Đánh máy : Bắc Quái
Hồi 4 (tiếp)
Đại Lượng Đắc Minh Sư,
Trường Sa Đả Quỷ Ảnh

Thân Vô Cửu trở về từ cửa Quỷ Môn Quan, lại được cứu vãn thanh danh nên vô cùng cảm kích. Gã giết người vì cho rằng ai cũng muốn giết mình, không ngờ có kẻ lại cư xử khác hẳn, đầy nhân hậu và tế nhị. Trừ các bậc cao nhân, không ai nhận ra ẩn tình. Bọn hào khách thở dài tiếc nuối trước kết quả hòa của trận đấu.
Khuất Kỳ cười ha hả:
- Không đổ máu là tốt rồi! Mời chư vị vào sảnh để chuẩn bị dùng cơm chiều!
Mọi người đang định làm theo lời lão thì khựng lại vì thấy Huyết Báo Thân Vô Cửu vòng tay nói với Giả Bạch Hổ:
- Giả công tử! Thân mỗ bất tài không hoàn thành nhiệm vụ, chẳng dám theo phò công tử nữa. Từ nay, chúng ta trở thành người xa lạ.
Giả Bạch Hổ bối rối cau mày:
- Sao Thân hộ vệ lại nói thế? Các hạ đã tận lực nên không có lỗi.
Huyết Báo ngửa cổ cười dài:
- Tại hạ đã vì công tứ mà đánh chiêu “A Tỳ Vô Lộ”, xem như trả ơn nhà họ Giả! Xin cáo biệt!
Y gã ngầm trách Giả Bạch Hổ nhẫn tâm thí mạng thủ hạ. Dứt lời, Thân Vô Cửu lặng lẽ quay gót.
Không ngờ Lý Thu cũng cáo thoái. Chàng ôm quyền nói với chủ nhà:
- Trang chủ! Vãn bối bận việc  nên không thể lưu lại! Cảm tạ trang chủ đã chiêu đãi.
Khuất Kỳ chưng hửng vì thất vọng. Lão đinh ninh Lý Thu sẽ tham gia đội ngũ năm người để bảo vệ Tỵ Hoả Châu, và với bản lãnh siêu quần bạt tụy của chàng thì lão chẳng còn phải sợ bọn Câu Hồn sứ giả.
Khuất Kỳ vừa định mở miệng lưu khách thì bị Đàm Vân Tử lén kéo áo ngăn cản. Vị trưởng lão bẩy mươi lăm tuổi của núi Võ Đang nháy mắt với Khuất Kỳ và bảo:
- Giữ y lại cũng vô ích, Khuất thí chủ hãy trả vàng để y đi.
Khuất Kỳ chợt nhớ đến việc con gái mình xin họ Lý mười hai viên Hồng Bảo Ngọc, lúng túng nói:
- Chết thực! Suýt nữa thì lão phu quên béng cả việc ấy. Phiền công tử chờ một chút.
Ông liền bảo Tề tổng quản vào hậu viện lấy vàng.
Tiên Liêu Chân Nhân hí hửng dặn dò:
- Bọn lão phu lấy ngân phiếu, chứ không lấy vàng nén hay tiền giấy đâu đấy nhé!
Vàng thì nặng, tiền giấy Đại Minh Thông Hành Bảo Sao thì mất giá trị, hiệu buôn, quán xá nào cũng chê. (Có độc giả thắc mắc vì sao tác giả chỉ chọn bối cảnh đời Minh mà không là những triều đại khác. Xin thưa rằng trước nhà Tống thì quá xa, sử liệu không đầy đủ. Trong thời Tống thì miền Bắc Trung Hoa lọt vào tay quân Kim, lãnh thổ chật hẹp, không đủ đất cho các cao thủ vẫy vùng.
Còn như đời nhà Nguyên thì võ lâm không hề tồn tại. Sau khi chiếm được Trung Hoa, bọn Mông Cổ ra sức đàn áp người Hán bằng những chính sách gắt gao. Thời ấy, quân Mông cấm người Hán ở phương Bắc không được giữ vũ khí và ngựa, những thứ ấy bị tịch thu hết. Ở Hoa Nam còn gắt hơn, năm nhà mới có một còn dạo cắt thịt để dùng chung. Bởi vậy làm sao có những chàng hiệp khách vác gươm, cưỡi ngựa trừ gian diệt bạo được.
Triều Thanh thì khá hơn triều Nguyên một chút vì họ khôn ngoan và biết coi trọng văn hóa Trung Hoa. Tuy nhiên, nhà Thanh cũng có rất nhiều chính sách tàn nhẫn để đàn áp người Hán. Cũng như Mông Cổ, quân Mãn Châu cấm hai dân tộc Hán – Mãn thành hôn với nhau. Họ bắt người Hán phải cạo đầu thắt bím và mặc y phục rợ Mãn. Ai không tuân thì bị chặt đầu.
Ngoài ra còn có lệnh cấm lập xã (đoàn thể), lập hội. Nghĩa là chằng còn một bang phái nào tồi tại cả. Trừ những hội kín phản Thanh như Thiên Địa Hội chẳng hạn. Chính vì thế mà nền võ thuật Trung Hoa sa sút trầm trọng, nhiều môn tuyệt học bị thất truyền. Tóm lại, chỉ có trong thời nhà Minh thì người hiệp khách mới thỏa chí tang bồng. Thuở ấy lãnh thố Trung Hoa vươn đến tận Liêu Đông, Tây Vực ở phương Bắc. Còn phương Nam giáp với Giao Châu, Miến Điện. Nước nhà lại độc lập chẳng ai cấm việc cưỡi ngựa, mang gươm).
Vài giòng tâm sự cho vui, giờ thì chúng ta trở lại Khuất Gia Trang để xem cảnh Tiên Liêu Chân Nhân đếm những tờ ngân phiếu.
Mỗi tờ năm chục lượng, tương đương giá trị một đỉnh vàng lớn, vị chi bẩy mươi hai tờ ngân phiếu. Lão đạo sĩ nghèo kia đếm rất nhanh rồi lôi Tư Đồ Sảng đi ngay.
Tiên Liêu Chân Nhân nghèo đến mức giầy vải rách mũi ngón chân thò cả ra ngoài, thì làm gì cộ tiền mua ngựa? Do vậy lão nhẩy tót lên ngồi sau lưng Tư Đồ Sảng.
Lão ta cẩn thận vòng tay ôm eo Tư Đồ Sảng như trẻ nhỏ nương tựa vào, anh cả vậy. Và lão nói:
- Này Tư Đồ thí chủ! Bần đạo già nua, cô độc lại nghèo túng, nên muốn đi theo ngươi. Việc ấy ngươi nghĩ sao?
Tư Đồ Sảng bất nhẫn đáp:
- Vãn bối mang nặng thù nhà trên vai, đang cố tiềm nhập hổ huyệt, sống chết chưa rõ làm sao cưu mang đạo trưởng được? Vãn bối xin tặng đạo trưởng số vàng ấy để dưỡng già vậy.
Chàng tưởng lão ta sẽ hài lòng trước sự hào phóng của mình. Song không ngờ Chân Nhân cười nhạt đáp:
- Ngươi lầm rồi! Người già chỉ sợ cô đơn chứ không sợ nghèo túng. Hơn nữa, bần đạo thương ngươi là kẻ trung hậu, thực thà, muốn giúp một tay. Ngốc như ngươi thì sớm muộn gì cũng chết oan dưới tay Quỷ Ảnh Hội.
Lão dừng lại một lúc rồi bỗng nói tiếp:
- Thực ra, bần đạo có quen cái gã Tư Đồ Quát, cha của ngươi.
Tự Đồ Sảng mừng rỡ thốt:
- Thực thế ư? Nhưng sao vãn bối không nghe tiên phụ nhắcợc vài hôm! Còn số Hồng Bảo Ngọc kia tại hạ xin gởi lại Khuất gia trang, khi nào bách tính bị thiên tai, nhờ chư vị bán đi, mua lương thực chẩn tế tai dân!
Cả nhà kinh ngạc trước tấm lòng rộng rãi, nhân hậu của Lý Thu. Họ không biết Tự Đồ Sảng tức Lý Thu đã tình cờ tìm ra số châu báu ấy trong động thờ Trung Nguyên Nhất Kiếm Võ Hồng! Cùng với chúng còn có di thư rằng con cháu họ Võ phải dùng ngọc vào việc thiện, mua lấy ân đức cho Tông tộc! Con Võ Hồng là cụ Tổ Võ Chí đột tử vì tẩu hỗa nhập ma nên đã không kịp trối trăng lại khiến tâm nguyện ấy không được thực hiện! Mãi đến khi Tư Đồ Sảng đánh vỡ bát nhang hai đáy trên bàn thờ thì mới tìm ra! Việc này xảy ra sau khi song thân chàng bị giết!
Khuất Kỳ xúc động tán dương:
- Lành thay tấm lòng của bậc đại nhân! Lão phu hứa sẽ thực thi ý nguyện của công tử!
o0o
Tư Đồ Sảng phải ở lại Khuất gia trang đến mười ngày vì bị chủ nhà giữ rịt lấy, Thúy Lan luôn quấn quít bên chàng, bắt phải dạy kiếm pháp. Tư Đồ Sảng mến nàng như em gái nên vui vẻ chỉ hảo tận tình.
Vợ chồng Khuất Kỳ không có con trai nên rất yêu quí Lý Thu. Càng gần gũi họ cảng hiểu rõ nhân phẩm của chàng, ước ao sao có được họ Lý làm rể đông sàng! Với bản chất nhân hậu, độ lượng, chắc chắn sau này Lý Thu sẽ chăm lo cho tông tộc Khuất thị chứ không đoạt tài sản này làm của riêng!
Ngày thứ mười, Khuất phu nhân bàn với chồng:
- Tướng công! Tiện thiếp e rằng chúng ta chẳng thể tìm đâu ra chàng rể nào tốt hơn Lý Thu! Tuy Ly Giang Tiên Ông bảo rằng đời y sẽ gặp nhiều nạn lớn, sống chết khó lường, nhưng thiếp không tin. Một kẻ giầu lòng từ tâm, tướng mạo phúc hậu như y làm sao có thể yểu mệnh được! Ý thiếp là vậy chẳng hay tướng công nghĩ sao?
Khuất Kỳ hồ hởi tán thành:
- Bà nói quả đúng ý lão phu! Để vuột mất chàng rể anh hùng cái thế, nhân phẩm xuất chúng như y thi chún ta sẽ hôi tiếc suốt đời! Bà mau cho gọi Lan nhi lên hỏi ý nó xem sao?
Khuất phu nhãn liền bước ra cửa thư phòng, vẫy ả nữ tỳ đến, bảo thị đi tìm Thúy Lan! Lát sau ả Tố Nga mười bẩy tuổi mơn mởn đào tơ ấy hộc tốc chạy đến. Võ phục đẫm ướt mồ hôi!
Nàng đang luyện kiếm với Lý Thu ở vườn hoa lớn!
Khuất Kỳ cười khà khà nói ngay:
- Lan nhi! Con có phịu lấy Lý Thu hay không?
Thúy Lan đỏ mặt tía tai vùng vằng nói:
- Nhưng Lý đại ca đâu để ý gì đến hài nhi! Chẳng lẽ đàng gái lại đi mở lời trước?
Khuất phu nhân cười bảo:
- Lan nhi ngốc thật! Y đang chịu tang song thân và sư phụ làm sao dám nghĩ đến việc hôn nhân?
Thúy Lan cười buồn:
- Lỡ chàng mượn cớ ấy mà thoái thác hôn sự thì sao?
Khuất phu nhân đắc ý đáp:
- Năm ngoái, sư phụ Lý Thu là Ly Giang Tiên Ông có nói đến thời hạn ba năm! Nay ta sẽ vin vào đấy mà giao ước! Lý Thu là người chí hiếu tất không dám làm trái di ngôn của ân sư!
Khuất Kỳ toét miệng cười, tán dương bà vợ:
- Bà quả là đa mưu túc kế, lão phu xin bội phục!
Lão liền bảo Thúy Lan nấp vào sau giá sách, nơi có trường kỷ để nằm đọc sách, rối sai tỳ nữ đi mời Lý Thu.
Chờ chàng rể tương lai nhấp xong hớp trà, Khuất lão mở lời:
- Lý công tử! Cuối năm ngoái, khi Hồ lão ca làm mai Lan nhi cho công tử thi lệnh sư có hẹn ba năm. Vợ chồng lão phu tuân theo di ý ấy mà tiến hành việc đính hôn trước. Chờ công tử mãn tang song thân và sư phụ mới tiến hành hôn lễ!
Khuất Kỳ rào đón, bao vây mọi ngả, không chừa cho con mồi một cửa nào để thoát ra cả! Lão khát khao có được rể quí nên vận dụng tâm cơ trong lời nói, cưỡng lý đoạt tình mà không hề áy náy!
Tư Đồ Sảng bối rối, thừ người một lúc rồi nói:
- Vãn bối vô cùng cảm kích trước sự ưu ái của nhị vị! Vãn bối cũng yêu mến Lan muội song khổ nỗi là đã có hôn ước với hai nữ nhân rối!
