Chương 4
Cánh bèo trôi nổi

Minh-Ðệ cùng với năm vị đệ tử của đại-sư Viên-Chiếu bị gọi lên từng người một thẩm cung liền mười lăm ngày. Mỗi ngày một người chấp cung khác nhau. Nhưng những lần thẩm cung sau, thì không ai bị tra tấn nữa. Hình quan chỉ đặt câu hỏi, bắt trả lời. Họ thay nhau, người này vặn đi, người kia vặn lại, rồi họ bắt viết tay lời cung vào tờ giấy. Sau lần thứ mười lăm, thì quan Ðề-điểm hình ngục Hoàng Khắc-Dụng gọi Viên Chiếu, chư tăng, cùng Minh-Ðệ lên công dường, với sự hiện diện của các quan chấp cung, hai hình quan Tô Sơn-Lâm, Vương Ðình-Thụ, rồi tuyên án:
– Ðúng ra với tội phạm giới tại chùa Từ-quang, thì bản chức sẽ xử. Tội nhẹ thì đánh đòn, đuổi về dân dã. Tội nặng thì xung quân. Bản án được chuyển qua quan Kinh-lược để ngài tăng hay giảm chút ít rồi cho thi hành. Nhưng vụ này lại kèm thêm tội làm gian tế cho Tống, quan Kinh-lược-sứ muốn bỏ qua vụ này. Bản chức không thể đồng ý, vì đây là một trong thập ác, nên nội vụ sẽ đưa về bộ Hình phúc thẩm. Các người chịu tạm giam để chờ án trong kinh ra.
Hoàng Khắc-Dụng hỏi Vương Ðình-Thụ:
– Viên đội trưởng bị giết hôm qua, đã tìm được manh mối gì chưa?
– Thưa chưa. Cứ như việc trong miệng y có cái chân chó nhét vào, thì rõ ràng y bị Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa thượng giết chết.
– Từ xưa đến giờ Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa thượng có giết oan bao giờ đâu? Thế viên đội trưởng phạm tội gì vậy?
– Theo An-vũ-sứ, thì trong lúc khám chùa Từ-quang, y buột miệng nói: "Chư tăng ăn thịt chó, thịt trâu, như vậy chùa này là chùa của Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa thượng rồi". Chắc vì thế nên Mộc-Tồn hà thượng mới giết y.
– Chết như vậy là đáng. Ai bảo ngứa miệng?
Ðây là lần thứ ba Minh-Ðệ được nghe nói đến Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa-thượng. Theo tiếng bình dân thì mộc là cây. Tồn là còn. Cây còn là con cầy. Tức con chó. Tại sao lại có một hòa thượng tên là thịt chó? Tại sao ai nghe đến tên ông cũng kinh hoàng? Tại sao tên đội trưởng chỉ vô lễ một chút mà bị ông giết chết?
Vương Ðình-Thụ hỏi Khắc-Dụng:
– Ðại nhân có biết tại sao khi Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa thượng ra tay hạ sát ai lại nhét chân chó hoặc thịt chó vào miệng không?
– Tôi cũng không rõ nữa. Khắp Ðại-Việt này có hai ông Hình-bộ thượng thư tư là Kinh-Nam vương Trần Tự-Mai với Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa thượng. Kinh-Nam vương thì xử tội những kẻ chủ gây chia rẽ Hoa-Việt, những bọn tham quan, những phường bán nước trong suốt 35 năm nay. Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa thượng chỉ mới xuất hiện trong vòng mười năm trở lại đây, ông chuyên xử bọn cường hào ác bá, bọn trộm cướp, bọn gian xảo. Nghĩa là một người lo bảo vệ đất nước, một người lo bảo vệ phong hóa, luật pháp.
Minh-Ðệ được đưa khỏi nhà tù, đem giam lỏng riêng vào một phòng cùng với con bé Thúy-Phượng trong dinh An-phủ-sứ. Phòng có dường chiếu, có chỗ tắm, phía sau có cầu tiêu sạch sẽ. Nàng được ra vào thư thả, cửa nhà giam không bị khóa. Hàng ngày nàng cùng con bé Phượng phải quét dọn công đường cùng tư thất của An-phủ-sứ. Khi làm việc, thấy trên giá của ông có nhiều sách, nàng lấy ra đọc. Một lần An-phủ-sứ thấy vậy thì nói:
– Ta có coi cung từ của mi, thấy chữ mi viết rất tốt. Vậy ta cho phép mi, sau lúc làm việc được lấy những sách này đem về nhà giam mà đọc.
Từ đấy Minh-Ðệ lại có sách đọc. Nhớ lời thầy đồ Thái hướng dẫn, nàng chú ý đọc sử nhiều hơn. Vì vậy những ngày ở tù, ban ngày thì Minh-Ðệ đọc sách. Ban đêm nàng luyện công. Nàng thấy tuy ở tù, nhưng nhàn nhã, sướng hơn những ngày ở với cha mẹ. Lắm lúc nghĩ đến thời gian ở với cha mẹ, nàng lại rùng mình. Nàng rùng mình không phải vì làm quần quật suốt ngày, mà vì không biết phải làm gì, nói gì để khỏi phải nghe chửi, khỏi phải ăn đòn. Nàng nghĩ thầm:
– Nếu ta bị giam như thế một thời gian nữa, thì ta sẽ thuộc hết đám sách này, công lực ta cũng sẽ cao thâm hơn.
Lắm lúc nàng lại tự hỏi:
– Siêu-loại hầu bảo rằng vợ chồng quý nhân dạy võ công cho ta là Ưng-sơn song hiệp. Nếu quả như vậy thì cuộc đời ta sung sướng biết bao. Con Minh-Can dựa vào bố mẹ hành hạ ta đủ điều, thế mà thầy nó nghe đến Ưng-sơn song hiệp là phát run lên... Hỏi trên đời này ai dám đối xử tàn tệ với ta nữa? Nhưng không biết bây giờ ông bà ở đâu?
Trong dinh An-phủ-sứ có năm con hầu tên là Huyền, Thanh, Hồng, Hoàng, Bạch. Năm con hầu này tuổi từ mười ba tới mười sáu, khá xinh đẹp. Chúng là những đứa hầu cạnh phu nhân và các tiểu thư, công tử con An-phủ-sứ. Chúng mặc quần áo bằng lụa mầu theo tên chúng mang. Vì nàng là tù nhân, quần áo xốc xếch, chuyên lau chùi cùng quét dọn, nên chúng coi nàng bằng nửa con mắt. Con đành hanh nhất là con Huyền, vì An-phủ-sứ hứa gả nó cho viên võ quan tên Ðặng Vinh. Tên Vinh xuất thân là đệ tử trường Trung-nghĩa. Y biết Minh-Ðệ đã từng dùng võ công thắng sư đệ của y là Trịnh Phúc, nên y không dám coi nàng như những tên tù khác. Thường ngày, nàng được gọi vào bếp để ăn cơm với bọn chăn ngựa, bọn khuân vác trong dinh.
