ội Camel đã cuốc bộ quay trở lại Foggy Bottom và bắt tàu điện ngầm tới nhà ga Liên minh, ở đó họ ăn bữa tối muộn ở quầy bán đồ ăn trong tầng dưới và bàn bạc mọi chuyện. Sau đó, họ tới bãi đỗ xe của nhà ga để lấy xe. Stone quyết định cưỡi chiếc sidecar cùng với Reuben. Ông quay sang nhìn Caleb và Milton, hai người đang trèo vào chiếc Malibu.
“Được rồi, hai người các cậu có thể về căn hộ của cậu, Caleb. Tôi tin là ở đó các cậu sẽ được an toàn, nhưng làm ơn phải hết sức cảnh giác.”
“Chờ một phút đã,” Caleb nói giật giọng. “Cậu và Reuben đi đâu bây giờ?”
Stone ngần ngừ. “Tôi chỉ nhờ Reuben đưa tôi quay trở về nhà thôi mà.”
Caleb chằm chằm nhìn bạn mình. “Cậu nói dối! Các cậu đang định tới Purcellville, chỗ ở của tên kia.”
“Tyler Reinke,” Milton nói to, trừng mắt nhìn Stone.
“Các cậu đang định tới đó,” Caleb nói tiếp. “Và các cậu không muốn chúng tôi đi cùng vì các cậu sợ chúng tôi sẽ gây cản trở.”
“Hãy nghĩ xem, Caleb, cậu và Milton hoàn toàn không có chút kinh nghiệm nào trong những chuyện như thế này. Trong khi đó Reuben và...”
“Tôi không quan tâm,” Caleb gằn giọng. “Chúng tôi cũng đi.”
“Tôi e là tôi không thể cho phép điều đó,” Stone điềm tĩnh nói. “Nếu chúng ta bị phát hiện, hắn sẽ tóm được tất cả bốn chúng ta thay vì đơn giản chỉ có hai người.”
Caleb lên tiếng với vẻ đầy tự trọng, “Không thể cho phép điều đó! Chúng tôi là người lớn cả rồi, Oliver. Và là những thành viên đầy đủ của Hội Camel. Và nếu cậu không đồng ý để chúng tôi đi, tôi sẽ bám ngay đằng sau cậu và bấm còi xe suốt cả chặng đường, và hãy để tôi nói cho cậu biết, còi xe của tôi kêu như một khẩu thần công đang khạc đạn đấy!”
“Và tôi cũng đã xác định được nhà của hắn qua máy tính của mình bằng cách sử dụng phần mềm MapQuest,” Milton nói. “Phải nói là sẽ rất khó tìm nếu không có những chỉ dẫn chi tiết mà tình cờ tôi lại có trong túi mình đây.”
Stone nhìn Caleb, Milton và cuối cùng là Reuben. Ông nhún vai.
“Tất cả vì một người và một người vì tất cả,” Reuben nói.
Cuối cùng Stone cũng phải gật đầu một cách miễn cưỡng.
“Nếu đã thống nhất vậy thì chẳng phải chúng ta chỉ cần dùng xe của tôi là đủ rồi còn gì?” Caleb nói.
“Không,” Stone vừa trả lời vừa chăm chú nhìn chiếc xe máy. “Thực sự tôi đã mê cái việc đi trong cỗ máy kỳ cục kia rồi, và có thể biết đâu đêm nay nó lại có ích.”
Họ hướng về phía Tây, đi theo Đường số 7 ở Virginia hướng về phía Tây Bắc, đi qua ngay sát trụ sở của NIC khi họ len lỏi qua khu Leesburg. Một tấm biển ở một trong những giao lộ báo hiệu hướng đi và khoảng cách dẫn đến trung tâm tình báo. Lần nào Stone cũng phải ngạc nhiên vì thực sự là còn có cả những tấm biển chỉ đến NSA, CIA và cả các cơ quan rất nhạy cảm khác. Tuy nhiên, ông thừa nhận, ngay cả những chỗ này cũng phải có khách viếng thăm. Mặc dù vậy, kể ra đây cũng là vết gợn trong đặc điểm “bí mật” của cái nghề này.
