười thành công lực đánh liền ba chưởng. Kim-Mãn đỡ được đến chiêu thứ nhì, thì người y như say rượu, lắc lư đứng không vững. Âu Thanh đánh tiếp chiêu thứ ba, y đưa cả hai tay đỡ, nhưng mặt y tím bầm, máu ứa ra hai mắt, hai mũi, hai tai và miệng, rồi ngã xuống. Ôn Cảo hỏi Quách Quỳ, Triệu Tiết: – Nguyên soái, võ công gì mà khủng khiếp vậy? Quách Quỳ đáp, mà cảm thấy lạnh gáy: – Chiêu số thì là chiêu số Sài-sơn, còn nội công thì là Cổ-loa tâm pháp, do Trần Tự-An, cha đẻ Kinh-Nam vương chế ra. Ai trúng phải, thì toàn bộ mạch máu trong người vỡ ra mà chết. Đến đây thì quân thiết đột đã chặn được bước tiến của hiệu Bổng-thánh. Một bên là đội thiết đột rất thiện chiến, một bên là Thiên-tử binh rất tinh nhuệ cùng đem hết sức tranh thắng. Đao, kiếm chạm nhau chan chát. Quách Quỳ bảo Triệu Tiết: – Ta tấn công thằng Mai Cầm, huynh tấn công con vợ nó. Có như vậy mới mong diệt đươc hiệu Bổng-thánh này. Quỳ, Tiết tung mình xuống đài, chỉ nhấp nhô mấy cái, hai người đã tới phòng tuyến. Quỳ vọt mình qua đầu quân thiết đột. Ở trên cao, y phóng chưởng tấn công Mai Cầm. Chưởng của y mạnh đến nghiêng trời lệch đất. Mai Cầm kinh hãi; biết rằng nếu mình đỡ, thì sẽ tan thây nát thịt ra mà chết, hầu vội lăn mình xuống đất tránh khỏi. Rầm một tiếng, chỗ hầu đứng thủng một hố sâu. Quách Quỳ chuyển tay phát chiêu thứ nhì hướng Mai Cầm. Hùng Nghĩa vội phát chiêu tấn công Quách Quỳ cứu bạn. Hai chưởng gặp nhau, bình, binh hai tiếng, Hùng Nghĩa bật tung về sau ba bước, ông ọe một tiếng rồi miệng phun ra một búng máu. Lý Lục, Mai Lục đem một toán Thiên-tử binh cùng vung đao tấn công Quách Quỳ. Quỳ khinh thường, y tung một chưởng vào Lý Lục. Lý Lục nghiến răng phát một chiêu Thiên-vương chưởng đỡ. Binh một tiếng, ông cảm thấy như trời long đất lở, người lảo đảo muốn ngã. Mai Lục xả một kiếm vào Quách Quỳ, để cứu chồng. Sau khi đối một chưởng với Lý Lục, cánh tay Quách Quỳ cảm thấy tê rần, y định đánh một chiêu nữa kết thúc tính mệnh ông, thì chiêu kiếm của Mai Lục đã tới. Y nhảy lùi về sau tránh. Bên cạnh Quách Quỳ, Triệu Tiết đã đẩy lui Âu Thanh bằng hai chưởng. Âu Thanh lảo đảo muốn ngã. Bà kêu lớn: – Kim-cương đệ thất đâu? Vợ chồng Lý Thất đang mải chiến đấu, nghe tiếng sư tỷ kêu, cả hai vội quay lại xả kiếm tấn công Triệu Tiết. Hàng ngũ hiệu Bổng-thánh không người điều động bắt đầu rối loạn. Giữa lúc đó, từ dưới sông có tiếng cọp gầm, beo rống, rồi hơn trăm con cọp, hơn trăm con beo với đội cung thủ Long-biên dàn lẫn với nhau; cứ một người, một thú, tiến lên. Đội binh được dẫn đầu bởi hai cặp nam nữ tướng rất trẻ, võ công cực cao, cứ mỗi chiêu đánh ra, là một thiết đột mất mạng. Cung thủ nạp tên bắn vun vút, đội thú tiến theo, lăn xả vào hông hai cánh thiết đột. Sau hai loạt tên, hàng ngũ thiết-đột bị đứt làm hai ba quãng. Quân thiết đột lại phải bỏ quân Bổng-thánh dàn hàng chống với hổ, báo, tiễn thủ. Quách Quỳ định đánh một chưởng nữa kết liễu tính mệnh vợ chồng Lý Lục, thì y cảm thấy như có ai đánh trộm phía sau. Kinh hãi y tung mình lên cao, từ trên cao y đánh xuống một chưởng. Hai chưởng gặp nhau đến binh một tiếng, cánh tay y tê rần, còn người kia bị bật lui liền ba bước. Quỳ nhìn lại xem ai, mà đủ có công lực đỡ được chưởng của y. Trước mặt y, một trung niên nam tử, thân thể hùng vĩ, khôi ngô, dáng diệu ung dung nhàn nhã. Liếc nhìn bên cạnh, Quỳ thấy Tiết đang đối chiêu với một trung niên nam tử khác. Rồi ngày mười, mười một, mười hai rồi... mười sáu cũng chưa thấy chu sư tới, đêm chư thần vẫn đọc Thiên-thư, đọc thơ. Trong khi đó, trong hành doanh, Quách Qùy, Triệu Tiết, Đào Bật còn nóng lòng hơn. Trước đây hơn tháng, chỉ dụ từ Khu-mật viện ở Biện-kinh ban ra, hẹn chắc rằng chu sư do đô đốc Dương Tùng-Tiên, phó đô đốc Hòa Mân sẽ vận tải lương thảo từ Khâm-châu tiếp tế; chậm nhất là ngày mười rằm sẽ tới sông Cầu. Mà bây giờ đã là ngày mười sáu, lương thì sắp cạn, quân thì chờ đợi lâu sinh chán nản, mệt mỏi, mà chẳng thấy thủy quân đâu. Quách Quỳ triệu tập chư tướng, rồi đưa ra hai phương thức giải quyết: Một là chờ thủy quân rồi mới vượt sông. Hai là vượt sông ngay. Các tướng bàn luận phân vân. Kẻ thì bàn nên sang sông ngay, vì khi đã sang được sông, xuống khu đồng bằng phì nhiêu, thóc gạo dư thừa; trâu bò, gà vịt ăn không bao giờ hết. Ngoài ra còn giải quyết được vấn đề dân phu. Lại có người bàn không nên qua bây giờ, mà phải chờ chu sư tới, họ viện lẽ: Nếu như đổ bộ không thành, quân chết nhiều mà chẳng nên cơm cháo gì. Bấy giờ giặc thừa cơ đuổi theo, thì thực là nguy. Cuối cùng Quỳ quyết định trung dung: – Chờ hai ngày nữa, dù chu sư tới hay không cũng đổ bộ. Ngày mười bẩy trôi qua, lòng Quách Quỳ nóng như lửa đốt, y cho tế tác lên đài cao, nhìn về hướng Đông chờ đợi. Chờ suốt ngày, vẫn chỉ thấy sông rộng, có Xuân xanh rì, hàng đoàn chim đo cánh ngang trời. Ngày 18 tháng giêng. Ngày mười tám dài lê thê qua đi... Không chờ được nữa, Quỳ cho họp chư tướng tại hành doanh. Chư tướng đều biết rằng giờ trọng đại nhất đời họ đã tới. Vì tất cả hy vọng của Hy-Ninh đế, tất cả lương tiền đổ ra bấy lâu, tất cả công lao trăm vạn người thành hay bại là lúc này đây.Nếu qua sông thành công, thì chiếm được Đại-Việt, rồi thuận thế chiếm luôn Chiêm, Chân, Lào, Xiêm, Đại-lý; thế lực Tống sẽ trấn động, Tây-Hạ, Bắc-Liêu không còn dám gây sự nữa. Các tướng kẻ ít công nhất cũng được thăng quan, người có công sẽ được phong hầu, tên ghi thanh sử, ấm mồ mả tổ tiên, vinh dự ở triều đình. Còn như bại, thì cuộc viễn chinh này hóa ra một tuồng ảo mộng, triều đình sẽ chém đầu đem bêu cho dân chúng xem, gia đình họ hàng nhục nhã không biết đâu mà kể. Còn giang sơn Đại-Tống, phải chịu nhục nhã với man di đã đành, mà e còn khó giữ nổi. Quách Quỳ ban lệnh: – Sáng mai, giờ Thìn bắt đầu qua sông. Các tướng ngồi im phăng phắc. Quỳ gọi bốn tướng Yên Đạt, Khúc Chẩn, Tu Kỷ, Đào Bật: – Tôi nhắc lại, quân ở Phú-lương của Yên, Khúc tướng quân; quân ở Nham-biền của Tu, Đào tướng quân; chỉ đánh cầm chừng, mục đích giữ chân giặc không cứu ứng Như-nguyệt mà thôi. Sau khi cánh Như-nguyệt đổ bộ thành công, ắt bọn Hoàng Kiện, Lý Chiêu-Văn sẽ bỏ phòng tuyến rút về cứu Thăng-long. Bấy giờ bằng mọi giá các vị phải vượt sông đuổi theo chúng đánh tiêu diệt, không để chúng về an toàn. Bốn tướng nhận lệnh. Tại Như-nguyệt, ta đổ bộ bằng ba cánh. Giữa, tả, hữu. Quỳ gọi Miêu Lý, Vương Tiến: – Hai vị đổ bộ cánh giữa, làm nỗ lực chính. Miêu tướng quân đem ba đạo binh đệ tứ, ngũ, lục dùng bè qua sông; Vương tướng quân dùng một chỉ huy Tân-đằng-hải (nhắc lại môt chỉ huy có 500 quân) chèo bè, kết bè thành phù kiều. Sau đó cho đổ bộ chín chỉ huy Tân-đằng-hải khác vượt phù kiều tiếp viện cho Miêu tướng quân. Bằng mọi giá, hai tướng quân phải phá bằng được bức tường phòng thủ. Khi lọt được vào trong, thì tiến thẳng về Thăng-long. Hai tướng nhận lệnh. Quỳ gọi Diêu Tự, Bình Viễn: – Hai vị đổ bộ cánh tả. Diêu tướng quân đem ba đạo binh đệ thất, bát, cửu đổ bộ cánh tả, làm nỗ lực phụ, dùng bè qua sông; Bình tướng quân dùng một chỉ huy tân-đằng-hải, chèo bè, kết bè làm phù kiều. Sau đó đổ bộ mười bốn chỉ huy tân-đằng-hải tiếp viện cho Diêu tướng quân. Bất cứ giá nào hai tướng quân cũng phải chọc thủng chiến lũy Như-nguyệt, rồi tiến sau đạo trung ương của Miêu, Vương tướng quân. Hai tướng nhận lệnh. Quỳ gọi Đặng Trung, Lưu Mân: – Hai vị đổ bộ cánh hữu. Đặng tướng quân đem theo ba đạo binh đệ thập, thập nhất, thập nhị, làm nỗ lực phụ thứ nhì dùng bè qua sông; Lưu tướng quân dùng một chỉ huy Tân-đằng-hải chèo bè, kết bè làm phù kiều. Sau đó đổ bộ mười chín tân-đằng-hải tiếp viện cho Diêu tướng quân. Dù khó khăn, dù phải hy sinh tính mệnh binh sĩ, hai tướng quân cũng phải phá bằng được chiến lũy, rồi tiến sau cánh của Diêu, Bình tướng quân. Quỳ nói với Triệu Tiết, Ôn Cảo: – Khi quân bắt đầu xuống bè, các vị cho nhổ trại, để sang sông thực mau. Nội chiều mai, chúng ta phải tới Thăng-long. Cuối cùng Quỳ gọi hai tướng kị binh là Trương Thế-Cự, Vương Mẫn: – Bên kia sông là đồng bằng, kị binh sẽ có chỗ đắc dụng. Ngay khi các đạo quân bắt đầu qua sông, hai tướng cho kị binh tiến tới gần phù kiều. Đợi khi chiến lũy phá rồi, Trương tướng quân đem một đạo kị binh phá vòng đai phòng thủ thứ nhì phục trên đường Như-nguyệt đi Thăng-long. Còn Vương tướng quân đem hai đạo ẩn ở chân núi Nham-biền phòng bọn Trung-Thành vương đánh hậu cứ ta. Quỳ nói với chư tướng: – Từ xưa đến giờ, võ học Giao-chỉ lúc nào cũng thịnh hơn chúng ta. Ngược lại dân ta đông hơn. Cho nên trong bất cứ trận đánh lớn nhỏ, ta cũng dùng cái ưu điểm nhiều người, đem quân số đông đảo tràn ngập đối phương. Ngược lại bọn Giao-chỉ lại dùng