Dịch giả: Ðặng Lương Mô
Chương 4
Oda Nobunaga
Người anh hùng bị phủ nhận của lịch sử Nhật Bản

    
hời chiến quốc, thời kỳ đổi mới kỹ thuật lớn
Oda Nobunaga là một trong những nhân vật nổi tiếng nhất của lịch sử Nhật Bản. Thời nay, giới trẻ vẫn còn coi nhân vật này là “bảnh”, là “tuyệt” ở chỗ đó là một người cải cách có lối sống “phá thiên hoang” [1] trong thời chiến quốc [2] Nhật Bản.
Cũng như những nhân vật lịch sử nổi tiếng khác, hình ảnh Oda Nobunaga như được lưu truyền trong truyền thuyết, trong kịch bản, nếu có phần khác với sự thực là điều khó tránh khỏi được. Tuy nhiên, vì cuộc đời và hành động của Nobunaga đã khiến ông dễ trở thành vai chính của truyện kể cũng như kịch bản, nên cái “thực ảnh” và cái “hư ảnh” của ông khác nhau tương đối ít chăng. Chỉ có một điểm khác xa, là người ta thường nói Nobunaga có tính nóng nẩy cục cằn, song thật ra ông là người chịu nhịn, nhẫn nại.
Quả thật Nobunaga là con người có tình cảm thất thường, lời nói và hành động cũng nghiêm khắc. Song nếu nhìn hành động suốt cuộc đời ông, ta mới thấy ông là người bền chí, đa mưu túc kế, hiểu biết tinh tường và nói chuyện lý thú. Những điều này rất quan trọng cho việc nhận xét nhân vật Oda Nobunaga.
Oda Nobunaga sinh năm 1534, đúng là lúc thời “chiến quốc” vừa chuyển từ giai đoạn tranh giải địa phương (nửa đầu) sang giai đoạn tranh giải toàn quốc (nửa cuối). Nên biết thêm rằng, chín năm sau thì súng nòng thép được truyền tới Nhật Bản và 15 năm sau thì Francisco Xavier [3] đặt chân lên đất Nhật Bản.
Nobunaga sinh ra đúng thời nhà mạc phủ Ashikaga đã suy đồi, toàn nước Nhật lâm vào thời loạn “hạ khắc thượng”. Từ giữa thế kỷ thứ XV, kể từ sau loạn Onin, toàn quốc Nhật Bản đã lâm vào cảnh loạn ly tứ tung, khắp nơi xảy ra những cuộc va chạm nhỏ. Tuy nhiên, kỹ thuật tiến bộ hơn và nền kinh tế cũng phát triển hơn. Thời kỳ Oda Nobunaga sống là thế kỷ thứ XVI, ở Nhật gọi là “thời chiến quốc”, song ở bên châu Âu thì thời kỳ đó gần trùng với “thời Phục Hưng (Renaissance)”. Mới nghe hai tên gọi này người ta mường tượng ra hai cảnh xã hội hoàn toàn khác nhau, song thực ra chúng lại rất giống nhau. Thời đó đã có những cải cách kỹ thuật ở khắp nơi trên thế giới, có nhiều phát hiện mới về địa lý, [4] và cải cách tư tưởng cũng tiến bộ. Nghĩa là thời cận đại đã manh nha. Gần 500 năm trước đó, từ đời Ðường mạt sang đời Tống, khoa học tự nhiên và kỹ thuật đã phát triển ở Trung Hoa. Chúng được truyền sang Tây Âu và Nhật Bản dưới dạng thức đã hoàn thành để được đưa vào thực dụng.
Thế kỷ thứ XV, một trong những kỹ thuật mới được ứng dụng ở Nhât Bản là kỹ thuật phát triển đất đai, bằng cách tát nước khỏi những đồng lầy để phân ra thành đất trồng trọt và ao hồ. Kết quả là diện tích trồng trọt tăng lên, sản lượng nông nghiệp gia tăng. Mặt khác, ao hồ thì nuôi cá, thả sen. Nhờ đó, thức ăn được phong phú hơn, tình trạng dinh dưỡng được cải thiện hơn.
Lại nữa, những vùng đất cằn cỗi cũng được dẫn nước vào, biến thành đất trồng trọt. Kết quả là ở mỗi vùng đất đều được trồng trọt hoa mầu thích hợp, xúc tiến phương thức đất nào hoa mầu nấy. Nhờ vậy đã thấy có những hoa mầu trước đó xa lạ đối với Nhật Bản, như trà, vừng (mè), khoai lang, hạt cải. Chẳng bao lâu sau, người ta thấy xuất hiện bông (gòn) và đậu. Thật ra trà và vừng là những hoa mầu đã có ở Nhật từ lâu, như đã thấy lưu giữ trong Shosoin, [5] song nhờ kết quả khai thác đất đai, những hoa mầu này đã được sản xuất ra rất nhiều.
Ðến thế kỷ XVI thì năng suất thu hoạch càng tăng, chỉ một người canh tác cũng thừa nuôi được cả gia đình. Do đó, sốngười không làm gì cũng sống được, tăng vọt lên. Những người trước kia gọi là “samurai địa phương”, tức là giai cấp địa chủ, dần dần biến thành võ sĩ samurai chuyên nghiệp. Họ là những người mà sử sách sau này gọi là “hào trưởng”.
Tuy nói thế, nhưng ở tiền bán thế kỷ XVI tức là nửa đầu của thời chiến quốc thì những hào trưởng này vẫn chưa thể bỏ nông nghiệp được. Họ còn sống ở nông thôn, kinh doanh quản lý sở đất của mình, cũng có khi tự mình canh tác đồng thời thu sưu thuế và giữ việc trị an thôn xóm.
Ở thế kỷ XX, thì những nước phát triển giầu có lại không tăng dân số, trong khi những nước đang phát triển lại có dân số tăng vọt. Thế nhưng một định luật phổ biến trong lịch sử là nếu cuộc sống được phong túc hơn thì dân số tăng lên. Nhờ khai thác đất đai và tiến bộ kỹ thuật nên năng suất sản xuất đã tăng lên, và như vậy đã làm cho dân số Nhật Bản thời chiến quốc tăng nhiều.
Ðại khái, kể từ lúc hết loạn Onin (năm 1477) cho tới trận đánh Sekigahara [6] (năm 1600), tức là trong khoảng hơn 120 năm, Nhật Bản đã tăng dân số gấp đôi và tổng sản phẩm quốc dân (GNP) gấp ba.
Ở khắp nơi, các hào trưởng xuất hiện và cùng với bọn thủ hạ của họ, làm thành những nhóm gọi là “đảng con cháu gia đình”. Ðám người này sống nhờ vào sản xuất thặng dư, làm thành một giai cấp trung gian mới. Thường ngày họ tụ tập thành vài chục người vừa làm nông nghiệp vừa lo việc quản lý đất đai và trị an. Họ là những tập thể khác hẳn với những võ sĩ quản lý nông trại, trang ấp của giới quý tộc sống ở kinh đô, như đã nói ở những chương trước. Họ kết hợp nhiều nhóm lại với nhau để một mặt chống lại kẻ địch bên ngoài, một mặt tranh giành lẫn nhau để chiếm đoạt quyền cai quản đất đai.
Vì vậy, trong giai đoạn đầu của thời chiến quốc, từ cuối thế kỷ thứ XV tới khoảng những năm 30 của thế kỷ thứ XVI hay là lúc Oda Nobunaga sinh ra, ở Nhật Bản đã có nhiều trận tranh giành, nhỏ là cỡ thôn xóm, lớn cũng không hơn cỡ quận huyện. Từ thắng lợi qua những trận đánh như vậy, hoặc qua hôn nhân hay nhận con nuôi, dần dần người ta thấy xuất hiện những hào trưởng có thế lực lớn.
Sử sách Nhật kể lại những trận đánh liên quan tới việc tranh đoạt quyền chúa của mạc phủ Ashikaga, cũng chỉ thấy nói quy mô của trận đánh là khoảng bốn, năm ngàn người. Những trận đánh xảy ra ở khắp nơi nói ở đoạn trên thì nhỏ hơn, thông thường chỉ với quy mô vài trăm người. Ðó là những trận đánh do các hào trưởng cầm đầu thôn xóm, chỉ huy động nổi vài trăm tráng đinh nông dân là cùng. Tướng dẫn đầu và quân lính như vậy chỉ là những người nửa nông dân nửa bộ đội.