Khuất Kỳ choáng váng vì thất vọng nên giọng nói hơi mỉa mai:
- Lạ thực! Công tử mới xuất đạo vài tháng, lại đang cự tang, sao sớm vướng lưới phấn son như thế nhỉ?
Tư Đồ Sảng thẹn đến chín người, ngượng ngùng kể lại cuộc tao ngộ với chị em họ Lăng.
Nghe nói Phi Tuyết, Phi Hồng đều xấu như quỉ và chàng lấy họ vì lòng nhân nên Khuất Kỳ bớt tức tối:
- Té ra là thế! Lão phu đã quá lời.
Lão lưỡng lự nhìn bà vợ khôn ngoan hỏi ý. Khuất phu nhân liền nói:
- Trai anh hùng năm thê bảy thiếp là chuyện thường tình! Lão thân cho rằng Thúy Lan có thể chung thuyền với hai người ấy. Nhưng do họ mang thân phận nô tỳ nên mong rằng công tử sẽ để Thúy Lan đứng ngôi chính thất.
Tư Đồ Sảng xuất thân bần hàn, có cảm tình với những người ở giai cấp thấp, bèn nghe lòng gợi lên cảm giác chua xót. Chàng buồn rầu nói:
- Vãn bối là con nhà tiều phu nghèo khó, chắc không xứng với một vị tiểu thư mà chỉ xứng với nô tỳ! Hảo ý của nhị vị vãn bối xin tâm lãnh mà chẳng đám vâng lời!
Mở sáng hôm sau, Tư Đồ Sảng lặng lẽ rời Khuất gia trang để đi Giang Tây. Theo di mệnh của Ly Giang Tiên Ông, chàng phải có mặt ở Tổng đàn Thiên Sư Giáo, trên núi Long Hổ Sơn thuộc huyện Quí Khê, để trao cho Trương Giáo Chủ một phong thư! Về bối phận, Tư Đồ Sảng phải gọi Trương Hàn Vũ là sư huynh!
Thiên Sư Giáo xuất xứ từ Long Hổ Sơn phái, do Trương Thịnh Di, cháu bốn đời của Trương Đạo Lăng sáng lập thời Tây Tấn, tại núi Long Hổ! Thịnh Di tôn Đạo Lăng làm Chưởng Giáo, thánh hiệu là “Chính Nhất Thiên Sư”. Từ sau thời Đường Tống, Long Hổ Sơn phái hợp lại cùng các phái Nam - Bắc Thiên Sư Đạo và Thượng Thanh, Linh Bảo, Tịnh Minh. Đến đời Nguyên Thành Tông, một hậu duệ khác của Trương Đáo Lăng là Trương Dự Tài được phong hàm Ch đến chân nhân?
Vị đạo sĩ cười khánh khách:
- Có nhắc đấy? Chỉ tại ngươi không nhớ thôi! Bần đạo quen thân Tư Đồ Quát đến mức biết rằng y có một vết sẹo dưới vai phải, hậu quả của nhát kiếm mà Tư Đồ Xán đã đâm.Tư Đồ Sảng thấy lão nói trúng phóc bí mật, hiểu rằng Tiên Liêu Chân Nhân quả đúng là cố hữu của cha mình.
Chàng trai mồ côi, cô độc nghe lòng ấm áp tình thương. Chàng yêu cha mình nên yêu cả những người thân của ông.
Tư Đồ Sảng hớn hở nói:
- May quá! Không ngờ vãn bối lại còn có bậc trưởng thượng để xin chỉ giáo. Nhưng chằng hay vãn bối phải xưng hô như thế nào đây?
Chàng không rõ Chân Nhân lớn hay nhỏ hơn cha mình. Lão đạo sĩ cười khà khà:
- Chú hay bác cũng đều sai! Tốt nhất ngươi gọi ta là sư phụ vậy. Bần đạo chưa có đệ tử vừa ý, đang sợ tuyệt học bị thất truyền.
Dù không tin rằng đối phương có gì hay để dạy mình song chµng vẫn vui vẻ nhận lời, cốt để lão vui. “Nhất tự vi sư bán tự vi sư”, dẫu lão chỉ khuyên chàng cách xử thế thì cũng đáng gọi là thầy rồi.
Về đến thành Trường Sa, hai người ghé trọ trong Hồ Nam Đại Lữ điếm. Tư Đồ Sảng định đặt hai phòng thì Tiên Liêu Chân Nhân gạt đi, chỉ lấy một:
- Thầy trò thì phải ở chung để bần đạo dạy dỗ ngươi chứ!
Chàng cười và nhờ chưởng quỹ sai gã tiểu nhị đi mua giùm vài bộ đạo bào cùng giầy vớ, áo cừu cho sư phụ.
Họ lên phòng, tắm gội xong thì y phục mới đã về đến. Chân nhân khoan khoái mặc vào, gật gù khen:
- Mặc áo bằng lụa tốt quả là dễ chịu!
Rồi lão khệnh khạng ngồi xuống chiếc ghế dựa trong phòng và trầm giọng:
- Sảng nhi! Ta tuy là người đạt đạo xem thường tiểu tiết, nhưng chín lạy bái sư thì chẳng thể bỏ qua. Có vậy ta mới được quyền dạy võ cho con.
Giọng lão hòa ái nhưng uy nghiêm đáo để. Tư Đồ Sảng vội vén áo quỳ xuống khấu đầu lạy đủ chín lạy.
Vừa xong thì có tiếng gõ cửa và tiểu nhị bưng mâm cơm rượu vào. Mùi rượu Thiệu Hưng thượng hạng bay ngào gạt khi được rót ra làm cho chiếc mũi lân đỏ ửng của Chân Nhân phổng lên.
Thức ăn cũng toàn những món đặc sản lừng danh Hồ Nam, giá đắt cắt cổ.
Tửu lượng của học trò khiến vị sư phụ hài lòng. Chân Nhân cao hứng cùng Tư Đồ Sảng uống cạn một vò năm cân. Khi đã no say, lão bắt Tư Đồ Sảng kể lại thật chi tiết những gì đã xảy ra trong đời, luôn cả võ học.
Đến hoàng hôn thì câu chuyện thương tâm của Tư Đồ Sảng mới chấm dứt. Tiên Liêu Chân Nhân trầm ngâm bảo:
- Không phải ngẫu nhiên mà kiếm trở thành vua của mọi loại vũ khí. Chính Võ Hồng cũng nổi danh nhờ kiếm, sau vì thua thanh bảo đao sắc bén của Đao Vương nên mới nghĩ đến việc dùng búa. Khuyết điểm của Giáng Ma Phủ là quá nặng, không thể nào đạt đến tốc độ như khi ngươi dùng kiếm. Do đó nếu gặp phải những kiếm thủ thượng thặng, công lực thâm hậu, thì ngươi sẽ thua sau ba trăm chiêu. Dù ngươi thần lực hơn người thì lúc ấy tay cũng mỏi, đường lui chậm lại.
Tư Đồ Sảng thầm công nhận lão nhận xét không sai. Chiều nay, dù chỉ mới hơn hai trăm chiêu mà chàng đã có dấu hiệu bải hoải nơi cánh tay hữu.
Chàng phiền muộn hỏi:
- Sư phụ! Chẳng lẽ đổ nhi phải bỏ búa mà học kiếm!
Tiên Liêu Chân Nhân gật đầu rồi lại lắc đầu:
- Không hẳn như thế! Ngươi đã có căn bản về Giáng Ma kiếm pháp cứ tiếp tục khổ luyện để đối phó với những địch thủ giỏi kiếm. Còn với những loại vũ khí khác thì Giáng Ma Phủ hoàn toàn chiếm ưu thế. Bần đạo sẽ giúp ngươi thấu hiểu những yếu quyết thượng thừa của kiếm đạo.
Phòng thượng hạng nên rất rộng, gồm hai phần để tiếp khách và ngủ, được ngăn bởi một bình phong gỗ tám cánh, khắc nổi hình Tiêu Tương Bát Cảnh.
Tư Đồ Sảng liền xếp tấm bình phong để dựa vào vách phòng, dẹp bàn ghế tạo ra khoảng trống mà luyện kiếm.
Tiên Liêu Chân Nhân đã bước đến giường lấy kiếm rút ra, nghiêm nghị bảo:
- Kiếm không phải là một thanh thép vô tri, lạnh lẽo mà là một vật tương thông với tâm linh của người kiếm thủ. Do vậy, kiếm có thể nhanh bằng ý nghĩ, tâm vừa máy động thì kiếm đã đến mục tiêu.
Nhận ra vẻ nghi ngờ trong mắt học trò, Chân Nhân cười bảo:
- Ngươi không tin ư? Vậy thì ngươi cứ dùng Giáng Ma Phủ mà phòng thủ mũi kiếm của bần đạo.
Tư Đồ Sảng bẽn lẽn đi lấy búa, thủ thế rất nghiêm mật, đứng cách sư phụ gần trượng.
Tiên Liêu Chân Nhân lướt đến, trường kiếm chỉ thẳng ra phía trước. Tư Đồ Sảng vội múa tít Thần Phủ, tạo nên màn lưới thép kín như bưng. Chàng nhìn thấy mũi kiếm chập chờn trước mặt rồi liến tiếp xuyên qua phủ anh, đâm vào áo mình. Những nhát kiếm này nhanh đến mức đụng mục tiêu và rút về mà không hề chạm lấy Giáng Ma Phủ.
Tư Đồ Sảng phục lão sát đất, dừng búa vòng tay nói:
- Sư phụ quả là bậc kiếm tiên! Đồ nhi đã sáng mắt ra rối!
Chân Nhân cười khanh khách, nheo mắt bảo:
- Trước giờ ngươi cứ nghĩ rằng bần đạo là kẻ bịp bợm chứ gì?
Tư Đồ Sảng thẹn thùng đáp:
- Đồ nhi nào dám có ý ấy!
Và chàng ấm ức hỏi:
- Vì sao lúc ở Khuất Gia Trang sư phụ lại chọc ghẹo Giả Bạch Hổ rồi giá họa cho đồ nhi?
Chân Nhân đắc ý đáp:
- Bần đạo chỉ thứ thách ngươi đấy thôi! Ngươi mà nổi giận thì chẳng thể trở thành đồ đệ của ta được. Kẻ bất nhân và thiếu độ lượng thì không học nổi kiếm đạo thượng thừa.
Và lão gắt chàng:
- Đừng mất thì giờ nữa? Ngươi hãy tập trung ôn luyện kiếm pháp để đêm nay đến Khuất Gia Trang đối phó với bọn Câu Hồn sứ giả.
Tư Đồ Sảng ngơ ngác:
- Đồ nhi cũng muốn giúp họ. Nhưng nếu chường mặt ra thì sau này làm sao tiếp cận bọn Quỷ Ảnh Hội?
Chân Nhân nghiêm giọng:
- Quỷ Ảnh Hội ái tài như mạng, dẫu ngươi có lỡ giết vài tên Cầu Hồn sứ giả thì họ cũng bỏ qua, cố gắng thu phục. Bần đạo hiểu chúng hơn ngươi mà.
Tư Đồ Sảng khen phải, bắt tay vào việc ôn luyện. Chân Nhân bảo chàng thi triển pho Giáng Ma kiếm pháp bằng tốc độ nhanh nhất cho đến lúc không còn ngượng ngập.
Một canh giờ sau, mồ hôi Tư Đồ Sảng toát ra như tắm, mang theo mùi rượu thơm nồng. Thế mà Chân Nhân chưa hài lòng:
- Trung Nguyên Đệ Nhất Kiếm thần lực hơn người nên ỷ vào sức mà xem nhẹ yếu quyết khinh khoái. Do vậy mà pho Giáng Ma kiếm pháp vẫn còn ở trong giới hạn kiếm thuật chứ không bước được qua ngưỡng cửa kiếm đạo. Võ Hồng xem trọng chữ lực nên không ngại va chạm vũ khí, còn coi đó là cách bắt đối thủ lộ sơ hở. Nhưng nếu kiếm tiếp xúc nhiều thì tốc độ không thế nhanh được, Hơn nữa, khi gặp phải kẻ địch có công lực thâm hậu hơn, vũ khí nặng hơn, tỷ như Đao Vương chẳng hạn, thì họ Võ sẽ bị thiệt thòi.
Nói xong, ông giảng giải những tinh túy trong nghề đánh kiếm, sửa đổi từng chiêu trong pho Giáng Ma kiếm pháp. Tư Đồ Sáng dù có căn cơ thượng phẩm cũng chỉ hoàn thiện được ba chiêu là đến giữa canh một.
Tiên Liêu Chân Nhân đốc thúc chàng tắm rửa để đến Khuất Gia Trang.
O0o
Giờ chúng ta se quay lại nhà Đàm Châu đại hiệp để xem những gì xảy ra sau khi thầy trò Tư Đồ Sảng đi khỏi.