những cao thủ bậc nhất tung ra chiến trường để giết tướng của ta. Thế nhưng trong cuộc hành quân xâm phạm Thiên-quốc, cũng như cuộc chiến một mất, một còn này, tên hoạn quan Thường-Kiệt lại bỏ quên cái ưu điểm của mình. Y chỉ biết tận dụng mấy đội quân tinh nhuệ mà thôi. Giả như trận đánh Ngọc-sơn, nếu y dùng mấy cao thủ hạng nhất trấn thủ, thì dễ gì ta thành công? Chư tướng đều gật đầu công nhận lý luận của Quách Quỳ. Quỳ tiếp: – Xét trong quân của y hiện thời, mười hai tướng chỉ huy Thiên-tử binh đều là những tên nhóc con, võ công bình thường, xuất thân lưu manh, chỉ biết liều chết. Về kị binh, Vũ-kị thượng tướng quân Hà Mai-Việt võ công càng tầm thường hơn nữa. Nực cười nhất là thủy quân, y dùng tên Nho sinh mặt trắng trói gà không chặt Lý Kế-Nguyên làm Đại Đô-đốc, còn bốn đô đốc, tuy võ công cũng cao, nhưng chưa phải là hạng nhất. Cao thủ hạng nhất chỉ có Thân Cảnh-Long, Thiên-Thành, Trần Thanh-Nguyên, nhưng hiện cả ba đang phiêu bạt trong rừng, coi như vô dụng. Đối diện với chúng ta, chỉ có mình y là đáng kể, thì y phải trấn Thăng-long. Quanh đi, quẩn lại y chỉ còn Thần-vũ thập anh, Kim-cương thập bát hùng. Nhưng hai mươi tám tên này chưa phải là loại thượng thừa. So sánh về võ công, bất cứ tướng nào của ta cũng có thể đàn áp tướng của chúng. Vậy khi đối trận, hoặc chư tướng đích thân, hoặc dùng cao thủ giết tướng của chúng. Khi tướng bị giết, thì quân loạn, ta thắng dễ dàng. Ôn Cảo hỏi: – Thưa nguyên soái, xét về cao thủ thượng thừa, ở đây chúng tôi thấy ngoài nguyên soái ra còn có Triệu Tiết, Tu Kỷ, Yên Đạt, Khúc Chẩn, Miêu Lý, Diêu Tự, Trương Thế Cự; còn lại thì hạng nhất khoảng mươi người. Tất cả các cao thủ thượng thừa, hạng nhất đều là tướng cầm quân, lúc xung trận phải điều quân, thì sao có thể rảnh tay đàn áp tướng giặc? Quách Qùy cười đắc chí: – Chính vì lẽ đó, khi quân lên đường, hoàng thượng còn lưu tôi lại họp ở Thiên-chương các với các chưởng môn phái Thiếu-lâm, Hoa-sơn, Trường-bạch, Liêu-Đông, bàn về việc đem cao thủ theo trong quân. Thế nhưng, từ hôm vượt biên sang đến giờ, tôi không cho họ xuất hiện; hơn nữa để cho Thần-vũ thập anh tung hoành, hầu đánh lừa tên Thường-Kiệt. Thấy Khúc Chẩn nhăn mặt tỏ ý không phục, Quách Quỳ xua tay: – Huynh không bằng lòng phải không? Nếu như chúng ta tung cao thủ ra lúc đầu, giết tướng Giao-chỉ như giết chó, giết mèo, thì thỏa được tự ái. Nhưng giữa tự ái với đại cuộc, thì ta phải chọn đại cuộc. Huynh biết không, trong buổi hội ở Thiên-chương các, Tể-tướng Vương An-Tạch đưa ra lý luận này: Các cao thủ siêu hạng của Giao-chỉ hiện phải kể Côi-sơn tam anh Phụ-Quốc, Bảo-Dân, Trung-Đạo; Bình Dương, Thiệu Thái, Lê Văn, Mộc-tồn, Viên-Chiếu, Minh-Không, Đạo Hạnh, Bảo-Hòa, và vợ Lý Long-Bồ là Thamh-Mai. Nhưng bọn này hiện hạc nội mây ngàn, mà tên hoạn quan Thường Kiệt quên tận dụng. Vậy khi đem quân sang, ta mang thực nhiều cao thủ thượng thừa, nhưng ém đi làm như không có; rồi thình lình tung vào trận chiến nào quyết định mất còn, khiến chúng trở tay không kịp. Tu Kỷ hỏi: – Thưa nguyên soái, hiện trong quân ta có bao nhiêu cao thủ thượng thừa? – Thứ nhất là phái Thiếu-lâm. Trước đây Lê Văn đã sát hại thái sư phụ của ta là chưởng môn Minh-Đức đại sư. Cái hận đó toàn thể đệ tử không bao giờ quên. Trong trận này, đích thân thủ tọa Đạt-ma đường Pháp-Tuệ dẫn mười cao thủ chữ Pháp đi theo, trong đó có một vị đã để trọn đời ra nghiên cứu cách phá võ công Sài-sơn để giết tên Lê Văn. Yên Đạt hỏi: – Có một điều tôi lấy làm lạ là đại sư Pháp-Nhẫn, thủ tọa La-hán đường, trước đây đã cùng với vua Anh-tông sang Đại-Việt quan sát tình hình. Không hiểu sao nay người lại chống đối cuộc viễn chinh này, rồi lại theo Giao-chỉ? Quách Quỳ xua tay: – Đô tổng quản lầm rồi. Đại sư Pháp-Nhẫn đã ngộ đạo, người không muốn cho bất cứ chúng sinh nào đau khổ, chứ đừng nói người Hoa, người Việt giết nhau. Trong cuộc Nam du với vua Anh-tông, duyên may người gặp Kinh-Nam vương, rồi kết huynh đệ. Trong cuộc xâm lăng của Giao-chỉ, chính người đã xuất hiện, chịu một chưởng của Mộc-tồn hòa thượng suýt mất mạng, để cứu tướng của ta. Trong trận Ung-châu, người xin tên Lý Thường-Kiệt tha cho dân trong thành, rồi nhập thành khuyên Tô Giàm để dân rời xa trận địa. Người cũng như Kinh-Nam vương, không muốn có chiến tranh Hoa-Việt mà thôi. Chứ người không phản đâu. Tướng quân đừng nói bậy, e Ưng-sơn song hiệp nghe thấy thì e mất chỗ đội nón. Nghe nói đến Ưng-sơn song hiệp, chư tướng đều cảm thấy ớn lạnh. Bất giác họ quay lại sau, nhìn phải, nhìn trái, tưởng tưởng như người của song hiệp đang rình mò đâu đây. Quỳ tiếp: – Thứ nhì là phái Hoa-sơn. Trước đây trong Hoa-sơn ngũ lão, Thất-kiệt thì bốn lão với toàn thể thất kiệt bị chết về tay võ lâm Giao-chỉ. Duy Đông-Sơn lão nhân ẩn thân, nghiên cứu cách phá Long-biên kiếm pháp, nên sống sót. Hơn hai chục năm nay, toàn phái để tang, ngày đêm luyện tập để chờ ngày trả thù. Phái này cử bốn trưởng lão kiếm pháp cao thâm không biết đâu mà lường theo trong quân. Bốn vị này đã họ được phép phá Long-biên kiếm pháp, như vậy ta không sợ võ công Mê-linh nữa. Chư tướng vỗ tay hoan hô. – Phái Trường-bạch sở trường về Ngũ-độc, lại nhân trước đây trao đổi võ công với bọn Đinh Kiếm-Thương, Lê Phúc-Huynh, Vũ Chương-Hào mà học được Nhật-hồ độc chưởng. Phái Liêu-Đông sở trường về Huyền-âm độc tố. Từ lâu rồi, đệ tử hai phái này này bị triều đình truy lùng, các đệ tử phải lẩn trốn khổ sở. Nay triều đình ban mật chỉ ân xá cho họ, vì vậy Trường-bạch song hùng, Liêu-Đông tam kiệt võ công cao siêu không biết đâu mà lường; tất cả đều theo trong quân. Quỳ nhìn Triệu Tiết ra vẻ đắc ý: – Ngoài ra, trước đây bất cứ võ lâm dù hắc đạo, bạch đạo, khi phạm tội, mà trốn ra Tây-thùy xin tòng quân diệt giặc, đều được Kinh-Nam vương ân xá. Họ được đặt dưới quyền của Vũ-kị đại tướng quân Trương Thế-Cự. Đám này ước hơn nghìn người, nay cũng được đem theo. Y nắm tay đấm lên bàn: – Trận Như-nguyệt, Phú-lương, Vạn-Xuân này cũng chưa phải là trận quyết định, vì vậy tôi vẫn ém họ trong quân. Bằng như nay tôi đưa họ ra trận, tên Thường-Kiệt biết ngay, y sẽ tung chim ưng đi mời các cao thủ thượng thừa Giao-chỉ tới thì thực là nguy vô cùng. Quỳ nói với Triệu Tiết: – Tại Như-nguyệt, huynh thống lĩnh các đội võ sĩ hắc đạo được ân xá, tung vào trận. Dĩ nhiên chúng sẽ bị giết rất nhiều. Nhưng đó là điều hoàng thượng mong: Mượn tay giặc giết dùm bọn du thủ du thực, còn hơn ta giết chúng. Huynh nhớ, lúc phù kiều bắc xong, huynh dẫn chúng tràn qua, dùng võ công gạt tên, cố sao lọt vào trong chiến lũy, rồi đánh tỏa ra hai bên, mở đường cho thiết đột theo. Đợi thiết đột vào rồi, huynh mới dùng tên Ngyễn Dư để làm rối loạn hàng ngũ giặc. Cuộc họp vừa bế mạc, thì đội trưởng tế tác vào báo: – Thưa nguyên soái, thân quyến tử sĩ đang ùn ùn vượt Chi-lăng đến chỗ nghĩa địa đòi đào mồ lên tìm xác con em họ. Binh canh không cho, họ đánh luôn binh canh. Hiện họ đang đào xới. Quỳ hoảng hốt: – Họ đi có đông không? – Thưa đông lắm lắm, ít nhất là hai ba chục vạn. Quách Quỳ hỏi Triệu Tiết: – Làm sao bây giờ? – Khó lắm. Triệu Tiết trả lời: Luật của bản triều đặt ra từ thời vua Thái-tông là khi chiến sĩ tử trận, thì bằng mọi giá phải đem xác về nguyên quán trao cho người thân. Các quan địa phương chiếu luật lệ mà phủ tuất. Nay nguyên soái tạm chôn ở đây, đã là điều vi chỉ rồi. Không biết bằng cach nào đó, mà gia đình tử sĩ biết, nay họ sang đây tìm xác người thân, thì ta phải giúp đỡ họ. – Nhưng, tử sĩ chết cho đến nay đã mười tám ngày, tử thi chương, thịt bắt đầu rữa, mà đào lên thì hôi thối không thể chịu được. Bệnh dịch từ đó sinh ra, e quân sĩ chết hết. Ôn Cảo thở dài: – Cũng đành vậy chứ biết làm sao bây giờ? Triệu Tiết thêm vào: – Bọn Giao-chỉ rút đi, đã tận thu hết lương thực. Lương thực cho quân ta còn đang thiếu thốn, mà nay với mấy chục vạn người đổ xuống vùng này thì lấy đâu ra lương cho họ ăn? Lát sau, quân lại báo: – Tại vùng Phú-lương, gia đình tử sĩ cũng biết đi theo đường thượng đạo tới đào mả để tìm xác con em. Tướng Khúc Chẩn cũng đành nhắm mắt để họ muốn làm gì thì làm. Miêu Lý cau mày: – Tôi nghĩ vụ này nhất định có bàn tay của tế tác Giao-chỉ, chứ sao thân nhân tử sĩ ở những nơi cách nhau hàng vạn dặm, mà cũng ồ ạt tới một lúc!!! Tại chiến lũy Như-nguyệt, Đại-Việt. Ngày 19 tháng giêng, mùa Xuân, niên hiệu Anh-vũ Chiêu-thắng thứ nhì đời vua Lý Nhân-tông bên Đại-Việt, bên Trung-nguyên nhằm niên hiệu Hy-Ninh thứ mười đời vua Thần-tông nhà Tống (Đinh-Tỵ, DL.1077). Đúng giờ Thìn. Ba tiếng pháo lệnh nổ trên không. Các đạo binh triều thiện chiến bậc nhất, từng thắng Tây-Hạ, Bắc-Liêu biết bao nhiêu trận, ào ạt