Nơi Reinke sống mang dáng dấp nông thôn rất rõ nét. Họ men theo những con đường vắng vẻ quanh co uốn lượn cả nửa tiếng đồng hồ sau khi rời Đường số 7, cuối cùng Milton cũng tìm thấy tấm biển chỉ đường mà họ muốn. Ông ra hiệu cho Caleb tấp xe vào bên lề đường. Reuben lùi xe lại phía sau họ, rồi ông cùng với Stone bước xuống chiếc xe máy và vào xe ô tô cùng hai người kia.
Milton nói, “Từ con đường kia tới nhà hắn còn hai phần mười dặm nữa. Tôi đã kiểm tra chéo những địa chỉ khác trên này. Chẳng có nhà cửa nào khác cả. Nhà của hắn là ngôi nhà duy nhất.”
“Biệt lập kinh khủng,” Reuben vừa nói, vừa liếc mắt nhìn quanh với vẻ lo lắng.
Stone nhận xét, “Những tên giết người vẫn nổi tiếng về yêu cầu riêng tư mà.”
“Vậy kế hoạch thế nào đây?” Caleb hỏi.
“Tôi muốn cậu và Milton ở nguyên trong xe...”
“Oliver!” Caleb bật lên phản đối ngay lập tức.
“Cứ nghe êm đã trở thành một nghi lễ đối với Djamila, vừa là để giải tỏa sau một ngày dài phải đóng vai vú em cho ba cậu bé nghịch ngợm, cũng vừa là để in sâu vào trí nhớ vô số con đường và lối đi tắt cần thiết cho nhiệm vụ của cô. Cô lái xe vào trung tâm thị trấn Brennan và đi qua Bệnh viện Mercy. Hôm nay Adnan al-Rimi không trực, nhưng có gặp thì Djamila cũng không biết gã này. Tương tự như vậy, cô chẳng có lý do gì để nhìn sang bên phải và quan sát căn hộ nơi mà, đúng thời điểm đó, có một cặp súng trường bắn tỉa M-50 được ngụy trang đang ngắm về phía bệnh viện như một phần của bài tập luyện.
Con đường dẫn cô đi qua cửa hàng sửa chữa ô tô. Theo thói quen, cô lái xe dọc theo con hẻm qua một dãy những cánh cửa được bố trí ở đó. Hành trình của cô vào cái ngày đã định đó sẽ đưa cô qua phía Nam của trung tâm thị trấn, và sau đó cô sẽ hướng về phía Tây trên con đường chính dẫn ra khỏi Brennan. Chỉ trong vòng ba mươi phút thôi là phần việc của cô sẽ hoàn thành. Cô cầu nguyện Chúa cùng sự khôn ngoan và lòng can đảm của người sẽ dẫn lối cho cô.
Cô tiếp tục hành trình của mình và một lát sau đã chạy qua địa điểm tổ chức buổi lễ. Tất cả những gì cô biết là Tổng thống của đất nước này sẽ phát biểu tại đây trước một đám đông rất lớn. Ngoài vấn đề đó ra, mảnh đất phủ đầy cỏ đó chẳng có ý nghĩa gì đối với cô cả.
Những chuyến lang thang trước đó từng dẫn cô đi qua nhà của George và Lori Franklin, chủ của cô. Nếu bạn là người yêu thích phong cách kiến trúc truyền thống của Mỹ bạn sẽ thấy đó là một ngôi nhà rất xinh xắn. Nhưng điều Djamila thích nhất ở ngôi nhà của gia đình là Franklin là khu vườn phía sau. Nơi có đầy cỏ để chạy nhảy và cây để leo trèo cùng những chỗ có thể trốn được mỗi khi cô chơi với các cậu bé. Vốn sinh ra và lớn lên ở vùng sa mạc, Djamila phải thừa nhận rằng Mỹ là một đất nước tuyệt đẹp. Ít nhất thì cũng là ở bên ngoài.