Té ra, Khuất lão tức tối như người bị bưng mắt, ăn cơm chiều xong, lôi xệch Đàm Vân Tử vào hậu sảnh mà hỏi han:
- Này Đàm Vân Tử! Ông bảo rằng không hề biết lai lịch của Lý Thu sao lại dám cam đoan rằng chàng ta sẽ trở lại hỗ trợ lão phu?
Đàm Vân Tử cười khì:
- Quả đúng là bần đạo chẳng rõ về họ Lý, song lại biết chắc rằng vạn sự sẽ chu toàn khi có mặt lão đạo sĩ già rách như xơ mướp kia. Lão ta chính là bậc phong trần dị nhân, tuổi đã trăm lẻ đắc đạo đã bốn mươi năm, mấy lần xuất hiện tiêu diệt ác ma mà không hề để người đời biết tiếng.
Khuất Kỳ kinh hãi:
- Phải chăng trưởng lão đang nhắc đến Ly Giang Tiên Ông ở đất Quế Lâm tỉnh Quảng Tây?
Đàm Vân Tử đắc ý gật đầu:
- Đúng đấy, Tiên Ông là bằng hữu của gia sư, hai mươi năm trước có ghé qua Võ Đang sơn. Nay gặp lại, bần đạo nhận ra ngay vì lão ta chẳng già một chút nào cả.
Khuất Kỳ hoan hỉ nói:
- Có Ly Giang Tiên Ông giá lâm là điều đại phúc! Lão phu không còn phải sợ Quỷ Ảnh Hội nữa rồi!
Đàm Vân Tử gật đầu tán thành song lại lộ vẻ ưu tư:
Việc ở đây không đáng ngại nữa, nhưng e rằng võ lâm lại sắp nổi phong ba cho nên Tiên Ông mới hạ sơn.
Khuất Kỳ cười bảo:
- Giang hố lúc nào chẳng có sóng gió! Chúng ta ra ngoài kẻo thất lễ với khách.
Hai người trở về bàn, Khuất trang chủ liền bị Giả Bạch Hổ hỏi dồn:
- Khuất đại thúc! Vậy chẳng hay đại thúc có cho phép tiểu điệt tham chiến không?
Chẳng phải do lời cảnh tỉnh của Tiên Liêu Chân Nhân mà chính bản thân Khuất Kỳ đã nghĩ như thế từ lâu rồi. Hồi giữa năm, Giả Gia Trang đã nhờ người đánh tiếng, dạm hỏi Thúy Lan cho Bạch Hổ, nhưng Khuất lão từ chối khéo.
“Bất Hiếu hữu tam, vô hậu vi đại”, trong ba tội bất hiếu thì không có con nối dõi là lớn nhất. Do vậy, Khuất lão vô cùng thất vọng khi không sinh được con trai. Ông lại là chỗ dựa cho dòng họ Khuất ở Hồ Nam, nếu để gia sản lọt vào tay người ngoài tộc thì cháu chắt Tam Lư đại phu có nhiều người khốn khổ.
Khuất Kỳ đã quyết định gả Thúy Lan cho một trong những cháu ruột của mình. Có như thế thì mới bảo toàn được sự thịnh vượng của tông môn. Khổ thay, lũ con của hai em trai Khuất Kỳ đều là hạng lục lục thường tài, văn dốt võ nát, buôn bán thì từ lỗ đến sạch vốn. Hơn nữa, bọn chúng đều ích kỷ, keo kiệt, sau này chắc chỉ bo bo giữ của, chẳng nghĩ gì đến họ hàng xa gần. Nhưng dẫu sao thì cũng còn hơn có rể là người ngoài.
Tuy không biểu lộ ra song trong sâu thẳm đáy lòng Khuất Kỳ vẫn tiềm tàng sự đố kỵ đối với nhà họ Giả. Đó là thói thường tình của con người, chẳng ai tránh khỏi. Ngoài việc hơn thua của bản thân, Khuất Kỳ còn nặng tự ái khi con cháu Giả Nghị giầu sang hơn con cháu Khuất Nguyên. Lão họ Giả chết tiệt kia đâu thể sánh với cụ Tổ Tam Lư đại phu Khuất Nguyên, người đã được cả nước Trung Hoa tưởng nhớ bằng ngày tết Đoan Ngọ?
Vì những lý do kể trên mà giờ đây Đàm Châu đại hiệp từ chối Giả Bạch Hổ một cách khôn khéo:
- Hiền điệt đã quyết chí thì lão phu đành phải chiều lòng ngươi, song việc hôn sự thì lão phu không dám hứa. Lan nhi tính tình ngang bướng, chẳng bao giờ nghe theo sự xếp đặt của lão phu. Do vậy, hiền diệt cứ việc trổ tài chinh phục, nếu Thúy Lan ưng thuận làm đâu họ Giả thì lão phu sẽ tác thành.
Giả Bạch Hổ đẹp trai nhất phủ Hồ Nam, gia thế cự vạn, nên tự tin ràng sẽ chiếm được trái tim của Thúy Lan sau vài lần thăm viếng đàm đạo. Gã hoan hỉ nhận lời:
- Cảm tạ đại thúc đã chỉ giáo con đường sáng! Tiểu điệt sẽ cố gắng để được lọt vào mắt xanh của Lan muội!
o0o
Lác đác có thêm khách ở xa đến muộn. Trong số đó có một đại nhân vật, vừa là bạn vừa là anh rể của Khuất trang chủ. Trại Tôn Tử Hồ Sĩ Tuệ đến nơi lúc xẩm tối. Hồ lão thất nghiệp từ lúc Tư Đồ Xán thọ thương, tuyên bố từ chức.
Cơ trí của Hồ Sĩ Tuệ lừng danh thiên hạ, ngang tài với Táo Gia Cát Bùi Thế Trực dù tuổi có nhỏ hơn. Bởi thế, sự hiện diện của ông khiến Khuất Kỳ rất phấn khởi.
Trại Tôn Tử là quân sư của võ lâm nên rất nhiều người biết mặt. Cử tọa lục tục đứng lên thi lễ với lão. Hồ Sĩ Tuệ tươi cười đáp lễ và đảo mắt nhìn khắp lượt tìm ai đó.
Lên đến bàn chủ vị, lão chào hỏi Giám Hải thiền sư và Đàm Vân Tử xong là thớ dài tỏ ra vô cùng thất vọng.
Lúc này Giả Bạch Hổ đã về Giả Gia Trang tắm gội, hẹn cuối canh hai sẽ quay lại.
Đàm Vân Tử thắc mắc:
- Hồ thí chủ vì sao lại thở dài? Dường như lúc nãy ông tìm ai thì phải?
Trại Tôn Tử gật đầu:
- Đúng vậy! Lão phu đang tìm một gã tiều phu trẻ tuổi! Không có gã thì cục diện đêm nay khó vãn hồi!
Đàm Vân Tử hiểu ý, cười khà khà bảo:
- Lão thí chủ cứ yên tâm! Cái gã cầm rìu ấy đã đi khỏi nhưng chắc chắn lát nữa sẽ có mặt.
Hồ lão thở phào nhẹ nhõm:
- May thực! May thực! Lão phu tưởng cái nghề bói Dịch của mình vô dụng rồi chứ!
Khuất lão hiếu kỳ hỏi:
- Hỗ lão ca! Thế chẳng hay lại lịch chàng trai ấy thế nào? Và vì sao đêm nay không có y không được?
Trại Tôn Tử liền kể lại việc Tư Đồ Xán bị bang chủ Hải Hoa Bang Giáp Vô Yên đánh trọng thươmg, phải từ chức rồi sau đó Thần Phủ Lang Quân đả bại họ Giáp.
Đoạn này ông không hạ giọng nên cử tọa đều nghe rõ, vô cùng thán phục Lý Thu.
Hồ lão nói tiếp, chỉ thì thầm đủ cho ba người cùng bàn tiếp thu:
- Sau khi bàn giao xong Tổng đàn võ lâm cho Thiếu Lâm tự trông coi, lão phu vừa nghĩ đến việc xuôi Nam thăm Khuất Gia Trang thì nghe lòng máy động, bồi hồi một cách kỳ lạ! Lão phu liền bói thử một quẻ và biết rằng Khuất Gia Trang đang lâm đại họa. Đêm đến, lão phu chiêm nghiệm thiên văn, phát hiện hung tinh kiếp sát và chính tinh thiên phủ cùng ở hướng Nam. Chợt nhớ đến Lý Thu, lão phu khá yên tâm song vẫn hồi hộp,  vẫn hồi hộp. Vội kiêm trình ngày đêm để đến đây, nửa đường thì nghe đồn đại về việc Quỷ Ảnh Hội muốn cướp Tỵ Hỏa Châu của nhà họ Khuất.
Lão dừng lời, nhấp hớp trà rồi tiếp nối:
- Lão phu bèn bói thêm một quẻ để xem hung kiết thì thấy tượng quẻ hôn ám, khó hiểu, đầy máu và quỷ khí. Nghĩa là đêm nay Quỷ Ảnh Hội sẽ đưa đến đây những tay cao thủ hạng nhất, bằng mọi giá cướp cho được Tỵ Hoả Châu.
Kể xong, Hồ Sĩ Tuệ tưởng ba người kia sẽ lo âu, ngờ đâu họ vẫn thản nhiên. Và Đàm Vân Tử ỉm cười:
- Hồ lão thí chủ cứ an lòng, nơi nào có mặt Ly Giang Tiên Ông thì tà ma chẳng thể lộng hành được.
Trại Tôn Tử mừng rỡ:
- Té ra lão già bất tử ấy cũng đã đến đây ư? Thế thì lão phu chẳng phải lo nữa rồi!
Khuất Kỳ nói trước:
- Đúng vậy! Giờ thì lão ca cứ an lòng vào hậu sảnh tắm gội, dùng cơm. Tiện nội và Lan nhi sẽ rất mừng khi được gặp lão ca.
Trại Tôn Tử cười hỏi lại:
- À! Con bé Thúy Lan giờ thế nào, có còn gầy đét như ba năm trước không?
Khuất Kỳ nhăn mặt đáp:
- Lan nhi đã trở thành một thiếu nữ xinh đẹp, song tính tình ngang ngược, tinh nghịch đến mức tiểu đệ nhức cả đầu. Nhân dịp này mong lão ca dạy dỗ ả vài lời, Thúy Lan chỉ phục mình đại cửu phụ mà thôi.
Hồ Sĩ Tuệ cười khanh khách bỏ vào trong. Ba khắc sau, lão đã quay lại, sắc mặt rất trầm trọng và nói ngay:
- Lan nhi vừa kể cho lão phu nghe việc Giả Bạch Hổ xin tham chiến và đòi cưới nó. Điếu này ứng với giấc mộng đêm qua của lão phu. Trong mơ, lão phu thấy một con cáo trắng ngậm viên Tỵ Hỏa Châu đứng giữa cảnh điêu tàn đổ nát của Khuất Gia Trang. Hắn ta đâu rồi?
Khuất Kỳ cau này thở dài:
- Cuối canh hai sẽ hiện diện. Lúc đó phiền lão ca quan sát tướng mạo, tìm hiểu xem tâm địa gã thế nào? Tuy hai nhà Giả - Khuất khá thân thiết song tiểu đệ không có cảm tình với gã.
Giám Hải thiền sư bỗng hỏi:
- Hỗ lão thí chủ có biết vì sao Quỷ Ảnh Hội lại quyết tâm chiếm đoạt Tỵ Hỏa Châu hay không?
Trại Tôn Tử trầm ngâm đáp:
- Tỵ Hỏa Châu tuy hiếm có trên đời song cũng chỉ là vật vô dụng vi chẳng ai dại gì đâm đầu vào lửa đỏ. Nghĩ mãi không ra, lão phu bèn tra lại cổ thư và phát hiện một điều là Ty Hỏa Châu, vật chí âm của trời đất, có thể giúp người ta luyện thành Ngưng Huyết Huyền Băng thần công. Vậy phải chăng hội chủ Quỷ Ảnh Hội đã tìm được bí kíp của tuyệt học thất truyền kia nên mới cần Tỵ Hỏa Châu?
Trụ trì chùa Kỳ Viên nghiêm giọng:
- Chỉ mong chẳng phải như thế, nếu không thì thiên hạ đại loạn. Bẩy mươi năm trước Huyền Băng Thần Quân Lương Túc Thoại đã từng dùng thứ Quỷ chưởng ấy mà giết chóc, khống chế các phái Trung Nguyên. May thay, cuối cùng thì một vị kỳ nhân ẩn danh đã nuốt Tỵ Hàn Châu mà giết được họ Thương.
Đàm Vân Tử thắc mắc:
- Vậy chẳng lẽ Tỵ Hỏa Châu có đến hai viên?
Trại Tôn Tử gật đầu:
- Đúng thế! Viên thứ nhất đã bị Huyền Băng Thần Quân dung hoá thành chân khí, viên thứ hai này do Tổ phụ nhà họ Khuất tình cờ mua được đã bốn đời.
Đàm Vân Tử thản nhiên bảo:
- Nếu đúng vậy thì chúng ta cứ hủy hoại Tỵ Hỏa Châu để tránh tai họa cho võ lâm.