xuống những chiếc bè khổng lồ. Người người tay mang vũ khí mắt đăm đăm nhìn sang bên kia sông: Chiến lũy cao vòi vọi, rào tre dầy đặc kiên cố. Trên đài cao ở đỉnh chiến lũy, hai cây cờ mầu vàng, một cây có hình chim âu mầu đen, đó là kỳ hiệu của hiệu Bổng-thánh; một cây có hình chim âu mầu xanh, đó là kỳ hiệu của hiệu Bảo-thắng. Bè từ từ rời bến tiến dần ra giữa sông, rồi áp sang Nam ngạn. Hàng chục vạn con mắt đều đăm đăm nhìn lên chiến lũy. Hàng vạn cung thủ, tên nạp cung chờ đợi, để hễ thấy quân Việt nhô lên là buông tên. Hàng trăm vạn người hồi hộp, khi bè tiến gần đến Nam ngạn, vẫn không thấy bóng quân Việt đâu, chỉ thấy trên trời mười đoàn chim ưng bay lượn. Thình lình những tiếng rú kinh hồn, xé gió trên không, rồi Lôi-tiễn bắn thẳng vào những bè chở quân. Mỗi mũi Lôi-tiễn trúng giữa bè phát nổ inh tai nhức óc, thì tiếp theo hàng trăm người bay tung xuống sông, thịt nát xương tan. Lẫn trong tiếng Lôi-tiễn là tiếng thét, tiếng la, tiếng rú, tiếng kêu của những kẻ đau đớn cùng cực. Lôi tiễn bắn, mặc Lôi-tiễn bắn, trống lệnh vẫn thúc ; binh chống, chèo bè vẫn cứ đẩy bè sang sông. Cũng có loại Lôi-tiễn nổ chụp lên đầu những đội quân Tống, khói bốc mịt mờ, tiếng la hét kinh hoàng, tiếng rú tuyệt vọng vì bè đang trôi giữa sông, người người đứng sát vào nhau, không tránh vào đâu được; đành ngửa cổ chịu cho Lôi-tiễn rơi xuống đầu. Mã não, hoàng thạch phát nổ, bốc cháy. Hơn chục bè, quân sĩ cháy như những cây đuốc, chúng định nhảy xuống sông, nhưng những viên đội trưởng tay lăm lăm bảo đao chờ đợi kẻ nào nhảy xuống là chém liền. Đoàn chim ưng tha những bó cỏ tẩm dầu thả xuống những bè đang bốc cháy. Binh tướng Tống kêu thét lên kinh khủng. Một vài người bị cháy nóng quá, tung mình nhảy xuống nước, lập tức bị các đội trưởng chém liền. Bè đã tới sát Nam ngạn, đi vào chỗ nông, quân sĩ nhảy xuống sông bơi lóp ngóp tiến tới hàng rào, tay bám vào các cọc ngửa cổ nhìn, để tìm chỗ leo lên. Trên bè chỉ còn lại những người chết cháy, da vàng như lợn quay, nằm co quắp. Bấy giờ trên chiến lũy vang lên một hồi tù và. Quân Việt xuất hiện, dùng tên, dùng Lôi-tiễn bắn trực xạ như mưa. Chim ưng nhào xuống mổ mắt, cấu mặt. Thảm thay, quân Tống chơi vơi dưới sông, nước ngập tới ngang vai, không chỗ tránh né, chỉ còn biết nhắm mắt chờ chết. Quân Việt từ trên chiến lũy dùng lao phóng xuống, mỗi mũi, một quân Tống bị giết. Nhưng tướng Tống vẫn ra lệnh leo rào. Lớp này chết, lớp khác tiếp nối. Miêu Lý là một trong những tướng tài trí, võ công cao thâm, y ra lệnh cho ba tướng chỉ huy ba đạo binh, tung đội thiết đột lăn xả vào chặt rào. Thoáng một cái, đã chặt được ba bốn lớp rào. Có chỗ đặt chân, quân sĩ reo hò leo lên, nhưng lại bị bắn ngã lộn xuống. Việt bắn mặc Việt bắn, Việt phóng lao mặc Việt phóng lao, Việt dùng giáo dài đâm mặc Việt đâm; người này chết, người khác tiến theo. Hơn khắc sau, quân Tống đã đứng ở lớp rào thứ ba. Quân trên chiến lũy vẫn dùng tên bắn xuống, quân Tống ra sức chém rào, lớp lớp bị bắn ngã xuống sông như sung rụng. Người này ngã, người khác tiếp tục leo lên. Phút chốc xác chết lấp đầy hai lớp rào. Lớp người sau dẵm lên xác chết người trước, tiến lên lớp thứ tư. Miêu Lý hô lớn: – Chư quân tiến lên! Một là chiếm được chiến lũy, hai là chết; còn hơn chết ở dưới bờ sông này. Quân Tống ào ạt tiến lên lớp thứ năm, lớp này bị bắn ngã, lớp khác nối tiếp như đàn kiến. Đến đây, các bè đã nối thành phù kiều. Quân Tống từ bên kia sông lại ùn ùn kéo sang. Cứ thế, trên bắn xuống, dưới liều chết leo lên. Sang giờ Tỵ thì quân Việt cạn tên, quân Tống nhờ đó phá được lớp rào thứ bẩy. Xác chết nằm xếp lên nhau lớp lớp bên ngoài. Tại các phù kiều, quân, tướng ùn lại, không còn chỗ đứng. Đến đây xác quân Tống trôi lềnh bềnh trên mặt sông, nằm kín các lớp rào, các đợt quân sau không còn chỗ leo lên nữa. Quách Quỳ ra lệnh cho các tướng: – Mỗi người đem theo đội võ sĩ vượt lên chiến-lũy đánh dạt quân phòng thủ, như vậy may ra mới có thể thành công. Đám tướng Tống chia làm ba toán, mỗi toán ba trăm võ sĩ. Toán thứ nhất gồm Quách Quỳ, Triệu Tiết, Ôn Cảo với năm nhà sư chữ Pháp; toán thứ nhì gồm Miêu Lý, Diêu Tự, Vương Tiến đem năm nhà sư chữ Pháp nữa; toán thứ ba gồm Lưu Mân, Đặng Trung, Bình Viễn đem Hoa-sơn tứ lão. Sau một tiếng hô cả ba toán tung mình nhảy qua mấy lớp rào, lên nóc chiến lũy. Lập tức một tiếng tù và rúc lên, quân Việt đều nằm rạp xuống, rồi Thần-nỏ tác xạ. Bọn tướng Tống, bọn cao thủ kinh hãi tay rút kiếm gạt tên, nhưng vừa gạt được loạt đầu, thì loạt thứ nhì đã bắn tới. Đám võ sĩ tháp tùng ngã như sung rụng. Quách Quỳ kinh hãi vội tung người lên cao, trong lúc y chơi vơi trên không thì hơn chục chim ưng lao tới cào mặt, móc mắt y. Y vội ôm lấy đầu, thì một nhà sư đứng ở bờ chiến lũy tung vào người y một chưởng. Không hổ là đệ nhất cao thủ Tống, y vung tay đỡ. Binh một tiếng người y bắn ra ngoài chiến lũy, rơi xuống sông như trái mít rụng. Y nhìn lại, thì bọn Triệu Tiết, với các cao thủ cũng đang bơi lõm bõm trên sông như chó ngã xuống cầu. Chín tướng cùng leo lên một bè. Vương Tiến văng tục: – Tổ bà nó, trong chiến lũy có bốn thằng trọc non, võ công thua xa bọn mình, nhưng nhờ chúng phối hợp Thần-nỏ, Thần-ưng nhịp nhàng mà bọn mình ra thế này. Triệu Tiết nhắc các bạn: – Các huynh phải cẩn thận, 12 tướng chỉ huy Thiên-tử binh võ công bình thường, nhưng tài điều binh của chúng thực thần sầu quỷ khốc. Tôi để ý quan sát, cứ hai mươi Thiên-tử binh lại xen vào một thằng nhóc hoặc một con đượi non mặc quần áo nâu, võ công chúng khá cao. Không biết chúng là ai? Nguyễn Dư giảng giải: – Đó là đội võ sĩ học sinh trường Long-thành ẩn-sĩ. Về quân sự, chúng rất dở, nhưng võ công chúng rất cao, lại liều mạng, hung dữ hơn cọp đói. Đến đây quân Tống đã phá được đến lớp rào thứ chín, thứ mười. Bọn Quách Quỳ lại điểm thêm võ sĩ, rồi tung mình lên, nhảy vào trong chiến lũy. Ba tiếng tù và rúc lên inh tai, nhức óc, một thiếu phụ quần áo đen tay cầm cờ chỉ huy Thần-ưng nhào xuống tấn công. Các tướng Tống nhận ra đó là Âu Huyền. Chín tướng cùng vội rút kiếm đánh dạt chim ưng ra, thì Thần-nỏ lại bắn là là tới. Các tướng phải nằm rạp trên đất tránh tên, rồi tung người lên, thì chim ưng đã bay đi mất, một đàn ong nhào xuống. Không đề phòng, các tướng Tống đều bị ong bu lại đốt. Nhức nhối chịu không nổi cả mười tướng nhắm mắt nghiến răng múa tít vũ khí bảo vệ thân. Đến đây, quân Tống đã lọt được vào trong chiến lũy. Quân Việt vẫn bình tĩnh tiếp tục đánh quân ở ngoài hàng rào. Đội võ sĩ trường Long-thành vây lấy các tướng Tống. Các tướng Tống ra sức tả xung hữu đột chống trả với đội thiếu niên võ sĩ. Đám thiếu niên này cực kỳ can đảm. Người này bị đánh ngã, thì người khác lại thay thế, chín tướng Tống bị họ bao vây kín. Hùng Lễ hú lên một tiếng dài, đội hổ báo nhảy vào phụ với đội võ sinh vây lấy các tướng Tống. Bọn Quách Quỳ quay lưng vào nhau chống với hổ, với đám võ sinh can trường. Quân Tống ồ ạt tràn vào trong chiến lũy. Một hồi tù và rúc lên, quân Việt cùng lui trở lại. Hùng Nhân, Hùng Nghĩa cho mười dàn Thần-nỏ cùng tác xạ một lượt. Trên trời Thần-phong, Thần-ưng đánh xuống. Chỉ một loạt tên, bao nhiêu quân Tống lọt được vào trong chiến lũy bị bắn ngã hết. Quân Việt lại trở về chiến lũy, tiếp tục đánh quân từ ngoài đánh vào. Vừa chống với hổ, báo, vừa quan sát trận chiến, thấy quân mình chết la liệt trong chiến lũy, Bình Viễn nói với Quách Quỳ: – Xin nguyên soái tạm cho lui binh thôi. Phân nửa số binh triều đã chết ngoài hàng rào, bây giờ tình hình trong chiến lũy thế này, nếu cứ đánh nữa, thì không còn quân vào Thăng-long. Quỳ lắc đầu, tỏ ý cương quyết cứ tiến binh. Miêu Lý chửi tục: – Bọn tướng Việt toàn một tụi nhóc con với đàn bà. Võ công chúng bình thường, nhưng chỉ nhờ tài điều quân giỏi mà thôi. Phải giết chết một vài đứa mới mong quân mình lên được bờ. Triệu Tiết để ý quan sát trận Việt, sau chiến lũy, trên hai cái đài cao, mỗi cái có một tướng đứng cầm cờ chỉ huy. Nhận ra trên đài thứ nhất chính là Mai Cầm, trên đài thứ nhì là Phương-Đơn. Y nghĩ thầm: – Phải giết hai đứa này, mới hy vọng chiếm được chiến lũy. Y ra lệnh cho Đặng Trung đánh đài của Mai Cầm, Lưu Mân đánh đài của Phương-Đơn. Hai tướng dẫn võ sĩ hướng đài chỉ huy xông tới. Một tiếng hú lảnh lót vang lên, dưới chân mỗi đài có mười con hổ do một nhà sư chỉ huy. Chúng cùng gầm vang tấn công đám võ sĩ. Đặng Trung coi thường nhà sư, y múa kiếm tấn công ông. Nhà sư cười rất tươi, dùng tay kẹp lấy sống kiếm của Đặng. Đặng kinh hãi nghĩ thầm: – Thằng trọc non này dám bắt kiếm của ta ư? Y hơi phân tâm một chút, thì nhà sư đã bật tay một cái, biến thành