Xem như vậy, chức năng của hào trưởng là vừa kinh doanh nông nghiệp vừa bảo vệ xóm làng. Do đó, nếu người cha chết yểu rồi mà người con hãy còn nhỏ thì người gia thần trưởng lão hoặc người chú trở thành người đỡ đầu nắm giữ thực quyền. Nói cách khác, kẻ có thực lực đã vươn lên được và như thế sinh ra trạng thái “hạ khác thượng”.
Bởi thế, những kẻ làm nên như vậy thường là có năng lực, lại khéo kinh doanh nông địa, nên họ càng làm tăng thêm hoa lợi, mở mang thêm ruộng đất, sản xuất hoa mầu mới, khéo lưu thông hoa mầu mới này để làm tăng thế lực của mình. Với thể lực gia tăng như vậy, họ chiếm đoạt thêm đất đai bên cạnh.
Ðến khi Oda Nobunaga sinh ra thì thực sự mới thành hình những thế lực đáng gọi là nước (tiểu quốc). Họ Hojo ở Sagami, họ Takeda ở Kai, họ Imagawa ở Tsuruga, họ Miyoshi ở Awa, họ Ouchi ở Suo v.v..
Họ Oda của Nobunaga cũng là một thế lực mới nổi dậy như trên.
Thằng đại ngốc thống nhất vùng Owari
Oda Nobunaga sinh ra trong gia đình bầy tôi của Oda Yamatonokami, ông này lại là bầy tôi giữ chức phụ tá cho thái thú châu Owari, là họ Shiba. Như vậy, họ Oda làm bầy tôi cho bầy tôi của họ Shiba, nghĩa là chẳng lấy gì làm danh giá.
Song cha Nobunaga, tức là Oda Nobuhide lại là nhân vật khá bản lĩnh. Ông mở hà cảng (cảng sông) ở nơi bản quán Tsushima, rồi khai thác mở rộng đất canh nông. Tiền làm ra từ đó ông đem mua chuộc các hào trưởng xung quanh để lấy vây cánh. Rồi ông đã được nâng lên hàng đội trưởng samurai của bốn quận thuộc châu Owari hạ, tức là làm chức lớn nhất trong hàng con cháu Oda Yamatonokami. Vùng Owari hạ ngày nay bao gồm từ thành phố Nagoya tới bán đảo Chita nghĩa là chẳng lớn là bao. Nobuhide có lãnh địa ở đó và giữ địa vị tương tự như tổ trưởng của các hào trưởng vậy.
Năm 1551 Nobuhide đột nhiên qua đời.
Nobunaga là con thứ ba của Nobuhide. Hai người anh đều là con vợ lẽ ở địa vị kém nên Nobunaga có triển vọng được nối nghiệp cha. Thế nhưng chưa chắc gì Nobunaga đã được nối nghiệp. Thời ấy chưa có lệ cho con lớn thừa kế. Vả chăng, người em cùng mẹ của Nobunaga tên là Nobuyuki lại ở thành Suemori cùng với cha. Nghĩa là khi cha là Nobuhide mất, Nobunaga có được thừa hưởng gia tài hay không còn là chuyện bấp bênh. Chức đội trưởng samurai của bốn quận vùng Owari hạ, Nobunaga có kế nghiệp được không, lại càng không chắc chắn lắm. Số là, khi cha còn sống, Nobunaga vẫn bị cha gọi là “thằng đại ngốc”.
Quả có thế, tuy là con một lãnh chúa trong tay có mấy thành, nhưng Nobunaga chỉ mặc áo ngắn, bụng thắt một sợi dây thừng đeo lủng lẳng một bầu nước, lưng khoác túi đựng đá lửa và vài vật linh tinh, cưỡi ngựa chạy nhông ngoài đồng như một tên khùng. Ðiều này đã thấy viết trong sách “Truyền ký về Nobunaga” và nhiều sách khác. Nói theo lối thời nay nghĩa là, con ông tổng giám đốc công ty mà tóc nhuộm vàng, cưỡi mô-tô chạy nhông nhông ngoài đường...
Khi cha chết, Nobunaga lúc ấy 18 tuổi, đã tới đám tang cũng ăn mặc kỳ cục như thường ngày, vốc một nắm nhang bột, ném vào bài vị cha. So với thế thì người em nhỏ hơn một tuổi là Nobuyuki đã ăn mặc chỉnh tề, làm lễ theo đúng nghi thức.
Thời đó, 18 tuổi là đã thành niên được ba năm, nghĩa là đã hoàn toàn trưởng thành rồi. Thời nay có thể coi như tương đương với người đã tốt nghiệp đại học được 5, 6 năm, nghĩa là đã tới tuổi gần ba chục rồi. Một đứa con trai như vậy mà đến đám tang cha lại ăn mặc cẩu thả, ném bột nhang vào bài vị cha, thì dẫu có bị thiên hạ đàm tiếu là “con cái đâu mà kỳ cục vậy” cũng là chuyện đương nhiên. Do đó, vấn đề chọn người thừa kế tất nhiên đã trở thành đề tài tranh luận dữ dội trong gia đình Oda vậy.
Từ thủa niên thiếu, Nobunaga đã bị nhiều người không ưa. Cha Nobuhide yêu người em, Nobuyuki, đến nỗi cho ở cùng thành Suemori với mình. Trong khi đó, Nobunaga thì cho bọn Hirate Masahide phò tá đóng giữ thành Nagoya.
Bọn Shibata Katsu’ie, Hayashi Michikatsu, tức là những trọng thần đời đời của họ Oda, cũng phần đông ủng hộ Nobuyuki.
Hơn thế nữa, chỉ hai năm sau khi cha chết, Nobunaga đã bắt người lão thần tên là Hirate Masahide do cha chỉ định làm phụ tá cho mình, phải mổ bụng. Do đó trong trận đánh với em, Nobunaga đã không được tới hai chục phần trăm thủ hạ theo mình. Sách “Truyền ký về Nobunaga” viết rằng phe ủng hộ Nobunaga chỉ có bảy trăm người, còn phe ủng hộ Nobuyuki là bảy ngàn người. Cho dù số bảy ngàn người nói như vậy là quá đáng đi chăng nữa, thì sự kiện phe Nobuyuki đông hơn cũng là điều chắc chắn.
Thế nhưng, khi nhập cuộc thì Nobuyuki trọng lễ nghi, chỉ lo bàn tính dình dang chứ không thấy ra quân. Các tướng thì mỗi người một ý kiến nên hành động không thống nhất.
Trong khi đó, hai tướng Shibata Katsu’ie và Hayashi Michikatsu sốt ruột, xông ra đối đầu với Nobunaga. Nobunaga dẫn khoảng bảy trăm quân, tự mình đi đầu xung trận đâm chết em của Hayashi Michikatsu là Mitsuharu. Shibata Katsu’ie giật mình trước khí thế của quân Nobunaga, đã rút lui, và Nobunaga đã đoạt được thắng lợi.
Ðến đây, ta thấy rõ cái suy nghĩ của Nobunaga về quân sự, quân đội. Ông không như đám hào trưởng trông cậy vào quân đội xuất thân từ nông dân. Nòng cốt của quân đội ông là lính đánh thuê ăn tiền, được ông chỉ huy nghiêm khắc.
Cái lập trường trên được thấy rõ rồi, thì mặt khác người ta e Nobunaga có nguy cơ bị ám sát. Một bộ hạ trung tín của Nobunaga là Sasa Narimasa cũng là một trong những người đã mưu toan ám hại ông.
Sasa Narimasa đã đồng mưu với ngôi chùa có cửa quan [7] mà Nobunaga đã bắt phải dẹp bỏ đi, bện rơm thành một con rắn lớn dìm xuống ao, làm cho dân quê kinh sợ la lên: “có rắn lớn xuất hiện”. Họ nghĩ, thế nào Nobunaga cũng đến xem vì ông vốn có tính tò mò. Lúc ấy, họ chèo thuyền đưa ra giữa ao, đợi cho Nobunaga cúi đầu nhìn xuống đáy ao thì chém tới, làm cho ông ngã xuống ao; như thế chắc chắn sẽ giết được. Mưu mô là như vậy, song Nobunaga lại không làm như thế. Vừa tới nơi, ông liền cởi quần áo ra, ở trần nhẩy ùm xuống ao để tự mình xác nhận là không có rắn lớn ở đâu cả. Thế là mưu mô của Narimasa cũng thành vô ích.