Một hôm con bé Thúy-Phượng nói nhỏ với nàng:
– Mẹ em, cũng như mấy bà trong tù nhận thấy những ngày gần đây, da chị ngày càng trắng hồng ra, mắt sáng óng ánh, lưng thon thêm. Nhan sắc chị trở thành hiếm có. Thế nhưng... thế nhưng... chị lại ở tù, thì e khó giữ nổi tuyết sạch giá trong đấy.
Minh-Ðệ biết nàng luyện nội công âm nhu, nên nhan sắc ngày càng xinh đẹp. Nàng lo sợ hỏi:
– Vậy chị phải làm sao bây giờ?
– Mẹ em bảo!!!4887_52.htm!!! Đã xem 277076 lần.

Đánh máy : CDDLT
Nguồn: CDDLT
Được bạn: NHDT đưa lên
vào ngày: 15 tháng 2 năm 2005

Truyện Q8- Nam Quốc Sơn Hà Lời mở đầu Chương 1 Chương 2 Chương 3 Chương 4 Chương 5 Chương 6 Chương 7 Chương 8 Chương 9 Chương 10 #phandau">Chương 10Chương 11 Chương 12 Chương 13 iếm, không có đường lui. Ta lâm thế tiền hậu thọ địch mất rồi. Nếu ta rút về chiếm lại hậu cứ, ắt bị tên Lý Đoan truy kích khó mà vượt sông được. Vậy thì bằng mọi giá, ta phải diệt tên Lý Đoan, rồi mới có thể lui quân.
Y ra lệnh cho Khúc Chẩn:
– Khúc huynh đem mấy đạo binh thiện chiến khẩn trở về chiếm lấy đầu cầu Bắc ngạn, bảo vệ phù kiều. Tôi sẽ phá chiến lũy Yên-dũng rồi chúng ta cùng đánh chiếm lại con đường rút về Lạng-châu.
Y nói với Trường-bạch song hùng:
– Xin nhị vị tiên sinh với quý cao đồ thanh toán dùm đám tướng giặc chỉ huy nỏ thần với thú binh. Sau đó đột nhập chiến lũy giết chết bọn tướng Giao-chỉ mở đường cho thiết đột đánh vào. Sau khi diệt Yên-dũng ta mới rút lui an toàn.
Trường-bạch song hùng lùi lại dặn dò đám đệ tử mấy câu, rồi chia trên hai trăm người làm bốn đội, tiến lên hàng đầu. Sau một tiếng quát của Nhất– hùng, bốn đội cao thủ tay múa đao gạt tên tiến lên. Thoáng một cái đám này đã nhập vào trận Việt. Mỗi đao vung lên là một hổ, một báo hay một voi bị giết.
Đứng trên voi chỉ huy, quận chúa Trần Ngọc-Liên thấy ngay cái nguy cơ của quân mình, bà ra lệnh cho đội tiễn thủ tiến lên nhắm vào đám cao thủ buông tên. Bị bất ngờ, hơn hai mươi cao thủ Trường-bạch bị bắn ngã. Trường-bạch song hùng quát lên một tiếng lớn, hai người nhấp nhô mấy cái đã vượt qua đội thú binh, đội nỏ binh tiến tới trước voi của quận chúa. Đội cận vệ chùa Báo-ân bao vây lấy hai người bảo vệ chúa tướng. Nhất hùng chỉ đánh hai chiêu, khiến Mai-Tứ phun máu miệng. Y tung mình lên dùng một thế ưng trảo chụp Ngọc-Liên. Bà kinh hãi đưa kiếm chặt tay y. Y búng tay một cái, kiếm củ bà gẫy làm năm sáu mảnh, tiếp theo y dánh xuống người bà một chưởng. Bà nghiến răng đỡ, bình một tiếng người bà bay tung xuống khỏi mình voi. Đám nữ võ sĩ cận vệ ôm lấy bà chạy về chiến lũy. Nhị hùng quay lại cùng các đệ tử thanh toán đám hổ tướng, báo tướng, nỏ tướng.
Trong chiến lũy, Lý Đoan đã thấy cái nguy của tiền quân mình, hầu cho phát hai tiếng pháo. Đội nỏ thần bắn hai loạt liền rồi tiền đội đổi làm hậu đội, vừa bắn yểm trợ cho đội thú vừa rút lui. Hai đội tiễn thủ hơn ba mươi người cùng dương cung hướng Trường-bạch song hùng buông tên. Hai người vọt mình lên cao tránh tên. Lập tức đội tiễn thủ khác hướng lên trời bắn theo. Tuy chới với trên không, nhưng Song-hùng không coi đám tên này ra gì, hai người phất tay một cái, khiến bao nhiêu tên bay dạt ra xung quanh. Nhưng khi hai người rơi xuống, thì vệ sĩ đã vực quận chúa Ngọc-Liên lùi đến cổng chiến lũy. Thú, nỏ thần từ từ vào trong chiến lũy. Cổng đóng lại.
Trên bãi đất bên ngoài chiến lũy, xác quân Tống lẫn xác thú trải trên một vùng dài.
Yên Đạt hô quân đuổi theo. Quân Tống hàng hàng, lớp lớp reo hò tiến vào chiến lũy. Thiên-tử binh từ trong bắn ra ào ạt.
Trường-bạch song hùng cùng đám đệ tử xung lên hàng đầu. Chỉ nhấp nhô mấy cái, thầy trò đã tới hàng rào rồi tung mình lên cao, đáp trên cổng. Tên trong chiến lũy bắn mặc tên bắn, hai người vung tay gạt tên, rồi nhảy vào trong. Còn ở trên cao, hai người phóng chưởng đánh vào đội tiễn thủ. Sáu Thiên-tử binh bị bay tung lên cao, tan xương nát thịt chết tại chỗ. Hai người đánh liền mười chưởng, đội tiễn thủ trấn ở cổng Bắc hoàn toàn bị tan rã. Đám đệ tử Trường-bạch nhảy xuống chém then mở cổng. Quân Tống reo hò ào tràn vào như nước vỡ bờ.