chỉ. Choang! Kiếm của y trúng chỉ gẫy làm ba bốn mạnh. Thuận thế nhà sư đẩy một chưởng, những mảnh kiếm bay vào người Đặng. Đặng kinh hãi tung người lên cao. Lúc y rơi xuống, thì chỉ còn kịp thấy mấy võ sĩ tùy tùng bị hổ vồ chết hết. Còn nhà sư thì khoanh tay đứng nhìn y. Biết đối phương tha chết cho mình, y hỏi: – Đại sư là ai? Tại sao không ở chốn thanh cao, xuống đây làm gì? – A-di-đã Phật! Bần tăng pháp danh Viên-Căn, đệ tử chùa Báo-ân. Bần tăng thực không muốn khai sát giới. Bần tăng chỉ bảo vệ Mai sư đệ mà thôi. Đặng cư sĩ, người lùi lại đi. Nghe đến tên Viên-Căn, Đặng Trung rùng mình chắp tay: – Đa tạ đại sư dung tình. Rồi y bỏ chạy. Đến đây, đội võ sĩ Tống hơn nghìn người đã vào trong chiến lũy, chúng cùng bọn Quách Quỳ mười người giao chiến với đội võ sinh trường Long-thành. Đội võ sinh Long-thành chiến đầu từ sáng đến giờ bị hao hụt quá nửa, bây giờ phải đánh nhau với lực lượng địch đông gấp ba, đã bắt đầu yếu thế. Dù biết nguy hiểm gần kề, Mai Cầm, Phương Đơn vẫn không sờn lòng, tay cầm cờ chỉ huy quân giữ chiến lũy. Chợt có tiếng reo hò ở phía bên trái, hầu liếc mắt nhìn: Đó là nơi hiệu Bảo-thắng của Quách Y với Phương-Tiên trấn thủ. Bất giác hầu rụng rời cả chân tay, vì quân Tống đã lọt được vào trong chiến lũy, đang reo hò leo tỏa ra bốn bên, chúng đông như kiến. Thần-nỏ đã bắn đến loạt tên cuối cùng, Hùng Nhân, Hùng Nghĩa ra lệnh phá hủy Thần-nỏ, rồi cho xạ thủ thoái lui về sau. Tướng Nguyễn Căn đang cầm cờ đứng giữa đám quân Tống, tay phất ra lệnh cho quân tháo lui, miệng hô: – Trận vỡ rồi, bốn vị sư phụ chùa Báo-ân! Sáu em trong Thần-vũ thập anh, mau đem sáu sư thú binh rút về Cổ-pháp giúp công chúa Thiên-Ninh bảo vệ Thăng-long. Ta bị giặc bắt. Để mặc ta ở đây. Bốn nhà sư, ba cặp vợ chồng hú lên một tiếng, dẫn đội thú rút lui. Mặt trận Việt đã thủng mấy khu, binh sĩ đang chiến đấu tuyệt vọng, nay lại mất đi mười cao thủ với đội thú binh, càng yếu hơn. Quách Y, Phương Tiên ngơ ngơ, ngác ngác không hiểu cái gì đã xẩy ra. Thoáng một cái, Phương Tiên giải đoán: – Chắc Nguyễn Căn bị Tống bắt sống, nên mới ra lệnh như vậy. Bà đưa mắt nhìn hầu, cả hai như cùng tương thông: Không tuân lệnh Nguyễn Căn, cứ thúc quân giữ nguyên vị trí. Nhưng trong khoảnh khắc ấy, sự phối hợp Thần-nỏ, thú binh bị mất. Quân Việt dao động mạnh, phòng tuyến bị đánh cắt ra nhiều đoạn. Bây giờ hai quân Tống, Việt chỉ còn cận chiến với nhau. Mai Cầm biết thế trận đã vỡ, hầu phất cờ cho quân mình tập trung lại dàn thành trận thế quanh đài chỉ huy. Phương-Đơn cũng đã xuống dưới đài, đang cho quân đánh thục mạng, tiến về phía hầu. Cánh quân của hai vợ chồng đã bắt tay được với nhau. Hầu hỏi phu nhân: – Lui chăng? – Không lui, sống ta không giữ được chiến lũy, thì làm ma giữ chiến lũy vậy. – Tại sao Nguyễn Căn lại hàng giặc? – Khó hiểu quá. – Mặt trận phía Quách Y, Phương-Tiên ra sao? – Chúng đông quá, hiệu Bảo-thắng bắn hết tên, thì chúng leo lên được. Đang kịch chiến. Hầu kiểm lại: Toàn bộ hiệu Bổng-thánh còn không quá năm trăm người, tên không còn một mũi, nhưng không ai tỏ vẻ sợ hãi cả. Quân Tống như nước vỡ bờ tràn vào trong chiến lũy. Diêu Tự cho quân dàn ra thành trận chuẩn bị tiến về Thăng-long. Nhưng trên đường đi, bị Mai Cầm, Phương-Đơn dàn quân chặn trước mặt. Vũ Thanh-Thảo cũng dẫn mấy đội tàn quân hợp lại. Mai Cầmthan: – Chị Thanh-Thảo ơi! Anh Nguyễn Căn hàng giặc rồi! Thanh-Thảo ngước mắt nhìn lên, công chúa thấy rõ ràng người đang phất cờ ra lệnh cho quân Việt đầu hàng là em chồng. Bàla lớn: – Không phải! Y là Dư, em anh Căn đấy! Bấy giờ quân sĩ mới biết mình lầm, từ nãy đến giờ chính gã Dư đã cầm cờ lệnh điều khiển quân sĩ lùi xa chiến lũy, để cho giặc tràn vào. Đến đây, hiệu Bảo-thắng của Quách Y, Phương-Tiên còn không quá ba trăm người cũng lùi đến bên hiệu Bổng-thánh. Hai hiệu nhập làm một dàn ra nhanh chóng trên bãi đất chặn đường tiến quân của Tống. Quân Tống lũ lượt sang sông. Quách Quỳ chỉ đám quân còn sống sót của Mai Cầm, Quách Y ra lệnh cho Miêu Lý: – Thanh toán bọn này ngay. Miêu Lý, Diêu Tự thúc quân xung vào. Thanh-Thảo chỉ huy Mai Cầm, Quách Y, Phương-Đơn, Phương-Tiên cùng tàn quân chống trả. Hai bên xông vào chém giết nhau, đao thương chạm nhau choang choảng. Hơn khắc sau, quân Việt chỉ còn không quá một trăm, nhưng họ vẫn giữ nguyên trận thế, không chịu lui lấy một bước. Kị binh đã sang sông. Triệu Tiết thấy tàn quân Việt chỉ còn không ba trăm, mà Tống hao hơn hai nghìn vẫn chưa giải quyết xong; bây giờ còn không quá trăm, mà vẫn can trường chống trả. Y hô kị binh xông vào. Quách Y hú lên một tiếng, đám quân Việt đều nằm lăn dưới đất, vung đao chặt chân ngựa. Ngựa bị chặt chân ngã vật xuống, hí lên inh ỏi. Khoảng một khắc, quân Việt chết hết, chỉ còn lại Thanh-Thảo, cặp vợ chồng Mai Cầm, Quách Y. Miêu Lý thấy địch chỉ còn năm người, mà vẫn khảng khái chống trả, thì động lòng trắc ẩn. Y ra lệnh cho kị binh lùi lại, rồi tiến lên cung tay: – Công chúa! Mai tiểu tướng quân! Quách tiểu tướng quân. Họ Miêu này không can đảm dùng số đông giết chết bốn nghĩa sĩ như bốn vị. Kìa, tôi xin tặng bốn vị bốn con ngựa, bốn vị hãy lên yên về Thăng-long nghỉ ngơi thôi. Vũ Thanh-Thảo dắt kiếm vào lưng rồi cung tay: – Miêu tướng quân! Tướng quân có biết phu quân tôi hiện ra sao không? Nguyễn Dư cầm một cái đầu đưa ra: – Hà! Y chết rồi! Ha ha! Nó chết về tay ta, về bộ mặt lưỡi cầy của ta, ha ha! Thanh-Thảo đưa mắt nhìn Quách Y. Phương Tiên, rồi nhìn vợ chồng Mai Cầm. Cả năm như cùng tương thông với nhau. Công chúa cung tay vái Miêu Lý: – Xin đa tạ lượng quân tử của Miêu tướng quân. Năm chúng tôi được lệnh giữ chiến lũy. Nay chiến lũy vỡ, thì chúng tôi xin chết theo chiến lũy. Thình lình cả năm cùng đưa kiếm lên cổ tử tử. Bấy giờ là thời kỳ Nho học cực thịnh của Trung-nguyên, người người đều trọng kẻ sĩ tận trung báo quốc; bây giờ binh tướng Tống chứng kiến cái chết trung liệt của một thiếu phụ trẻ với hai cặp vợ chồng tướng Việt, bất giác họ cùng hướng tử thi năm vị lạy một lạy. Ghi chú, Trong suốt năm nghìn năm lịch-sử, tất cả những trận đánh với Trung-quốc bao giờ quân Đại-Việt cũng phải chấp nhận đối kháng với lực lượng đông đảo hơn. Lần vượt sông Như-nguyệt này, Trấn Bắc thượng tướng quân Nguyễn Căn, Tuyên-uy đại tướng quân Mai Cầm, Minh-uy đại tướng quân Quách Y cùng ba vị phu nhân phải chống với một lực lượng đông gấp mười. Tuy sáu ngài tuẫn quốc, nhưng tổn thất của Tống thực kinh khủng: Chín đạo binh thiện chiến nhất chỉ còn lại một nửa, tân-đằng-hại, bảo binh chết không biết bao nhiêu mà kể. Tổng cộng Tống hy sinh mười vạn người. Quách Quỳ vội dùng bảo-binh bổ xung cho các đạo chính binh, nhưng tinh lực không còn. Hơn mười vạn xác chết, ba vạn thương binh được đưa về Bắc Ngạn. Với số tử sĩ quá cao, dân phu không thể xẻ gỗ, đóng quan tài kịp. Quách Quỳ lệnh cho Ôn Cảo lấy y phục bọc xác, rồi chôn tại chỗ, thành một khu mênh mông. Bình luận trận đánh, TTCTGCK viết: « Quỳ ham lập công, mà hy sinh mười vạn nhân mạng. Nếu như không có Nguyễn Dư giả Nguyễn Căn ra lệnh làm rối loạn quân Việt, thì binh triều còn chết biết bao nhiêu nữa ». Sau khi hết giặc, triều đình nghị công, truy phong: Cho Quang-lộc đại phu, Trấn Bắc thượng tướng quân, Tản-viên hầu Nguyễn Căn tước Nhân-võ, Hùng-huân, Trấn Bắc đại vương. Phu nhân Vũ Thanh-Thảo được phong Hòa-huệ, Ninh-tĩnh, Ôn-văn công chúa. Hai vị được phối thờ tại thái miếu, nên không có đến thờ riêng. Một vài tài liệu chép: Nguyễn Căn bị bắt. Sau khi Quách Quỳ rút lui, vua Tống phong cho ông một chức quan, lưu lại bên Trung-quốc, hoàn toàn sai. Chính QTNC và TTCTGCK chép: « Giết Trấn Bắc thượng tướng quân Nguyễn Căn và vợ là Vũ Thanh-Thảo ở sông Như-nguyệt. Em Căn là Dư đầu hàng. Dùng Dư giả xưng là Căn ». Người sau lập đền thờ Linh-Nhân hoàng thái hậu, có phối thờ bà Vũ Thanh-Thảo (Xem NQSH hồi 39). Cho đến nay (1995) trải 918 năm lịch sử thăng trầm, nếu con dân Đại-Việt nào còn nghĩ đến huân công của bà, có thể viếng thăm các đền thờ Linh-Nhân hoàng thái hậu ghi chép ở mục 3.2 bài tựa NQSH quyển 1, sẽ thấy tượng bà mặc quần áo công chúa mầu đỏ sẫm, khăn choàng áo khoác ngoài mầu hồng. Hình chụp tượng thờ Hòa-huệ, Ninh-tĩnh, Ôn-văn công chúa Vũ Thanh-Thảo, tại đền thờ Linh-Nhân hoàng Thái-hậu ở xã Dương-xá, Gia-lâm, Hà-nội. Cho Tuyên-uy đại tướng quân Từ-Tâm hầu Mai Cầm tước Tuyên-uy phúc tướng đại vương, phu nhân được phong Trang-Mẫn quận chúa, truyền lập đền thờ. Hiện hai đền thờ ngài vẫn còn tại làng Đạo-sử, tổng Phá-lãng, và làng Đông-hương huyện Lang-tài. Nay là xã Phá-lãng, huyện Gia-lương tỉnh Hà-Bắc. Cho Minh-uy đại tướng quân Minh-Tâm hầu Quách Y tước Minh-uy