Thế cục hồi đầu dĩ nhất không,Giang sơn vô lệ khấp anh hùng.Vạn dân nô lệ cường quyền hạ,Bát cổ văn chương túy mộng trung.Trường thử bách niên cam thóa mạ,Bách tri hà nhật xuất lao lung!Chư quân vị tất vô tâm huyết,Bằng hướng tư văn khán nhất thông.(2)
Cả hai người nhìn Phan Châu Trinh ra chiều thán phục rồi cùng lên tiếng khen: - Hay! Xứng danh phó bảng! Huỳnh Thúc Kháng nói: - Nếu chúng ta cùng làm thơ hết thì chẳng lấy chi gọi là náo động. Vả lại, chuyến Nam du này chúng ta đi ba người, ai ai cũng biết. Nếu trong kỳ khảo hạch này mà có cùng lúc ba bài thơ như vậy thì chẳng khác nào lạy ông tôi ở bụi này. Tôi nghĩ, để tôi và anh nghè Thai Xuyên cùng hợp tác làm bài phú sẽ hay hơn. Phan Châu Trinh đồng tình với ý kiến ấy. Bởi quan đốc học dốt tới đâu cũng không thể cho rằng ba bài thơ của họ làm là những bài thơ của những học sanh trường tỉnh. Ông yên lặng ngồi hút thuốc chờ cho hai bạn bàn bạc nhau từng ý từng lời. Và chẳng bao lâu, bài "Lương ngọc danh sơn phú” được hình thành, Phan Châu Trinh lấy làm thích thú ngâm ngợi:Hỡi hỡi những đồng bào Nam Việt!
Cùng giống nòi phải biết thương nhau.Giang sơn này bốn ngàn thâu,Mà nền văn hóa bấy lâu thế nào?Lo cuộc đời trải bao biến cuộc,Bao anh hùng chịu nhọc sao phen?(…)Hỡi người trí thức kia ơi!Tr6en thời quan lại dưới thời thư sinh.Nên vì nghĩa vì danh một chút,Quẳng mũ đi vứt bút đứng lên.Đừng cam chịu tiếng ươn hèn,Hơi tàn còn thở chớ quên phục thù…(3) Với tài ấy thì đỗ tiến sĩ chẳng lấy gì làm xấu hổ.- Phan Châu Trinh thầm nghĩ. Cả ba người vui vẻ đi chơi tiếp coi như mọi chuyện trên đời chẳng có gì hơn việc du sơn ngoạn thủy. Sau khi dùng bữa xong, Trần Qúy Cáp nói: - Khi cải trang vào khảo hạch, ắt chúng ta phải mạo danh, mà nên mạo như thế nào, các anh đã nghĩ tới chưa? Hai người lúc đó mới ớ ra. Huỳnh Thúc Kháng nói: - Phải! Cụ Thai Xuyên tính không sai. Phan Châu Trinh vẫn giọng hồn nhiên như chẳng có gì: - Ra đầu bài được thì ắt phải có lời giải rồi, lo chi. Trần Quý Cáp nói: - Tôi nghĩ, chúng ta chỉ nên dùng một tên, như vậy mới tỏ rõ ý nguyện của chúng ta. Cả Phan Châu Trinh lẫn Huỳnh Thúc Kháng như cùng lên tiếng một lần: - Đúng! Trần Qúy Cáp nói: - Theo tôi, ở đây họ Đào là một dòng họ lớn nên ta lấy họ Đào. Mục đích của chúng ta lần này là làm cho mọi người thấy được giấc mộng ngu muội của mình. Do vậy, theo tôi, chúng ta cùng lấy tên là Đào Mộng Giác. Phan Châu Trinh và Huỳnh Thúc Kháng thừa nhận cái tên ấy rất có ý nghĩa. Nộp quyển xong, cả ba người liền tiếp tục Nam tiến, không chờ ở lại nghe ngóng kết quả ra sao. Nhưng chỉ mấy hôm sau, chính tai họ đã nghe nói tới cái tên Đào Mộng Giác cùng những lời bình… phi sách vở, nhưng cũng đã có không ít người tin chắc một việc gì đó sẽ xảy ra. Cả ba chỉ mỉm cười và tin rằng trong chuyến Nam du này của họ sẽ là những việc có ích cho việc cổ động tân học cùng chủ trương duy tân. Và trong thâm tâm của mỗi người đã mơ hồ thấy rằng, đây là lần đầu tiên trong lịch sử khoa bảng nước nhà, những người xuất thân từ cửa Khổng sân Trình công khai chống lại cái học đã giúp họ nên danh.°