Khuất Kỳ khổ sở đáp:
- Không được! Thứ nhất là vì chúng ta không biết rõ có đúng là Quỷ Ảnh Hội chủ cần nó vì mục đích gì. Thứ hai là năm trước tiên mẫu ăn nhầm một con cá lạ, thân thể nóng ran, chân hỏa bốc lên phong bế tâm mạch, nên lúc nào cũng.phải đeo Tỵ Hỏa Châu, rời xa một ngày là mất mạng.
Đàm Vân Tử bối rối nói:
- Bần đạo không biết nội tình nên đã nói càn, mong Khuất lão thí chủ lượng thứ cho.
Trại Tôn Tử xua tay:
- Đấy chỉ là chuyện nhỏ, chuyện đáng nói là sau trận này Quỷ Ảnh Hội có chịu từ bỏ dã tâm hay không? Chẳng lẽ nhà họ Khuất phải dọn vào phủ đường mà ở?
Ba người kia giật mình, biết lão nói không sai. Với lực lượng của Quỷ Ảnh Hội thì Khuất Gia Trang chẳng thể nào chống cự được nữa.
Khuất Kỳ buồn bã nói:
- Thực ra dù có được quân triều đình bảo vệ cũng không ngăn được nổi những cao thủ có thân pháp quỷ mị của phe đối phương. Mong Hồ lão ca bàn cho một diệu kế để Khuất Gia Trang khỏi tai ương này.
Hồ Sĩ Tuệ gật gù:
- Kế thì có nhưng lão phu muốn hỏi rằng ngoài hiền đệ và vợ con ra thì còn ai biết việc lão thái mang Tỵ Hỏa Châu trong người để trị bệnh không?
Khuất Kỳ lắc đầu:
- Bẩm không! Tiện nội đích thân chăm sóc gia mẫu nên bọn nô tỳ thân tín cũng chẳng rõ việc này. Vị đại phu chữa bệnh cho gia mẫu cũng đã từ trần hồi năm ngoái.
Hồ Sĩ Tuệ hoan hỉ bàn:
- Thế thì hay lắm! Cái kế giá họa Giang Đông của lão phu đã có chỗ dùng rồi!
Lão bèn trình bày kế hoạch của mình. Nghe xong, Khuất Kỳ ngơ ngác:
- Nhưng ai là người đủ tài phá vòng vây của Quỷ Ảnh Hội mà đào thoát chứ? Hơn nữa biết đâu y chẳng mang ngọc mà chuồn thẳng?
Trại Tôn Tử mỉm cười:
- Người ấy chính là Thần Phủ Lang Quân Lý Thu. Với bản lãnh của y thì chẳng ai có thể giữ chân hay đuổi kịp! Còn việc có đáng tin hay không thì hiền đệ cứ gả Thúy Lan cho y là xong. Lẽ nào con rể lại cướp ngọc của cha vợ? Vả lại lão phu nghe kể rằng y là người hào phóng, rộng lượng, dám tặng cho Lan nhi mười hai viên Hồng Bảo Ngọc trị giá ngàn vàng. Người như thế thì tham Tỵ Hỏa Châu làm quái gì?
Khuất Kỳ băn khoăn:
- Nhưng liệu Thúy Lan có chịu lấy Lý Thu hay không? Nó được Gia mẫu cưng chiều nên chẳng bao giờ nghe lời tiểu đệ.
Hồ lão tủm tỉm cười:
- Hiền đệ cứ yên tâm! Gã họ Lý đà lọt vào mắt xanh củia Thúc Lan rồi!
Khuất Kỳ bâng khuâng:
- Con bé này nông nổi thực! Chúng ta nào biết lai lịch, nhân phẩm của Lý Thu thế nào đâu?
Đàm Vân Tử ngắt lời lão:
- Việc ấy không đáng lo. Một kẻ đã được Ly Giang Tiên Ông chấm thì không thể tầm thường được. Bần đạo chỉ sợ một điều là sau này chàng rể nhà họ Khuất sẽ trở thành mục tiêu của Quỷ Ảnh Hội và không thể thoát chết. Cây búa đặc biệt của y đâu thể giấu ai được?
Trại Tôn Tử tư lự:
- Lão phu đã nghĩ đến điều ấy! Nhưng lão phu đã chứng kiến trận đấu giữa họ Lý với bang chủ Hải Hoa Bang Giáp Vô Yên và nhận ra rằng phủ pháp của y dường như thoát thai từ một pho kiếm pháp. Nghĩa là Lý Thu có thể sử dụng kiếm. Nếu đúng vậy thì họ Lý chỉ cần bịt mặt, cầm kiếm là không sợ bị nhận ra lai lịch.
Đàm Vân Tử nghi hoặc:
- Để biết chắc, bần đạo sẽ ra ngoài chờ đợi rồi đưa Ly Giang Tiên Ông và Lý Thu vào cửa hông, đến thẳng thư phòng ở hậu viện. Tam vị hãy xuống đấy chờ đợi và không được để ai biết chuyện này.
Hố lão tán thành:
- Đạo trưởng quả là cao kiến, bọn ta xin tuân lệnh.
Khuất Kỳ hiểu ý, giả vờ cao giọng mời ba vị thượng khách vào vấn an Khuất lão thái.
Quần hào ở dưới chẳng hề hay biết, kể cả nội gián của Quỷ Ảnh Hội, nếu có, và thực ra chắc chắn là có, vì đối phương chẳng dại gì mà không cài người vào dò xét động tĩnh Khuất Gia Trang. Thủ đoạn ấy luôn được bọn tà ma sử dụng.
Đàm Vân Tử lén đi lối cửa hông ở mé tường hướng Đông, luồn ra phía trước gia trang mà chờ đợi. Quả nhiên, khoảng gần cuối canh hai thì gặp thầy trò Tư Đồ Sảng đi đến.
Đàm Vận Từ nhảy ra chặn đường cung kính nói:
- Tiểu điệt Đàm Vân Tử xin bái kiến sư thúc!
Tiên Liêu Chân Nhân cười bảo:
- Té ra là ngươi vẫn chưa quên bần đạo. Sư phụ ngươi có khỏe không?
Đàm Vân Tử buồn rầu đáp:
- Gia sư đã thăng thiên hồi giữa năm ngoái.
Tiên Liêu Chân Nhân không nói lời chia buồn mà cười khánh khách:
- Không ngờ Thanh Liên Tử lại nóng ruột thành tiên hơn bần đạo. Cũng mừng cho lão ta, à!  Ngươi đón bần đạo vì việc gì?
Đàm Vân Tử vội nói:
- Chuyện rất dài dòng, không thể nói ở đây được. Mời sư thúc và Lý thí chủ đi theo lối cửa hông, vào hậu viện để thương lượng. Chỉ lát sau, ba người đã có mặt tại thư phòng ở giữa vườn hoa nhỏ, sau dãy phòng ngủ cửa gia đình chủ nhân.
Ngoài Khuất Kỳ, Trại Tôn Tử và Giám Hải thiền sư còn có Khuất phu nhân và Thúy Lan cô nương. Khuất phu nhân muốn biết mặt rể quý nên mò đến. Phần Thúy Lan thì không rõ ý định của cha và cậu nên thản nhiên đi theo mẹ.
Sau nghi lễ chào hỏi, Trại Tôn Tử trình bày tỏ tường mọi việc, từ cục diện hiểm nghèo đến cái kế gia họa Giang Đông của mình.
Tiên Liêu Chân Nhân cười mát:
- Chẳng lẽ Khuất thí chủ không sợ đồ đệ của lão phu cuỗm của quí chạy mất hay sao? Bần đạo mới thu nhận được vài canh giờ nên không thể bảo đảm rằng y tốt hay xấu được.
Đàm Vân Tử hân hoan nói với Lý Thu:
- Bần đạo xin chức mừng Lý thí chủ! Ngươi được trở thành học trò của Ly Giang Tiên Ông là một diễm phúc mà cả thiên hạ khát khao. Theo bối phận, ngươi phải gọi ta là sư huynh. Tiên Ông và gia sư vốn là bằng hữu chí thân.
Tư Đồ Sảng sững người không ngờ Tiên Liêu Chân Nhân lại chính thị bậc dị nhân mà võ lâm vẫn truyền tụng. Ly Giang Tiên Ông thâm giao với sư tổ chàng là Du Long Chân Nhân. Cha chàng từng kể rằng Tính Nhất Giáo Chủ, tổng lĩnh cả các phái Mao Sơn, Cáp Tạo Sơn, Long Hổ Sơn. Vì vậy, các đạo phái này cũng đồng loạt được gọi là “Chính Nhất Đạo”.
Tóm lại, ảnh hưởng của Thiên Sư Giáo lan tràn khắp Trung Hoa, thịnh vượng hơn cả phái Toàn Chân của Vương Trùng Dương!
Nặng về mặt tôn giáo nên Thiên Sư Giáo không nổi tiếng lắm vế mặt võ học, bao đời nay mới sản sinh được một nhân tài kiệt xuất là Ly Giang Tiên Ông! Tuy nhiên, với số lượng đệ tử đông hàng trăm vạn, thế lực của Thiên Sư Giáo cực kỳ hùng mạnh.
Nhắc lại, vì Khuất gia trang nằm ngoài cửa Tây thành Trường Sa nên Tư Đồ Sảng phải vào thành rồi mới đi về Đông được. Chàng khởi hành lúc cuối canh tư, trời còn tờ mờ chưa rõ mặt người. Đường trục Đông Tây của thành Trường Sa vẫn còn vắng vẻ, thưa người qua lại. Giả gia trang vốn nằm trên đại lộ này.
Khi chàng còn cách cơ ngơi nhà họ Giả vài chục trượng thì nhìn thấy một toán kỵ sĩ, gồm năm người, rời khỏi cổng. Họ cũng đi về hướng đông như chàng và việc này chẳng khiến Tư Đồ Sảng quan tâm đến. Chàng cứ thong thả đi sau, rời khỏi thành vài dặm thì bị bỏ rơi xa lắc, chẳng còn nhìn thấy họ đâu nữa.
Lúc bình minh rạng rỡ trước mặt thì Tư Đồ Sảng đã đi được bốn chục dặm, đến một vùng hoang sơ, hai bên đường là cánh rừng thưa.
Chàng phi ngang qua lối mòn xuyên rừng mé hữu, vô tình liếc vào và phát hiện có năm con ngựa đang gặm cỏ. Mầu lông của chúng rất quen thuộc vì bầy ngựa này chính là của năm người đã rời khỏi Giả gia trang lúc mờ sáng!
Lòng hiếu kỳ đã khiến Tư Đồ Sảng ghì cương đứng lại, vận công nghe ngóng. Chàng nhận ra tiếng thép chạm nhau liền rẽ vào, bỏ ngựa lại và lướt đi như gió.
Việc Giả Bạch Hố thu nạp toàn những đệ tử Hắc Đạo đã khiến Tư Đồ Sảng hoài nghi nhân cách của gã. Và thái độ gã xem thường Quỷ Ảnh Hội cũng khá lạ lùng vì chẳng ai dại gì vuốt râu hùm. Nhất là khi họ Giả có cả một gia sản đồ sộ, dễ trở thành mục tiêu sau này cửa Quỷ Ảnh Hội!
Do những nghi ngờ ấy mà hôm nay Tư Đồ Sảng quyết tìm hiểu xem Giả Bạch Hố sai thủ hạ đi giết ai.
Khi đến nơi, chàng kinh ngạc nhận ra Huyết Báo Thân Vô Cửu đang tuyệt vọng tả xung hữu đột trong vòng vây của năm người áo xanh bịt mặt, sử dụng đao. Họ Thân đã bị thương ở vai và lưng, máu loang ướt áo. Bản lãnh của bọn thanh y cực kỳ lợi hại, và dường như năm tên tạo thành một đao trận liên hoàn kiên cố, khiến Huyết Báo chẳng tài nao thoát ra nổi.
Tư Đồ Sảng còn phát giác ra rằng đao pháp của họ có những nét tương đồng với sở học của bọn sát thủ Thập Điện Diêm Cung, kẻ đã từng vây đánh chị em Lăng Phi Tuyết, Lăng Phi Hồng! Phải chăng Giả gia trang chính là vây cánh của Diêm Cung?
Nhưng chàng chẳng còn thời gian để suy nghĩ thêm vì Thân Vô Cửu lại trúng thêm một vết thương nhẹ ở bắp tay phải. Tư Đồ Sảng đã rớm rút búa cầm sẵn nên giờ đây có thể tham chiến ngay lập tức.
Tích Dịch Quỉ Tây Môn Giới đã dạy chàng rằng:
- “Qui củ võ lâm chỉ áp dụng trong trường hợp đối phương là kẻ đáng được trân trọng. Còn như với bọn ác nhân bại hoại thì cứ tiên hạ thủ vi cường!”.