Lôi-trấn đại vương, phu nhân được phong Trang-Thanh quận chúa. Vì sau khi bình Chiêm trở về, ngài có dùng Lôi-tiễn bắn giết bầy chó sói giúp dân ở núi Lôi-sơn, xã Hữu-biệt, huyện Nam-đàn, trấn Nghệ-an; đương thời dân chúng lập sinh từ (thờ sống) ngài. Nay ngài tuẫn quốc, triều đình ban thêm tiền để tu bổ đền, cấp thêm ruộng cho dân lấy hoa lợi thờ cúng ngài. Độc giả muốn tìm hiểu thêm về tiểu sử hai ngài, xin tham khảo các tài liệu ghi ở phần tựa, NQSH quyển 1, mục 7.2.4 và 7.2.5. Tại chiến lũy Vạn-xuân, Đại-Việt, Ngày 3 tháng giêng, mùa Xuân, niên hiệu Anh-vũ Chiêu-thắng thứ nhì đời vua Lý Nhân-tông bên Đại-Việt, nhằm niên hiệu Hy-Ninh thứ mười đời vua Thần-tông nhà Tống (Đinh-Tỵ, DL.1077). Sau buổi hội ngày mùng một tết, Trung-Thành, Tín-Nghĩa vương trở về căn cứ Vạn-xuân hội chư tướng. Chưởng môn phái Đông-a Trần Phụ-Quốc cũng đem trên nghìn cao thủ tới. Nếu võ sĩ của trường Long-thành, Thái-hà toàn là thiếu niên, thì đoàn cao thủ phái Đông-a lại gồm đủ loại. Nam có, nữ có. Già có, trẻ có. Tăng có, tục có. Họ được tổ chức thành đôi ngũ để chiến đấu như Thiên-tử binh, duy một điều khác là võ công họ rất cao thâm. Tín-Nghĩa vương thăng trướng. Đưa mắt nhìn chư tướng một lượt, vương ban lệnh: – Trong ba mặt trận, thì mặt trận Phú-lương chỉ thủ, mà không tấn. Mặt trận Như-nguyệt dùng làm cái bẫy, để tiêu hao lực lượng Tống. Còn mặt trận Vạn-xuân ta, lĩnh nhiệm vụ quan trọng vô cùng, là lợi dụng Tống đánh Như-nguyệt, tràn về Thăng-long; ta tấn công diệt đội quân ở Nham-biền, rồi tiến lên uy hiếp hậu quân giặc, khiến chúng phải rút quân về giữ hậu cứ. Nếu như vì lý do gì đó mà ta thất bại, thì Thăng-long bị tràn ngập. Chư tướng đều biết nhiệm vụ của họ rất trọng yếu, người người nhìn nhau, im lặng chờ lệnh. – Khi Tống vượt sông đánh Như-nguyệt, thì Tu Kỷ cũng cho quân vượt sông sang Nam-ngạn. Nhưng chúng chỉ đánh cầm chừng, hư trương thanh thế đợi khi Như-nguyệt thất thủ, mới biến hư thành thực phá chiến lũy rồi tiến về Thăng-long. Lực lượng Tống ở Nham-biền có mười đạo binh triều, khoảng năm vạn. Một trăm chỉ huy tân-đừng-hải khoảng năm vạn, với năm vạn bảo binh. Như vậy lực lượng Tống có mười lăm vạn. Vương ề đầu thai thành tổ Minh-Không, ngài Ma-ha Ca-diếp đầu thai làm ngài Sùng-Phạm, ngài Di-Lặc thành Bố-Đại hòa thượng. (Xin xem Anh-hùng Tiêu-sơn, hồi 27-28, của Yên-tử cư-sĩ). Phạm Dật cùng chư tướng đều gật đầu, tỏ vẻ hiểu biết về việc này. Tín-Nghĩa vương tiếp: – Khi bồ-tát Sùng-Phạm truyền 100 năm công lực cho phò-mã Thân Thiệu-Thái xong, ngài không đầu thai ngay, mà chờ tổ Minh-Không viên tịch rồi cùng đầu thai. Niên hiệu Thuận-Thiên thứ 19 (1028), tổ Minh-Không thấy xác mình mục, mới gọi sư đệ là tổ Huệ-Sinh với chư đệ tử tới dặn rằng người với tổ Sùng-Phạm sẽ tái đầu thai. (Xin xem NQSH, hồi thứ 11). Phạm Dật vốn cực kỳ thông minh, hầu à lên một tiếng: – Đệ hiểu rồi, sau đó tổ Minh-Không tái đầu thai, vẫn lấy pháp danh là Minh-Không, còn tổ Sùng-Phạm đầu thai vào nhà Tăng-quan đô-án Từ Vinh, thành ngài Từ Đạo-Hạnh. Có đúng thế không? – Đúng vậy. Niên hiệu Chương-thánh Gia-khánh thứ 2 (1060) hai ngài tìm đường sang Tây-trúc tu đạo, nhưng đi đến nước Kim-xỉ thì bị núi ngăn tuyệt đường. Hai ngài mới trở về Đại-Việt. Đến đây vương đưa mắt nhìn Linh-Nhân hoàng thái hậu, ngụ ý muốn để hậu thuật hành trạng nhị thánh, mà chính hậu được hưởng. Linh-Nhân hoàng thái hậu biết ý vương. Hậu bèn thuật hành trạng của ngài Minh-Không như giả làm ăn mày dạy dỗ cho công tử họ Dương giữa Thăng-long; chữa bệnh cho chó của Tín-Nghĩa vương, rồi nhận Tây-hồ thất kiệt làm đệ tử; xem Tử-vi, cùng ban thuốc cho hậu để trị bệnh khi bị thác loạn thần kinh; xuất hiện tại chùa Pháp-vân trị bệnh cho vua Thánh-tông; xuất hiện tại chùa Thánh-chúa ban thuốc trị bệnh cho vua Thánh-tông với hậu, nên mới có vua Nhân-tông. Trong trận Bắc phạt ngài lại xuất hiện với ngài Đạo-Hạnh hai lần. Một lần cứu tướng Tống để khỏi bị Mộc-tồn hòa thượng giết, một lần tại thành Ung để giúp thần tăng Pháp-Nhẫn khuyên Tô Giàm cho dân rời xa chiến địa. Nhưng gần đây nhất, hai ngài nhận lời Khu-mật viện vân du Trung-quốc để làm cho Hy-Ninh đế cách chức Vương An-Thạch, và phá thế yểm hại Đại-Việt gần nghìn năm của Trung-quốc, rồi đúc Nam-thiên tứ đại thần khí. Chư tướng nghe xong, bất giác cùng có cảm nghĩ hân hoan vô cùng. Linh-Nhân hoàng thái hậu kết luận: – Phật giáo đến Trung-quốc, bị Trung-quốc hóa đi, nhưng vẫn rời xa việc bảo vệ xã tắc. Còn Phật-giáo vào Đại-Việt, đã được Việt hoá thành một chủ đạo tộc Việt là lấy đạo pháp bảo vệ đất nước từ thời ngài La Quý-An, Sùng-Phạm, Bố-Đại, Vạn-Hạnh, Minh-Không, Huệ-Sinh; nhưng cái chủ đạo ấy vẫn chưa hình thành một thứ chủ đạo dân tộc hoàn toàn. Nay đến ngài Minh-Không, Đạo-Hạnh, tinh thần đó thành chủ đạo, thành vũ khí giữ nước. Đến đó, thân binh báo: – Hai thánh tăng cùng với bốn hòa thượng chùa Báo-ân giá lâm. Linh-Nhân hoàng thái hậu vẫy Long-biên tứ hùng, Tây-hồ thất kiệt ra ngoài đón rước. Linh-Nhân hoàng thái hậu cung tay: – A-di-đà Phật! Chúng đệ tử xin tham kiến nhị vị bồ tát. Tứ vị sư huynh. Minh-Không đáp lễ: – Nhọc thánh thể Thái-hậu cùng chư vị ra đón. Nghe Thái-hậu cũng chư tướng nghị kế giữ nước. Anh em bần tăng tuy hạc nội mây ngàn, nhưng cũng là con dân Đại-Việt, nên đến thái hậu cho ra trận làm bốn phận con dân. Lễ nghi tất. Tây-hồ thất kiệt là đệ tử của Minh-Không, nên bẩy tướng kéo ghế lại ngồi bên ngài. Linh-Nhân hoàng Thái-hậu với Long-biên ngũ hùng là sư đệ sư muội của bốn nhà sư Viên, nên tứ hùng cùng lại ngồi bên bốn ngài. Lý Thường-Kiệt tóm lược những gì đã nghị sự cho sáu vị nghe. Minh-Không chỉ Tín-Nghĩa vương: – Bần tăng thấy dường như vương gia đã có đến năm sách lược bảo quốc, mà sao chưa tâu lên Thái-hậu? Tín-Nghĩa vương kinh hoàng, vì năm sách lược đó, ông hoạch định trong tâm, mà sao vị sư phụ này lại biết. Chợt động tâm cơ, vương chửi thầm: – Mình thực sơ tâm! Hai vị bồ tát này luyện Mật-giáo đến trình độ tối cao, thì tất cả những gì mình suy nghĩ, ngài cũng thấy, đâu có lạ? Vương cung tay: – Xin tuân pháp dụ của sư phụ. Vương cung tay hướng Thái-hậu: – Thần xin đưa ra năm diệu kế để giữ nước. – Xin hoàng thúc cứ nói. – Cái ngày mà Quách Quỳ vượt sông e không xa. Ta không thể cản bước tiến quân của y. Phòng tuyến Như-nguyệt của ta cực kiên cố, với hai hiệu Thiên-tử binh Bổng-thánh của Mai Cầm, Phương-Đơn; Bảo-thắng của Quách Y, Phương-Tiên quyết tử trấn ở đây. Vậy sách đầu tiên của ta là chấp nhận trận đánh Như-nguyệt, ta mất một, Tống mất mười. Nếu như trong khi đánh, thấy quân mình chết nhiều quá, Quách Qùy cho lui quân, thì e rằng sau này khó có thể đủ khả năng vượt sông nữa; đây là thượng sách cho ta. Bằng y chịu hy sinh hai mươi vạn người, để phá Như-nguyệt thì ta cũng đành chấp nhận. Quan Thái-phó Quách Sĩ-An hỏi: – Khi ta biết chủ tâm của Tống là dùng hết khả năng đánh Như-nguyệt. Vậy sao ta không phối trí tại đây ba, bốn hiệu binh nữa cho ăn chắc? Tín-Nghĩa vương lắc đầu: – Thưa quan Thái-phó, phòng tuyến Như-nguyệt phía trước là sông, đã đắp thành lũy. Phía sau là vườn, ruộng, địa thế rất hẹp, không thể đồn trú quá hai hiệu binh. Vả có đem nhiều binh tới đây cũng vô ích, mà chỉ nên đồn trú dọc đường Như-nguyệt Thăng-long mà thôi. Vì vậy tôi đã đề nghị đem thực nhiều Thần-nỏ, thú-binh, cùng các cao thủ. Nhân Như-nguyệt gần Tản-lĩnh, tôi đã xin tiên nương Bảo-Hòa viện cho đội võ sĩ phái Tản-viên nghìn người. Với nghìn người này, có sức mạnh bằng mười vạn quân. Nhiều đại thần chau mày tỏ vẻ không đồng ý vì: Phía sau Như-nguyệt năm mươi dặm thì tới Thăng-long. Như-nguyệt thất thủ, thì e hai khắc sau kị mã đã tới kinh đô rồi. Quan tổng trấn Thăng-long Ngô Thường-Hiến hỏi: – Ví thử Tống chịu hy sinh 20 vạn người để phá cho được Như-nguyệt thì vương gia tính sao? – Đó là điều tôi mong đợi. Nếu như Quách Quỳ nướng 20 vạn người vào đây, thì ta đánh một hai trận nữa, ắt y không còn lực, chỉ có thể rút lui. Vì từ Như-nguyệt tới Thăng-long có ba đoạn đường. Một là Như-nguyệt đến rừng tre khoảng hai mươi dặm, hai bên có 18 xã. Theo phương lược của Quách Quỳ, thì y cho kị binh đi trước, bộ binh đi sau, dùng tân-đằng-hải đánh các xã. Ta dùng hai hiệu binh các lộ, chia cho các xã hợp với hoàng nam để chống lại quân tân-đằng-hải. Như thế là sách dùng tân-đằng-hải kiếm lương với dân phu bị phá; mà kị binh, bộ binh tiến trước thấy hai sườn bị uy hiếp phải dừng lại. Đây là sách thứ nhì. Chư tướng vỗ tay hoan hô. – Đoạn đường thứ nhì là từ rừng tre tới Cổ-pháp, khoảng mười dặm, hai bên có mười xã, ta cũng áp dụng như trên. Ngay trước Cổ-pháp là vòng đai bảo vệ Thăng-long của công