*
Phan Châu Trinh còn đang mơ màng với những chuyện đâu đâu ấy, thì bị đánh thức. Trước mắt ông, ngoài hai người bạn thiết còn có chàng trai khác mặt mũi coi cũng sáng sủa. Ông vùng dậy chào hỏi và được giới thiệu người trai trẻ ấy là Nguyễn Qúi Anh, con trai cụ Nguyễn Thông, học trò Trần Qúy Cáp. Sau khi cơm nước, cả ba người theo chân Nguyễn Qúi Anh tiếp tục đi về phương Nam. Đến Phan Thiết, cả ba người được Nguyễn Qúi Anh mời về nhà và giữ lại đó. Trần Qúy Cáp và Huỳnh Thúc Kháng cho ông biết, theo Nguyễn Qúi Anh thì những người đồng tâm đồng khí ở đây khá đông. Nguyễn Qúi Anh sẽ lo liệu cho mọi người gặp mặt. Phan Châu Trinh lấy làm vui lắm. Ông vẫn tin, địa linh sinh nhân kiệt. Đất đai miền Nam trù phú, nên tâm tính con người cũng khoáng đạt hơn. Vả lại, đạo học Tống Nho ảnh hưởng ở vùng đất phương Nam của Tổ quốc không đậm nét như những vùng ngoài. Tân thư cũng về từ các cảng biển phương Nam này không ít. Đây chính là tiền đề tốt để cổ xúy tư tưởng dân quyền, chống lại lối học nhồi sọ xa rời cuộc sống. Ba người ngồi trước ba chung trà, nhưng mỗi người đều theo đuổi ý nghĩ riêng của mình, không ai nói với ai lời nào. Chiều dần xuống, gió biển vẫn hào phóng len lỏi khắp nơi. Cả ba anh em nhìn nhau rồi bàn chuyện đi dạo. Người giúp việc xuất hiện ở cửa ngạch, lớn tiếng thưa: - Kính mời qúy thầy ra tắm rửa cho mát. Nghe nói tắm, cả ba mới thấy da thịt rít rít khó chịu, bèn vội vàng theo chân người giúp việc đi tắm. Khi trở vào nhà, cả ba anh em thấy ngoài Nguyễn Qúi Anh còn có nhiều chàng trai khác cùng đẳng tuổi với họ. Họ chưa kịp chào thì những chàng trai trẻ ấy đồng loạt đứng dậy, cung tay chào: - Kính lạy qúy thầy ạ. Cả ba người đều chào đáp lễ. Phan Châu Trinh nói: - Chúng tôi rất hiểu tấm lòng của anh em. Tình sư đồ lúc nào cũng phải giữ lễ là tốt, nhưng chúng tôi đang đi tìm bạn và mong được làm bạn với các bạn. Nguyễn Qúi Anh thưa: - Thầy nói vậy, chúng con ghi tâm, song qúy thầy cũng cho phép chúng con được giữ lễ thầy trò. Nói thật, nghe các thầy đến, anh em mừng lắm. Nói rồi, Nguyễn Qúi Anh giới thiệu từng người một với nhau. Phan Châu Trinh cầm chặt tay từng người như muốn nói rất tin tưởng ở họ. Bào huynh của Nguyễn Qúi Anh là Nguyễn Trọng Lội rất hào hứng và nhiệt tình khi được đón tiếp ba chàng trai đất Quảng. Trương Gia Mô, Hồ Tá Bang cũng vui mừng không kém. Sau khi qua lại chuyện thi phú, Phan Châu Trinh mở đầu chuyện “tân thư”. Qua một hồi trò chuyện, không chỉ mỗi mình Phan Châu Trinh mà còn cả Huỳnh Thúc Kháng lẫn Trần Qúy Cáp đều ngỡ ngàng, không ngờ các thân sĩ Bình Thuận