Nhớ lời lão, Tư Đồ Sảng lặng lẽ áp sát đấu trường và bất ngờ ập đến bằng một cú nhẩy xa đến hơn hai trượng. Chàng đã không làm như các hiệp sĩ trong tuồng cổ là quát lên để khỏi mang tiếng đánh lén:
- “Bớ bọn cuồng đồ! Bổn thiếu hiệp là Thần Phủ Lang Quân đã đến đây!”
Tây Môn Giới hoàn toàn có lý vì sự bất ngờ là yếu tố quan trong nhất trong binh pháp. Tất nhiên là Tư Đồ Sảng bị những tên đang quay mặt về hướng chàng phát hiện. Một gã báo động cho đồng đảng:
- Coi chừng đánh lén!
Hai con mồi đang phơi lưng làm mục tiêu cho Giáng Ma Phủ vội đảo bộ quay lại chống đỡ bằng một đòn liên thủ. Hai thanh đao phối hợp với nhau, tạo thành bức tường thép vững chắc. Nhưng dẫu sao thì họ cũng đã bị chậm một nhịp, lộ nhiều sơ hở.
Tư Đồ Sảng đã thi triển chiêu “Cuồng Phong Đoạn Mộc” bằng cả sức mình nên đường búa mãnh liệt như bão tố Giáng Ma Phủ hung hãn đánh bạt hai thanh đao và liếm vào ngực cặp xấu số kia. Chàng là người cao lớn, tay cũng dài thượt, thành ra tầm sát thương của Giáng Ma Phủ khá rộng.
Tiếng thép vang rền hòa với tiếng rú thảm khốc của nạn nhân đã làm chấn động cả một khu rừng tĩnh mịch, lũ chim đang ríu rít đón bình minh cũng bị dọa khiếp mà im bặt.
Tư Đồ Sảng thừa thắng xông lên, tấn công lão áo xanh thứ ba. Gọi là lão vì chòm râu cằm điểm bạc của đối phương khá dài, lú ra khối tấm khăn bịt mặt, và tóc trên đầu chẳng còn xanh.
Lão ta tuổi tác không dưới sáu mươi, công lực thâm hậu và đao pháp cũng điêu luyện hơn đồng đảng. Thanh đao trong tay lão lồng lộn tựa rồng thiêng, đao kình vun vút xé không gian, chặn đứng được đường búa của Tư Đồ Sảng.
Biết tính mạng của Thân Vô Cửu không còn nguy ngập, khi chỉ phái đối phó với hai gã Thanh yêu, Tư Đồ Sảng bình tâm chiến đấu, chẳng vội vã làm gì. Với một cao thủ như lão râu dài này mà chàng nóng vội thì chỉ thiệt thân.
Tuy đã nhủ lòng như thế song lối đánh của chàng vẫn bội phần cương mãnh, xuất phát từ bản tánh con người và từ chính bản chất của pho Giáng Ma Phủ Pháp. Đứng như Ly Giang Tiên Ông đã nhận xét, cụ tổ Võ Hồng ỷ vào thần lực kinh nhân nên đường búa nặng như núi, không hề tiếc sức!
Tư Đồ Sảng đã hiểu ngộ được kiếm đạo, nhờ thế mà nâng cao trình độ phủ pháp lên một bậc. Chàng ra đòn mãnh liệt song lại tránh va chạm nhiều, chủ yếu khai thác ưu thế của những thức đâm như chớp giật. Bề ngoài đường búa của chàng có vẻ hoàn toàn mang tính chất dương cương nhưng bên trong ẩn chứa yếu tố âm nhu ảo diệu và hiểm ác!
Lão nhân râu dài càng đánh càng hăng, dường như cao hứng khi gặp được đối thủ xứng tay. Lão ta múa tít loan đao, giải phá những chiêu búa thầến kẻ hung ác nào trong võ lâm thì cùng đều biếu lộ sự căm ghét! Muốn hắn biến mất khỏi thế gian, để lương dân đỡ lầm than. Tư Đồ Quát thừa lòng hào hiệp nhưng bản lãnh có hạn nên đã phải làm ngơ trước sự hoành hành của lũ hung cuồng. Biết con trai thần lực hơn người, pho Giáng Ma Phủ Pháp lại là tuyệt học hiếm có, Tư Đồ Quát bèn nuôi mộng rằng con mình sẽ trở thành bậc đại hiệp danh lưu muôn thuở, thực hiện được những điều mà ông bất lực.
Dòng hồi tưởng của Tư Đổ Sảng bị cắt đứt vì ánh mắt chàng chạm phải luồng hào quang xanh biếc của viên Tỵ Hỏa Châu.
Khuất trang chủ đã mở hộp nhỏ chứa ngọc và đặt lên mặt chiếc bàn đá giữa hoa viên, nơi ông thường cùng vợ con thưởng nguyệt những đêm xuân.Cạnh hộp ngọc là rương gỗ đựng hai chục đĩnh vàng, mỗi đĩnh năm chục lượng.
Xung quanh bàn là tám chiếc đôn bằng đá vân thạch đại lý, chân được chôn cố định xuống nền đất.
Tư Đồ Sảng hài lòng vì biết mình đủ sức nhẩy xuống vị trí ấy dễ dàng. Chàng nheo mắt ngắm nghía viên ngọc xanh to bằng hạt nhãn đang tỏa sáng dưới ánh đuốc, tự hỏi rằng có đúng là nó thần điệu đến mức giúp người ta bước đi trong lửa đỏ hay không?
Theo đúng kế hoạch, Đàm Vân Tử đã cắm hàng chục cây đuốc dầu mỏ có cán dài quanh bàn. Chúng sẽ làm vướng chân người ở ngoài xông vào chứ không ngăn cản kẻ từ trên cao nhẩy xuống. Điều này sẽ tạo thuận lợi cho Tư Đồ Sảng, bảo đảm rằng chàng có thể chụp được hộp gỗ trước khi có người lao đến, dù ở phe nào cũng vậy.
Chiếc bàn đã nằm ở hướng Đông gốc bách và Tư Đồ Sảng sẽ thoát đi bằng hướng ấy nên Đàm Vân Tử đã bố trí Lan Thương Tuyệt Mệnh Đao Lưu Xuyên đứng chặn. Lưu Xuyên sẽ phải đền tội và làm vật hy sinh cho kế Giá Họa Giang Đông.
Kế này của bọn mưu sĩ thời Đông Chu, vốn có tên là Di Thi Giá Họa. Sau này, đến thời Tam Quốc, Lữ Mông của Đông Ngô giết Quan Vân Trường xong bèn gửi xác nạn nhân cho Tào Tháo để đổi hướng cơn giận dữ của Lưu Bị Từ đó, kế Di Thi Giá Họa thường được gọi là Giá Họa Giang Đông.
Nhắc lại, năm cao thủ của Khuất Gia Trang vừa bố trí xung quanh chiếc bàn đá xong thì phe đối phương xuất hiện. Bọn Quỷ Ảnh Hội vượt tường vây vào đến nơi mà không hề bị ai cản trở cả. Tuy họ chỉ có tám người song nhắc chắn ngoài kia có cả một lực lượng hùng hậu để đề phòng chủ nhà chơi trò ỷ chúng hiếp cô.
Tám người này toàn thân hắc y, đầu trùm kín bằng túi vải, áo cừu cũng đen mun. Họ đứng thành hình cánh cung, tay nắm chặt chuôi đao.
Người ở giữa có thân hình cao gầy, có lẽ là đầu lĩnh của cả bọn nên lên tiếng:
- Khuất trang chủ! Lần này bổn Hội cử đi toàn những cao thủ hạng nhất, hơn hẳn những người đã từng giết Lư Sơn Ngũ Hiệp ở Giang Tây. Vì vậy, tốt nhất là ông nên dâng nạp ngay Tỵ Hỏa Châu để khỏi bị chết oan.
Nghe vậy, Khuất Kỳ thực sự bị chấn động song cho rằng cuộc chiến sẽ không kéo dài nên chẳng sợ hãi. Ông nghiêm nghị đáp:
- Cảm tạ túc hạ đã cảnh báo! Nhưng Khuất mỗ cũng có chút thanh danh trên giang hồ, chẳng thể ngoan ngoãn để mất bảo vật tổ truyền mà không chống cự. Túc hạ cứ việc cử ra, năm người của mình đúng như quy củ.
Người kia bật cười ghê rợn:
Bổn tọa đã mở ra sinh lộ nào ngờ ngươi lại ngu muội, cố chấp liều chết bởi chút hư danh. Giờ thì ngươi có chết cũng là đáng lắm!
Nghe cách xưng hô, Khuất Kỳ hiểu ngáy rằng hội chủ Quỷ Ảnh Hội đã đích thân xuất trận. Có lẽ viên Ty Hỏa Châu cực kỳ quan trọng nên lão ta đã không thể yên tâm giao cho thủ hạ hành động.
Hội chủ Quỷ Ảnh Hội đã cùng bốn gã hắc y nữa lướt đến, chia nhau tấn công phòng tuyến quanh bàn đá. Tất nhiên lão ta chọn Đàm Châu đại hiệp Khuất Kỳ làm đối thủ.
Thanh đao của lão ta rạng ngời ánh thép xanh lè, chứng tỏ là của quý. Tư Đồ Sảng sững sờ nhận ra rằng đường đao của Quỷ Ảnh Hội chủ còn nhanh hơn Giáng Ma Phủ. Đao ảnh nối nhau thành một dải lụa xanh sáng, bay lượn cuồng loạn song chiêu thc cực kỳ hiểm ác, phong tỏa hoàn toàn trường liếm của Khuất Kỳ.
Tuy nhiên, Đàm Châu đại hiệp là kẻ có thực tài, bản lãnh đứng đầu phủ Hồ Nam, nên không dễ bị thua ngay. Ông nghiến răng chống cự rất kiên cường, đường gươm kín đáo, thận mật, thỉnh thoảng mới công một đòn chớp nhoáng.
Ỷ vào Tư Đồ Sảng nên Khuất Kỳ không cần phải để dành sức lực cho cuộc chiến lâu dài. Ông dồn toàn lực ngay những phút đầu tiên, cố bảo toàn tính mạng cho đến lúc kỳ tích xuất hiện. Ông cũng như chú rùa yếu đuối rút vào lớp mai cứng rắn, khiến hổ báo khó mà giết ngay được.
Mặt trận của bốn người kia cũng thế nhưng họ không phải vất vả như Khuất Kỳ. Võ nghệ của bọn thủ hạ tất nhiên phải kém chủ tướng vài bậc.
Giám Hải thiền sư là bậc cao tăng, vì tình nghĩa với họ Khuất mà tham chiến chứ không hề muốn giết người. Nay đã có kế Di Thi Giá Họa, thiền sư chỉ mong thủ hòa, giữ vững phòng tuyến mà thôi. Phép đánh thiền trượng của Thiếu Lâm Tự lừng danh thiên hạ nên khi Giám Hải đã cố thủ thì đối phương chỉ còn cách chờn vờn ở ngoài tầm trượng, lão hắc y kia nhiều lần thi triển thân pháp ập vào song đều phải dội ra.
Đàm Vân Tử thì nhanh hơn đối thủ của mình một chút, ung dung đối phó bằng đấu pháp Dĩ Tịnh Chế Động, không rời khỏi vị trí. Chẳng còn cá cược với ai nên Giả Bạch Hổ không phái thực hiện việc đả thương kẻ địch trong vòng mười chiêu. Gã điềm nhiên cự địch bằng một loại kiếm pháp rất ảo diệu và nhanh nhẹn. Bốn hắc y nhân, thủ hạ của Quỷ Ảnh Hội chủ, chắc chắn đều là hạng lão thành, có công lực thâm hậu, thế mà, Bạch Hổ vẫn ngang nhiên va chạm vũ khí thì chân nguyên của gã không thể kém.
Lan Thương Tuyệt Mệnh Đao Lưu Xuyên cũng bình thủ với lão hắc y thứ tư biểu hiện một bản lãnh khá cao siêu.
Thẹo kế hoạch thì Tư Đồ Sảng phải chờ trận đấu diễn ra chừng nửa khắc rồi mới nhẩy xuống, nhưng không ngờ Quỷ Ảnh Hội chủ lại đích thân đấu với Khuất trang chủ. Lão ta nổi giận vì không giết được Khuất Kỳ, ngay trong năm chục chiêu đầu, nên đã ra đòn thủ mạng.
Thanh bảo đao của lão rít lên như xé lụa, đao kình thổi vù vù mang theo hơi thép lạnh rợn người. Và luồng đao quang xanh sáng ấy hung hãn công phá, làm cho trường kiếm của Khuất Kỳ rung lên bần bật. Không những thế, Đàm Châu đại hiệp còn bị rách hổ khẩu và bị đẩy lùi về phía sau. Nhận ra rằng Khuất lão sắp lâm nguy, Tư Đồ Sảng vội tung mình đáp xuống bàn đá, thò tả thủ chụp lấy hộp ngọc, nhét cả vào ngực áo. Ba gã Quỷ Ảnh Hội đang đứng quan chiến vì rảnh rang nên sớm quát tháo:
- Có kẻ cướp ngọc!
Và họ bước đến để ngăn chặn.