Mọi chuyện như vậy xong, Nobunaga đã được kế nghiệp cha. Ông nghĩ là phải lập ra quân đội riêng của mình. Nếu nhờ các hào trưởng chọn tráng đinh trong lãnh địa của họ cho nhập ngũ, thì quân đội như vậy không thể chiến đấu như ý muốn của ông được. Ông muốn lập một quân đội không cần đông người, nhưng có sức dẻo dai có thể di chuyển thần tốc theo ý muốn của ông. Oda Nobunaga là người Nhật hiếm có, đã nghĩ ra những chiến lược, chiến thuật với sáng kiến về thời gian hơn là sáng kiến về không gian. Sau khi chiếm được quyền cai quản lãnh địa của cha để lại rồi, ông lần lượt tiêu diệt bà con thân thích thuộc họ Oda ở xung quanh mình. Ðánh chiếm lãnh địa của họ cũng có, xúi giục họ đánh lẫn nhau rồi ám sát kẻ thắng cũng có, phần lớn là dùng mưu mô xảo quyệt thôn tính họ. Khôn khéo nhất là ông đã xui thái thú Shiba và phụ tá thái thú Oda Yamatonokami đánh lẫn nhau, rồi diệt luôn cả hai. Thế là ông đã thống nhất được quá nửa bán đảo Owari lúc mới 24 tuổi.
Trong suốt tám năm trời kể từ khi cha chết, Nobunaga chỉ lo thanh toán các hào trưởng trong vùng Owari. Thế rồi, hầu như vừa thanh toán xong vùng Owari thì xảy ra trận đánh nổi tiếng là trận Okehazama.
Trận Okehazama không phải là đánh úp
Trận Okehazama đã diễn ra năm 1560; tính tuổi đếm lúc ấy Nobunaga được 27 tuổi. Thời ấy tuổi 27 tương đương với giữa lứa tuổi 30, nghĩa là lúc con người đang trên đà phát triển; Nobunaga lúc đó hẳn là sung sức lắm.
Trận Okehazama có ấn tượng mãnh liệt nên đã được viết thành nhiều truyện. Nội dung thường được kể lại, có thể tóm lược như sau. Ðể đối lại đại quân ba vạn người của tướng Imagawa Yoshimoto, Oda Nobunaga với vẻn vẹn hai ngàn người đã xông tới, rồi nhằm lúc trung quân Imagawa Yoshimoto đang tránh mưa rào ở nơi cùng địa, đã đột kích vào, chém chủ tướng Yoshimoto. Mất ý chí chiến đấu, quân Imagawa tan rã phải rút lui. Tuy nhiên, trên thực tế trận này không phải là đánh úp. Mọi hành động của quân Nobunaga đều được phía Imagawa thấy rõ hết.
Ðiểm trọng yếu là, trong khi quân Imagawa tiến hành dọc theo tuyến đường dài, thì bị Nobunaga tấn công vào ngang hông. Xét địa hình và trạng thái đường lộ thời ấy thì ba vạn quân Imagawa phải xếp hàng dài trên 22 kilômét. Như vậy nếu bị đánh vào ngang hông thì sẽ yếu lắm. Do đó, phía Imagawa cũng đã chia quân phòng hờ hai bên trái và phải.
Thế nhưng, bị mưa rào nên gió đổi chiều. Nhằm đúng lúc đó, Nobunaga đã từ đầu gió đánh xuống và đã đoạt thắng lợi. Ðây là vì với đi quân của riêng mình, ông đã có thể đoán ngay, quyết định ngay và như thế đã nắm được lúc gió đổi chiều.
Có hai điểm người ta hay hiểu lầm về trận đánh Okehazama.
Thứ nhất, người ta dễ có thể tưởng tượng rằng Nobunaga nửa đêm đột nhiên thức dậy, vừa ngâm thơ vừa múa bài Atsumori: “Năm mươi năm đời người ta, nếu so trong thiên hạ thì chỉ như một giấc mơ...” rồi nhảy phóc lên lưng ngựa phóng từ thành Kiyosu, lúc ấy là thành chính của ông, nhằm lúc địch quân không phòng bị, đánh úp mà được thắng lợi. Thế nhưng, sự thật không thể là như vậy được. Bởi vì, Nobunaga xuất quân khỏi thành Kiyosu là hồi hai giờ sáng, nhưng tới Okehazama là lúc một giờ hay hai giờ chiều. Như thế, từ thành tới trận địa là khoảng 12 tiếng đồng hồ, nhưng khoảng cách này chỉ bằng quãng đường đi bốn, năm tiếng đồng hồ mà thôi. Trong khoảng thời gian này, ông đã ghé lại làm lễ ở đền Atsuta, chờ bộ hạ tụ tập lại đó. Ông đi vòng quanh mấy ải quan, thu nạp hết quân đội để tập trung lực lượng vào trận quyết chiến này. Ðến gần trưa, ông mới phát hiện được trung quân của Imagawa, ông bèn cho quân vào một ải gần đó chờ thời cơ. Những chuyển động vừa kể hẳn phe Imagawa cũng thấy rõ cả. Khu Okehazama này từ tám năm trước đã là lãnh địa của Imagawa, có thành quách, có ải quan của phe Imagawa. Thế nhưng may thay bỗng có mưa rào. Nobunaga đã đoán sẽ có mưa rào vì ngày hôm trước đã có mưa rào rồi, mà theo câu tục ngữ địa phương thì hẳn có “mưa rào ba ngày liền”. Ở chỗ này, điều quan trọng là Nobunaga đã nhận được báo cáo rằng “trung quân của Yoshimoto giữ nguyên đội hình, đang nghỉ ngơi trong thung lũng Okehazama”. Nobunaga đã ban thưởng công đầu cho Yanada Hirotada (Masatsuna), người đã đem thông tin này về.
Ðiểm thứ hai là sức thống suất của quân Nobunaga với sự kiện họ đã di chuyển liên tục, từ đông sang tây, trong hơn 12 tiếng đồng hồ. Quân Imagawa mặc dù nhìn thấy quân Nobunaga di chuyển như vậy mà không đối phó lại được. Ðó là vì họ vốn là quân đội liên hợp của nhiều hào trưởng, không thể ra lệnh một tiếng mà làm chuyển động ngay được. Ðương nhiên, phe Imagawa cũng nghĩ tương tự về quân Nobunaga, nên đã không cho rằng địch quân có thể tấn công toàn lực một cách bất ngờ như vậy. Do đó, sợ toàn quân bị rối loạn nên họ đã không gọi quân tiên phong trở lại, họ cũng không tìm cách để cho chủ tướng Yoshimoto thoát được ra vùng an toàn. Nghĩa là, tổ chức cứng ngắc của quân đội liên hợp hào trưởng, thì không thể tùy cơ ứng biến được. Từ đó, họ đâm ra đoán sai là có thể cầm cự bằng lực lượng năm ngàn người của trung quân dù có bị đánh vào bên hông.
Vì ấn tượng mãnh liệt của trận Okehazama theo truyền thuyết, nên hễ nói đến Oda Nobunaga là nhiều người cho đó là võ tướng dụng binh thần tốc, giỏi đánh úp. Thế nhưng, thật ra với quân số ít mà nhờ đánh úp nên thắng được đại quân, thì trong đời Nobunaga cũng chỉ có hai lần. Một lần là trận Okehazama vừa kể, lần thứ hai là trận đánh với Ozaka Honganji năm 1576. Lúc đó ải Tennoji bi một vạn mấy ngàn quân nổi loạn bao vây. Nobunaga đã thống suất bốn ngàn quân phá trùng vây vào cứu bọn Akechi Mitsuhide cố thủ trong ải này. Chính Nobunaga cũng bị thương. Sở dĩ ông dám liều mạng như vậy là vì ông đoán rằng quân nổi loạn không nhất thống nên có thể thắng được.
Thành công lớn, song không lập lại cách làm như vậy. Ðây là điểm chứng tỏ lý trí đáng phục của nhân vật Oda Nobunaga. Người thường hễ thành công rồi thì hay làm đi làm lại cùng một phương thức. Trận Okehazama, Nobunaga đã dùng đoản binh mà thắng được đại quân, thì lần sau cũng lại áp dụng chiến pháp đó chăng? Nhưng không, Nobunaga đã không hề lập lại cái kinh nghiệm thắng của mình.