đọc nhiều tân thư và cũng có nhiều suy nghĩ tâm huyết đến như vậy. Nguyễn Trọng Lội nói: - Thưa qúy thầy. Qúy thầy là những tiến sĩ, phó bảng đã nghĩ và muốn như vậy quả là hồng phúc cho tổ tiên, đất nước. Nói về yêu nước quả thật dân Nam ta rất yêu nước, nhưng cách nghĩ của qúy thầy mới chính là kế sách lâu dài, không chỉ giữ nước mà còn phát triển đất nước. Nhưng chúng ta không xuống địa ngục thì ai xuống địa ngục đây. Do vậy, để chứng minh tư tưởng duy tân của chúng ta là đúng, trước mắt, trong khả năng hiện có, chúng con ở đây sẽ mở hội buôn và mở trường dạy học. Nếu ngày xưa, Khổng tử dạy: "Tự hành thúc tu dĩ thượng, ngô vị thường vô hối yên"(4), thì ngày nay, chúng ta phải mới hơn, nghĩa là không cần lễ vật gì, hễ ai muốn học, ta cho học, thậm chỉ rủ rê họ tới học. Phan Châu Trinh nhìn hai người bạn với nụ cười hé mở ra chiều sung sướng lắm. Trần Qúy Cáp cũng có tâm trạng như thế, bởi thời gian làm thầy, ông không phí công dạy dỗ. Ông nói: - Các anh nói được vậy là các anh đã hiểu ý của cụ quan trước tác và cũng là ý của chúng tôi. Anh Lội nhắc đến Khổng tử, thì tôi cũng nói thêm rằng: "Trung nhân dĩ thượng, khả dĩ ngữ thượng dã. Trung nhân dĩ dã, bất khả dĩ ngữ thượng dã" (5). Vì hiểu được đạo lý ấy mà chúng tôi hô hào mở hội buôn, hội làm ruộng, làm vườn. Dân ta thường nói, trăm nghe không bằng một thấy. Chúng ta phải làm cho bà con thấy cái ích lợi thiết thực khi họ cùng chung tay lại để làm ăn. Mạnh dạn buôn bán cạnh tranh với người nước ngoài, chứ không nên làm trâu làm mọi cho ai. Quan trước tác nhà ta có bài Tỉnh hồn quốc ca rất hay, rất thiết thực; đại loại có những câu, như: “Khôn ngoan đối đáp người ngoài, Người trong một nước thì coi như nhà", hoặc “Đất bỏ hoang biết là hiếm mấy, Lợi chang chang đều thấy bỏ qua. Để cho Khách với Chà-và, Chia nhau lấy lợi mà ta ngồi nhìn", hoặc "Miễn mình cố sức cố công, Nên hư cũng chắc ở trong tay mình. Chấp tất cả thiên đình định số, Cùng phước nhà đất nhỏ đất to", v.v… Quan trước tác sẽ chép lại bài ca này và các anh tìm cách phổ biến rộng xuống quảng đại quần chúng. Tôi nghĩ, nó sẽ có ích cho công cuộc duy tân của chúng ta. Và từ đó, hội buôn Liên Thành (chuyên buôn bán cá, nước mắm) và trường Dục Thanh được thành lập. Sau hơn một tháng tuyên truyền cổ động duy tân và kết quả đạt ngoài sự mong muốn, Phan Châu Trinh bằng lòng để Huỳnh Thúc Kháng và Trần Qúy Cáp về lại Quảng Nam, còn ông ở lại vừa dưỡng bệnh, vừa giúp cho các thân sĩ Bình Thuận thực hành duy tân. Trường tuy còn tạm sử dụng nhà cụ Nguyễn Thông, nhưng Phan Châu Trinh tin trường sẽ phát triển tốt. Những ngày ở Phan Thiết, Phan Châu rinh bàn với các thân sị Bình Thuận lập một "thi xã" để có chỗ giảng tân thư cho lớp thanh niên địa phương tới nghe. Các thân sĩ Bình Thuận cho đây là ý kiến hay và họ mượn đình Phú Tài làm nhà