Theo đúng kế hoạch thì Tư Đồ Sảng đâm vào lưng Lan Thương Tuyệt Mệnh Đao rồi tung mình qua đầu đối thủ của Lưu Xuyên mà đào tẩu. Nhưng lúc này chàng lại không thể làm như thế vì Khuất Kỳ đã trúng một đao, nhẩy ngược về phía sau đến tận chỗ cây đuốc dài, thân hình lảo đảo gục ngã. Và bang chủ Quỷ Ảnh Hội thì đang xấn đến định lấy mạng họ Khuất.
Tư Đồ Sảng kinh hãi vung cước hất nương vàng vào mặt Quỷ Ảnh Hội chủ, đồng thời chàng vọt theo, dồn toàn lực vào chiêu “Hắc Vân Áp Đỉnh”. Các chiêu trong hai pho Giáng Ma kiếm pháp và Phủ pháp đều trùng tên, chỉ khác ở thế thức.
Trường kiếm của Tư Đồ Sảng giăng mắc muôn ngàn kiếm ảnh tựa đám mây u ám chụp xuống đầu kẻ địch. Là kiếm pháp nên chiêu kiếm gồm nhiều thức đâm và tốc độ nhanh hơn búa bội phần.
Có thể chiêu kiếm này không dọa khiếp nổi một đại cao thủ như Quỷ Ảnh ội chủ nhưng Tư Đồ Sảng đã có rương vàng hỗ trợ.
Một ngàn lượng vị chi là hơn sáu mươi hai cân, một trọng lượng đáng kể đủ để làm chậm đường đao của Quỷ Ảnh Hội chủ.
Đuốc quanh bàn đã bị gió bấc và kình phong của cuộc chiến chung quanh thổi tắt gần hết, tuyết lại rơi mù mịt khiến không gian nhá nhem và làm cho Quỷ Ảnh Hội chủ không nhìn rõ cái vật đang bay đến. Lão chỉ còn cách dùng đao ngăn chặn, chém nát chiếc rương.
Lão tưởng gã bạch y kia lấy được của báu rồi thì sẽ chuồn ngay bằng hướng khác, chẳng dại gì chạm trán với lão ta cũng như ba vị hộ pháp đang chạy đến. Nào ngờ, bạch y nhân lại liều lĩnh nhẩy xuống tấn công, không chịu lấy thảm cảnh của Đàm Châu đại hiệp mà làm gương.
Quỷ Ảnh Hội chủ thần tốc biến chiêu, đao quang rực rỡ, tạo thành chiếc lọng thép để đón chào kẻ địch. Dĩ nhiên lão không thể tập trung đầy đủ công lực như lúc đối phó với rương vàng.
Nhờ vậy mà Tư Đồ Sảng có được chút ưu thế. Đao kiếm chạm nhau, Quỷ Ảnh Hội chủ chợt phát hiện chiêu kiếm của đối phượng cực kỳ ảo diệu, mãnh liệt và chứa đầy sát cơ trong những  nhát điểm nhanh tựa mưa rào. Lão vừa đảo bộ thoái lui thì bị một mũi kiếm như tia chớp xuyên qua lưới đao, đâm vào ngực phải. Quỷ Ảnh Hội chủ vội vung tả thủ vỗ vào bản của thanh trường kiếm để đánh bạt đi. Do đó, mũi kiếm chỉ có thể đâm sâu độ hai lóng tay, và rạch đứt một đường dài khoảng gần gang trên ngực cũng như bắp tay phải của lão ta.
Diệu dụng của bàn tay tả là như vậy cho nên, các võ sĩ thường bắt kiếm ấn để phòng thủ ngực bụng chứ không cần vỏ đao hay vỏ kiếm.
Các loại bao của vũ khí đều được làm bằng đồng mỏng, không thể nào chống đỡ với những nhát chém mãnh liệt của những thanh đao, hoặc kiếm bằng thép tốt. Vả lại, vỏ bao vốn trống rỗng nên yếu đuối, dù bằng thép cũng vô dụng.
Các thức đâm của đao hoặc kiếm đều ở tư thế xoay dọc lưỡi nên bàn tay thịt có thể chạm vào mà không sợ tổn thương. Nhất là khi nó được dồn đầy chân khí.
Nhắc lại, Tư Đồ Sảng đả thương Quỷ Ảnh Hội chủ, đẩy lão lùi xa Khuất trang chủ xong, liền. lao vút về hướng Đông mà đào tẩu. Sinh mạng cua Khuất lão chẳng còn đáng ngại vì Pháp Hải thiền sư và Đàm Vân Tử đã đánh văng kẻ địch của họ, nhảy đến che chắn cho ông ta!
Hơn nữa, Quỷ Ảnh Hội chủ không còn chú ý đến Đàm Châu đại hiệp mà điên cuồng đuổi theo chàng! Bảy kẻ thủ hạ của Quỷ Ảnh Hội chủ cũng vậy!
Đàm Vân Tử thì quát vang:
- Chặn gã Bạch y lại!
Giả Bạch Hổ và Lưu Xuyên vội lao đi vì họ hoàn toàn không biết gì về kế giá họa Giang Đông.
Từ chỗ bàn đá đến chân tường vây hướng Đông chỉ có bọn hào khách của Khuất gia trang nhưng không nhiều. Họ xông vào chặn đường Tư Đồ Sảng nhưng đều bị văng ra khi chạm phải luồng kiếm quang kiên cố quanh người chàng!
Khi đến gần tường vây, Tư Đồ Sảng chạm mặt Tổng Quản Khuất gia trang là Tề Thái Thông. Tề lão vốn là bái đệ của Khuất Kỳ, trước đây từng phò tá họ Khuất xây dựng cơ nghiệp.
Lão không có danh tiếng gì song thực ra kiếm pháp chỉ kém Khuất Kỳ một bậc.
Tề Thái Thông quát mắng từ xa:
- Cẩu tặc đừng mong trốn thoát! Rồi lão hung hăng xông đến, tấn công kẻ cướp ngọc bằng một chiêu vô cùng mãnh liệt. Than ôi! Chỉ sau vài tiếng thép va chạm, Tề lão đã rú lên đau đớn vì ngực phải bắn máu hồng.
Bạch y nhân chẳng hề bị chậm bước, nhảy tót lên đầu tường vây, rơi xuống bên ngoài và ung dung lướt nhanh vào màn đêm mù mịt tuyết sương!
Gã không bị ai chặn lại vì tám tên Quỷ Ảnh Hội canh gác mé này đều bị mê man bởi một loại mê dược đáng sợ nào đó.
Khinh công của gã Bạch y quả là đáng khâm phục, chỉ thoáng cái đã biệt tăm. Quỷ Ảnh Hội chủ bị thương nên không tiện truy đuổi đến cùng, hậm hực bỏ đi!

Truyện Cùng Tác Giả Âu dương chính Lan cho rằng đối phương chơi bạc bịp nên cãi cọ rồi đi đến xô xát đánh gã kia trọng thương!
Khổ thay, cái gã Lâm Viễn Toại ấy lại là đồ đệ cưng của Tiên Nhân Động Chủ, một đại cao thủ tuổi tám mươi, ẩn cử ở núi Lư Sơn đã ba mươi năm! Tiên Nhân Động Chủ Tất Linh Kỳ cũng có mặt ở gần đổ trường nên đã bắt Trạm nhi mang về Tiên Nhân Động và gởi thư đòi lão phu phải mang vàng đến chuộc! Ngoài số nợ bẩy ngàn lượng, lão phu còn phải bồi thường thương tích cho Lâm Viễn Toại thêm ba ngàn lượng nữa! Lão thở dài, rầu rĩ nói tiếp:
Dẫu sạt nghiệp thì lão phu cũng phải chuộc con mình về để bảo toàn thanh danh cho Thiên Sư Giáo! Nhưng ác nỗi Động chủ lại còn kèm thêm một điều kiện là phải có người đỡ nổi lão ba chiêu kiếm! Bổn giáo có thể lần lượt cử ai đi cũng được, song mỗi khi đại biểu bị thua thì mất ba ngàn lượng! Lão ta nổi tiếng máu mê cờ bạc nên mới bày ra trò này! Lão phu đã gởi thư đến Quế Lâm để mời sư thúc hỗ trợ song khổng ngờ người đã rời Quảng Tây và tọa hóa ở Hành Sơn.
Trương Giáo Chủ nghẹn ngào một lúc bỗng nghiến răng lộ vẻ kiên quyết:
- Lão phu sẽ bỏ mặc tên nghịch tử ấy rồi đóng cửa sám hối ba năm để tạ tội với tổ tiên và trăm vạn giáo chúng trong thiên hạ!
Bốn vị hộ pháp có vẻ hài lòng trước quyết định ấy nên không ngăn cản Giáo Chủ! Nếu cố bám theo vụ này thì Thiên Sư Giáo sẽ nghèo rớt mồng tơi!
Tư Đồ Sảng từ tốn nói:
- Xin Giáo Chủ sư huynh bớt lo âu! Tiểu đệ tự tin có thể đưa được Trương Trạm trở về!
Trương Giáo Chủ đang tuyệt vọng nên bám lấy tia hy vọng này, song vẫn còn nghi ngại! Riêng Vu Hồ Chân Nhân thì buột miệng nói ngay:
- Sư đệ suy nghĩ cho kỹ rồi hãy hành động! Ngươi mà thua thì bổn giáo lại mất toi ba ngàn lượng đấy!
Tư Đồ Sảng mỉm cười đáp:
- Tiểu đệ sẽ tự thanh toán nếu không đỡ nổi ba chiêu của Tiên Nhân Động Chủ!
Ai nấy kinh ngạc vì không ngờ chàng lại giàu đến thế!
Tư Đồ Sảng quay sang bảo gã đạo sĩ hầu trà:
- Phiền sư điệt ra ngoài cửa Thùy Hoa, bảo thủ hạ của ta mang hành lý vào đây!
Gã này tuổi mới đôi mươi, đạo danh Linh Tiếu Tử, học trò nhỏ nhất của Giáo Chủ! Lúc nào trông gã cũng như đang cười nên mới được đặt tên ấy!
Nghe chàng sai bảo, gã lập tức nhoẻn miệng cười rất tươi, để lộ hàm răng không đều, có hai răng chiếc nanh nhọn. Trong tướng pháp, người có hàm răng như thế thường hoạt bát, vui vẻ và tinh quái!
Gã rảo bước đi ra ngoái, lát sau dẫn Huyết Báo vào đến!
Tư Đồ Sảng đứng lên giới thiệu song phương. Cái tên Liễu Mộ Hào rất xa lạ và không nổi tiếng nên chẳng khiến ai chú ý!
Tư Đồ Sáng mở tay nải của mình, lấy túi lụa đựng Hồng Bảo Ngọc, đổ ra mặt bàn. Ánh Hồng rực rỡ chớp ngời làm loà mắt năm kẻ tu hành.
Thì ra Đàm Châu đại hiệp Khuất Kỳ giận dỗi vì thái độ ương bướng của chàng nên đã trả lại Hồng Bảo Ngọc, kể cả những viên mà Thúy Lan đã xin! Ông tự hào mình là con cháu bậc danh nhân lịch sử nên không thể chấp nhận cho con gái ngang hàng với hạng nô tỳ!
Khuất phu nhân khoáng đạt hơn song không thề cãi chồng!
Tư Đồ Sảng hòa nhã nói:
- Bẩm Giáo Chủ! Số Hồng Bảo Ngọc này trị giá khoảng sáu vạn lượng vàng. Tiểu đệ xin dâng nạp vào ngân quĩ của bổn Giáo để hoằng dương đạo pháp và chẩn tế tai dân khi có dịp! Ngưỡng mong Giáo Chủ thể tất tấm lòng thành của tiểu đệ mà thu nạp!
o0o
Sáng mùng mười tháng sáu. Thiên Sư Giáo Chủ thống lãnh nhân mã gồm ba chục người, hiện diện ở mạn Tây Bắc núi Lư Sơn! Tiên Nhân Động nằm tại đây.
Đang là mùa hạ nên cảnh vật Lư Sơn lộ ra, sương mù chỉ bãng lãng trên cao chứ không mờ mịt che phủ tất cả như những mùa khác! Tuy nhiên, chỉ cần một cơn mưa hè trút xuống là núi Lư Sơn lại chìm vào trong lớp áo khói sương!
Thi hào Tô Đông Pha thời Tống đã có bài thơ vịnh cảnh Lư Sơn rất nổi tiếng:
“Lư Sơn yên tỏa Chiết Giang Triều
Vị đáo bình sinh hận bất tiêu
Đáo đắc hoàn lai vô biệt sự
Lư Sơn yên tỏa Chiết Giang Triều!”
Bài thơ này mang một ý nghĩa triết lý rất thâm thúy, bàng bạc tư tưởng Vô Sở Đắc của cả Đạo Giáo lẫn Phật Môn!