Trong những trận đánh sau, với mười lần xuất quân ra Mino, đánh Anegawa hay Nagashino, lần nào Nobunaga cũng điều động quân số nhiều hơn địch. Ðể được quân số đông hơn, ông đã không quản ngại khó khăn, không tiếc tiền, thậm chí không ngại mất thể diện. Chẳng hạn, trong trận đánh Anegawa, để đối lại 15 ngàn quân liên hợp Asakura-Arai, Nobunaga đã có tới 29 ngàn quân của riêng mình rồi; thế mà ông còn cầu cứu thêm viện binh của Tokugawa Yeyasu ở Mikawa, để có tổng số quân lên tới 34 ngàn người, mới đánh trận. Trong trận Nagashino cũng vậy, để đối lại hơn mười ngàn quân Takeda, Nobunaga đã điều động hơn 30 ngàn quân.
Ðiều động nhiều quân thì vừa mất thời gian vừa tốn tiền. Vì thế, cho đến lúc Nobunaga kéo được quân đội cứu viện, thì phe mình đã nhiều lần bị mất ải quan trước rồi. Ấy thế mà ông vẫn không hoảng hốt, không hấp tấp, vẫn bài binh bố trận đàng hoàng. Nhập trận, ông để cho địch tấn công trước, rồi sau khi chặn được đợt tấn công của địch rồi ông mới phản công mãnh liệt. Nghĩa là ông chuyên áp dụng chiến thuật “thắng sau”. Ðúng là chiến thuật cần có sức chịu đựng, có niềm tin bền bỉ.
Nhìn suốt cuộc đời Nobunaga, thì trận Okehazama là ngoại lệ của ngoại lệ, một chiến trận trái ngược với sở thích của Nobunaga. Mặc dầu vậy, chiến thắng đó thật là ngoạn mục. Nhờ chiến thắng Okehazama, Nobunaga đã cất được mối lo âu về phía đông, lôi kéo được Tokugawa Yeyasu (thời đó còn gọi là Matsudaira Motoyasu) bỏ phe Imagawa nhập phe mình, để ông yên tâm đánh dẹp miền “đàng trên”, [8] hướng vào cách châu Mino, Ise, Omi rồi Kyoto. Sư lựa chọn như vậy cho thấy Nobunaga đã có con mắt chiến lược tinh tường. Thế nhưng, nói về chiến thuật và tác chiến thì Nobunaga chưa hẳn đã là tay giỏi. Chỉ một châu Mino mà ông đã mất bảy năm mới lấy xong. Trong khoảng thời gian đó, ông đã phải động binh tới mười lần, hầu hết bị thua.
Tuy nhiên, bỏ ra bảy năm với mười lần ra quân chỉ để chiếm Mino, đủ chứng tỏ cái chí bền bỉ, cái chân giá trị của Nobunaga vậy.
Phương sách “phân ly binh nông” thể hiện nhu cầu thời đại
Vậy một người vụng về chiến thuật và tác chiến như vậy, lại đã hoàn thành được tới 70 phần trăm cái chủ trương chính trị “thiên hạ bố võ”, [9] là tại sao?
Ðiều thứ nhất Nobunaga đã thực hiện, là trả tiền cho binh sĩ. Nói cách khác, ông đã áp dụng đường lối “tách rời binh nông”, tức là tách quân lính ra khỏi nông dân.
Tuy nhiên, nếu chỉ coi hiện tượng “tách rời binh nông” là sự kiện một loại lính nhà nghề, không làm nông nghiệp nữa, đã xuất hiện, thì phải nói họ Asakura ở vùng Hokuriku đã thực hiện đầu tiên. Như kể trên, nhờ năng suất nông nghiệp cao lên, nên có một loại võ sĩ samurai không cần canh tác ruộng đất mà cũng có ăn. Họ không cần tự mình đứng ra quản lý đất đai nữa, mà có thể trao công tác này cho quản gia. Còn bản thân họ thì sống ở thành thị, bên cạnh chúa, tham gia vào hoạt động xã giao, bàn luận việc chính trị.
Nhờ kinh tế phát triển mà binh và nông đã tự nhiên tách rời nhau ra, là hình thức đã phát sinh ở vùng kinh kỳ, vùng Etsuzen từ trước thời Nobunaga, song sự việc đó không có ý nghĩa chính trị quân sự đáng kể nào cả. Ngược lại, vì có thêm nhiều gia thần ở địa vị cao tụ tập xung quanh, sinh ra thói họp hành bàn bạc làm cho việc nước chỉ thêm dềnh dang hơn mà thôi.
Cơ chế “tách rời binh nông” của Nobunaga thì trái ngược hẳn. Nó đã được thực hiện từ hàng võ sĩ hạ cấp trở lên. Nghĩa là, ông đã lập ra một đội quân trả lương. Ðiều này làm cho quân đội của Nobunaga khác hẳn các quân đội khác. Ðây là điểm xuất phát của nhiều cải cách khác nữa.
Thời chiến quốc tuy nói là đời “hạ khắc thượng”, song không hề thấy một võ sĩ vô danh tiểu tốt, một nhân vật với lai lịch không rõ rệt nào, lại có thể trở thành một đại võ tướng được. Hàng thái thú, quận thú, lại càng không thấy có như vậy. Những người như Hojo Soun, Saito Dosan, Matsunaga Hisahide tuy xuất xứ không rõ rệt song đều là những quận thú đáng nể cả. Phương pháp của họ là, trước hết đóng vai sư trà đạo [10] hay thương gia để được gần gũi gia đình thái thú. Từ đó họ tìm cách làm thân với con gái, rồi vào ở rể nhà thái thú. Hoặc, họ làm thân với vị gia thần trưởng lão, rồi tìm cách lật đổ thái thú đi.
Tuy nhiên, trong đám gia thần của Nobunaga thì không ít người lai lịch xuất xứ không rõ rệt, đã trở thành đại tướng. Bọn Hashiba (sau này đổi tên là Toyotomi) Hideyoshi, Akechi Mitsuhide, Takigawa Kazumasu đều là như vậy cả.
Tại sao việc này lại chỉ xảy ra ở dòng họ Oda, chứ không xảy ra ở các dòng họ khác? Muốn hiểu rõ điều này, cần phải xét chế độ quân binh thời đó. Như đã kể trên, trước khi Nobunaga xuất hiện, quân binh là do các hào trưởng chiêu mộ tráng đinh trong thôn xóm họ, rồi tự họ đứng làm đội trưởng. Những đội binh như vậy tụ tập lại thành quân đội lớn. Chẳng hạn, quân đội của Shibata Katsuie là gồm những tráng đinh trong lãnh địa của ông tụ tập lại mà thành.
Vì thế, những người không có lãnh địa thì không có gia thần, hoặc nếu có cũng chỉ có hai, ba người, bởi vì tiền lương hoặc thóc gạo chủ cấp cho chỉ có thể nuôi được một sốngười ít ỏi. Tiêu chuẩn thời đó là cứ chỉ huy năm binh lính thì được cấp bổng lộc một năm là 100 hộc lúa (mỗi hộc khoảng 180 lít). Như thế, muốn chỉ huy một đi quân 500 người thì phải có lãnh địa đủ cung cấp một vạn hộc lúa.
Miyamoto Musashi [11] hình như có tham chiến trong trận Sekigahara. Ông đã được mướn vì có võ nghệ siêu quần. Song dù cho là bậc kiếm hào, nhưng chỉ với tài cá nhân như vậy, thì cao lắm cũng chỉ được bổng lộc 100 hộc lúa. Ấy là chưa kể, ông đã tham gia vào phe chiến bại, cho nên chẳng được chức tước gì cả. Ngay cả nếu tham gia vào phe thắng đi chăng nữa, rồi lập công hai lần ba lượt, thì cũng chỉ được bổng lộc 300 hộc là cùng. Thủ hạ chỉ có 15 người.
Thế nhưng Nobunaga có nhiều lính thuê bằng tiền, không có quan hệ gì với lãnh địa cả. Có đội trưởng không có lãnh địa, nhưng đã có tiền thuê hàng mấy chục, mấy trăm lính.
Tuy nhiên, thời đó dùng lính thuê bằng tiền, thường là vất vả và bị mang tiếng. Ðó là vì, thời ấy những người lương thiện thì đều phải thuộc một tổ chức nào đó. Cho nên, binh lính thuê bằng tiền như vậy chỉ là những thành phần lưu lạc giang hồ, hành khất, du thủ du thực.