chúa Thiên-Ninh với hai hiệu Ngự-long của Phạm Dật, Kim-Loan; Quảng-vũ của Vũ Quang, Kim-Liên. Phòng tuyến này còn chắc hơn phòng tuyến Như-nguyệt nữa. Quân Tống đến đây dù Quách Qùy có muốn hy sinh giống Như-nguyệt, thì e không còn đủ quân nữa. Trong khi đó dọc đường, quân các lộ của ta với hoàng nam đánh chặn dường tiếp tế lương thảo. Như vậy Tống không thể xuống Thăng-long được. Đây cũng vẫn nằm trong sách thứ nhì. Thái sư Lý Đạo-Thành hỏi: – Khải vương gia, ví thử Quách Qúy nhất quyết thí quân ở Cổ-pháp, thì Thăng-long nguy tai!!! – Thưa Thái-sư, tiểu bối chưa trình bầy xong mà. Tín-Nghĩa vương giảng giải: Sách thứ ba, là ta lợi dụng Tống dùng hết khả năng đánh Như-nguyệt, còn hai mặt Nham-biền, Phú-lương là hư. Ta hãy tưởng tượng rằng khi chiến lũy Như-nguyệt thất thủ, quân kị bộ Tống đang tiến về Thăng-long. Ta dùng đạo binh lưu động của Trung-Thành vương đánh tan một trong hai đạo Nham-biền, Phú-lương, rồi tiến về uy hiếp bản doanh Quách Quỳ, đốt cháy kho lương. Dĩ nhiên Quách Quỳ phải rút quân về bảo vệ lấy căn bản. Nếu y không rút về, thì chỉ nửa ngày quân y sẽ tan, vì không có lương ăn! Vương nhấn mạnh: – Cái khó khăn là chiến lũy Cổ-pháp phải cầm chân kị binh ít nhất trong hai ngày, để đạo binh Trung-Thành vương có thời giờ hành sự. Không biết công chúa Thiên-Ninh giữ nổi chiến lũy Cổ-pháp trong bao nhiêu lâu? Công chúa Thiên-Ninh tự tin: – Xin hoàng thúc yên tâm, cháu có thể giữ được ít nhất một tháng. Chư tướng vỗ tay hoan hô. Tín-Nghĩa vương tiếp: – Bấy lâu nay, triều đình bắt Thân phò mã với công chúa Thiên-Thành; công chúa Côi-sơn với phò mã Tôn Mạnh; thượng tướng quân Đinh Hoàng-Nghi với phu nhân ẩn thân trong rừng. Bây giờ ta thư cho ba vị ấy xuất hiện, vượt biên sang Tống đốt kho lương, đánh úp các đồn Quyết-lý, Chi-lăng, rồi trấn giữ tại đây. Tống bị cắt đường vận lương, bị tuyệt đường về, ắt Quỳ phải dồn hết lực lượng khai thông đường Như-nguyệt sang Trung-nguyên, Như thế y không thể tiến về Thăng-long được. Đây là sách thứ tư. Vương đưa mắt nhìn Côi-sơn tam anh: – Sách thứ năm, phi tam vị sư bá, không ai thực hiện nổi. Trần Trung-Đạo hỏi: – Sách này ra sao? – Sách này ta đã dùng sau trận Côn-lôn, Đại-giáp, Ngọc-tuyền, Hỏa-giáp, Ung-châu. Nay dùng lại một lần nữa. Trung-Đạo bật cười: – Sách này tuy không có kết quả ngay, nhưng nó thấm vào tâm não muôn nghìn năm sau của người Hoa rằng: Cho con em đánh sang Đại-Việt, thì chỉ có đi, mà không có về. Phò mã Hoàng Kiện hỏi: – Trình sư bá, chi tiết áp dụng ra sao? – Ta khích động cho gia đình tử sĩ sang đào mả đem xác về, để gây trấn động giang sơn Tống, gây bất mãn, lo sợ cho binh Tống. Không biết số tổn thất chính xác của Tống ở mỗi mặt trận là bao nhiêu? Chôn tại đâu? Trung-Thành vương trình: – Sau trận đột kích của ta vào Vình-bình, Tây-bình, Lộc-châu, cùng cuộc phục kích đánh truy binh của Tống cộng bốn lần Tống đánh Quyết-lý, Chi-lăng, số quân triều chết khoảng hai vạn. Quách Qùy đã cho đưa tử thi về nguyên quán, khiến dân phu phục dịch cực kỳ khổ sở, dọc đường gây ấn tượng kinh hoàng cho dân chúng. Cho nên Quách Quỳ tạm bỏ chương trình đưa xác tử sĩ về nguyên quán. Số quân tân-đằng-hải chết trận tại Bắc-biên là sáu vạn, đa số quê ở vùng Trường-sa được chôn ngay ở biên giới. Từ trận Đâu-đỉnh, trận đánh đêm Giao-thừa, quân triều chết hơn bốn vạn, quân tân-đằng-hải chết hơn chín vạn, đa số quê ở Quảng-Đông, Quảng-Tây y cho chôn ở Bắc Như-nguyệt. Quách Quỳ, đợi sau chiến tranh sẽ cải táng đưa về nguyên quán. Linh-Nhân hoàng thái hậu hỏi: – Triều đình có nhận được tin của Đinh Hoàng-Nghi báo cho biết Quách Quỳ không cho cắm gỗ đề tên tử sĩ lên mộ là ý gì vậy? – Tâu, vì y sợ quân Tống sống thăm mồ mả bạn hữu tử trận, nên không cho đề tên kẻ xấu số lên ván, cắm ở mộ; mà chỉ cho viết trên nắp áo quan, đợi sau chiến tranh, mới đào lên đem về nguyên quán. Trung-Đạo hỏi: – Có cách nào lấy được danh sách tử sĩ Tống tại các mặt trận không? – Thưa sư bá cháu đã có trên tay. Trung-Thành vương đáp: Vì Quỳ bắt dân ta xẻ gỗ làm quan tài chôn tử sĩ Tống, cùng chôn cất, cháu lợi dụng cho tế tác len lỏi vào, nên đã lấy được đầy đủ họ tên, cấp bậc, quê quán. Không biết sư bá dùng làm gì? – Tốt lắm. Trước đây, ta đã cho đệ tử đón đường giết ngựa trạm của Tống, tịch thu được nhiều văn kiện. Nhờ đó ta biết ấn, chữ ký, binh phù của Ôn Cảo, Triệu Tiết, Quách Quỳ. Ta đã cho khắc mấy chiếc ấn giống của chúng. Bây giờ ta chép danh tính của tử sĩ Tống từng huyện một, rồi giả công văn gửi đến các huyện; lệnh cho Bên kia sông, quân Giao chỉ có một hiệu Thiên-tử binh gần vạn người. Trong khi ta đem năm vạn quân triều, ba vạn Ttân-đằng-hải, thì ta nuốt chúng dễ dàng. Thế nhưng Quách Quỳ lại bắt ta đóng vai hư. Thực cũng bực mình. Tôi nghĩ, chúng ta nên dứt điểm tên Tín-Nghĩa, rồi xua quân tràn về Thăng-long, khiến bọn Quách Quỳ nể mặt chúng ta một phen. Đào Bật, Quản Vi cũng có ý tưởng đó: – Nhất là phía sau lưng ta, giặc không còn một tên quân. Việc gì ta phải lưu binh giữ trại? Nhưng tôi hơi lo lắng một chút, vì không biết hiện Trung-Thánh vương với hạm đội Thần-phù và ba hiệu binh trực thuộc của y ở đâu? Nếu thình lình chúng xuất hiện thì nguy lắm. – Nếu y xuất hiện, thì ta đánh cầm chừng, rồi rút. Ta là hư mà! Đúng giờ Thìn, Kỷ cho phát pháo. Một loạt trăm bè, chở mười đạo binh triều, năm vạn người cùng vượt sông. Bè đã tới giữa sông, mà bên kia chiến lũy vẫn không thấy một tên quân Việt xuất hiện. Hai lá cờ đang bay phất phới. Một lá mầu hồng, chính giữa thiêu hình con âu vàng, đó là kỳ hiệu của hiệu Thiên-tử binh Long-dực. Cạnh đó lá khác thêu chữ Trung-vũ đại tướng quân, Chính-Tâm hầu Dương. Bè tiến gần sang Nam ngạn. Hơn năm vạn quân thiện chiến bậc nhất của Tống, từng tung hoành trên trên sa mạc Tây-thùy, Bắc-thùy cùng hướng mắt nhìn lên chiến lũy cao vòi vọi. Thình lình, ba tiếng trống lệnh vang lên. Cờ xí, quân sĩ Việt cùng xuất hiện trên chiến lũy. Nhìn kỳ hiệu, bất giác Tu Kỷ kinh hoàng: Vì tế tác báo rằng quân Việt chỉ có một hiệu Long-dực, mà bây giờ y lại thấy kỳ hiệu Đằng-hải, Hùng-lược, Vạn-tiệp, Thần-điện. Như vậy quân Việt hiện diện tới năm hiệu. Tuy vậy, đã trót vượt sông, y hô quân nhảy khỏi bè, leo lên phá lũy. Trong khi đó bè nhanh chóng kết thành hai phù kiều. Các chỉ huy tân-đằng-hải ào ào qua sông. Quân Việt xuất hiện chống trả rất mãnh liệt. Khi quân Tống còn đang lội lõm bõm dưới nước, thì quân Việt dùng tên bắn xuống. Sau hai khắc cầm cự, quân Tống đã phá được lớp rào thứ ba, thì quân Việt dùng dáo dài tấn công. Tấn công một lúc, Tu Kỷ mới biết mình trúng kế hư binh, vì trong chiến lũy, quân Việt quá ít, có lẽ chưa tới một hiệu, mà hư trương thanh thế năm hiệu để dọa quân Tống. Kỷ lại gần Đào Bật, Quản Vi. Vi chửi thề: – Tổ bà nó. Anh em mình lại trúng kế bọn Nam man rồi. Rõ ràng trong chiến lũy chúng chỉ có một hiệu binh, mà chúng kéo cờ hư trương thanh thế tới năm hiệu, làm từ sáng đến giờ anh em mình không dám tấn công. Bây giờ đã biết sự thực. Ta tấn công ào ạt hạ cho bằng được chiến lũy này, rồi tiến về Thăng-long. Hai người ra lệnh cho quân tấn công ráo riết. Trong khoảng ba khắc, đã phá được lớp rào thứ chín. Quân Việt chống trả mãnh liệt. Đến hết giờ Tỵ, quân Tống phá được lớp rào cuối cùng, tràn vào trong chiến lũy như nước vỡ bờ. Một hồi tù và rúc lên, hiệu binh Long-dực lùi lại phía sau chiến lũy. Lý Bát, Lý Cửu, cùng hai phu nhân chỉ huy mười dàn Thần-nỏ, mỗi dàn có năm mươi Thần-tiễn Long-Biên hộ tống. Nỏ thần tác xạ loạt đầu, quân Tống ngã lổng chổng. Trong khi Thần-nỏ nạp tên để bắn loạt thớ nhì, thì Thần-tiễn Long-biên cùng hiệu Đằng-hải từ sau xuất hiện hợp với hiệu Long-dực dương cung bắn vào đội hình quân Tống. Quân Tống lớp lớp bị bắn ngã. Một hồi tù và rúc lên, hiệu Long-dực, Đằng-hải reo hò tiến lên chém giết quân Tống, chiếm lại chiến lũy. Trước kia chỉ có hiệu Long-dực, mà quân Tống phải chết biết bao nhiêu người mới leo vào chiến lũy được. Bây giờ thêm hiệu Đằng-hải với đội cung thủ Long-biên liên thủ, quân Tống bị chặn lại ở giữa các lớp rào chiến lũy. Cuộc giao tranh khốc liệt diễn ra. Thình lình có tiếng la hoảng phía sau. Tu Kỷ quay lại nhìn: Một đoàn quái vật thân thể giống người, mặt đen như nhọ chảo, khắp người có vảy như vảy rồng, từ dưới sông vọt lên như cá, rồi vung đao chém quân giữ phù kiều. Võ công bọn này thực kinh khủng, hơn năm nghìn quân giữ phù kiều mà thoáng một cái đã bị giết chết hoặc đánh rơi xuống sông. Hai phù kiều bị cắt đứt. Bọn quái nhân chiếm bè, rồi khoan thai chèo về phía Đông. Thế là quân Tống mất đường về. Tu Kỷ chợt nhớ lại: Tế tác báo cho biết, Giao-chỉ có một đội Giao-long