Trong chiến lũy vang lên những tiếng « nghé ọ, nghé ọ! » rồi tiếng tù và. Một đoàn trâu sừng buộc dao nhọn, lưng buộc dáo dài hùng hổ húc vào đội hình quân Tống. Đám quân này kinh hoảng, vừa chống trả vừa lui. Sau hơn mười bước, quân Tống bị đẩy bật ra khỏi chiến lũy.
Đám Trường-bạch đã tiến sâu vào trong chiến lũy, khi nhìn lại thì phía sau họ quân Tống bị đánh bật ra ngoài, còn họ thì bị vây bởi bầy trâu. Đám trâu rống lên xung vào húc túi bụi. Bị bất ngờ, hơn mười cao thủ Trường-bạch bị trâu húc trọng thương.
Trường-bạch song hùng quay trở lại phía sau mở vòng vây cho quân Tống vào chiến lũy. Song hùng vung chưởng lên, mỗi chiêu một trâu bị hạ. Nhưng đám trâu lì như « trâu », ngu như « trâu », con này chết, con khác lăn vào. Song hùng đảo mắt tìm tướng chỉ huy trâu, mà tuyệt không thấy. Đâu đó vang lên tiếng « nghé ọ! nghé ơ!» cùng tiếng tù và.
Trường-bạch song hùng là những cao thủ bậc nhất Trung-nguyên, nhưng bây giờ bị vây bởi bầy trâu điên, giết chết con này, con khác lao tới. Hai người cố công tìm, chưởng tung ra, mỗi chiêu một trâu ngã, mà không thấy người chỉ huy. Chợt để ý thấy tiếng tù và phát ra từ ngọn cây soan gần đó. Hai người nhìn lên, thì chỉ thấy một đứa con gái tuổi khoảng mười hai mười ba đang đứng chỉ huy.
Trong lòng Song-hùng nảy ra một niềm khâm phục, hai người than thầm:
– Khi khởi hành mình cứ chê triều đình rằng với cái xứ thấp nhiệt nhỏ bé này, việc gì phải sai Quách Quỳ mang quân nghiêng nước sang chi cho vô ích? Bây giờ mình mới hiểu. Với đứa con gái tuổi còn để trái đào thế kia, mà từ nãy đếm giờ nào anh em mình, nào trên hai trăm cao thủ, nào thiết đột, mà bị nó sai trâu cản lại đến nỗi chân tay như bị bó lại vậy. Ta hãy bắt con bé, nhưng không thể giết nó.
Nhất-hùng ra lệnh cho một đệ tử. Tên này lao tới vung chưởng đánh vào cây soan. Cây soan từ từ đổ xuống, đứa con gái trên cành cây cười lên một tiếng rồi nhảy ùm xuống cái ao gần đó lặn mất.
Tưởng rằng bé gái lặn mất thì bầy trâu không người chỉ huy ắt trận thế vỡ. Không ngờ từ hai hông, hai bầy trâu khác lại lao tới. Tiếng tù và vẫn rúc lên đều đều. Trận chiến giữa người với trâu lại tiếp tục. Hơn khắc sau bầy trâu chỉ còn hơn mười con.
Vòng vây được mở ra, quân thiết đột ào ào tràn vào. Hai đội đánh quặt sang hai bên phải, trái. Một đội tràn vào giữa chiến lũy.
Đội hổ, báo, voi, sói cùng Thiên-tử binh dàn hàng ra cản lại. Trận chiến lại diễn ra khốc liệt.
Yên Đạt quay lại quan sát trận tuyến hai bên hông chiến lũy. Chiến lũy bị đốt cháy, nhiều đoạn rào bị phá. Quân Tống reo hò tràn vào. Thiên-tử binh chặn lại. Trận chiến diễn ra cực kỳ khốc liệt. Quân Tống tuy tinh nhuệ đông gấp bội quân Việt, nhưng phải lội dưới sình, di chuyển khó khăn. Ngược lại bên Việt quân ít, nhưng nhờ quen lội sình, lại được đoàn trâu hung dữ yểm trợ, vì vậy cuộc chiến dằng co chưa quyết định.
Tại trung ương, Trường-bạch song hùng để mặc quân Tống quần thảo với Thiên-tử binh, thú binh. Hai người dẫn đệ tử hướng đài chỉ huy của Lý Đoan. Thoáng một cái hai người đã tiến sát tới đài. Lý Tứ thấy nguy, vội cầm cờ đen phất, đâu đó tiếng sáo tỉ tê cất lên. Một bầy ong bầu từ trên trời đáp xuống đốt thầy trò Trường-bạch. Bị bất ngờ, thầy trò Trường-bạch bị ong đốt nhức thấu tâm cam. Người người vung chưởng đánh dạt ong ra, thì lại bị đội tiễn thủ bắn tới. Đám đệ tử Trường-bạch phần bị ong đốt, phần bị trúng tên, kẻ chết, người bị nọc ong hành; chúng la hét bỏ chạy ra xa.
Song-hùng quát lên một tiếng, đám đệ tử khác múa tít đao xông tới thoáng một cái năm thiếu nữ chỉ huy ong bị giết chết. Bầy ong không người điều khiển bay lên cao. Thầy trò Trường-bạch tới chân đài chỉ huy, Lý Tứ cùng đội đệ tử chùa Báo-ân cản lại. Nhất-hùng đánh một chưởng, Lý Tứ bị bắn tung lại sau. Hơn nửa khắc sau, đội đệ tử chùa Báo-ân bị đánh ngã hết.
Song-hùng hô đệ tử dùng đao chặt đài, thì có tiếng « nghé ọ! Nghé ô!» tiếng tù và vang lên. Một đứa trẻ béo chùn béo chụt đứng trên ngọn cây đa đang rúc tù và. Bầy trâu hơn năm mươi con, sừng buộc dao nhọn, lưng buộc dáo dài hùng hổ lăn xả vào húc đám cao thủ đang vây đài chỉ huy.
Thầy trò Trường-bạch phải ngừng chặt chân đài, đánh nhau với bầy trâu. Nhất-hùng muốn giết đứa trẻ, đích thân y bám rễ đa, chỉ nhấp nhô mấy cái, y đã leo lên ngọn cây. Thằng bé cười ha hả:
– Lão già kia, lên đây chơi với tớ.
Nó nói tếng Việt, thành ra Nhất-hùng không hiểu gì cả. Khi y lên tới gần đứa trẻ, thì nó lại truyền sang cành khác, rồi đáp xuống lưng một con trâu. Nhất-hùng nhảy theo, thì nó luồn xuống bụng trâu lủi mất.