Nông dân thì thuộc vào xóm làng, thày chùa thuộc vào chùa chiền, đạo từ thuộc vào đền miếu, mỗi người đều có tổ chức riêng biệt. Người đi buôn cũng phải thuộc vào một tập thể, gọi là “za (tổ buôn)” mới làm ăn được. Buôn bán lén lút bị cấm, và là tội phạm. Nghĩa là thời trung cổ như vậy ai ai cũng phải thuộc vào một tập thể nào đó. Cho nên nếu không thuộc vào một đoàn thể, tập thể nào cả thì bị coi là “du thủ du thực (ruronin)”, tương tự như người vô gia cư (homeless) ngày nay vậy. Còn tệ hơn thế nữa, tên gọi đó gần đồng nghĩa với người tội phạm.
Thời Nobunaga dân số tăng vọt lên, nên phát sinh ra nhiều ruronin. Hàng hóa lưu thông nhiều, nên chỉ những thương nhân thuộc những đoàn thể chính thống không thôi, thì không đủ giải quyết. Do đó, dù cấm mấy cũng không ngăn chặn được những người buôn bán lén lút. Ngay như Hideyoshi cũng đã có một thời bán kim khâu, rõ ràng là buôn bán lén lút, buôn lậu.
Binh lính do Oda Nobunaga thuê là những người như vậy. Nhân cách thì xấu, đánh trận thì yếu. Bởi thế, mặc dầu Nobunaga đánh ra Mino với số quân đông gấp ba mà vẫn bị thua nhiều lần. Ðiều này là chuyện đương nhiên. Thời đó, binh sĩ, nhất là đám hạ sĩ quan, liều chết ngoài chiến trận chẳng phải vì trung thành với chủ, cũng chẳng phải vì sợ bị thần phạt. Họ chỉ sợ khi trở về làng bị bà con xỉa xói: “Thằng ấy bỏ chạy trước. Nó là thằng hèn. Vì nó bỏ chạy nên mọi người bị khổ lây”. Nói cách khác, chỉ vì muốn lên mặt với bà con lối xóm nên họ đã đánh trận chối chết. Thế nhưng, binh sĩ đánh thuê cho Nobunaga chẳng có tập thể, chẳng có cộng đồng nào để trở về cả, cho nên có tiền ở trong thành thì ăn to nói lớn, song ra trận thì hễ thấy nguy là bỏ chạy trước. Cái khuynh hướng này tiếp diễn cho tới trận Nagashino.
Trận Nagashino là trận Nobunaga dùng súng (súng nòng thép) bắn tan quân Takeda, thế mà quân Nobunaga cũng giảm đi mất bốn ngàn người, không phải vì bị thương hay tử trận, mà vì đã bỏ chạy trước khi lâm trận. Ấy đấy, họ là những binh lính thiếu tin cậy như vậy đó.
Chiến thuật mới là “chơi xấu”
Nobunaga thuê toàn hạng lính yếu hèn như vậy cho nên thua trận luôn. Ðến nỗi các gia thần đã phải phàn nàn rằng “Sao tiểu chủ lại làm việc khờ dại như vậy? Sao không để bọn tôi đem quân nông dân từ lãnh địa ra đánh trận thay cho?” Cái lý do lớn nhất Nobunaga bị gọi là “thằng đại ngu”, là như vậy. Thế nhưng Nobunaga tin tưởng rằng quân đội yếu nhất Nhật Bản của ông lại có thể chinh phục thiên hạ được. Bởi vì mỗi trận đánh thì họ yếu thật, song họ đánh lúc nào cũng được và đánh mãi cũng được. Lính nông dân mạnh thật. Nhưng lúc mùa màng họ phải về quê gặt hái, cầy cấy. Nếu cả hai bên địch ra đều là lính nông dân cả, thì đến lúc mùa màng hai bên tự nhiên phải ngưng chiến. Thế nhưng, lính do Nobunaga bỏ tiền nuôi, thì không gặt cũng không cấy lúa. Nhằm lúc bên địch chỉ còn vài chục người giữ ải thôi, thì với một ngàn, hai ngàn quân bao vây, thế nào ông cũng thắng dù là với quân đội yếu hèn.
Như thế, ông chiếm được một, hai, ba quan ải hay thành trì, thì vừa đúng lúc việc canh tác xong, lính nông dân trở lại chiến trường. Nobunaga lại thua, bỏ chạy. Một số tử trận có, bỏ trốn có, nên quân số giảm đi. Nhưng, đem tiền ra mua chuộc thì bọn người du thủ du thực, khất thực lại tụ tập tới và quân số lại tăng ngay.
Thế nhưng, phía lính nông dân thì không như vậy được. Họ còn phải nuôi cả gia đình sống sót của người đã tử trận nữa. Thậm chí, nếu ngay trong lúc mùa màng mà cũng bị động viên nữa, thì nông dân chịu không nổi. Do đó, họ nghĩ rằng thà chịu cho Nogunaga cai trị còn hơn. Thế rồi, họ chịu bị “thuyết hòa” và dần dần chịu thần phục Nobunaga.
Nobunaga dùng tiền thuê lính nên dù bộ đội yếu hèn cũng có thể đánh dẳng dai, đánh mãi không chán. Kẻ địch của Nobunaga đều chịu thua vì sự dẳng dai này. Chẳng hạn, Asai Nagamasa là một võ tướng giỏi, thành Kotani của ông được coi như vững không thể hạ được. Quân mạnh và đoàn kết chặt chẽ. Ông nghĩ rằng chỉ cần cố thủ trong thành là sẽ thắng, hay ít nhất cũng không thua. Ông cho rằng phe tấn công sẽ phải lui trước khi mùa gặt tới và ông đã chỉ chuẩn bị lương thực dựa vào ý nghĩ đó mà thôi. Thế nhưng binh của Nobunaga là binh lãnh lương nên họ không triệt thoái. Họ xây thành phụ bên cạnh thành Kotani để canh chừng, bao vây lương thực. Ðó là chiến thuật của Nobunaga. Asai Nagamasa vì không thấy Nobunaga chịu đường đường đối chọi với quân mình mà chỉ dằng dai bao vây lương thực, đã gọi Nobunaga là “đồ hèn”, rồi chết.
Nói chung, những chiến lược chiến thuật gia giỏi đều thoạt đầu là đồ hèn cả. Bởi vì họ đã phá vỡ cái thường thức từ trước, nên bị gọi là đồ hèn. Trong trận Gempei, họ Minamoto đã thắng trận hải chiến là nhờ Minamoto Yoshitsune bắn chết người lái thuyền. Cho đến thời ấy, phàm đánh thuyền, người ta chỉ bắn chết võ sĩ samurai tức là thành viên chiến đấu, chứ cả hai bên đều tránh không bắn chết lái thuyền vì đó không phải là thành viên chiến đấu. Bởi nếu làm như vậy, sau này ngư dân lái thuyền sẽ không chịu đầu quân nữa, và thủy quân sẽ không thành được.
Yoshitsune vốn là người miền Ðông, không nghĩ xa tới tương lai thủy quân, nên đã phá lệ cũ, nhằm bắn người lái thuyền trước nhất. Người lái thuyền không mặc giáp trụ, nên bị trúng tên thì bị thương nặng không lái thuyền được nữa. Vì vậy, họ sợ bỏ chạy hết, khiến đoàn thuyền của Heike không xoay xở được. Các tướng Heike đã thốt lên “Yoshitsune là đồ hèn!” mà chết đi.
Về chiến lược, hay trên mặt kinh doanh cũng thế, người đầu tiên nghĩ ra phương pháp mới đều là phá bỏ cái cũ, cái thường thức đi. Như vậy, cũng có thể coi đó là hèn, hay ít lắm cũng là chơi xấu. Tuy nhiên, chính ở đó mới có tính sáng tạo. Nobunaga là người giầu tính sáng tạo, tuyệt đối tin tưởng vào con mắt tiên kiến của mình. Ông không hề sờn chí vì một hay hai lần thất bại. Ngược lại, ông dẳng dai đối phó làm cho địch thủ phải ngán. Ngay từ đầu, ông đã tiên liệu sự thất bại và lời chê bai của người đời vậy.
Cơ chế thị trường tự do “chợ vui, tổ buôn vui” đã làm đổi nền kinh tế
Ðiều thứ hai cần suy nghĩ về đường lối chiến tranh và chính trị của Nobunaga, là nguồn gốc tài chính. Ðiểm này tất cả các tiểu thuyết hoặc sử sách từ trước tới nay đều bỏ qua không bàn tới.