binh khoảng năm trăm người, bơi lội cực giỏi, có tài lặn dưới nước dưới nước cả ngày, võ công rất cao cường. Hồi chiến tranh Chiêm Việt, đội binh này đã đục thuyền, khiến trọn vẹn ham đội Chiêm chìm dưới đáy biển. Chăc là bọn này. Bây giờ phù kiều bị phá, bè bị cướp mất, quân Tống chơi vơi ở giữa chiến lũy, mất đường về. Tu Kỷ quyết định: Quân trong chiến lũy không nhiều, chỉ có cách chiếm chiến lũy, mới mong sống còn. Tu Kỷ hô quân tấn công ráo riết. Bây giờ quân Việt mới xuất hiện thực đông chống trả. Quân Tống chết chồng chất trên các lớp rào. Thình lình quân Tống la hoảng. Kỷ quay nhìn lại: Một đoàn chiến thuyền nhỏ từ phía Đông chèo tới nhanh như tên bắn. Trên mỗi chiến thuyền đều có hai dàn Thần-nỏ. Thần-nỏ cùng tác xạ vào phía sau quân Tống. Chỉ loạt đầu, hơn vạn người ngã lộn xuống sông. Quân Tống chơi vơi la hét như điên loạn, phía trên thì quân thủ chiến lũy đánh xuống; phía sau thì Thần-nỏ tác xạ, hàng ngũ rối loạn, tiếng gọi nhau ơi ới. Nhưng quân Việt chỉ dùng Thần-nỏ bắn có một loạt đầu, rồi dàn ra đe dọa. Loa gọi lớn bằng tiếng Biện-kinh: – Chư quân Tống nghe đây! Vì Hy-Ninh, Quách Quỳ làm trái Thiên-thư nên các người bị bại. Các người thử nhìn xem phía trước là chiến lũy, lên không được. Phía sau là sông sâu, Thần-nỏ bắn vào lưng, không chỗ nấp, chẳng có gì che thân. Các người hãy buông vũ khí đầu hàng, sẽ được tha chết. Quân Tống còn đang lưỡng lự, thì chiến thuyền lớn, nhỏ từ phía Đông đã tới từ bao giờ. Trên các chiến hạm, cờ xí bay phất phới. Quân sĩ uy nghi, gươm đao sáng ngời. Chiến thuyền ghé bờ Bắc, đổ quân xuống hai đạo quân. Một đạo là hiệu Hùng-lược của Định-viễn đại tướng quân Ngô Ức với phu nhân Phương-Dược. Một đạo là thủy quân của hạm đội Thần-phù. Trên bờ Bắc, Lý Thật có một trăm chỉ huy tân-đằng hải, với hai vạn bảo binh, thì hai mươi chỉ huy tTân-đằng-hải đã vượt phù kiều sang Nam ngạn, hiện đang mắc kẹt ở dưới chiến lũy. Mười chỉ huy ở trên phù kiều, bị đội Giao-long giết chết, hay đánh rơi xuống sông. Bây giờ Thật chỉ còn hai mươi chỉ huy với bảo binh. Nhìn sang Nam ngạn thấy Tu Kỷ, Quản Vi đang chơi vơi, y muốn thúc các chỉ huy tân-đằng-hải cứu viện, nhưng phù kiều đã bị bị cướp mất. Y chưa biết phải làm gì thì chiến hạm Thần-phù ghé vào Bắc ngạn. Hiệu binh Hùng-lược, thủy quân của hạm đội Thần-phù; khí thế mạnh nghiêng trời lệch đất đổ bộ. Y dàn hai mươi chỉ huy tân-đằng-hải với bảo binh ra chống cự. Trong khi quân hai bên bắt đầu giao chiến, thì ở Nam ngạn, Quản Vi đưa mắt nhìn trận tuyến Việt: Một trung niên nam tử, dáng người hùng vĩ, bên cạnh một thiếu phụ cực kỳ xinh đẹp. Cả hai đang đứng trên chiến hạm Việt cầm loa gọi: – Buông vũ khí, rồi bơi ra giữa sông, leo lên bè đầu hàng. Bằng không ta cho buông tên. Ta, Tín-Nghĩa vương chuyên lấy đức trị người, nói một là một, nói hai là hai. Quân Tống đành ném vũ khí xuống sông rồi bơi ra bè. Quân Việt trói lại. Phân nửa tướng Tống đầu hàng, còn phân nửa đều vung kiếm tự tử ngay ở hàng rào chiến lũy. Tu Kỷ bàn với Quản Vi, Đào Bật: – Bây giờ chúng ta chỉ còn có cách bắt sống cặp vợ chồng Tín-Nghĩa vương, mới mong sống sót. Nào, tôi tấn công thằng chồng, huynh tấn công con vợ nó. Ba người cùng vọt lên cao như con diều hâu, rồi đáp xuống một chiếc bè. Từ chiếc bè nhấp nhô mấy cái hai người đã nhảy lên chiến hạm. Trong khi còn lơ lửng trên không, Tu Kỷ phóng chưởng tấn công Tín-Nghĩa vương; Quản Vi, Đào Bật phóng chưởng tấn công vương phi Lê Ngọc-Nam. Chưởng của hai người mạnh đến nghiêng trời lệch đất. Vương xuất chiêu Đông-hải lưu phong hướng lên trời đánh thẳng vào người Tu. Hai chưởng đụng nhau đến bùng một tiếng. Tu Kỷ cảm thấy cánh tay tê rần, khí huyết hỗn loạn cực kỳ khó chịu. Còn Tín-Nghĩa vương cảm thấy trời long đất lở, tai phát ra tiếng vo vo không ngừng. Vương phải lùi đến ba bước để giữ thăng bằng. Vương đưa mắt nhìn vương phi: Vương phi rút kiếm xỉa vào giữa chưởng của Đào Bật. Bật kinh hãi, vội biến chưởng thành cầm nã bắt kiếm. Ngọc-Nam vòng kiếm xuống dưới rồi tà tà đưa vào ngực Bật. Bật vội rút kiếm gạt; hai kiếm chạm nhau đến choang một tiếng. Đào Bật đã đáp xuống sàn cùng Ngọc-Nam chiết chiêu. Về phía Quản Vi, y vừa lên sàn thuyền, tay đã rút thanh đoản đao tấn công vương phi cùng với Đào Bật. Nhưng tiếng rít lên ở phía sau lưng y, rồi một thanh nhuyễn tiên đánh thẳng vào cổ y. Kinh hoàng y vội tung người lên cao tránh đòn. Ở trên cao y nhìn xuống, người tấn công y bằng chiếc roi chỉ huy quân là một thiếu niên mặt non choẹt. Khinh thường thiếu niên, y đưa đao bổn xuống đầu đối thủ. Thiếu niên tỏ ra rất can đảm, dùng roi quấn lấy đao của Vi rồi giật mạnh. Vi quay đao một cái, cây roi đứt làm ba bốn đoạn, vừa lúc đó y đáp xuống sàn. Thiếu niên vẫn không lùi bước, tay rút kiếm đưa một chiêu thần tốc vào ngực Vi. Vi vung đao gạt. Choang một tiếng, kiếm của thiếu niên bay tung lên trời, Vi bổ một đao vào đầu thiếu niên. Thiếu niên mỉm cười không tránh, mà dùng tay bắt đao của Vi. Vi kinh ngạc tử hỏi: – Thằng lỏi con này, võ công kém ta xa, nó có điên không mà dám bắt đao của ta? Nhưng khi đao Vi gần tới cổ thiếu niên, thì một mùi hương thơm ngát xông vào mũi y, rồi cánh tay y mất hết kình lực; đao của y bị thiếu niên bắt lấy rồi đưa vào ngực y. Máu từ ngực y vọt ra, y ôm ngực lảo đảo, miệng quát lên: – Tại sao tay ta lại liệt? Ai đánh trộm ta? Trước khi ngã xuống, y cũng còn kịp thấy một thiếu nữ xinh đẹp đang chống kiếm nhìn y. Thiếu nữ chắp tay lễ phép chỉ vào thiếu niên: – Vi tướng quân, tôi là Mai-Cửu vợ của anh Lý Cửu. Vì chồng tôi sắp mất mạng về tay tướng quân, nên tôi phải tung viên thuốc Đoạn-cân hoàn vào huyệt khúc trì của tướng quân. Vì vậy tay tướng quân mới bị mất lực. Quản Vi than: – Hỡi ơi! Ta nghe Giao-chỉ có Thần-vũ thập anh, Thập bát Kim-cương là đệ tử của Mộc-tồn hòa thượng. Không ngờ ta bị mất mạng vì cặp Kim-cương thứ chín. Nói rồi, y gục xuống, mắt trợn ngược. Hai cặp vợ chồng Lý Bát, Lý Cửu chỉ huy đội võ sĩ Đông-a vây kín Tu Kỷ, Quản Vi lại. Hai người tả xung hữu đột, nhưng không thoát ra được. Biết có đánh nữa, thì cũng đến mất mạng vô ích. Tu Kỷ quát lớn: – Khoan! Đội võ sĩ Đông-a cùng ngừng tay, lùi lại. Tu Kỷ hướng Tín-Nghĩa vương: – Vương gia! Họ Tu này nghe vương gia học nghề với ngoại tổ là Côi-sơn đại hiệp Trần Tựï-An, nức tiếng thiên hạ. Thế sao vương gia không thể tứ giáo cho tại hạ mấy chiêu, mà lại dùng số đông vây phủ? Võ đạo Đại-Việt như thế ư? Sợ chồng tha cho Tu Kỷ, vương phi cười nhạt: – Này Tu tướng quân. Chỉ vì xưa kia quốc công Thân Thiệu-Cực tha cho tướng quân trên núi Tản; Đại tư mã Thường-Kiệt tha cho Tư tướng quân trong trận Phong-sa-trang; mới đây công chúa Kim-Thành tha cho Tu tướng quân trong dịp họ Dương nổi loạn, mà ngày nay mấy trang động Bắc-biên bị tướng quân tàn sát. Hiện giờ chúng ta đối trận với nhau, chứ không phải đấu võ mà phải tuân theo lề luật võ lâm. Đã đối trận thì phải dùng quân. Vương phi hô: – Tấn công! Tu Kỷ, Đào Bật kinh hãi, vội phóng liền ba chưởng về bên phải, rồi cả hai tung mình nhảy xuống sông. Vương phi Ngọc-Nam rút kiếm phóng theo Tu Kỷ. Hai người rơi ùm xuống nước. Tu Kỷ phóng chưởng đánh vào đầu vương phi. Phi lặn xuống dưới nước. Chưởng của Kỷ làm nước bắn tung lên thành cột. Trong khi ấy, một người từ chiến lũy Nam ngạn tung mình nhảy ùm xuống sông. Vừa rơi xuống, người đó lại vọt lên cao như con cá. Cứ như thế, người đó vọt hơn mười lần thì đến bên Đào Bật, tay rút kiếm đâm y. Đào Bật vội lặn xuống nườc. Người đó cũng lặn theo y. Tín-Nghĩa vương nhận ra người đó là Dương Minh. Cuộc chiến dưới nước giữa Ngọc-Nam, Tu Kỷ; Dương Minh, Đào Bạt diễn ra ác liệt trước mắt hàng mấy vạn người. Sau hơn khắc, Tu Kỷ, Đào Bật đã cảm thấy mệt mỏi lắm rồi. Hai người lặn xuống dưới nước, chuồn sang Bắc ngạn. Ngọc-Nam, Dương Minh cũng lặn theo. Không biết những gì xẩy ra dưới nước, chỉ thấy sóng cuồn cuộn nổi lên. Hơn khắc sau, từ giữa giòng sông « ầm » một tiếng, vương phi Ngọc-Nam tay túm tóc Tu Kỷ vọt lên khỏi mặt nước, tà tà đáp lên sàn chiến hạm. Phi ném y xuống mặt chiến hạm đến bộp một tiếng. Chư quân thấy mắt y mở trừng trừng, bụng chương lên như cái trống. Võ sĩ trói y lại. Còn vương phi vào khoang chiến hạm thay y phục. Tiếp theo, Dương Minh túm tóc Đào Bật tung lên chiến hạm, người y bị ba bốn vết thương, máu chảy đầm đìa. Tín-Nghĩa vương dùng mưu bắt được hơn ba vạn quân triều, hơn vạn quân tân-đằng-hải rồi, vương nhìn lại bờ Bắc: Hiệu Hùng-lược, thủy quân tuy ít hơn quân Tống, nhưng đã chọc thủng chiến tuyến khiến hàng ngũ quân Tống rối loạn. Tướng Lý Thật với đội võ sĩ cận vệ vẫn can đảm đứng chỉ huy chống trả. Vương