Nơi ẩn cư của Tất Linh Kỳ là một động đá thiên nhiên có từ ngàn xưa. Tất lão đã chiếm lấy nó, khắc lên cửa hang ba chữ “Tiên Nhân Động” và tự xưng Tiên Nhân Động Chủ! Ngày còn ngang dọc giang hồ lão có biệt danh là Truy Nguyên Quỉ Đổ! Hơn ba mươi năm trước, Tất Linh Kỳ bị Đổ Bác Thần Hà Dương vét sạch cơ nghiệp trên chiếu bạc ôm hận đến núi Lư Sơn tu tiên. Không ngờ lão chẳng thành tiên mà còn cùng đệ tử tái xuất ở đổ trường lớn nhất Nam Xướng để rồi chạm trán Trương Trạm!
Tất lão đã bày Trúc trận trước cửa động nên khách không vào được. Trương Thiên Sư liền cao giọng gọi:
- Tất tôn giá! Lão phu y ước mang vàng đến chuộc con, mong tôn giá mở cửa trận!
Từ trong đám tre trúc mờ mịt khói sương kia vọng ra tiếng già nua:
- Nơi này chật hẹp chẳng tiện thiếp khách, phiền Giáo Chủ đưa quân đến chân vách đá Long Thủ chờ lão phu!
Trương Hàn Vũ chỉ còn cách tuân theo sự bố trí của đối phương. Đoàn người lặng lẽ đi ngược về hướng Tây, trước tiên là gặp Ngự Bi Đình, một trong những thắng tích của Lư Sơn.
Ngự Bi Đình cũng gọi là Bạch Lộc Thăng Tiên Đài, do Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương cho xây dựng. Trong đình có bia đá rất lớn, cao khoảng một trượng hai xích hai thốn (bốn mét). Đi thêm nữa là những danh lam thắng cảnh khác nằm rải rác như tháp Thiên Trù, Đài Thiên Tân, Đầm Long Ngư, Đài Văn Thù, Đầm Đại Thiên...
Và cách Đại Thiên Đàm không xa là vách đá Long Thủ lừng danh. Vách này có hình dáng giống như hai khối đá lớn ghép lại, một khối đứng thẳng không nhìn thấy chân, khối kia nằm ngang. Trên mặt đá tùng mọc xanh rì. Đứng ở đỉnh vách Long Thủ người ta có thể nhìn thấy một vùng sông suối, núi rừng, phong cảnh tuyệt đẹp.
Long Thủ Bích ở trên cao trăm trượng và phía dưới nó là những thắng cảnh khác như vách đá sư tử. Phương Ấn Thạch(Tảng đá hình ấn vuông), Bách Trượng Thê (Thang dài trăm trượng).
Lần đầu được chiêm ngưỡng những kỳ quan của núi Lư Sơn, Tư Đồ Sảng ngất ngây, say đắm, tự nhủ sẽ có ngày quay lại đây để thưởng thức cho trọn vẹn!
Đoàn người đến khoảnh đất trống dưới chân vách Long Thủ thì đã gặp ngay một lão nhân mặc trường bào hồng tay hẹp, râu tóc bạc phơ, da mặt chỉ hơi nhăn nheo và nhãn thần thì sáng quắc!
Lão ta ngồi trên một tảng đá nhỏ, sau lưng có hai gã tiểu đồng đứng hầu, một mang kiếm, một ôm đàn tỳ bà!
Hồng y lão nhân đứng lên tự giới thiệu:
- Lão phu là Tất Linh Kỳ!
Trương Thiên Sư không thấy mặt con trai liền nóng nẩy nói:
- Lão phu là Trương Hàn Vũ! Dám hỏi vì sao Tất tôn giá không mang Trạm nhi đến đây?
Là tay cờ bạc lừng danh nên nét mặt Trung Nguyên Quỷ Đổ lúc nào cũng lạnh như tiền, buồn vui không để lộ! Lão thản nhiên đáp:
Hắn đang ờ trong Tiên Nhân Động! Khi nào chư vị đáp ứng đủ các điều kiện sẽ có người cung kính đưa y đến! Và lão hỏi lại:
- Phải chăng người tiếp ba chiêu của lão phu chính là Giáo Chủ?
Trương Hàn Vũ cười nhạt:
- Bổn tọa thân phận cao cả, đâu thể tùy tiện xuất thủ! Người tham chiến sẽ là Ngũ sư đệ của lão phu, đạo danh Kỳ Hoa Chân Nhân!
Lão nói thế cho oai chứ thực ra võ công không cao, Thiên Sư Giáo nặng về tôn giáo hơn là võ thuật, Giáo Chủ cùng các Hộ pháp chỉ chuyên tâm vào kinh tạng, bùa chú và thuật luyện đan!
Từ sau lưng Trương Giáo Chủ bước ra một đạo sĩ áo trắng, tuổi đôi mươi, mày kiếm, mắt sao, mũi Thông Thiên Đình tôn quí, trán cao, miệng rộng! Sắc diện của Kỳ Hoa Chân Nhân hiền hòa, nhân hậu, song ẩn chứa vẻ uy nghiêm, cương nghị!
Kỳ Hoa Chân Nhân chính thị Tư Đồ Sảng của chúng ta! Trương Giáo Chủ đã sắc phong chàng làm Đệ ngũ Hộ pháp của Thiên Sư Giáo và ban cho đạo hiệu Kỳ Hoa.
Tiên Nhân Động chủ Tất Linh Kỳ thừa thông minh để hiểu rằng gã đạo sĩ trẻ tuổi kia phải có bản lãnh rất cao cường nên mới được đề cử làm đại biểu xuất trận! Lão nghĩ ngày đến cao thủ số một của Thiên Sư Giáo, hờ hững hỏi:
- Phải chăng Kỳ Hoa Chân Nhân là đệ tử của Ly Giang Tiên Ông?
Trương Thiên Sư cười ruồi:
- Đúng vậy! Y nghe nói kiếm pháp của tôn giá trước đây từng lừng danh vũ nội nên hiếu kỳ muốn học hỏi!
Dù bị khích bác, mỉa mai mà Tất Linh Kỳ vẫn không động nộ, nhếch mép cười nham hiểm:
- Lão phu rất vinh hạnh! Sau ba chiêu, nếu y không gục ngã thì lão phu nhận bại!
Tư Đồ Sảng có cảm giác rằng khi cầm kiếm thép trong tay thì tâm hồn thanh thản, và hoàn toàn vô úy. tâm lý khác hẳn lúc cầm búa! Dường như thanh kiếm đã mang đến thêm sức mạnh và dũng khí vây! Đúng là tâm trạng của kẻ đã bước vào cảnh giới kiếm đạo. Chàng rất tự tin nên điềm nhiên hỏi lại:
- Nhưng nếu bần đạo đả thương được tôn giá thì sao?
Đối với một võ sĩ già thì đây là sự xúc phạm lớn lao, da mặt Tất Linh Kỳ hơi tái đi và lão cười nhạt:
- Hay lắm! Nếu ngươi tự tin như thế thì chúng ta đánh cược! Sau ba chiêu, lão phu mà chảy một giọt máu thì sẽ giao trả cả Trương Trạm lẫn một vạn lượng vàng, cũng như không đòi bẩy ngàn lượng kia! Bằng như ngươi không làm được điều ấy, dù vẫn còn đứng vững thì Thiên Sư Giáo phải mất thêm vạn lượng nữa!
Té ra cái máu cờ bạc đã thắng được cơn giận dữ của Tất Linh Kỳ. Trương Giáo Chủ đã biết Tư Đồ Sảng là Thần Phủ Lang Quân, người từng đả thương Hải Hoa Bang Chủ và Quỷ Ảnh Hội chủ, nên rất tin tưởng. Ông hăng hái giao kết:
- Bổn tọa tán thành! Song tôn giá phải mang Trạm nhi và số vàng ấy đến đây!
Ông ngừng lại một chút rồi nhẹ nhàng mỉa mai:
- Lòng người đen bạc khó lường nên bổn tọa phải cẩn thận!
Biết Trương Hàn Vũ muốn khích động, làm rối loạn tâm của mình, Tiên Nhân Động Chủ cứ thản nhiên như điếc và gật gù chấp thuận.
Lão ngửa cổ hú vang, tiếng hú ấy được dồn nguồn công lực hơn hoa giáp nên cực kỳ hùng mạnh, khiến màng nhĩ phe đối phương đau nhói.
Tất Linh Kỳ chỉ thị uy vì lát sau đã có bốn hán tử võ phục đen áp giải một chàng trai áo gấm xanh đi đến nơi! Nghĩa là họ ở rất gần đây!
Chắc vì không được hậu đãi nên mặt Trương Trạm hốc hác, tái xanh, râu ria lởm chởm, y phục bèo nhèo, dơ bẩn. Nhìn thấy Trương Thiên Sư, gã nghẹn ngào cầu cứu:
- Xin phụ thân cứu lấy hài nhi! Bị cầm tù thêm vài ngày nữa thì hài nhi chết mất!
Trương Trạm hư đốn cũng bởi sự cưng chiều quá độ của vợ chồng Trương Giáo Chủ! Thuở nhỏ, Trương Trạm thông minh lanh lợi, biết cạch nịnh hót nên được cha mẹ yêu thương như bảo bối! Lớn lên gã hư hỏng là chuyện tất nhiên!
Nhưng lần này Trương Thiên Sư không thể bỏ qua tội lỗi tày đình này của quí tử. Lão trừng mắt nạt:
- Nghịch tử khốn kiếp kia! Đương nhiên lão phu phải cố đem ngươi về Long Hổ Sơn để chịu sự trừng phạt của Giới Đường chứ! Lúc ấy thì còn khổ hơn trong Tiên Nhân Động!
Trương Trạm ỷ vào sự yêu thương che chở của mẹ là Giáo Chủ phu nhân nên chẳng ngán, nhưng ngoài mặt vẫn tỏ ra sợ hãi và hối hận, sụt sùi khóc lớn!...
Tiên Nhân Động Chủ rút trong áo ra một xấp ngân phiếu, đưa cho Trương Thiên Sư và nhẹ nhàng trả đũa:
- Lão phu không có thói quen lấy dạ tiểu nhân để đo lòng quân tử! Ông sợ thì cứ giữ lấy cho yên tâm!
Trương Giáo Chủ chưa kịp đối đáp thì Linh Tiếu Tử ở bên cạnh đã vọt miệng nói leo... Gã cười khì bảo:
- Trong đổ trường làm gì có quân tử! Lúc cháy túi thì nhà cửa ruộng vườn và cả vợ con cũng dám bán đi để gỡ gạc! Năm xưa tôn giá đã chẳng từng làm thế đấy sao?
Việc tủi nhục này là một bí mật tày trời của Tất Linh Kỳ, chỉ có lão và Đổ Bác Thần biết được. Ngày ấy, Đổ Bác Thần đã hứa không tiết lộ việc lão mang người vợ trẻ đẹp ra đánh bạc và thua mất. Vậy mà không hiểu sao giờ đây gã tiểu tử chết tiệt kia lại khai ra vanh vách như thế?
Lão không ngờ rằng Ly Giang Tiên Ông là bạn vong niên của Đổ Bác Thần nên nắm rõ sự việc. Và trong một lần ghé thăm Long Hổ Sơn, Tiên Ông đã vui miệng kể cho Linh Tiếu Tử nghe!
Tiên Nhân Động Chủ giận điên ngươi song không thể thú nhận, liền quát mắng:
- Tiểu bối chớ nói càn! Làm gì có việc ấy?
Và lão quay sang trách Trương Thiên Sư:
- Vì sao Giáo Chủ lại để cho đệ tử mình hỗn láo với lão phu như thế? Phải chăng đấy là kỷ cương của Thiên Sư Giáo?
Trương Giáo Chủ biết đối phương đã động nộ, tâm tình rối loạn, có lợi cho Tư Đồ Sảng. Ông rất cao hứng nhưng vẫn giả vờ khiển trách đồ đệ:
- Linh Tiếu Tử! Ngươi nói năng bừa bãi làm tổn hại đến thanh danh bổn giáo, khi về sẽ phải chịu hình phạt của Giới Đường!
Linh Tiếu Tử tinh ranh như chồn giả vờ khiếp sợ run rẩy đáp:
- Đồ nhi đã biết tội!
Lúc này, Tư Đồ Sảng đã rút kiếm, trao vỏ bao cho Huyết Báo, tiến đến trước mặt Tất Linh Kỳ. Chàng ôm kiếm chào rồi thủ thế, chờ đợi sự tấn công của đối phương.
Bàn tay hữu chàng nắm đốc kiếm, hạ xuống vị trí dưới thắt lưng, lưỡi kiếm dựng xéo trước mặt, còn bàn tay tả thì bắt kiếm ấn, đặt hờ trước ngực trái. Tư thế này chẳng có gì đặc biệt, không kín cũng không hở, song lại khiến Tất Linh Kỳ lưỡng lự. Lão nhận ra rằng Kỳ Hoa Chân Nhân chẳng hề có chút sát khí nào, một dấu hiệu của bậc kiếm thủ thượng thừa!