Nếu đã dùng tiền để thuê lính đánh trận, đương nhiên Nobunaga cần có rất nhiều tiền. Tiền đó lấy ở đâu ra? Dĩ nhiên nếu lãnh địa tăng lên thì lúa gạo hoa màu thu được cũng nhiều, bán đi hẳn được nhiều tiền hơn. Thế nhưng, tiền như vậy vẫn chưa đủ. Vì vậy, Nobunaga đã nghĩ ra cơ chế “chợ vui, tổ buôn vui”.
Theo lịch sử ghi chép, thì Nobunaga lần đầu tiên áp dụng cơ chế “chợ vui, tổ buôn vui” ở chợ Kano, là năm 1568 sau khi chiếm xong đất Mino. Ðương nhiên, khi đã thành văn như vậy nghĩa là chế độ đã hoàn thành, và như vậy hẳn đã phải có một thời gian thử nghiệm trước đó rồi. Hẳn là một mẫu hình của cơ chế “chợ vui, tổ buôn vui” đã phải được áp dụng ở vùng Owari từ trước đó mấy năm rồi.
Trước đó, khắp nơi có cửa quan và các tổ buôn. Hàng hóa muốn được lưu thông thì phải đóng thuế (thuế thông hành) cho đền chùa hay hào trưởng mỗi khi qua cửa quan. Thương nhân thì tổ chức thành tổ, thành nhóm, nộp tiền vận chuyển, hoặc cho đền chùa hay cho quý tộc ở kinh đô.
Nobunaga đã bãi bỏ cửa quan và tổ buôn đi. Thoạt mới nhìn thì tưởng làm như vậy không thu được thuế nên tiền không vào nữa. Nhưng Nobunaga đã dám làm. Ðương nhiên, những đền chùa hoặc quý tộc có thu nhập từ những cửa quan đều phản đối. Về sau, Nobunaga đốt chùa Hieizan, chùa Ishiyama-Honganji hay đánh nhau với shogun Ashikaga, cũng đều là vì vấn đề bãi bỏ cửa quan và tổ buôn này.
Nói theo lối ngày nay, thì bãi bỏ cửa quan và tổ buôn là một hình thức giảm bớt quy chế, luật lệ. Ðương nhiên, những người thuộc thể chế cũ phản đối, song kinh tế tự do phát triển, thì sinh ra sức mạnh kinh tế lớn. Nhất là đối với Nobunaga, ông cần có tiền nuôi quân đội, thì sự tự do hóa làm cho kinh phí lưu thông giảm bớt đi, ông có thể bán đắt sản vật vùng Owari để mua rẻ súng ống. Cái đó mới quan trọng.
Xưa nay, có cửa quan hay có tổ buôn thì có tiền vào nhất thời, song thực tế là tốn kém hơn. Nhất là đối với Nobunaga, ông phải mua nhiều quân trang quân cụ nên chính ông là người mua nhiều nhất. Vậy, để cho hàng hóa lưu thông dễ dàng, kinh phí lưu thông rẻ đi là điều cần thiết đối với ông. Ông biết rằng nếu kinh tế phát đạt, thì nhờ thế nguồn thu nhập của ông cũng sẽ tăng lên.
Cho dù thu nhập tài chính nhất thời có giảm đi, song cứ tự do hóa để cho kinh tế phát triển, là chính sách kinh tế mà tổng thống Mỹ Reagan (gọi là Reaganomics) đã áp dụng. Chính sách như vậy Nobunaga đã nghĩ ra từ thế kỷ thứ XVI và đã áp dụng thành công, thì quả thật Nobunaga là một bậc thiên tài.
Ðường lối “chợ vui, tổ buôn vui” làm cho kinh tế phát triển, thì tiền “thuế” thâu được nhiều. Rồi với tiền đó, lại thuê thêm lính, mở rộng lãnh địa hơn, tức là lại có cơ sở thu thuế được nhiều hơn nữa. Như vậy là đã tạo ra được cái “vòng thiện”. Ðồng thời đã thay đổi được tổ chức.
Sự thay đổi tổ chức và sự xuất hiện của “binh gia” chuyên nghiệp
Quân đội vốn do các hào trưởng mộ tập từ xóm làng dắt tới. Người dắt tới như vậy đương nhiên có tiếng nói quan trọng. Họ trở thành một tập thể gia thần với quyền lợi cá nhân của họ được coi là ưu tiên. Cái gọi là “24 tướng lĩnh của Takeda” chính là bọn hào trưởng cai trị các địa phương của châu Koshu mà Takeda làm chúa.
Nobunaga đã bắt đầu dùng lính thuê. Các hào trưởng, gia thần của ông lấy thế làm bất mãn, và do đó đã liên tiếp xảy ra những vụ âm mưu ám sát ông. Nói theo ngôn ngữ ngày nay, thì người cha đã sáng lập ra công ty, rồi người con kế nghiệp làm ông chủ đời thứ hai, song ông chủ đời thứ hai này đã xuất hiện trong bộ quần “gin” áo blu-dông da, ưu đãi bọn du thủ du thực và bọn người làm mướn. Ðương nhiên, các nhân viên kỳ cựu từ đời cha sáng lập, phải thì thầm với nhau rằng: “Không thể để như vậy được! Phải đổi người em lên làm tổng giám đốc”. Thế nhưng, ông tổng giám đốc trẻ tuổi đời thứ hai lại có nhiều sáng kiến làm cho công ty phát đạt. Không những thế, ông cắt bỏ những mặt hàng cũ, bắt đầu những mặt doanh thương mới. Nhân viên thì ông không chú trọng tới bằng cấp, thâm niên nữa, mà để cho mọi người thi đua tự do. Nếu trước kia, công ty lợi dụng mối quan hệ tốt với các cơ quan nhà nước để bán sản phẩm với giá đắt, thì nay ông bỏ lối làm ăn đó đi, quay sang bán rẻ để thu hút khách hàng từ quảng đại quần chúng. Ông phế bỏ những đại lý cũ đi, mà bán trực tiếp cho người tiêu dùng. Hơn thế nữa, với các cấp chủ nhiệm, trưởng phòng và các nhân viên êlít xuất thân từ các đại học danh tiếng, thì ông tuyên bố: “Tụi bay chớ có chõ mõm vào. Tao làm việc với đám nhân viên cưng mới tuyển kia”. Thực tế, ông đã dùng toàn những nhân viên ít học, mới mướn. Ngay cả Toyotomi Hideyoshi (sau này thay ông làm chúa thiên hạ) đã từng buôn lậu, tức là phần tử đáng lẽ đã bị gạn lọc ra khỏi xã hội coi trọng học lực, song cũng được ông trọng dụng. Ông lần lượt đưa những người như vậy vào để triệt để cải cách tổ chức.
Trong trận Nagashino năm 1575, Nobunaga, năm ấy 42 tuổi, đã dàn ba ngàn tay súng bắn tan đội quân khét tiếng là vô địch của Takeda. Truyện này đã trở nên quá nổi tiếng. Nhưng tại sao ông đã làm được như vậy? Hay nói đúng hơn, tại sao những lãnh chúa khác lại không làm được như vậy?
Bảo rằng Nobunaga có con mắt tiên kiến nên đã biết súng là một võ khí lợi hại, thì không đúng hẳn. Thời ấy, hầu hết các lãnh chúa đều biết súng là võ khí lợi hại cả. Ngay như họ Mori thì từ 20 năm trước đó, đã ghi lại rằng binh sĩ bị thương nhiều nhất vì bị súng bắn. Tuy nhiên, sử dụng súng một cách tập trung triệt để như Nobunaga thì chưa ai biết làm, cũng chưa ai làm được, trước đó cả. Lý do là họ không có căn bản tài chính để mua nổi ba ngàn khẩu súng.
Lính tráng thời ấy là do các hào trưởng dắt tới, cho nên võ khí, lương thực đều phải tự túc. Hào trưởng thì cưỡi ngựa mặc giáp trụ. Lính nông dân kha khá một chút mới có súng vác theo. Vì thế, súng tuy có thật song tính theo đơn vị bộ đội của mỗi thôn xóm thì số súng chỉ chiếm khoảng 5 tới 10 phần trăm. Như vậy, muốn lập một đội súng thì phải gom mấy tay súng của thôn A, cộng với vài tay súng của thôn B, thêm vào đó dăm cây súng của thôn C, v.v.. Chừng đó, người hào trưởng thôn A sẽ kêu lên: “Không thể dắt thằng đó của tôi đi được”. Hào trưởng thôn C thì nói: “Người thôn khác tới đây đâu được!” v.v..