Con đường Djamila quay về căn hộ của mình lại đưa cô qua nhà của gia đình Franklin một lần nữa. Khi chiếc xe thùng chầm chậm chạy qua, theo bản năng, Djamila ngước nhìn lên những ô cửa sổ sát mái nhà nơi ba cậu bé đang ngủ ngon lành trong hai căn phòng. Cô nhận ra mình càng ngày càng gắn bó và với chúng gần gũi hơn. Chúng là những đứa trẻ ngoan, nhưng không nghi ngờ gì nữa, khi lớn lên sẽ trở thành những kẻ thù ghét đạo Hồi, đó là điều cô hoàn toàn tin chắc. Nếu như chúng thực sự là của cô, cô sẽ dạy cho chúng biết đâu là chân lý; cô sẽ chỉ cho chúng thấy ánh sáng thực sự của tín ngưỡng và thế giới của cô. Có thể chúng sẽ thấy sự khác biệt giữa hai bên chẳng là gì hết so với những điểm tương đồng. Djamila dừng xe lại khi cô nghĩ đến điều đó. Đã từ lâu nay cô vẫn được dạy rằng nước Mỹ và thế giới Hồi giáo không có khả năng hòa giải với nhau. Và đúng, chắc chắn phải là như vậy. Chúng đang tàn phá đất nước của mày, cô tự nhắc nhở mình. Chúng là một dân tộc hung hãn với đội quân không thể đánh bại. Chúng lấy đi những gì chúng muốn, bất kể đó là dầu hay mạng sống. Vậy mà khi cô ngắm nhìn khu vực thanh bình này, thật khó có thể tưởng tượng ra tất cả những điều đó. Thật khó.
Alex nhìn quanh nội thất ngôi nhà của Kate và có cảm tình ngay lập tức với những gì đang bày ra trước mặt mình. Mọi thứ không quá ngăn nắp, thỉnh thoảng cũng có chút bừa bộn ở chỗ này chỗ kia. Bản thân Alex cũng không phải là người quá ngăn nắp và anh nghĩ mình khó có thể ở lâu bên cạnh một người như vậy. Và lại còn sách ở khắp mọi nơi, như thế cũng là một điều tốt. Vốn không phải là người ham đọc sách từ thời đi học, Alex đã bù đắp lại điều đó khi anh gia nhập Cơ quan Mật vụ. Những chuyến bay dài dằng dặc cho phép anh có rất nhiều thời gian cho những trang sách. Và có vẻ như Kate cũng không phải là một độc giả cao đạo, kiêu kỳ gì. Bên cạnh rất nhiều tác phẩm văn học kinh điển được xếp ngay ngắn trên giá, Alex cũng nhận thấy một mức độ vừa phải các tác phẩm văn học thương mại.
Rải rác trên bàn và trên tường là những bức ảnh gia đình, và qua những bức ảnh đó anh ngắm nghía Kate Adams từ khi cô còn là một thiếu nữ nhút nhát và lộc ngộc đến khi trở thành một phụ nữ tự tin đầy quyến rũ.
Trong góc của căn phòng nơi chiếm phần lớn cả diện tích tầng một là một cây đàn piano lớn màu đen.
Khi từ phòng ngủ của của mình trên gác đi xuống, Kate đã thay sang quần jean, áo thun chui đầu và để chân trần.
“Xin lỗi,” cô nói, “em sắp nổ tung sau một ngày đi giầy và mặc váy rồi.”
“Đừng để những bộ vest nghìn đô và bộ dạng chải chuốt này đánh lừa em, bản thân anh cũng là một người qutôi nói hết đã nào, Caleb. Tôi muốn cậu và Milton ở nguyên trong xe, nhưng trước tiên chúng ta sẽ lái xe lên trên kia và xem là có ai ở nhà không. Nếu có, chúng ta sẽ rời đi. Nếu không, cậu và Milton sẽ quay lại đây và đóng vai như người canh gác cho chúng tôi. Đây là con đường duy nhất dẫn vào hoặc đi ra, phải vậy không, Milton?”
“Đúng.”
“Chúng ta sẽ liên lạc bằng điện thoại di động. Nếu các cậu nhìn thấy có người đến, hãy gọi cho chúng tôi ngay lập tức và chúng tôi sẽ có những hành động cần thiết.”