cho hạm đội Thần-phù kết bè làm phù kiều, rồi ra lệnh: – Dương Minh, Phương-Cúc với hiệu Long-dực trấn chiến lũy, bảo vệ phù kiều. Trần Ninh, Trần Ngọc-Hương, Lý Ngũ, Mai Ngũ đem hiệu Đằng-hải vượt sông đánh ngược trở lên, tiếp viện Ngô Ức, Phương-Dược. Trần Ninh, Ngọc-Hương phi ngựa dẫn đầu cánh tả; Lý Ngũ, Mai Ngũ dẫn đầu cánh hữu. Binh sĩ hiệu binh Đằng-hải như đoàn sư tử đói reo lên rung động mặt sông, thoáng một cái đã vượt phù kiều đánh vào hông trận tuyến của Tống. Trận Tống bị cắt làm ba làm bốn. Các chỉ huy tân-đằng-hải chưa có kinh nghiệm chiến đấu, chưa quen phối hợp, thì đấu sao lại Thiên-tử-binh? Thế là trận Tống bị vỡ. Quân Việt xung vào chém giết, không đầy một khắc, bao nhiêu quân Tống còn lại, hoặc đầu hàng, hoặc bị giết. Biết thế nguy Lý Thật cùng đội võ sĩ tung mình chạy về hướng Bắc. Nhưng một người mặc quần áo nâu, tóc đã bạc, chỉ huy một đội võ sĩ dàn ra trấn trước mặt y. Kinh hoàng, y kêu lên: – Phải chăng người là Phụ-quốc thượng tướng quân, tổng lĩnh thị vệ Vương Văn? – Đúng thế, Vương Văn là tên giả. Tên thực của ta là Trần Phụ-Quốc. Dường như người có quen ta? – Trước đây tiểu nhân từng là thị vệ dưới quyền tướng quân. Xin tướng quân tha cho tiểu nhân. Phụ-Quốc đưa mắt nhìn Trần Ninh, Ngọc-Hương như hỏi ý kiến. Trần Ninh lắc đầu: – Xin sư bá tha lỗi. Y là bộ hạ cũ của sư bá, nhưng nay y là kẻ đi chiếm nước của đệ tử. Đệ tử không thể tha cho y. Phụ-Quốc lắc đầu, cùng đội võ sĩ rút ra phía bờ sông. Trần Ninh hô lên một tiếng, đội cung thủ thuộc hiệu Đằng-hải buông tên, đám võ sĩ Tống không kịp phản ứng, bị bắn ngã gần hết. Lý Thật tung mình chạy, Lý Ngũ đưa mắt cho vợ; Mai-Ngũ bắn theo hai viên thuốc, kình lực kêu lên tiếng véo. Lý Thật đang lơ lửng trên không, bị hai viên thuốc Đoạn-cân hoàn trúng đầu gối. Hai chân y bị tê liệt, y rơi xuống như trái mít rụng. Thiên-tử binh định trói y lại. Biết thế nguy, tay y rút kiếm đưa lên tự đâm vào ngực tự tử. Thế là trận chiến ở Nam ngạn, Bắc ngạn Vạn-xuân chấm dứt. Trên suốt một giải đất Bắc ngạn sông Cầu, xác người, xác ngựa, xe cộ, quân trang, vũ khí nằm la liệt dài đến hơn mười dặm. Tín-Nghiã vương ra lệnh: – Trần Ninh, Ngọc-Hương, Lý Ngũ, Mai Ngũ mau đem quân tiến về Nham-biền bắt tay với Trung-Thành vương, rồi tiến về Tây đốt phá hậu cứ quân Quách Qùy. – Ngô Ức đem hiệu Hùng-lược, xuống hạm đội Thần-phù cũng ta tiến về Như-nguyệt. Giữa lúc đó có tiếng quân reo, tiếng ngựa hí tiếng vũ khi chạm nhau từ xa vọng lại, rồi lửa từ căn cứ Tống ở Nham-biền bốc cháy ngùn ngụt. Trần Ninh, Ngọc-Hương cầm cờ phất lên dẫn đầu cánh tả; Ly Ngũ, Mai ngũ dẫn đầu cánh hữu. Hiệu binh Đằng-hải thiện chiến anh hùng nhất Đại-Việt, từng làm mưa làm gió trong trận Hỏa-giáp, Ung-châu vượt phù kiều như đàn sư tử đói, vừa reo vừa tiến. Trống thúc nhịp nhàng. Tín-Nghĩa vương bảo Ngô Ức, Phương Dược: – Hai em cho cho quân lên sàn chiến thuyền phất cờ, reo hò, thúc trống, hư trương thanh thế làm như tiến về Như-nguyệt. Ngô Ức hỏi: – Vương gia! Tại sao ta phải làm thế? – Ta ước tính giờ này, quân Quách Quỳ đã phá vỡ phòng tuyến Như-nguyệt đang tiến về Thăng-long. Cho nên ta hư trương thanh thế, để y sợ mà rút quân về Bắc Như-nguyệt. Bấy giờ công chúa Thiên-Ninh sẽ tái chiếm chiến lũy Như-nguyệt. Còn chúng ta sẽ dàn ra không cho Tóng tái đổ bộ Như-nguyệt nữa. Ngô Ức y lệnh thi hành. Một đoàn chiến thuyền dàn ra tới mấy dặm, phất cờ, thúc trống, quân reo hò từ từ tiến về hướng Tây. Tín-Nghĩa vương với vương phi Lê Ngọc-Nam ngồi trên sàn một soái thuyền. Vương thấy vương phi luôn bồn chồn nhìn về hướng Tây thì hỏi: – Em có gì không yên tâm? – Em lo quá, nếu Như-nguyệt thất thủ thì Thanh-Thảo ắt lành ít dữ nhiều. Trong Hồng-hà ngũ long, thì Ngọc-Huệ đã hy sinh ở Ngọc-sơn rồi. Không lẽ trận này đến Thanh-Thảo? – Em có lo cũng vô ích thôi. Buổi họp ngày mùng một Tết, chúng ta đã khẳng định rằng trấn ở Như-nguyệt là cầm chắc cái chết trong tay. Giờ này e Thanh-Thảo đã hy sinh rồi cũng nên. Quân sĩ đã băng bó cho Đào Bật, dốc ngược đầu cho nước ra khỏi bụng Tu Kỷ, rồi giải tới trước mặt vương với vương phi. Tu Kỷ vẫn không khuất phục: – Vương phi! Đánh nhau dưới nước, thì vương phi thắng mỗ, chứ đánh nhau trên cạn thì mỗ nhất định thắng vương phi. Nghĩ lại, một đời Tu mỗ, anh hùng cái thế, mà bị bắt ở đây như thế này, thì cũng đáng tiếc thực. Vương phi Ngọc-Nam là người ôn nhu văn nhã bậc nhất trong Hồng-hà ngũ long. Nghe Tu Kỷ tỏ ý bất khuất, phi cười: -Tu tướng quân nói đúng. Bản lĩnh Tu tướng quân cao thâm hơn ta nhiều. Phương-Dược ngồi cạnh vương phi Ngọc-Nam, bà lên tiếng hỏi: – Tu tướng quân! Tướng quân có biết vương phi biệt hiệu là gì không? –???!!! – Hồi niên thiếu vương phi cùng bốn người bạn nữa nổi danh là Hồng-hà ngũ long. – Thế ngũ long là những ai? – Hoàng-long là Linh-Nhân hoàng thái hậu. Bạch-long là Nhu-mẫn, Đoan-duệ, Anh-văn công chúa Trần Ngọc-Huệ. Thanh-long là vương phi Trung-Thành vương nhũ danh Nguyễn-thị Trinh-Dung. Hồng-long là Hòa-huệ, Ninh-tĩnh, Ôn-văn công chúa Vũ Thanh-Thảo. Tu Kỷ thở dài: – Như vậy vương phi đây là Hắc-long? – Không, Huyền-long chứ không phải hắc. Này tướng quân! Tướng quân được võ lâm tướng sĩ, Tống đặt cho mỹ danh là Xích-ô có đúng thế không? Tu Kỷ kêu lên: – Ta bại là phải! Ta bại là phải! Hỡi ôi! Con quạ lửa mà nhảy xuống nước, đấu với rồng đen, thì kết quả đã thấy rõ rồi. Phương Dược hỏi Đào Bật: – Đào tướng quân! Nếu đánh nhau trên cạn, anh Dương Minh của chồng tôi thực không đỡ nổi ba chiêu của tướng quân. Nhưng tướng quân có biết biệt hiệu của anh Dương Minh là gì không? –???!!! – Phu quân tôi là người đứng hàng thứ sáu trong Tây-hồ thất kiệt. Anh Dương Minh đứng hàng thứ nhì. Sau trận đột kích đêm Giao-thừa, nguyên soái Quách Quỳ gọi Tây-hồ thất kiệt là Giao-long thất quái. Phó nguyên soái Triệu Tiết gọi là Giao-chỉ thất long. Đào tướng quân có biệt hiệu là Trầm-hà cư sĩ phải không? – Đúng thế. – Trầm là con sông Trầm, nhưng cũng có nghĩa là chìm. Hà là sông, nhưng cũng có nghĩa là con tôm. Con tôm, mà gặp giao-long, thì sống sao nổi? Vậy tướng quân có muốn nói gì nữa không? – Bại tướng thì chỉ có chết mà thôi. Phu nhân giết ta đi cho rảnh. – Được! Lát nữa chúng ta sẽ đem hai người về Ngọc-sơn tế công chúa Trần Ngọc-Huệ với tướng quân Bùi Hoàng-Quan. Một con thuyền nhỏ áp mạn vào chiến hạm, rồi một người tóc bạc như cước, nhưng mặt đẹp vô cùng tung mình nhảy lên. Người đó là Trần Phụ-Quốc. Tín-Nghĩa vương với vương phi cung tay: – Đại sư bá. Đào Bật thấy Phụ-Quốc thì kêu lên: – Người! Người! Phải chăng người là đô đốc Tương-giang hồ Động-đình, sau làm Phụ-quốc thượng tướng quân tổng lĩnh thị vệ chăng? Phụ-Quốc không nhận ra Đào Bật, ông hỏi: – Dường như người có quen biết ta? – Tiểu nhân là Đào Bật, trước đây làm sư trưởng ngự lâm quân dưới quyền tướng quân. Lòng Phụ-Quốc nhũn ra, ông đưa mắt nhìn Tín-Nghĩa vương, mà không dám nói một câu. Hiểu ông bác thi sĩ nhiều tình cảm của mình hơn ai hết. Vương cung tay: – Việc Tu, Đào tướng quân xin để sư bá phát lạc. Phụ-Quốc nói với Tu, Đào bằng giọng ôn tồn của kẻ cả: – Hai tướng quân là những anh tài của đất Hoa-hạ, trí dũng có thừa. Hai chục năm qua, vào sinh ra tử biết bao phen, mong có chút công danh. Thế mà cho đến nay, cái tước hầu cũng chưa thấy đâu. Trong khi bọn thư sinh mặt trắng ngồi ở Biện-kinh gây chiến với lân bang, rồi bắt chư tướng lăn mình vào chỗ chết. Nếu như việc thành, thì Hy-Ninh cho là công của chúng. Còn thất bại, chúng đổ lên đầu chư tướng, rồi đem giết cả nhà. Hỡi ôi! Nam nhi đại trượng phu da ngựa bọc thây là truyện thường, nhưng đầu bị chém vì bại trận; thây mình, đầu mình; thây vợ, thây con... dĩ chí thây cha mẹ bị đem phơi ở chợ cho dân chúng coi. Nhà cửa, ruộng đất bị tịch thu thì thực là thảm thương. Phụ-Quốc bấu tay hai cái, dây trói hai người dứt rời, ông lại lấy bầu rượu bên hông đưa cho Tu, Đào: – Uống đi, rồi ta đưa vào bờ. Sau trận này, ví dù Quách Quỳ có chiếm được Đại-Việt, thì hai tướng quân cũng không thể được thăng quan tiến chức. Vậy từ nay, hai tướng quân nên cáo bệnh, chẳng nên xuất trận nữa, nhớ không? – Dạ. Bấy giờ là tháng giêng, tiết trời lạnh giá, mà hai người ở dưới nước khá lâu, rồi bị trói với quần áo ướt, người run lập cập. Bây giờ được rượu thì mừng chi siết, hai người vội đưa lên miệng uống hết sạch; rồi cung tay vái Phụ-Quốc, Tín-Nghĩa vương, vương phi, sau đó theo võ sĩ đội Giao-long xuống con thuyền nhỏ bơi vào bờ. Ghi chú, QTNC, TTCTGCK chép rằng: « Đào Bật, Tu Kỷ là hai tướng tài, thế mà sau khi bại trận, được giặc tha cho về, cáo ốm cho đến ngày lui quân ». (Xin cáo lỗi, bạn CDDLT không "scan" được hình)