Thế nhưng, Nobunaga thì tự bỏ tiền ra mua súng phát cho lính, lính cũng do chính mính bỏ tiền ra thuê. Vì vậy chỉ riêng họ Oda đã lập ra được đội quân bắn súng. Còn đám tướng sĩ cưỡi ngựa trước kia thì bị gạt lui xuống hậu trường. Nói cách khác, đám người mới tuyển chỉ có học lực trung học thì được ưu đãi, còn nhóm êlít tốt nghiệp đại học thì bị cho ngồi chơi xơi nước. Ðương nhiên, bọn ngồi chơi xơi nước này phản ứng. Nhưng Nobunaga không sợ, không chùn, đã quyết tâm làm và làm được.
“Rải võ ra khắp thiên hạ” và ý thức “quốc gia”
Cái đáng phục của Nobunaga là ông đã sáng tạo ra một loạt cơ chế mới, từ tổ chức, tài chính, nhân sự tới chiến lược chiến thuật. Nhờ đó, xã hội đã đổi hẳn bộ mặt. Nói cách khác, đường lối của Nobunaga đã gây ra một luồng biến đổi từ xã hội trung cổ sang xã hội cận đại, xã hội hiện đại, về mọi mặt, từ tài chính, kinh tế, tới quân sự.
Tất nhiên, các thế lực thủ cựu đều phản đối, và vì thế, các vụ âm mưu ám sát Nobunaga đã xảy ra không dứt. Vụ Akechi Mitsuhide được nổi tiếng vì đã thành công, song trước đó đã có biết bao nhiêu vụ âm mưu ám sát ông rồi. Như đã nói, ngay từ khi còn ở Owari đã có nhiều vụ âm mưu như vậy, cho tới khi ông vào kinh đô thì những vụ đó tiếp diễn liên tục. Asai Nagamasa lấy em gái ông, tên là O-Ichi, đã đồng lõa với họ Asakura làm loạn. Mạc chúa Ashikaga Yoshiaki, vốn được Nobunaga đôn lên địa vị đó, đã chống lại ông ba lần. Matsunaga Hisahide, thì dù biết chẳng làm nên cơm cháo gì, cũng đã dương cờ phản hai lần. Gia thần có ảnh hưởng lớn là Araki Murashige ở vùng Settsu cũng làm phản. Nghĩa là, vì Nobunaga đã thực hiện cải cách, không nhìn nhận những quyền đã có, nên đám gia thần có ảnh hưởng từ trước đã phản kháng liên tục. Nhưng Nobunaga không sờn lòng, cứ tiếp tục đường lối cải cách của mình.
Kết quả cải cách của Nogunaga đã để gì lại cho lịch sử Nhật Bản? Trước hết với phiêu ngữ “Rải võ ra khắp thiên hạ”, ông đã thống nhất được một nửa nước Nhật. Chính vì có Oda Nobunaga, mà sau này mới có Toyotomi Hideyoshi và Tokugawa Yeyasu, những người đã thống nhất được Nhật Bản. Chính Nobunaga là người đã sáng lập ra nước Nhật tập quyền trung ương kiểu hiện đại.
Thời mạc phủ Ashikaga trước đó, rồi thời mạc phủ Kamakura trước nữa, đều đã nhìn nhận sự phân quyền của quý tộc, của đền chùa và của samurai có lãnh địa. Tình trạng phân quyền như vậy đã được duy trì cho tới khi Nobunaga hô hào “rải võ ra khắp thiên hạ”, nâng tầng lớp võ sĩ samurai lên thành thế lực chính trị duy nhất trong thể chế tập quyền trung ương mà chế độ luật lệnh thời cổ đã hướng tới.
Nhật Bản là nước từ xưa đã được thống nhất về mặt lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ, cả đến tín ngưỡng và tập quán. Song về mặt chính trị, thì cái ý thức quốc gia coi Nhật Bản là một nước duy nhất, càng ngày càng trở nên mỏng manh hơn, kể từ thời cổ tới sau thời đại Nara. Nhận thức điều đó rõ ràng và làm sống lại ý thức quốc gia chính là Nobunaga vậy.
Nếu Nobunaga không tỏ ý muốn thống nhất thiên hạ mạnh mẽ như vậy, thì Nhật Bản có thể đã trở thành một liên bang giống như Ðức, Italia hay Ấn Ðộ. Người Nhật từ xưa vẫn có ý thức mạnh mẽ coi đất nước Nhật là một “thiên hạ”, song cái ý thức rằng “bởi đây là một nước nên mỗi người đều phải phục tùng một chính phủ, phải chấp nhận một chính quyền chung” như người Nhật ngày nay quan niệm về chế độ tập quyền trung ương, thì đã mất đi mất rồi. Chủ trương như vậy và bằng hành động của chính mình làm sống lại chế độ đó, chính là Nobunaga với đường lối cải cách và tập quyền của ông vậy.
Nếu Nobunaga sống thêm mười năm nữa, thì nước Nhật sẽ ra sao? Ðó không phải chỉ là một cái “nếu của lịch sử”, mà thực ra nó làm cho người ta tưởng tượng được xa hơn nhiều. Bởi vì Nobunaga đã vẽ ra được hình ảnh nước Nhật sau khi ông thống nhất được thiên hạ.
Thời kỳ chiến quốc có nhiều võ tướng tài ba. Takeda Shingen, Uesugi Kenshin, Mori Motonari đều là những võ tướng tài ba cả. Thế nhưng, chỉ có hai người đã làm sáng tỏ được vấn đề “sau khi thống nhất được thiên hạ rồi thì trị nước ra làm sao?” Ðó là Oda Nobunaga và Tokugawa Yeyasu. Võ tướng, lãnh chúa thời chiến quốc mà lại có cái nhìn tổng quan như vậy thì quả là hai người này xuất sắc hơn cả.
Trong hai người, thì Nobunaga, với tư tưởng “rải võ ra khắp thiên hạ”, đã có kế hoạch rõ rệt là thực hiện quyền thống trị toàn quốc bời tầng lớp võ sĩ được thâu tóm lại, với chính ông đứng ở thượng đỉnh, để lập ra một vương chế tuyệt đối, tức là một chế độ quân chủ chuyên chế tuyệt đối. Trước hết, ông chủ trương rằng, tôn giáo chỉ nên dừng lại ở trong tâm người ta. Nói cách khác, đó là một hình thức phân tách chính trị khỏi tôn giáo. Vì thế, chính Nobunaga đã không trở thành một nhà lãnh đạo tôn giáo, đồng thời ông cũng không can thiệp vào vấn đề tín ngưỡng. Thứ nhì, ông nghĩ rằng vua (thiên hoàng) và công khanh thì chỉ nên chăm lo mặt nghi lễ, văn hóa. Còn quyền chính trị thế tục thì hoàn toàn phải do tầng lớp võ sĩ samurai nắm giữ. Hơn thế nữa, ông không chấp nhận sự phân quyền cho địa phương, mà chủ trương lập ra một chính phủ tập quyền trung ương, một vương quyền tuyệt đối vậy.
Nobunaga không hề giấu giếm cái tư tưởng như vậy. Vì thế, ông không cho kẻ địch đã đầu hàng được quyền tự trị. Về điểm này, thì Hideyoshi nối tiếp sự nghiệp của Nobunaga, đã bị sa đọa nên đã nhìn nhận Mori, Uesugi, chứ nếu là Nobunaga thì ông đã tiêu diệt những người này đi rồi. Ðó là vì ông phải làm như thế mới xác lập được vương quyền tuyệt đối vậy.
Viễn tượng về một vương quyền tuyệt đối đầu tiên trong lịch sử thế giới
Cái đáng sợ của Nobunaga là ông không để ý tới cái lợi trước mắt, mà kiên trì theo đuổi niềm tin của mình. Khi phong đất cho gia thần, ông cũng không cho họ quyền tự trị. Chẳng hạn, khi phong đất Etsuzen cho Shibata Katsuie, ông bảo phải phục tùng mệnh lệnh của ông, cấm không cho nằm ngủ duỗi chân về phía ông. [12]
Không những thế, Nobunaga hình như đã có chủ ý trong việc phân công các gia thần của mình vào công tác trấn giữ các địa phương. Chẳng hạn, ông phong cho Hideyoshi làm Hashiba Etsuzen no Kami (thái thú châu Etsuzen, nay là phía bắc đảo Kyushu), Akechi Mitsuhide làm Koreto Hyuga no Kami (thái thú châu Hyuga, nay là tỉnh Miyazaki, phía nam đảo Kyushu). Lại nữa, Niwa Nagahide được ông phong cho họ Koreto và cho trấn giữ miền tây. Ðại để, ông để cho ba thủ hạ thân tín này cai quản đảo Kyushu. Một mặt, ông để cho Shibata Katsuie trấn giữ hai châu Dewa và Etsugo, Takigawa Kazumasu thì cho giữ châu Kita-Kanto, rồi Tokugawa Yeyasu thì hình như định giao cho giữ châu Mutsu rộng 1 triệu 600 ngàn hộc. Nghĩa là ông đã phân công cho bọn Tokugawa trấn giữ toàn quốc, và định thâu tóm quyền quản lý trực tiếp về trung ương. Ông đã có ý định rõ rệt như vậy.