“Các cậu định làm gì vậy?” Caleb hỏi. “Đột nhập vào nhà hắn à?”
“Cậu biết đấy, Oliver, có thể nhà hắn có trang bị hệ thống báo động,” Reuben cảnh báo.
“Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu hắn có.”
“Nếu thế thì chúng ta vào trong bằng cách nào đây?” Reuben hỏi.
“Cứ để tôi lo chuyện đó.”
Ngôi nhà quả thật trông tối om và có lẽ bên trong không có người, vì không thấy chiếc xe nào bên ngoài trong khi bản thân ngôi nhà lại không có ga-ra. Trong khi Milton và Caleb đứng gác ở một vị trí khuất nẻo gần lối rẽ vào con đường, Reuben và Stone lái đi tiếp trên chiếc Indian, rồi đỗ dưới một rặng cây phía sau ngôi nhà và đi bộ vào trong.
Đó là một ngôi nhà bằng ván ghép hai tầng với lớp sơn màu trắng. Stone dẫn Reuben ra phía sau nhà. Cánh cửa ở đây rất chắc chắn, nhưng ngay cạnh đó có một khung cửa sổ. Stone nhòm vào trong cửa sổ và ra hiệu cho Reuben cùng nhìn.
Một tia sáng màu xanh nhạt phát ra từ một vật thể trông rất mới gắn trên bức tường đối diện với cánh cửa.
“Vậy là hắn có một hệ thống an ninh, được rồi,” Reuben lầm bầm. “Giờ thì sao đây?”
Stone không trả lời bạn. Ông gí sát mặt hơn vào cửa sổ. “Chúng ta phải tính đến khả năng hắn có thiết bị chuyển động. Điều đó càng khiến mọi chuyện thêm phức tạp.”
Bất thình lình, có thứ gì đó lao vụt về phía họ từ bên trong ngôi nhà kèm với hai vệt sáng màu ngọc bích. Nó đâm thẳng vào cửa sổ và nẩy ngược trở lại. Cả hai người cùng giật lùi lại, Reuben đã bắt đầu quay người chạy nhưng Stone đã kịp gọi với lên.
“Không sao đâu, Reuben,” Stone nói. “Ông Reinke có một con mèo.”
Trống ngực đập dồn dập, Reuben mò mẫm quay trở lại cửa sổ và nhìn vào đó. Trừng trừng nhìn lại ông là một con mèo đen với khoang ngực màu trắng và đôi mắt sáng quắc màu xanh to bự. Căn phòng mà họ đang nhìn vào là nhà bếp. Và có vẻ như con mèo đã nhảy lên từ bệ bếp khi nó nhận ra sự hiện diện của họ.
“Con mèo chết tiệt! Tôi cá nó là mèo cái,” Reuben vừa nói vừa nhăn mặt.
“Tại sao cậu lại nói như vậy?”
“Bởi vì phụ nữ luôn tìm cách gây ra cho tôi những cơn đau tim, đó là lý do tại sao!”
“Thật ra, sự có mặt của con mèo này làm mọi chuyện đơn giản đi rất nhiều,” Stone nói.
“Tại sao cậu lại cho là như vậy?”
“Những hệ thống an ninh có thiết bị phát hiện chuyển động không chung sống hòa bình được với lũ mèo.”
Reuben búng ngón tay đánh tách một tiếng. “Những hành lang dành cho vật nuôi là nơi thiết bị phát hiện chuyển động không quét tới?”
“Chính xác.” Stone đang rút ra thứ gì đó từ trong túi của mình. Đó là một chiếc hộp da màu đen được ông mang đi từ căn phòng bí mật. Ông mở chiếc hộp ra. Bên trong là một bộ đồ nghề ăn trộm hạng nhất.
Reuben ngây người nhìn những dụng cụ tội phạm này rồi ngước lên nhìn bạn mình và nói, “Tôi không muốn biết gì đâu đấy.”
Cánh cửa gian bếp được mở ra chỉ trong vòng mười giây sau đó.
“Làm thế nào cậu biết được rằng cửa sổ không được nối với hệ thống an ninh?”