Sau hơn hai khắc giao chiến, bầy trâu đã bị hạ gần hết. Đám đệ tử Trường-bạch lại dùng đao chặt đài. Ba chân đài bị đẵn gẫy, đài lắc lư, nhưng chưa đổ. Song-hùng quát lên một tiếng cùng phóng chưởng vào chân đài còn lại. Rầm một tiếng, đài nghiêng đi, rồi từ từ đổ xuống.
Trên đài, Lý Đoan thấy quân Tống đã tràn ngập chiến lũy, quân Việt đang chiến đấu tuyệt vọng, đài bị đánh ngã; hầu bình tĩnh hú lên một tiếng. Bầy trâu trừ bị cuối cùng của Hổ-đói xông đến cứu chúa tướng. Để mặc cho đám đệ tử quần thảo với bầy trâu. Nhất-hùng tung mình đến đài vừa đổ xuống phóng một chưởng như trời nghiêng đất lệch hướng Lý Đoan. Lý Đoan biết rằng nếu mình đỡ chưởn đó, ắt nát thây ra mà chết. Hầu tung mình khỏi đài, lẫn vào bầy trâu. Nhất-hùng nhấp nhô một cái đã đuổi kịp, y phóng liền hai chưởng, hai con trâu với Lý Đoan bị bật tung ra xa đến hơn trượng. Một con bị vỡ làm ba mảnh, ruột gan, máu thịt tung toé. Một con chổng vó lên trời mà rống. Còn Lý Đoan thì đang ôm ngực quằn quại.
Trận Việt không người điều khiển bắt đầu rối loạn.
Nhất-hùng tung mình tới quyết giết Lý Đoan. Y nghiến răng phát một chưởng bằng tất cả bình sinh công lực định đánh cho đối thủ nát thân. Chưởng của y chưa ra hết mà đã khiến cho mấy võ sĩ Việt lảo đảo muốn ngã. Thấp thoáng một bóng người xẹt tới, nhanh không thể tưởng tượng được, người này ra chiêu cầm long trảo, phẩy tay một cái, khiến Lý Đoan bật tung lên cao, rồi rơi trên lưng một con trâu; giống như người ta vực để lên vậy. Chưởng của Nhất-hùng đánh xuống đất, ầm một tiếng, đất lủng thành một hố sâu như cái thúng.
Nhất-hùng chưa kịp nhìn xem ai đã cứu Lý Đoan, thì người ấy đã phóng chưởng hướng người y. Chưởng chưa ra hết, mà y đã cảm thấy như có như không, rõ ràng chính đại quang minh, mà sát thủ cực kỳ khủng khiếp. Y cười nhạt một tiếng, phát một chiêu Huyền-âm chưởng đỡ. Ầm một tiếng, y lảo đảo lùi lại tai phát ra tếng vo vo không ngừng, khí huyết trong người y đảo lộn, hồn phách bay phơi phới. Y định thần nhìn đối thủ: Đó là một người thân thể hùng vĩ, tuổi tuy cao, nhưng tư thái phong lưu, tiêu sái như cây ngọc trước gió.
Y quay lại, Nhị-hùng đang đấu kiếm với một lão ni, chưa phân thắng bại. Xung quanh y, một đội nữ cao thủ dùng kiếm đang giao chiến với đệ tử của y. Lý Đoan đang đứng trên mình trâu cầm cờ chỉ huy. Một đội binh Đại-Việt mới tới, dàn ra thực nhanh lao vào vòng chiến cùng hiệu Bổng-nhật đánh với quân Tống. Tuy gặp kình địch, đang đứng trước trận, nhưng không hổ là đại tôn sư võ học Trung-nguyên, Nhất-hùng chắp tay hướng đối thủ:
– Trường-bạch nhất hùng nước Đại-Tống xin được biết cao danh quý tính tiền bối?
– Thì ra tiên sinh là Nhất-hùng trong Trường-bạch song hùng danh trấn Trung-nguyên về Huyền-âm chưởng đấy! Tại hạ họ Thân, tên Thiệu-Thái, hân hạnh được tham kiến tiên sinh.
Nhất-hùng kinh hãi nghĩ thầm:
– Mình đáng chết thực! Thì ra kẻ đả bại Nhật-Hồ lão nhân bốn mươi năm trước, nay vẫn còn tại thế. Hèn chi chiêu Huyền-âm chưởng của mình vừa rồi không làm cho y tổn thương. Y vỗ hai tay vào nhau:
– Thì ra đại giá Lạc-long giáo chủ, Thân phò mã đấy. Tại hạ lớn gan, muốn lĩnh mấy chiêu Mục-ngưu thiền chưởng của giáo chủ.
– Xin mời.
Nhất-hùng vận công, phát Huyền-âm chưởng. Chưởng chưa ra hết mà mọi người đã cảm thấy lạnh buốt tới xương. Thiệu-Thái phát chiêu Sơn-trung tầm ngưu trả đòn. Vì Mục-ngưu thiền chưởng là chưởng dương cương nên kình cực cực mạnh. Hai chưởng gặp nhau phát ra tiếng ầm lớn. Thiệu-Thái kinh ngạc nghĩ thầm:
– Công lực thằng cha này thực không tầm thường, có lẽ hơn Nhật-Hồ lão nhân khi xưa. Nếu hồi đại hội Lộc-hà mà ta gặp y, thì e không chịu nổi của y quá mười chiêu. Võ công Trung-nguyên tiến mau thực.
Nghĩ vậy, ông phát chiêu Kiến tích dã ngưu đẩy vào hông đối thủ. Nhất-hùng lại phát Huyền-âm chưởng đỡ. Hai người đại cao thủy quấn lấy nhau giao đấu, khiến đám cao thủ Mê-linh, Trường-bạch phải ngừng chém giết, đứng ngây người ra mà xem.
Quân Tống đã tràn vào trong chiến lũy. Về phía quân Việt, tuy có thêm hiệu Trường-yên tiếp viện, nhưng cả hai hiệu cộng lại chưa quá hai vạn người, trong khi quân Tống đông đến bốn, năm vạn. Cuộc chiến diễn ra cực kỳ ác liệt. Quân Việt tuy ít, mà nhờ có thú binh, nỏ thần, bầy trâu yểm trợ, nên cuộc chiến vẫn chưa nghiêng về bên nào.