giảng sách. Mới đầu, họ rước cụ phó bảng ra nói chuyện để thêm phần long trọng và tăng uy tín cho "thi xã", sau đó họ thay nhau làm diễn giả chính. Người nghe càng lúc càng nhiều và cũng làm chuyển được lòng người khiến họ tin vào việc làm của mình là việc làm ích nước lợi nhà. Cái học của họ được sử dụng một cách thiết thực nhất và họ đã thật sự không còn cần đến cái danh ông cử, ông nghè. Dưỡng bệnh một tháng thì đã bình phục, Phan Châu Trinh từ giã những thân sĩ Bình Thuận trở về Quảng Nam. Trên đường về, ông tin những người bạn của ông sẽ làm được nhiều việc; những cơ sở ban đầu chắc không chỉ tiếp tục phát triển mà còn phát triển mạnh hơn. Làm ăn có ai không thích, song xưa nay không ai chỉ đường, bày cách cho họ. Ở quê ông không thiếu những người giàu có là nhờ buôn bán, nhưng "chẳng thà cho vàng, không ai chỉ đàng đi buôn". Vì vậy, cái nghèo, cái hèn cứ quây mãi lấy đời người. Phan Châu Trinh vững tin rằng, với chủ trương duy tân do ông và bạn bè phát động, người dân quê ông từng bước sẽ ý thức được quyền làm người, ý thức được thế nào là "đông tay sẽ vỗ nên kêu". Có miếng ăn miếng mặc cùng với cái chữ trong đầu, chẳng bao lâu người dân quê ông nói riêng, đất nước Annam nói chung sẽ biết mình phải làm gì và làm thế nào để bảo tồn văn hóa dân tộc, giữ vững được quê cha đất tổ, làm chủ cuộc đời, làm chủ non sông gấm vóc. Lịch sử bao đời qua cho thấy ông cha chấp nhận hi sinh xương máu, thậm chí xương máu của nhiều thế hệ để giữ gìn mảnh đất quê hương, nhưng chưa có ai, chưa có triều đại nào nghĩ xa một chút là khi giành được chính quyền rồi thì phải làm gì cho dân giàu nước mạnh. Từ ngày người Tây dương đến, thì có rất nhiều cuộc nổi dậy chống ngoại xâm. Điều đó rất qúy, rất đáng trân trọng, song chưa đủ làm nên nghiệp lớn. Ngay cả sự hi sinh anh dũng của những sĩ phu quê hương xứ Quảng của ông như: Trần Văn Dư, Nguyễn Duy Hiệu, Châu Thượng Văn, Đỗ Đăng Tuyển, Phan Bá Phiến… hay ngay cả cái chết của thân phụ ông cùng những nghĩa dân, nghĩa sĩ cũng đáng kính đáng phục. Lịch sử mai này có thể ghi tên tuổi của họ, song ông cũng chưa bằng lòng. Họ chỉ biết vì vua, vì nước quên thân, chứ chưa ai nghĩ điều gì to lớn hơn, chiến lược lâu dài hơn. Nếu họ có thành công thì cuộc sống người dân vẫn trở lại như ngàn năm trước, vẫn một nắng hai sương, tự cung tự cấp, vẫn tranh giành nhau góc chiếu đầu đình, vẫn "miếng thịt làng hơn một sàng xó bếp"…°
*
Những ngày ở quê nhà, ông dẫn hai đứa con lớn đi thăm bà con và cũng coi việc làm ăn của họ ra sao. Nói chung, những việc ông nghĩ ra mà không có ai thực hành thì khó cơ sở ăn nói với thiên hạ. Với nghĩ nghĩ đó, ông vận động anh em, bà con nội ngoại đi vào thực hành. Điều thuận lợi là bà con nội ngoại, chòm xóm rất tin ông. Dù sao với họ, Phan Châu Trinh là người học nhiều biết nhiều, là "phụ mẫu chi dân" chứ phải lời nói của hạng tào lao đâu. Những điều cụ phó bảng nói ra ắt là phải trúng. Lời cụ phó bảng nói ra mà không nghe thì biết nghe ai? Nghĩ vậy và họ xung phong làm theo những lời Phan Châu Trinh chỉ dạy. Ba cha con vừa quẹo khỏi khúc quanh đường làng, thì tiếng học bài vang raChữ Quốc ngữ là hồn trong nước,