“Cửa sổ mà cũng nối báo động cùng với cả thiết bị phát hiện chuyển động thì hơi quá cẩn thận,” Stone trả lời. “Với lại một ngôi nhà cũ kỹ như thế này có tường trát thạch cao rất khó luồn dây bên dưới. Tôi nghi ngờ việc ông Reinke có thể giải trình được chi phí. Và tôi đã kiểm tra xem có cột an ninh không dây gắn trên cửa sổ hay không trước khi tôi cậy nó ra.”
“Được rồi,” Reuben gặng hỏi. “Giờ thì tôi có muốn biết rồi đấy. Thế quái nào mà cậu lại biết rõ về những thứ như cột an ninh không dây gắn trên cửa sổ?”
Stone liếc nhìn ông với vẻ mặt hoàn toàn ngây thơ. “Thư viện vẫn mở cửa cho công chúng mà, Reuben.&rdqu hai cách đều không mấy tác dụng. Và rồi ánh đèn pha của một chiếc xe khác cắt xuyên qua màn đêm hướng thẳng về phía anh.
“Ôi, chết tiệt!” Anh bẻ quặt vô lăng về bên phải, và chiếc Cherokee luồn vào giữa hai chiếc xe đang đậu, nơi một thân cây lớn làm cái việc mà hệ thống phanh của chiếc xe không thể làm được. Cú va chạm làm bật tung túi khí, làm anh choáng váng trong giây lát. Alex gạt cái túi ra khỏi mặt mình, cởi dây an toàn và loạng choạng bước xuống khỏi xe. Anh cảm thấy máu trên môi mình, khuôn mặt anh bỏng rát, có lẽ là vì hơi nóng từ chiếc túi khí.
Anh ngồi bên vệ đường, cố gắng lấy lại hơi thở và cũng là cố để không nôn thốc nôn tháo khi chiếc kem cà phê bạc hà và lon bia sau đó đang trào lên trong cổ họng anh.
Điều tiếp theo mà anh biết là có ai đó đang cúi xuống bên cạnh anh. Alex đang định nói là mình không sao thì bỗng nhiên anh thấy cứng đờ người. Cái vật cứng ngắc và lạnh toát đó áp chặt vào cổ anh. Theo bản năng anh đưa cánh tay chém mạnh ra và giáng thẳng vào đầu gối người đó, làm hắn phải khuỵu xuống.
Người đàn ông hét lên vì đau đớn, nhưng khi Alex cố gượng đứng lên, một cú đánh choáng váng giáng thẳng vào đầu anh. Sau đó anh nghe thấy tiếng bước chân chạy đi và rồi tiếng một chiếc xe rồ máy. Một lát sau anh chợt hiểu tại sao kẻ kia phải vội vàng bỏ chạy khi những ánh đèn xe khác xuất hiện và mọi người bắt đầu vây quanh anh.
“Anh có sao không?” họ thi nhau hỏi han anh, hết người này đến người khác.
Alex vẫn thấy còn nguyên cảm giác lạnh ngắt của nòng súng áp vào cổ mình. Rồi một ý nghĩ chợt ập đến. Phanh xe của anh!
Alex đẩy mọi người ra và bất chấp cơn đau ở đầu, anh chộp lấy một chiếc đèn pin trong chiếc Cherokee rồi lia ánh đèn vào dưới khoang lái phía trước bên tay trái. Dầu phanh chảy tràn khắp nơi. Có kẻ đã làm gì đó với xe của anh. Nhưng nơi duy nhất chúng có thể làm như vậy là ở chỗ của Kate. Kate!
Anh thọc tay vào túi áo tìm điện thoại di động nhưng không thấy. Anh giật tung cánh cửa chiếc Cherokee bẹp rúm của mình. Điện thoại của anh đang nằm trên sàn xe, vỡ làm hai mảnh do tác động của cú va chạm. Anh gầm lên tức giận. Đến lúc này thì những người chạy đến giúp đỡ anh đều đã lùi cả lại, vẻ mặt hoảng sợ trước những hành động kỳ quái của anh.