Yên Đạt đứng trên mình ngựa đốc chiến. Bao nhiêu hy vọng y đổ cả vào Trường-bạch song hùng, với ước mong hai người này giết hết tướng địch, thì hàng ngũ quân Việt phải rối loạn. Từ lúc thấy phò mã Thân Thiệu-Thái xuất hiện thì y tuyệt vọng. Nhưng y đã đạt được thắng lợi: Quân Tống đã vào trong chiến lũy, quân số đông gấp mười quân Việt. Chỉ cần trong vòng nửa giờ nữa y sẽ thanh toán hết hiệu Bổng-nhật rồi tiến về Thăng-long. Y ra lệnh dồn quân vào trong chiến lũy, chỉ để ở ngoài một số bảo binh, tân đằng hải mà thôi.
Cuộc chiến mỗi lúc một khốc liệt. Quân Tống đã vây quân Việt vào làm ba khu. Khu trung ương, khu Tây, khu Đông. Quân Việt đang lâm thế tuyệt vọng. Bỗng quân thám mã báo:
– Có hiệu binh Thiên-trường đang tiến về phía trái của ta định chặn đường về Phú-lương.
– Quân Thiên-trường là quân địa phương, không thiện chiến, không tinh nhuệ. Cả hiệu binh chưa quá một vạn. Hãy cho hai vạn tân đằng hải chặn lại.
Tuy vậy Yên Đạt cũng hơi lo lắng. Y đưa mắt nhìn: Quận-chúa Trần Ngọc-Liên đang ngồi trên bành voi chỉ huy, y phục đẫm máu. Lý Đoan đứng trên lưng một con trâu điều quân. Khu Đông, khu Tây vợ chồng Hùng Trí-Âu Lam, Hùng Tín-Âu Hồng võ công cực cao, đang đứng trên mình voi cầm cờ chỉ huy. Hai tướng Tống mặt này đã bị giết, hiện do các đô thống chỉ huy.
Y nói với Nhị-hùng:
– Tiên sinh! Đánh giặc thì không kể gì đến lề luật võ lâm. Mong tiên sinh nhập cuộc hạ tên Thiệu-Thái, thì mới mong giết hết bọn tướng giặc.
Nhị-hùng hú lên một tiếng, rồi xuất chưởng đánh vào hông Thiệu-Thái. Thiệu-Thái đang đấu với Nhất-hùng, thình lình bị Nhị-hùng tấn công, phản ứng tự nhiên ông dẩy chưởng của Nhất-hùng vào chưởng của Nhị-hùng. Vô tình ông vận Hồng-thiết công của Hồng-thiết giáo. Ầm một tiếng, anh em song hùng cùng cảm thấy choáng váng, mùi hôi tanh nồng nặc bốc ra cả một vùng. Nhất-hùng la:
– Nhị đệ cẩn thận! Y dùng võ công Hồng-thiết giáo bằng thiền công.
Nhưng ỷ vào Huyền-âm chưởng vô địch thiên hạ, cả hai cùng tái xuất chiêu tấn công. Có tiếng quát thanh thoát:
– Hai người đánh một ư?
Rồi một bóng trắng xẹt tới nhanh không thể tưởng tượng được đưa kiếm vào cổ Nhị-hùng. Thất kinh, y lộn liền hai vòng ra sau tránh đòn, nhưng mũi kiếm theo y như bóng với hình. Hoảng hốt y thụp người xuống, rồi lăn liền hai vòng, sau đó uốn cong người vọt dậy. Nhưng y cảm thấy đau nhói ở cổ, thì ra mũi kiếm vẫn theo sát y. Lòng y nguội như tro tàn, y chửi tục:
– Mẹ cha nó! Mi đánh trộm, ta không phục.
Bóng trắng thu kiếm về, rồi nói bằng giọng ngọt ngào:
– Tiên sinh nói đúng. Vì ta ra tay trước nên chiếm được tiên cơ. Nhị tiên sinh, người rút kiếm ra đi.
Báy giờ Nhị-hùng mới nhìn rõ đối thủ, đó là một thiếu phụ đẹp như Quan-thế-âm. Chợt nhớ ra một điều, y than:
– Thì ra vua bà Bình-Dương, hèn chi kiếm thuật thần thông. Tại hạ muốn lĩnh mấy cao chiêu của Long-biên kiếm pháp.
Đến đây y cảm thấy trong lồng ngực đau nhói như bị một nhát dao đâm vào, rồi hai nhát, rồi ba nhát. Không tự chủ được, y hét lên:
– Ái! Đau quá.
Y quay lại, thì thấy Nhầt-hùng cũng ở vào trường hợp tương tự. Y nghiến răng nói:
– Giáo chủ! Tại hạ nghe giáo chủ là đệ tử của Bố-Đại hòa thượng, thuộc danh môn chính phái, mà sao lại dùng Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng để đánh người?
Thiệu-Thái chắp tay tạ lỗi:
– Thời thơ ấu tại hạ quả có luyện Hồng-thiết tâm pháp. Ban nãy tại hạ đang dùng hết sức để chống với Nhất-hùng, thì bị Nhị-hùng tấn công. Trong lúc nguy nan, tòng tâm xử dụng, tại hạ đã xuất chiêu bằng Hồng-thiết tâm pháp, nên làm cho nhị vị tổn thương. Tại hạ muôn vàn hối tiếc.
Vua Bà tiến lên nói:
– Trước khi ra trận, cô em dâu tôi là công chúa Huệ-Nhu có nhắn rằng: Hồi chư vương bên Đại-Việt làm loạn, Nhị-hùng nghe theo tiếng gọi của công chúa đã sang trợ giúp triều Lý nhà tôi. Vì vậy bất cứ giá nào chúng tôi cũng không được phạm đến thân thể nhị hùng. Kinh-Nam vương có nhắn chúng tôi mời nhị hùng về Thiên-trường chơi, chẳng nên lăn mình vào chỗ chết cho cái mộng điên rồ của Vương An-Thạch. Không biết nhị vị nghĩ sao?
Nhị-hùng biết rằng đây là điều kiện vua bà đưa ra. Nếu hai người chấp thuận thì sẽ được Thiệu-Thái giải độc cho. Bằng không thì mỗi ngày lên cơn một lần, sau 49 ngày thì chết. Nhất-hùng đưa mắt nhìn em, rồi cung tay:
– Đa tạ giáo chủ, đa tạ vua Bà.
Thiệu-Thái móc trong túi ra hai viên thuốc trao cho song hùng:
– Đây là hai viên thuốc tạm giải cái độc cho nhị vị. Tôi xin cử người đưa nhị vị về Thiên-trường. Khi tới Thiên-trường, Kinh-Nam vương sẽ dùng thần công trị vĩnh viễn độc tố cho nhị vị.