Ðồng thời, Nobunaga tuy xuất thân từ vùng Owari, nhưng đã đóng đô ở thành Gifu, rồi lại đổi sang ở thành Azuchi, và nếu còn sống, hẳn ông đã đổi sang ở thành Ozaka. Các võ tướng lãnh chúa thời chiến quốc thường bám chặt lấy nơi quê quán. Chẳng hạn, Takeda Shingen cố thủ Kaitsutsujigasaki, Uesugi Kenshin không rời khỏi Kasugayama. Trong khi đó, Nobunaga lần lần đổi sang ở nơi tiện lợi hơn. Bởi vì ông coi việc thực hiện một vương chế tuyệt đối trên toàn quốc Nhật Bản là mục tiêu của mình, nên không câu nệ tính địa phương của nơi đóng bản doanh.
Thời ấy, vua Tây Ban Nha Felippe II và nữ hoàng Anh quốc Elizabeth I cũng đang xây dựng vương chế tuyệt đối nhưng không có tính cách triệt để như thể chế Nobunaga định lập ra. Phải chờ đến khoảng một trăm năm sau một vương chế như vậy mới thành hình dưới thời vua Pháp Louis XIV. Nếu Nobunaga thực hiện xong việc “rải võ ra khắp thiên hạ”, thì ở Nhật Bản đã xuất hiện một nhà nước quân chủ chuyên chế tuyệt đối đầu tiên trên thế giới vậy.
Những người như thế nào đã sống trên thế giới thời đó? Thế giới lúc đó đã có nhiều người đáng chú ý. Nga hoàng Ivan IV, người đã cải cách nước Nga, sinh trước Nobunaga bốn năm và mất sau Nobunaga hai năm. Vua Felippe II, người đã lập ra hạm đi vô địch của Tây Ban Nha, thì sinh trước Nobunaga bảy năm và sống thêm 16 năm nữa sau khi Nobunaga đã mất. Nữ hoàng Anh Elizabeth I hơn Nobunaga một tuổi song sau này mới hoạt động mạnh. Họ đều là người cùng thời với Nobunaga. Có thể nói Nobunaga đã có ý thức thống nhất Nhật Bản sớm sủa không thua kém gì các bậc đế vương châu Âu vậy.
Bởi thế, nếu Nobunaga sống thêm 10 năm nữa, thì Nhật Bản hẳn đã trở thành một nước có nền quân chủ chuyên chế tuyệt đối, đã có chính sách trọng thương [13] và như vậy đã phát triển kinh tế, kỹ thuật. Thế nhưng sau khi Nobunaga mất đi, thì Nhật Bản có thể đã bị ngoại bang xâm lược.
Ðối lại, Tokugawa Yeyasu đã áp dụng chính sách bế môn tỏa cảng, giữ cho Nhật Bản khỏi bị ngoại xâm. Song, ông đã làm cho Nhật Bản trở thành một nước không có gì hấp dẫn cả. Nếu Oda Nobunaga sống, thì chắc chắn ông đã làm Nhật Bản thành một nước sinh động hơn, náo nhiệt hơn. Lịch sử Nhật Bản hẳn đã đổi khác đi nhiều. Với ý nghĩa này, Nobunaga còn có thể coi là một phần “lịch sử Nhật Bản đã bị phủ nhận”.
Tuy nhiên, Nobunaga là người đầu tiên tỏ rõ ý chí thống nhất và lập ra một chính thể tập quyền trung ương ở Nhật Bản, sau khi nước này đã bị phân hóa kể từ thời trung cổ. Ðồng thời, ông đã để lại “thần thoại” chứng minh rằng nước Nhật có thể cải cách được. Vì vậy, mặc dù đường lối “rải võ ra khắp thiên hạ”, của ông đã chỉ mới hoàn thành nửa chừng, song những gì ông để lại cho Nhật Bản quả là lớn lao.
 
Chú thích:
[1] Thiên hoang là chỉ lúc thiên hạ còn hỗn độn chưa mở mang. Phá thiên hoang là chỉ việc làm có tính cách khai thiên lập địa, chưa từng có.
[2] Thời chiến quốc Nhật Bản là kể từ loạn Onin (1467-1477) cho tới lúc Oda Nobunaga đứng ra thống nhất thiên hạ (1582). Khác với thời chiến quốc Trung Hoa (403-221 trước công nguyên).
[3] Francisco Xavier (1506-1552) là giáo sĩ Cơ đốc thuộc dòng Tên (Jésuites) đầu tiên đặt chân lên đất Nhật. Ông là người đầu tiên đã dùng mẫu tự La-tinh phiên âm tiếng Nhật. Tương truyền rằng giáo sĩ Alexandre de Rhodes, cũng thuộc dòng Tên, đã tham khảo công trình của Xavier trong việc hoàn thành phương pháp viết tiếng Việt bằng mẫu tự La-tinh năm 1651. Cho nên, chỉ nêu tên Alexandre de Rhodes trong sự nghiệp La-tinh hóa Việt ngữ là thiếu sót!
[4] Chẳng hạn Christopher Columbus đã tìm ra châu Mỹ vào cuối thế kỷ thứ XV (1492). Ở Việt Nam, nhân vật này hay được gọi là Christophe Colombe, tức là đọc theo tiếng Pháp. Thật ra, ông là người Italia, nên đáng lẽ phải gọi ông bằng tên tiếng Italia, tức là Cristoforo Colombo. Cách đọc ở đây, Christopher Columbus, là theo tiếng Mỹ (Anh).
[5] Shosoin là một viện bảo tàng lập ra ở Nara vào thế kỷ thứ VIII để tàng trữ hơn ch ín ngàn bảo vật của thiên hoàng Shomu (701-756).
[6] Trận đánh quyết định giữa hai phe, một bên là Ishida Mitsunari và một bên là Tokugawa Yeyasu. Tất cả các lãnh chúa thời đó đều đã về phe với một trong hai võ tướng này. Phe Tokugawa đã thắng trận và do đó Tokugawa Yeyasu đã lên làm chúa lập ra mạc phủ Tokugawa kéo dài gần 300 năm ở Edo (Tokyo ngày nay).
[7] Cửa quan là nơi kiểm soát người đi lại và hàng hóa lưu thông, vừa có trách nhiệm về trị an vừa để thâu thuế đường và thuế chợ.
[8] Miền “đàng trên” là dịch chữ Kamigata. Kamigata là tên gọi miền đất gồm có kinh đô Kyoto và những châu quận quanh đó, tương tự như xưa kia ở VN ta gọi “đàng trong” là vùng đất quanh nơi chúa Nguyễn cai quản.
[9] Thiên hạ bố võ, nghĩa là “rải võ ra khắp thiên hạ”, tức là rải nền chính trị võ gia (samurai) ra khắp thiên hạ. Ðây là chủ trương chính trị của Nobunaga. Ông đã lấy bốn chữ này khắc vào dấu, ấn cũng như in vào cờ, xí của quân đội của ông.
[10] Thời chiến quốc Nhật Bản, “trà đạo” phần lớn là do các nhà sư truyền bá. Sư Nhật Bản lấy vợ được.
[11] Miyamoto Musashi thường được coi là kiếm khách võ nghệ siêu quần, binh pháp tinh thông, có một không hai trong lịch sử samurai Nhật Bản.
[12] Người Nhật khi tôn kính ai, chịu ơn ai, thì hay tỏ thái độ đó bằng cách không duỗi chân về phía người ấy trong khi nằm ngủ.
[13] Chủ nghĩa trọng thương (mercantilism) là chủ trương kinh tế coi trọng thương mại của các nước châu Âu từ khoảng giữa thế kỷ XV sang tới giữa thế kỷ XVIII. Chủ trương này là nhà nước bảo hộ và can thiệp vào mậu dịch với mục đích làm giầu bằng cán cân mậu dịch có lợi cho mình.