Và rồi một người trong số họ chợt nhận ra khi anh quay ngoắt lại và vạt áo khoác bị hất tung lên. Người này hét lên, “Anh ta có một khẩu súng!” Nghe câu này tất cả mọi người đều chạy tan tác như những con bồ câu hoảng loạn.
Anh bắt đầu chạy đuổi theo họ. “Tôi cần điện thoại của các anh! Điện thoại!” anh gào lên. Nhưng họ đều đã chạy đi hết.
Alex quay người lại và bắt đầu chạy thục mạng ngược lên phố 31. Máu đang chảy ròng ròng xuống áo sơ mi của anh từ vết thương trên trán, chân và tay anh có cảm giác như đứt rời khỏi cơ thể, nhưng anh vẫn chạy tiếp, ngược lên dốc cho đến khi anh cảm thấy hai lá phổi của mình như bị xé toang ra. Anh chạy đến phố R và rẽ trái, tăng gấp đôi tốc độ, như vừa tìm thấy một nguồn năng lượng và cấp số mới mà anh chưa bao giờ biết là mình có. Khi ngôi nhà hiện ra trước mặt anh, Alex rút súng ra.
Anh chạy chậm dần lại và khom thấp người xuống khi lẻn vào khoảng sân. Căn nhà chính tối om. Anh khẽ khẽ men theo cổng vườn dẫn vào sân sau và ngôi nhà ngang. Cổng đã bị khóa chặt, vì vậy anh trèo qua tường rào. Chân anh chạm xuống lớp mặt cỏ ở phía bên kia và Alex ngồi thụp xuống để quan sát toàn bộ khu vực xung quanh và lấy hơi. Đầu anh đau như búa bổ, còn hai tai thì đập lùng bùng đến nỗi anh không chắc liệu còn nghe được không nữa. Anh tiếp tục tiến về phía trước, khom thấp người, len lỏi qua sự che chắn của những bụi cây dẫn về phía ngôi nhà ngang. Vẫn còn ánh điện sáng trên tầng hai. Anh hít liền mấy hơi thật sâu, cố bình tĩnh lại, nắm chặt lấy khẩu SIG.
Anh nhích dần về phía trước, mắt không ngừng lia khắp khoảng trống phía trước qua những bụi cây. Nếu có kẻ đang ở ngoài kia ngắm qua ống kính... Và rồi một bóng điện bật lên ở tầng một của ngôi nhà ngang. Alex nhìn qua cửa sổ và Kate hiện ra trước mắt anh. Tóc cô được buộc túm lại phía sau thành một lọn đuôi ngựa dài. Cô vẫn để chân trần nhưng lúc này chỉ mặc một chiếc áo phông dài. Anh nhích thêm về phía trước một chút và ánh mắt của anh rời khỏi Kate hướng về phía bên ngoài ngôi nhà ngang tới hàng bách Leland rậm rạp bao quanh khoảng trống phía sau nhà. Nếu Alex là kẻ đang rình bắn tỉa, đó chính là vị trí anh sẽ chọn.
Anh hít thêm một hơi nữa để trấn tĩnh và chuyển hoàn toàn sang chế độ bảo vệ. Điều đó có nghĩa là ánh mắt của anh trở nên vững vàng và có thể lia khắp từng ô phía trước, với Kate đóng vai trò như trung tâm của “bong bóng” bảo vệ mà anh dựng lên. Người ta đồn là khi các nhân viên Mật vụ chuyển vào trạng thái chiến đấu này, họ thực sự có thể đếm được nhịp vỗ cánh của một con chim ruồi. Tất nhiên điều này nghe thật lố bịch, nhưng tất cả những gì Alex muốn làm lúc này là bảo vệ người phụ nữ của anh. Tất cả những gì anh muốn làm là phát hiện ra khẩu súng trước khi nó phát hỏa. Anh đã có tất cả ngần ấy năm huấn luyện để làm việc này. Cầu Chúa, ngần ấy năm là đủ rồi.