Vua Bà hướng vào trận của đám đệ tử Mê-linh, Trường-bạch hô lớn:
– Ngừng tay!
Đám đệ tử Mê-linh, Trường-bạch cũng lùi lại phía sau.
Vua Bà chỉ tay vào Trường-bạch song hùng:
– Chúng ta ngừng tay thôi. Nhị vị tiên sinh đây nhận lời mời của Kinh-Nam vương về chơi Thiên-trường. Mà Kinh-Nam vương là sư đệ của ta. Thì ra chúng ta là người nhà cả. Đại-Việt có câu tục ngữ: Đánh nhau vỡ đầu rồi mới nhận họ. Hai phái Trường-bạch với Mê-linh bây giờ là bạn. Chúng ta thân thiện với nhau đi.
Thiệu-Thái cử năm đệ tử Tây-vu dẫn Trường-bạch song hùng với chư đệ tử hướng về phía Nam mà đi.
Trong khi vua Bà với Trường-bạch song hùng đối đáp, thì trận chiến vẫn diễn ra cực kỳ khốc liệt. Cả hai bên đều thiệt hại lớn lao: Kìa khu quân Tống vây đội sói, đội sói chỉ còn đâu mươi con, đang chiến đấu tuyệt vọng. Cạnh đó xác quân Tống ngổn ngang, thương binh đang rên la. Kìa, khu quân Tống vây đội hổ, đội hổ còn hơn hai chục con đang quay lưng lại với đội báo chống nhau với quân Tống. Khu này quân Tống chết quá nhiều, xác chết trải la liệt trên một bãi rộng. Nhưng khu voi với trâu thì quân Tống chưa làm chủ được. Trâu tuy không hung dữ, thiện chiến như voi, nhưng nhờ bọn Hổ-đói, Báo-mập, Gấu-lùn là những đứa trẻ điếc không sợ sấm, khi thì leo lên cây chỉ huy, khi thì bám hai tay vào hông trâu, mà ẩn thân dưới bụng trâu, thành ra quân Tống không hạ được một đứa nào cả. Khu này quân Việt Việt đang thắng thế.
Quân Tống quá đông, ào ạt vào trong chiến lũy, tràn ngập khắp nơi, chúng phóng hỏa đốt doanh trại, nhà cửa. Cả một vùng. lửa bốc cháy, khói đen ngập bầu trời trong tiếng thú gầm, tiếng trâu rống, tiếng trống thúc, tiếng lệnh kêu đến độ không ai có thể nghe được tiếng người bên cạnh nữa.
Quân Việt chiến đấu trong tuyệt vọng.
Bỗng quân Tống ở phía ngoài chiến lũy la hoảng lên, làm Yên Đạt phải quay lại nhìn. Bất giác y nổi gai ốc: Kị binh Đại-Việt xuất hiện thế như thác đổ, dàn thành một tuyến dài đánh từ Tây sang Đông, cắt đứt trận tuyến phía ngoài chiến lũy của Tống. Quân Tống chưa kịp phản ứng, thì kị binh lại từ Đông đánh quặt về Tây. Thế là quân Tống bị cắt làm ba đoạn, một đoạn trong chiến lũy, một đoạn bị đánh tan, và một đoạn về phía Phú-lương. Hiệu binh Thiên-trường đang đuổi theo cánh quân này. Yên Đạt nghiến răng tức giận:
– Tổ bà nó, cả hiệu Thiên-trường chưa quá vạn người, trong khi bên mình có tới ba vạn mà bỏ chạy như vịt thế kia thì nhục thực!
Nhưng Yên Đạt quên rằng trong ba vạn quân bỏ chạy đó, thì đa số thuộc các chỉ huy tân đằng hải từng tham chiến cuộc tấn công dò dẩm, cuộc đốt chiến lũy. Trong mỗi chỉ huy năm trăm người, phân nữa chết, một phần bị thương, nên nay chúng thấy quân mình bị cắt làm ba bởi đội kị binh mạnh như hùm như hổ, thì ba hồn bẩy vía thăng thiên, chúng bỏ chạy lấy thân.
Đúng theo binh pháp của Tống, khi bị đánh khúc giữa thì khúc đầu ở trong chiến lũy với khúc sau phải đánh kẹp lại, bao vây kị binh lại. Khốn nhưng quân Tống trong chiến lũy đang phải đối đầu với hai hiệu binh, trong đó hiệu Bổng-nhật cực kỳ thiện chiến tinh nhuệ. Còn khúc sau, thì lại hè nhau bỏ chạy về phía Phú-lương mất.
Kị binh Việt bỏ không đuổi khúc sau, mà đổi thế trận đánh bịt hậu tiền quân đang ở trong chiến lũy. Quân Tống kinh hoàng, hàng ngũ rối loạn, nhưng Yên Đạt là tướng tài. Y chia quân làm hai quay lưng lại với nhau mà chiến đấu trong tuyệt vọng. Y ra lệnh cho các tướng:
– Dù gì, ta cũng đông gấp ba chúng. Ta chỉ dơ tay là chiếm được chiến lũy. Tiến lên!
Trận chiến vẫn tiếp tục diễn ra.
Vua bà Bình-Dương nghĩ rất nhanh:
– Nếu để hai bên chém giết nhau, mình có diệt hết được mấy vạn quân Tống này thì cũng phải hy sinh cả vạn quân. Chi bằng ta tha cho chúng về Bắc ngạn Phú-lương, rồi trấn ở Nam ngạn. Với số binh tướng còn lại, Yên Đạt không thể vượt sông được nữa.
Bà ra lệnh đánh chiêng thu quân. Quân sĩ hai bên cùng ngừng chiến rồi lùi lại. Vua Bà thủng thẳng tiến lên xá Yên Đạt một xá:
– Yên tướng quân vẫn mạnh giỏi a! Nghĩ lại cuộc đời thực ngắn ngủi. Mới hôm nào chúng ta gặp nhau ở Biện-kinh, thế mà thoáng một cái đã mấy chục năm.
Lòng Yên Đạt rối như tơ vò:
– Giữa chúng ta là tướng của hai đội quân thù nghịch nhau, ý vua Bà muốn gì đây?