Phải đem ra tĩnh trước dân ta.Sách Âu Mỹ, sách Chi-na,Chữ kia chữ nọ dịch ra tỏ tường.Công, nông, cổ trăm đường cũng thế,Họp bày nhau thì dễ toan lo.Á Âu chung lại một lò,Đúc nên tư cách mới cho rằng người.Một người học, muôn người đều biết,Trí đã khôn, trăm việc phải hay.Lợi quyền đã nắm trong tay,Có ngày tấn hóa, có ngày văn minh…(Huỳnh Thúc Kháng - Chiêu hồn nước) Phan Châu Trinh thấy lòng vui lắm. Người học bây giờ không còn ê a những "Thiên - trời, địa - đất, thất - mất, tồn - còn…" suốt ngày nữa, thay vào đó không chỉ là chữ quốc ngữ dễ học dễ nhớ mà còn học nhập tâm những bài thơ, bài ca do ông và bè bạn đặt ra nhằm cổ động phong trào. Bài Chiêu hồn nước ấy là tâm huyết của cụ Minh Viên và cũng là tâm huyết của anh em sẵn sàng xắn tay áo với phong trào.
Thấy ba cha con ông vào, thầy giáo ngưng dạy, học trò dừng học. Tất cả đều đứng dậy cúi chào. Phan Châu Trinh chào đáp lễ và khen ngợi đám học trò: - Các anh, các cháu học được rứa là tốt lắm, chẳng bao lâu sẽ đọc sách vở, ghi chép những điều cần ghi. Thầy giáo đứng lớp là người anh nhà bác của ông, tên là Phan Khải, hơn ông những hai con giáp, nhưng rất qúy trọng thằng em của mình. Ông cho học trò nghỉ sớm vì lý do "có cụ phó bảng Tây Hồ về thăm trường". Ông sai người nhà hãm ấm chè quế cho ngon và lấy bánh cho mấy đứa nhỏ, rồi vui mừng nói: - Tôi nghe chú về mấy bữa ni, nhưng bận quá, thành thử định hôm nào qua mời chú lại nhà, anh em mình nói chuyện một bữa cho đã lỗ nhĩ. Nhìn đám học trò đủ loại tuổi, trẻ nhất chín mười tuổi, lớn nhất cũng độ ba mươi tuổi, Phan Châu Trinh tin rằng với sự ham học ấy thì lớp người này sẽ làm nên tích sự đây. Anh ông cho biết, đến nay trường làng này được hai lớp khoảng bốn mươi học trò. Học phí thì ai có chi trả nấy, không có cũng được. Tiền lãi của hội buôn không những thừa chi trả những khoản cần chi trả, mà còn có đồng vô đồng ra. Tùy theo nhu cầu từng địa phương mà các hội buôn trao đổi hàng hóa cho nhau, nên bước đầu đã cạnh tranh được các hiệu buôn của các chú khách, nhất là dẹp được những bọn thương lái ép giá hàng nông sản, nâng giá hàng tiêu dùng một cách vô tội vạ trước đây. Ông Phan Khải nói: - Tôi làm ri chứ chưa bằng cái góc của chú Lê Cơ bên làng Phú Lâm. Nếu rảnh, chú cũng nên qua bên nớ chơi cho biết. Chú phải nhớ rằng, chú chính là linh hồn của phong trào, của công việc. Có bóng dáng chú, anh em tin hơn, làm việc hăng hơn. Hàng tháng, chúng tôi đi lại trao đổi hàng hóa với nhau cũng biết công việc của chú, của các