Điều đáng ngại thứ hai là chút ánh sáng mờ mờ màu tím nhạt tỏa ra từ cây trâm cài búi tóc trên đầu đối thủ! Lão nhận ra rằng Kỳ Hoa Chân Nhân phái có tu vi trên ba mươi năm và đạt được hai thành hỏa hầu công phu cương khí hộ thân, thì cây Tử Ngọc Thần trâm kia mới phát quang! Năm xưa, mỗi lần Ly Giang Tiên Ông giao đấu với ai, cây trâm ấy tỏa sáng rực rỡ!
Sau khi đánh giá xong thực lực của kẻ địch Tiên Nhân Động Chủ cẩn trọng xuất chiêu “Lôi Vũ Khai Nguyên”, kiêm ảnh mờ mịt tựa vũ trụ thuở còn hỗn độn, và lấp loáng những vệt sáng dài, những chấm nhỏ li ti, tượng trưng cho sấm sét, mưa gió, tức lửa và nước, hai yếu tố khởi nguồn cho sự sống!
Tất Linh Kỳ là học trò của Hỗn Nguyên Chân Quân, trước đây do mải mê đen đỏ mà không sao luyện thành những chiêu cuối của pho Hỗn Nguyên Kiếm Pháp. Nhưng sau ba mươi năm tĩnh tâm tu luyện ở Tiên Nhân Động lão đã đạt đến mức đạt thành!
Lão xem trọng đối phương nên đã thi triển một trong những chiêu lợi hại nhất và tin chắc sẽ đại thắng. Lão vẫn nghĩ rằng giờ đây mình là một trong những kiếm thủ hàng đầu trong võ lâm!
Nhưng Lão Ô Bách Tuế chẳng bằng Phượng Hoàng sơ sinh, Tất Linh Kỳ căn cơ thấp kém, mang bản chất của một kẻ cờ bạc bẩm sinh, lòng tham dục rất vượng thì làm sao hiểu ngộ được yếu quyết cao siêu của kiếm đạo? Do vậy, dù khổ luyện cách mấy thì lão vẫn chỉ dừng lại ở trình độ kiếm thuật!
Tuy nói như thế song bản lãnh của Tất lão vẫn cao hơn Tư Đồ Sảng vài bậc, nhờ công lực thâm hậu. Lão ta là con trâu già lực lưỡng, hung hăng, còn chàng như chú cọp non, móng vuốt chưa đu dài! Nhưng Tư Đồ Sảng lại sở đắc kiếm đạo, chẳng thể thua trong vòng vài chiêu được! Hơn nữa, tri thức của con người hoàn thiện dần theo thời gian, người đời sau hiểu rõ vũ trụ và thiên nhiên nhiều hơn cổ nhân. Nghĩa là không phải bất cứ môn võ nào có lịch sử lâu đời đều lợi hại hơn tuyệt kỹ đương đại.
Trong trường hợp này cũng thế, tuy Hỗn Nguyên Chân Quân hơn Ly Giang Tiên Ông đến năm mươi tuổi song trình độ kiếm pháp lại chẳng bằng! Chân Quân tạ thế ớ tuổi bẩy mươi, đâu có thời gian để hoàn thiện pho Hỗn Nguyên Kiếm Pháp. Trong khi đó, Ly Giang Tiên Ông thọ đến hơn trăm, thừa điều kiện biến pho Huyền Nguyên1 kiếm Pháp thành tận thiện, tận mĩ!
Giờ đây, Tư Đồ Sảng có dịp để biểu lộ ưu thế này. Chàng vung kiếm chém điểm liên tục ba trăm sáu mươi thế thức với tốc độ nhanh đến mức trường kiếm như hóa thành năm bẩy bóng!
Sau nhiều năm quen sử dụng thanh Giáng Ma Phủ nặng hai chục cân, lực đạo ở cánh tay và cổ tay Tư Đồ Sảng cũng mạnh mẽ phi thường. Nhờ vậy mà khi múa kiếm chàng thấy nhẹ như bấc, dễ dàng đạt đến vận tốc cực đại. Chính Ly Giang Tiên Ông cũng phải thán phục thành tựu ấy của học trò!
Chiêu “Tảo Vân Tầm Nguyệt” mà Tư Đồ Sảng đang sử dụng thuộc về pho Huyền Nguyên Kiếm Pháp. Nó gồm nhiều thức điểm hơn là thế chém. Mũi kiếm của chàng phong tỏa hoàn toàn thân trên đối phương, liên miên bất tuyệt đâm vào những vị trí mờ tối trên màn kiếm quang đang ập đến. Khi thép chạm nhau, Tư Đồ Sảng phải vừa lùi vừa đánh vì đối phương mạnh hơn và đang thuận đà lao đến! Nhờ vậy mà lực phản chấn chẳng nhiều, không cản trở đường kiếm của chàng!
Tiếng thép tinh tang cất lên không ngớt và cuối cùng thì Tư Đồ Sảng đã tìm ra sơ hở chết người của đối phương. Chàng thọc kiếm vào sườn phải Tiên Nhân Động Chủ bằng một nhát cực kỳ thần tốc. Nhưng khi mũi kiếm vừa đâm thủng da thịt họ Tất thì chàng lập tức thi triển Túy Tinh bộ pháp, bay vèo sang mé hữu, cách vị trí cũ hai trượng!
Nếu Tư Đồ Sảng thọc kiếm sâu hơn thì cũng được nhưng phải chịu một vết thương nơi vai tả. Chàng và Tất Linh Kỳ không thù oán, chẳng cần phải thí mạng làm chi!
Phe Thiên Sư Giáo reo hò vang dội khi máu từ vết thương làm sậm màu tấm áo hồng của Tiên Nhân Động Chủ!
Tất Linh Kỳ bàng hoàng đưa tay tả bịt vết thương, không tin đấy là sự thật! Lão đang dồn cho đối thủ lui dài, sao lại có thể trúng đòn được? Nhưng cám giác đau đớn ở sườn non đã thức tỉnh lão. Tất Linh Kỳ kiểm tra thương thế, biết chỉ là ngoài da nên vần còn sính cường. Lão điểm huyệt chỉ huyết rồi lạnh lùng nói:
- Đu ba chiêu mới phân thắng thua! Nếu Kỳ Hoa Chân không gục ngã thì lão phu nhận bại!
Đúng là song phương đã giao ước như thế nên Trương Thiên Sư phải chấp nhận để Tư Đồ Sảng đánh tiếp. Lòng ông thầm lo lắng cho vị sư đệ trẻ tuổi vì hiểu rằng Tất Linh Kỳ sẽ thí mạng! Để thua một tiểu tử miệng còn hôi sữa thì thanh danh tiêu tán, thà chết còn hơn!
Trương Hàn Vũ liền vẫy Tư Đồ Sảng đến dặn nhỏ:
- Sư đệ hãy cẩn thận! Lão Quỉ họ Tất định đổi mạng đấy!
Tư Đồ Sảng bình thản mỉm cười:
- Giáo Chủ cứ yên tâm! Tiểu đệ biết mình phải làm gì!
Chàng trở lại đấu trường, đứng đối diện với Tiên Nhân Động chủ, thủ thế y như lúc nãy, sắc mặt an hòa, chẳng hề lộ nét kiêu căng tự đắc vì thắng lợi.
Tất Linh Kỳ chột dạ, thầm hiểu rằng cái tâm của gã đạo sĩ trẻ kia đã đồng nhất với kiếm, không hề bị thất tình lục dục làm nhiễu loạn! Nhưng lão đặt trọn niềm tin vào hai chiêu kiếm cuối cùng trong pho Hỗn Nguyên Kiếm Pháp nên bình tâm xuất chiêu “Thiên Địa Sinh Dương”!
Tiên Nhân Động Chủ lướt đi, thân ảnh biến mất trong màn kiếm quang sáng bạc, loang loáng dưới ánh nắng hè chói lọi tựa vầng dương lúc vừa được trời đất sinh ra!
Lần này Tư Đồ Sảng không đứng im chờ đợi mà chủ động lao đến ngay khi đối phương vừa xuất thủ. Chàng chỉ chậm hơn một cái chớp mắt và nhờ tốc độ thần kỳ của pho Truy Tinh Bồ Pháp nên lại trở thành kẻ tấn công.
Lúc này, chiêu kiếm của đối phương chưa đạt đến độ nhanh tối đa, không phát huy được hết uy lực! Hành động này của chàng còn khiến cho Tiên Nhân Động Chủ bị bất ngờ, và rơi vào thế bị động!
Tư Đồ Sảng đánh chiêu Thượng Thiên Nhược Thủy đường kiếm liền lạc âm nhu tạo nên những cơn sóng kiếm kình mềm mại, liên tục vỗ vào màn kiếm quang sáng rực, hung hãn của Tất Linh Kỳ!
Tên của chiêu này hàm ý rằng bậc Đại Thiện Nhân thì giống như nước vậy! Nước giúp ích vạn vật, không tranh chỗ cao ráo, ở vào chỗ thấp kém nên rất gần với Đạo! Nước còn có một đức tính nữa là không thể bị chặt đứt và có thể len qua những khe hở dù rất hẹp!
Đây là chiêu thức kỳ diệu nhất trong pho Huyền Nguyên Kiếm Pháp, có thể thủ thắng trước bất cứ kẻ địch nào! Tiếc rằng, công lực của Tư Đồ Sảng chưa đủ thâm hậu nên không thành công trọn vẹn! Sóng kiếm của chàng đã len qua sơ hở, chạm sườn trái đối phương, nhưng ngược lại, mũi kiếm của Tất Linh Kỳ cũng đang bám lấy huyệt Đản Trung ở giữa ngực chàng!
Nếu Tư Đồ Sảng có đủ hoa giáp chân lực thì sóng kiếm đã làm cho vũ khí của Tất lão chậm lại hơn nhiều và không thể đả thương được chàng?
Tư Đồ Sảng là một kiếm thủ bẩm sinh khi giao đấu tâm tình lặng và trong sáng như gương. Nhờ vậy, các giác quan của chàng rất minh mẫn, cảm nhận được hết những mối hiểm nguy đang đe dọa cơ thể!
Và nếu chàng bỏ dở đường gươm cố thoát khỏi cái thế lưỡng bại câu thương này thì sẽ lâm nguy bởi những thức kiếm tiếp theo. Tư Đồ Sảng biết rõ họ Tất chứa thi triển hết trọn chiêu kiếm!
Diễn tả thì dài dòng, lâu lắc song sự việc xảy ra chỉ trong chớp mắt. Tư Đồ Sảng đã thản nhiên thọc kiếm vào huyệt Phúc Ai. thuộc linh túc Thái âm Tỳ của đối thủ. Đống thời, một kiếm của Tất Linh Kỳ cũng chạm lớp vải áo ở phía ngoài huyệt Đản trung!
Xem ra Tư Đồ Sảng sẽ rất thiệt thòi, huyệt Đản Trung thuộc mạch Nhâm, là một tử huyệt, còn huyệt Phúc Ai thì không!
Phe Thiên Sư Giáo sợ đến xám mặt, lo cho Tư Đồ Sảng, khi họ thấy thấy chàng văng ngược vế phía sau, máu loang đẫm ngực phải. Chàng mặc áo đạo sĩ trắng tinh nên.màu máu hiện ra rất rõ!
Trương Giáo Chủ và hai vị hộ pháp vội lướt đến để chăm sóc Ngũ đệ.
Họ thở phào khi thấy Tư Đồ Sảng cười bảo:
- Tiểu đệ chỉ bị thương nhẹ xin Giáo Chủ và nhị vị sư huynh chớ quá lo!
Lúc này Tiên Nhân Động Chủ đã chỉ huyết vết thương nơi huyệt Phúc Ai và nuốt vài viên linh đan xong. Lão căm hận rít lên:
- Tiểu quỷ chết toi kia! Sao ngươi dám lén lót thép lá vào ngực mà giao đấu?
Tư Đồ Sảng lặng lẽ phanh ngực để lộ Hồng Ngọc hồ lô. Chính cái vật nhỏ bé này đã che chở huyệt Đản Trung của chàng và đẩy lệch mũi kiếm của Tất Lão sang một bên! Chàng hòa nhã nói:
- Tại hạ chỉ gặp may chứ không hề gian dối!
Tiên Nhân Động Chủ chết điếng người hối tiếc rằng vì sao lúc nãy không đưa kiếm lên hoặc xuống dưới huyệt Đản Trung một vài thốn! Trong canh bạc này lão đã cháy túi vì xui tận mạng!
Thật ra, Tư Đồ Sảng chẳng hề cầu may vì biết rõ vị trí của Hồng Ngọc hồ lô lúc ấy! Trái bầu Ngọc đỏ này không tròn lẳn mà hơi dẹp, phần dưới có đường kính rộng độ bai lóng tay, thừa sức che kín huyệt Đản Trung! Và nó rất cứng rắn, chẳng thể nào bị mũi kiếm đâm vỡ được! Tất nhiên, điều này còn đòi hỏi một dũng khí hơn người!
--!!tach_noi_dung!!--


Nguồn: Việt Kiếm
Được bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên
vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- ---~~~mucluc~~~---