Vua Bà mỉm cười, ngài vận nội lực nói lớn:
– Tướng quân là một anh tài tinh hoa của Tống. Chư quân đều là những người có lòng son với xã tắc. Nhưng, tất cả bị đem sang xứ muỗi độc, nước độc này chỉ vì cái tham vọng điên rồ của Vương An-Thạch. Bàn cho thực phải, với Tân-pháp của y, nếu cứ thong thả thi hành, thì chỉ năm năm nữa nước sẽ giầu, binh sẽ mạnh vô cùng. Tống thiên tử chỉ việc ngồi trùm Hoa-hạ, ban phúc, ban lộc cho dân, thì giang sơn Đại-Tống trở thành giang sơn Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang. Các nước nhỏ như Đại-Việt phải khuất thân quy phục. Thế mà vì ngu tối, y xúi Hy-Ninh đế đem trăm vạn hùng binh sang đây. Nay trăm vạn không còn quá hai chục vạn, mà chư vị vẫn chỉ luẩn quẩn ở giải sông Cầu này. Nói đâu xa, tướng quân có mười lăm vạn binh, vượt sông xong mất bốn vạn, mà Đại-Việt chỉ mất có một vạn.
Bà chỉ vào Lý Đoan, Ngọc-Liên:
– Với cái chiến lũy nhỏ bé này, mà sau hai trận thăm dò, đốt chiến lũy; bên Đại-Việt không một người chết, chẳng ai bị thương mà tướng quân phải hy sinh đến hai vạn quân. Tướng quân sai Khúc Chẩn mang hai vạn binh triều về tái chiếm hậu cứ Phú-lương. Y bị con với dâu ta là Thiên-Thành, Cảnh-Long đánh tan. Bây giờ phía ngoài, trên vạn bị kị binh giết, ba vạn bỏ chạy về Phú-lương. Trong chiến lũy có ba vạn, nhưng chết hơn vạn rồi, phía sau bị kị binh đánh, phía trước bị hiệu Bổng-nhật, Trường-yên cản. Trường-bạch song hùng với chư đệ tử bỏ đi. Tướng quân nghĩ xem, liệu tướng quân có thể tiến về Thăng-long không? Huống hồ...
Vua Bà vẫy tay một cái, nỏ binh bắn lên trời một Lôi-tiễn. Lập tức xa xa tiếng trống thúc rộn ràng, tiếng trâu rống, tiếng quân reo vang dội. Bà mỉm cười:
– Tôi đã điều thêm hai hiệu binh Thanh-hóa, Nghệ-an về tiếp viện.
Bà ngừng lại cho Yên Đạt suy nghĩ:
– Tướng quân nổi tiếng là người thương yêu binh sĩ. Đằng nào thì cái mộng đánh Thăng-long của tướng quân cũng hóa ra hư ảo rồi. Tiến lên chỉ làm cho binh tướng chết vô ích mà thôi. Vậy tốt hơn hết là bảo vệ lấy chủ lực. Vậy nếu tướng quân muốn, tôi sẽ mở vòng vây cho tướng quân, để tướng quân rút về Phú-lương an toàn. Không biết tướng quân nghĩ sao?
– Thế còn quân của Thân Cảnh-Long chặn đường về Tống?
Yên Đạt đặt vấn đề: Liệu vua Bà có hứa rằng mở vòng vây, cung cấp lương thảo cho chúng tôi trên đường rút quân không?
– Tôi hứa!
Vua Bà vẫy tay, một nữ binh chạy lại gần, ngài trao cho nữ binh này một binh phù:
– Người đem ra ngoài trao cho Vũ-kị đại tướng quân nói rằng có lệnh của ta, mở đường cho quân Thiên-triều lui về.
Yên Đạt nghe vua bà Bình-Dương nói mà muốn nổi đóa. Bởi bà sai mở đường cho y rút quân, thì rõ ràng y bị thua, bị nhục rồi, mà bà lại dùng chữ « Quân Thiên-triều » thì là điều diễu cợt. Nhưng y phải nuốt giận.
Nữ binh cầm binh phù hiên ngang đi qua trận của quân « Thiên-triều », ra ngoài chiến lũy trao cho Hà Mai-Việt. Lập tức kị binh lùi lại dàn thành hàng dài thăm thẳm dọc con đường đi Phú-lương. Yên Đạt phất tay. Quân Tống vác xác đồng đội, vác thương binh, từ từ rời khỏi chiến lũy. Còn y, tay y cầm kiếm cùng đội thân binh đứng cản hậu.
Trong khi quân Tống rời khỏi chiến lũy, thì hai hiệu Bổng-nhật, Trường-yên cũng tập trung lại. Lý Đoan nói với tướng chỉ huy hiệu Trường-yên:
– Bọn Tống xảo quyệt không chừng, tôi phải đem hiệu Bổng-nhật chiếm lại chiến lũy Phú-lương, củng cố lại hệ thống phòng thủ. Vậy huynh trấn tại đây thay tôi.
Hầu phất cờ ra lệnh. Sau trận chiến, hiệu Bổng-nhật tuy có bị tổn thất, nhưng đây là đạo quân tinh nhuệ, thiện chiến bậc nhất, nên tinh thần vẫn hùng tráng. Duy các đội thú binh thì gần như tan rã hết. Mặc dù có kị binh dàn hai bên đường, hiệu Thiên-trường dàn ra ba khu đất trống; nhưng hầu ra lệnh cho hiệu Bổng-nhật đi sau đội trâu dàn trận bám sát quân Tống. Đội của Báo-mập đi bên trái với sư một, đoàn này đo Hùng Trí, Âu Lam chỉ huy. Đội của Gấu-lùn đi bên phải với sư hai, đoàn này do Hùng Tín, Âu Hồng chỉ huy. Đội của Hổ-đói đi trên đường với sư ba, đoàn này do quận chúa Ngọc-Liên chỉ huy. Vua bà Bình-Dương, phò mã Thân Thiệu-Thái cùng các cao thủ phái Mê-linh theo sau đoàn này.
Lý Đoan hỏi vua bà Bình-Dương:
– Tấu điện hạ. Ban nãy điện hạ nói với Yên Đạt rằng ta có hai hiệu Thanh-hóa, Nghệ-an tiếp viện. Vậy hai hiệu đó đâu?
Vua Bà nói nhỏ vào tai hầu:
– Làm gì mà điều được hai hiệu đó đến đây mau thế? Trước khi đến đây, ta ban lệnh cho các xã tụ tập hoàng nam, trâu bò, trống chiêng lại; đợi khi có lệnh thì cho hoàng nam reo, trống chiêng thúc, rúc tù và cho trâu bò rống để làm kế hư binh.
Khoảng hơn nửa giờ thì tên quân Tống cuối cùng đã vượt phù kiều sang Bắc ngạn Phú-lương. Yên Đạt sợ quân Việt đuổi theo, y sai cắt phù kiều. Trong khi hiệu Bổng-nhật dàn ra đóng dọc chiến lũy thì vua Bà truyền hiệu Thiên-trường vào các làng cùng với hoàng nam, hoàng nữ đẵn tre củng cố lại các hàng rào.