Và đó là khi anh nhận ra nó; ngang qua khu vườn và hướng về phía bên phải, phía sau một cụm đỗ quyên khổng lồ, ánh lấp loáng gần như không thể nhận ra của một chiếc kính ngắm gắn trên súng trường bắn tỉa. Không chần chừ, anh giương súng lên và bóp cò. Đó là khoảng cách quá xa đối với một khẩu súng ngắn, nhưng anh không quan tâm đến việc có bắn trúng kẻ bắn tỉa hay không. Anh chỉ cần đánh động để đuổi hắn ra khỏi đây.
Anh ngắm phát súng đúng vào phía sau vị trí của chiếc kính ngắm. Ngay khi anh nổ súng, nòng của khẩu súng trường hiện ra hoàn toàn, giật nẩy lên và phát hỏa. Chưa đến một giây sau, Alex đã trút thêm cả sáu viên đạn vào vị trí đó. Sau đó anh nghe thấy tiếng Kate rú lên. Rồi khẩu súng trường biến mất, và anh nghe thấy tiếng bước chân huỳnh huỵch chạy đi. Khốn kiếp, anh đã bắn trượt, nhưng cũng đã hoàn thành mục tiêu đề ra của mình. Tuy nhiên, đồ khốn kiếp đó vẫn kịp bắn một phát!
Alex vọt về phía ngôi nhà ngang. Lao sầm qua cánh cửa, anh lại nghe thấy tiếng Kate hét ầm lên. Sau đó cô ngưng bặt khi nhận ra anh. Anh lao vội tới chỗ cô, ôm choàng lấy cô và kéo cô nằm sát xuống sàn nhà, người anh đè lên người cô.
“Nằm thấp xuống, có một tên bắn tỉa bên ngoài kia,” anh thì thào vào tai cô. Anh trườn người bò sát trên sàn nhà và ấn công tắc điện, cả căn nhà ngang chìm vào bóng tối. Sau đó anh trườn trở lại chỗ cô.
“Em không sao chứ?” anh cuống cuồng hỏi. “Em không bị bắn đấy chứ?”
“Không,” cô thì thầm. Nhưng rồi cô sờ lên mặt anh. “Lạy Chúa, anh đang bị chảy máu à?”
“Anh không bị bắn đâu. Chỉ là có kẻ dùng đầu anh làm cái đe thôi.”
“Ai đã làm chuyện đó?”
“Anh không biết.” Anh thở chậm lại và dựa sát người vào lò sưởi, ánh mắt hướng về phía cánh cửa, bàn tay siết chặt báng súng. Kate trườn về phía trước, với tay lên và kéo một cuộn khăn giấy từ trên bàn xuống.
“Kate,” anh hối hả nói, “nằm thấp xuống ngay. Hắn có thể vẫn đang ở ngoài kia.”
“Anh đang chảy máu,” cô kiên quyết nói. Cô lại nhoài lên và đổ ít nước lên một tập khăn. Cô lau sạch mặt anh và kiểm tra cục u trên trán anh. “Không thể tin được là anh lại không bị bất tỉnh.”
“Nỗi sợ hãi là thuốc giải tuyệt vời đối với trạng thái bất tỉnh.”
“Em thậm chí còn không nghe thấy tiếng xe của anh chạy tới.”
“Chiếc Cherokee của anh bị phá không còn hoạt động được nữa rồi. Bị cắt dây phanh. Anh lao như đi tàu lượn cao tốc xuống dốc phố 31.”
“Nếu thế thì anh đã quay lại đây bằng cách nào?”
“Anh chạy.”
Cô sững sờ. “Anh chạy? Suốt cả quãng đường đó sao.”
“Anh đoán nơi duy nhất chúng có thể tác động đến phanh xe của anh là chỗ của em. Anh... anh phải quay lại đây. Anh phải bảo đảm là em không sao!” Anh nói một mạch trong một tràng cảm xúc hối hả, không kịp thở.
Cô ngừng lau những vết máu trên mặt anh và miệng cô bắt đầu run rẩy. Rồi Kate choàng hai cánh tay quanh người anh, mặt cô áp chặt vào cổ anh. Alex quàng một cánh tay quanh người cô.
Thật là một buổi hẹn hò đầu tiên ra trò!