cụ Minh Viên, Thai Xuyên. Nói chung, anh em rất tự hào quê hương đã có những người như các chú. Phan Châu Trinh cười, nói: - Anh nói thì tôi nghe và mừng. Việc thành hay bại là do các anh. Bà con mình biết đoàn kết làm ăn, biết chuyện phải chuyện không cũng nhờ từ các anh chứ chúng tôi đâu có trực tiếp như mấy anh được. Ông Phan Khải cãi: - Chú nói rứa là tôi không chịu. Nói thiệt, chú không đỗ phó bảng, cụ Minh Viên và cụ Thai Xuyên không đỗ tiến sĩ thì phong trào chưa chắc đã được một phần như ri, dù mọi việc các chú nói đều đúng hết. Tôi hỏi chú, xưa nay có ai như các chú thi đỗ ông nghè ông cống rồi về nhà vận động bà con bỏ cũ theo mới? Nếu các chú không đỗ đạt, thì có nói hay bao nhiêu họ cũng cho đó là ý kiến của những anh đồ gàn. Sau hớp chè quế, ông nói tiếp: - Chú biết không, nghe nói vừa rồi cụ Thai Xuyên lên Tí, Sé (thuộc huyện Quế Sơn ngày nay - VG) mở nông trại trên ấy cũng khá lắm. Các cụ bây giờ không phải làm thơ để rung đùi tán thưởng mà nói toàn những điều thiết thực và rất nhiều người thuộc giống như thuộc chú bắt ma, như: bài ca hội nông, hội thương, khuyên học chữ Quốc ngữ, chữ Pháp, khuyên mặc đồ Tây, vận tải, canh nông, v.v… Phan Châu Trinh và bạn bè cũng hiểu điều đó mới dám hạ bút viết Chí thành thông thánh và Lương ngọc danh sơn phú ở trường Bình Định, chứ dở dở ương ương thì nào có dám. Nhưng chỉ hô hào suông mà không có người thực hành thì cũng chẳng được gì, và với ông, quan trọng là ở những người thực hành ý tưởng của ông. - Tôi nghĩ, đó cũng mới một phần thôi anh ạ. Cái chính là chỗ các anh… Ông Phan Khải khoát tay không cho ông nói tiếp. - Chú đừng nghĩ, tôi nói trổ trời. Nay mai, chú ghé qua làng Phú Lâm thì biết. Tôi cho rằng, Lê Cơ là tay giỏi, nhưng Lê Cơ nói ai nghe, dù những việc ấy đều có lợi cho họ? Vì sao vậy? Vì Lê Cơ chỉ là anh học trò thi trường ba (tú tài), là anh lý trưởng quèn. Chú có biết thời gian qua, chúng tôi muốn mở ra cái gì, làm cái gì thì phải gióng câu thiệu gì không? Đại thể là… - Ông đứng thẳng người dậy, vừa nói vừa vung tay như đang nói trước một đám đông: “Chuyện ni là do cụ phó bảng Tây Hồ, cụ nghè Minh Viên, cụ nghè Thai Xuyên dạy. Các cụ học giỏi như rứa, đỗ đạt như rứa mà không thèm làm quan. Các cụ muốn đi đây đi đó lấy chữ nghĩa thánh hiền dạy dân đen chúng ta giỏi hơn, giàu hơn. Bà con chúng ta ai không muốn giỏi như các cụ? Ai không muốn giàu có? Ai cũng muốn phải không nào? Rứa thì không có cách chi tốt hơn là thực hành lời dạy của các cụ…". - Ông mỉm cười, ngồi xuống uống một hơi hết bát nước chè, nói tiếp: - Giáo đầu tuồng như rứa là dân tin và qua thực tiễn công việc, bà con càng tin hơn. Nhờ rứa, phong trào mới được thuận lợi như ngày nay chớ chú tưởng dễ lắm hả? Nghe và nhìn khí thế của phong trào, Phan Châu Trinh tin rằng mình và những đồng nhân đã đi đúng hướng.°