Chợt Vũ-kị đại tướng quân la lớn:
– Đoan đệ, Liên muội, sao rồi?
Lý Đoan, Ngọc-Liên đang nằm gục trên lưng voi. Ông tung mình lên bành voi Lý Đoan đỡ hầu đem xuống. Trong khi vua bà Bình-Dương đỡ Ngọc-Liên. Máu trong miệng hai người chảy dài trên môi, trên cổ. Cả hai người chỉ còn thoi thóp thở.
Phò mã Thân Thiệu-Thái nắm ấy tay Lý Đoan, vua bà Bình-Dương nắm lấy tay Ngọc-Liên. Cả hai dồn chân khí ra để trị thương.
Hà Mai-Việt với Long-biên ngũ hùng thân với nhau như chân tay, ông hỏi viên tướng cận vệ của Lý Đoan:
– Quân hầu với quận chúa bị thương lúc nào vậy?
– Quận chúa bị Trường-bạch song hùng đánh trúng một chưởng bay tung đi đến hơn hai trượng. Nữ binh cứu được đem vào chiến lũy để dưỡng thương. Nhưng nằm nghe tiếng trống thúc, tiếng quân reo, quận chúa lấy khăn lau máu trên người, rồi gượng lên voi chỉ huy quân chống với giặc. Còn quân hầu thì bị trúng một Huyền-âm chưởng, nhưng may nhờ có hai con trâu đứng trước, nên chỉ bị nội thương nặng. Hầu giả vớ như không bị thương, gượng lên mình trâu điều quân.
Một lát sau, Lý Đoan tỉnh dậy trước, hầu ọe một tiếng, mửa ra hai bụm máu rồi hỏi trong cơn mơ mơ tỉnh tỉnh:
– Hà đại ca! Ngọc-Liên đâu rồi?
Quận chúa thở phều phào:
– Em đây. Anh có sao không?
– Anh hỏng mất rồi! Tạng phủ nát hết thì sống sao được? Còn em, em ra sao?
– Đau đớn khắp người, sức lực mất hết.
Hầu gượng ngồi dậy, rút trong bọc ra một tấm lụa, đó là tờ biểu hầu cùng quận chúa viết để dâng lên Linh-Nhân hoàng thái hậu, nhưng chưa kịp gửi đi. Bây giờ trong lúc âm dương cách trở, hầu trao mảnh lụa cho Hà Mai-Việt:
– Đại ca! Hai đứa chúng em đã cầm chắc cái chết trong tay, nên viết tờ biểu này dâng lên Thái-hậu. Vậy khi chúng em chết rồi, đại ca sai người đem về triều và tâu thêm rằng:
« Đứa em bất nghĩa, giữa đường nằm xuống, không tiếp tục cùng người chị bảo vệ đất nước. Mong được chị tha thứ cho ».
Vua bà Bình-Dương, phò mã Thân Thiệu-Thái muốn nói mấy câu, nhưng hai vị đang dồn hết chân khí để giữ tính mệnh vợ chồng Lý Đoan, nên không thể mở miệng. Vì mở miệng ra, chân khí yếu đi, e tính mệnh hai người lâm nguy.
Hầu quơ tay nắm lấy vai quận chúa:
– Ngọc-Liên, trong tám năm chúng mình làm vợ chồng, tâm đầu, ý hiệp. Chưa bao giờ chúng mình nhăn mặt, nói nặng với nhau một câu.
– Nhưng tiếc quá!
– Em tiếc gì? Mình đã có với nhau hai mặt con, như vậy không đủ ư?
– Anh có nhớ không? Chúng mình thường mơ rằng sau khi hết giặc, chúng mình xin Thái-hậu cho phép, rồi ruổi ngựa đi thăm tất cả thắng cảnh của đất nước. Ngồi trên núi, bên suối, ven sông, em sẽ hát cho anh nghe.
Nói rồi quận chúa cất tếng hát. Đó là bài hát của vùng Kinh-Bắc mà quận chúa mới học được. Lúc đầu tiếng hát rất cao, rất trong, nhưng được ba câu thì tiếng hát rời rạc, rồi từ từ im hẳn. Hầu kinh hoảng gọi lớn:
– Ngọc-Liên! Em ra sao?
Hẫu gượng ngồi dậy nghiến răng bế bổng quận chúa vào lòng rồi nói trong hơi thở:
– Sống chúng ta... yêu nhau..., giữ nước... như chim liền cánh. Chết chúng ta chết bên...
Chữ « nhau » chưa ra khỏi miệng thì hầu ngã xuống.
Đám trẻ mục đồng hét lên:
– Quân hầu! Quân hầu là anh bọn em. Chị Ngọc-Liên, chị là tiên nữ, chị không thể chết được!
Bọn trẻ khóc rống lên thảm thiết. Để cho chúng khóc một lúc vơi nước mắt rồi, vua bà Bình-Dương an ủi chúng:
– Anh, chị của các con không chết đâu!
– Tâu bà, rõ ràng anh chị ấy chết rồi đây này!
– Anh chị ấy xuất hồn rời khỏi xác, rồi về với vua Hùng, vua An-Dương, vua Trưng. Các con không nên khóc. Khóc là hèn nhát, không phải con cháu thánh Gióng, vua Đinh.
Bọn trẻ nín khóc liền.
Ghi chú,
Hoài-hóa thượng tướng quân Trực-tâm hầu Lý Đoan tuẫn quốc năm 26 tuổi. Thiên-y, Đại-từ, Liên-hoa nhu mẫn quận chúa Trần Ngọc-Liên tuẫn quốc năm 25 tuổi. Sau khi hết giặc, triều đình nghị công truy phong cho ngài chức tước như sau: Thiên-y, Ưu-dũng, Chí-nhân đại vương. Quận chúa được phong Nam-thiên, Liên-hoa, Đoan-nhu công chúa. Truyền lập đền thờ. Trải qua 918 năm, đến nay (1095) đền thờ của ngài vẫn còn tại làng Cẩm-chàng, xã Bồng-lai, huyện Quế-võ, tỉnh Hà-Bắc. Độc giả muốn thâm cứu thêm về cuộc đời anh hùng của ngài, xin xem bài tựa NQSH quyển 1, phần 7.1.4.
--!!tach_noi_dung!!--

Đánh máy : CDDLT
Nguồn: CDDLT
Được bạn: NHDT đưa lên
vào ngày: 16 tháng 2 năm 2005

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--