Chương 4

Tôi lặng lẽ quan sát người từ nay tôi phải sống cùng, không biết là bao lâu: vài tuần, dăm tháng hay cả năm?
Tôi nhớ đến chuyện cha tôi kể về những lần ông bị bắt. Ông nói quan trọng nhất là mấy ngày đầu. Mọi thủ đoạn của địch nhằm bẻ gẫy mình nằm trong mấy ngày đó. Tra tấn dữ nhất cũng trong mấy ngày đó. Sau thì không đáng kể. Vào thời gian này địch thường cài chỉ điểm vào xà lim, cho ở chung với mình. Những ngày mới bị bắt con người cảm thấy cô đơn vô cùng. Thế là những bí mật anh ta cắn răng không khai với địch thì lại khai thông thốc với tên chỉ điểm trong những câu chuyện tâm tình.
Trời tối lúc nào không biết. Sau cái chạng vạng nhập nhòa, không rõ của trời hay của xà lim, ngọn đèn trong lưới sắt bừng sáng. Dưới ánh sáng điện trông anh tù cũng không đến nỗi gớm ghiếc cho lắm.
Cửa lại mở, lần này không có tiếng động dữ dằn như lúc tôi mới vào. Viên cai ngục nông dân đứng trong khung cửa, cái áo bông của tôi vắt ngang tay:
- Anh!
Tôi hỏi lại:
- Tôi hả?
Anh ta gật đầu, đưa cho tôi cái áo bông:
- Anh mặc vào rồi đi với tôi.
Tôi uể oải xỏ giày, đi theo anh ta.
Chúng tôi đi lặng lẽ trong một cái sân hẹp và tối, qua mấy ngôi nhà dài kiểu trại lính, từ trong đó bay ra tiếng người rì rầm như một tổ ong, qua một xưởng thợ ngổn ngang sắt thép rồi bước vào một ngôi nhà lớn. Trong một góc tối leo lét mấy ngọn đèn màu mắc trên một cành thông. Từ xó tối đó một cái loa vô hình rền rĩ:
Hồng hà mênh mông trôi cát tới chân làng quê...
Cuối í í sông... ngoài bến Việt Trì có những chàng áo nâu về...
Say mê đồng lúa...
Vui tràn trề.ề....
Ánh đèn mờ mờ cho thấy nơi này có một hành lang ngắn, một cái ngách, với hai dãy cửa. Tôi đoán đây là khu tù binh. Người ta không chiều tù nhân Thiên chúa giáo bản xứ tới mức tha vào đây cho họ một cây thông. Lại càng không để ý tới chuyện cho họ một chút âm nhạc đang phát ra kia, từ một máy ghi âm cà khổ. Dây cu-roa máy đã rão lắm, nó chạy èo ẽo làm cho bài ca trữ tình trở thành não nuột. Không biết họ sẽ cho tù binh Mỹ mừng Noen theo cách nào đây? Chẳng lẽ lại điệu từng tên ra, cho nó đi những bước dè xẻn quanh cái cành thông nhà quê kia một lát, cho nó hưởng khúc nhạc thê lương kia một lát, rồi điệu về, nhường chỗ cho tên khác? Xem ra với cung cách này lễ Thiên chúa Giáng sinh cho tù binh chắc hẳn được làm đúng như vậy. Thật buồn cười.
Kể từ 5 tháng 8 năm 1964, khi những máy bay Mỹ lần đầu xâm phạm vùng trời miền Bắc Việt Nam đã có không ít phi công Mỹ bị bắt làm tù binh, mở đầu danh sách là Anvarez lừng danh thế giới. Ngoài số phi công bị bắn rơi trên miền Bắc kể từ khi có cuộc leo thang bằng không lực trên miền Bắc Việt Nam, còn có nhiều tù binh Mỹ khác. Ðó là tù binh thuộc các binh chủng khác của quân đội Mỹ từ các chiến trường miền Nam, Lào và Campuchia được đưa về giam tại các trại bí mật nằm rải rác trên miền Bắc.
Bài báo cuối cùng của tôi về cuộc đánh bom của Mỹ vào khu vực dân cư phố Hàng Thao Nam Ðịnh chắc đã lên khuôn. Hai hôm trước tôi đã ký bông(1) lần ba. Liệu bài báo có bị bỏ đi không, khi tôi bị bắt? Còn cuốn Năm Người Im Lặng ở Nhà xuất bản Văn Hóa nữa? Cho dù là sách dịch, chưa chắc người ta đã cho nó ra(2). Vợ con tôi thế là mất đứt khoản nhuận bút.
Ðã thành một cái lệ - người cầm bút trong xã hội xã hội chủ nghĩa phải là người có lý lịch rõ ràng, trong sạch, có lập trường vững vàng, có thâm niên càng cao trong tổ chức(3) càng tốt. Các nhà xuất bản tuyệt đối không in tác phẩm của những phần tử có vấn đề. Thậm chí có người đã tham gia kháng chiến chống Pháp, nhưng chỉ vì dính líu ít nhiều với các văn nghệ sĩ có vấn đề là đã không được in sách, đăng báo nữa rồi. Số phận nhà văn Thanh Châu trong nhóm Tiểu Thuyết Thứ Bảy trước cách mạng là một thí dụ. Anh không bị chính thức coi như thuộc nhóm Nhân văn - Giai phẩm, nhưng vì quan hệ với Nhân văn - Giai phẩm Thanh Châu bị treo bút. Cho đến lúc được phép viết thì anh đã cao tuổi mất rồi, đã xuống sức mất rồi.
Kim Lân may mắn thoát nạn trong cái đận Nhân văn - Giai phẩm. Anh khôi hài nói rằng sau vụ này hết thảy nhà văn đều xây xát, chỉ có các cung văn(4) là lành lặn.
Nếu tôi bị bom chết trong chuyến công tác Nam Ðịnh chắc hẳn sẽ có một điếu văn thống thiết rằng sự hy sinh của tôi là một tổn thất to lớn không thể nào đền bù được cho gia đình và cơ quan, còn tôi trở về nguyên vẹn để bị bắt thì người ta lại uốn ngược lưỡi nói rằng tên phản động Vũ Thư Hiên mà ta theo dõi từ lâu đã bị tống giam.
Từ vài năm nay lòng trung thành của tôi đối với cách mạng bị đặt dưới sự soi mói khắc nghiệt. Câu chuyện có nguyên ủy của nó. Năm 1958 tôi từ Liên Xô về nước để lấy tài liệu cho đề tài thi tốt nghiệp khoa kịch bản thì ở trong ký túc xá sinh viên, một ông bạn họa sĩ cùng sang học với tôi một chuyến đã lục lọi đồ đạc của tôi để lấy cuốn nhật ký đem nộp sứ quán. Cuốn nhật ký ghi những kỷ niệm trong chuyến về Việt Nam năm 1957 với nhà quay phim xô-viết Reizman để thực hiện bộ phim Ánh Sáng Tháng Mười, trong đó tôi có những nhận xét xấu về Cải cách ruộng đất, về ông Hồ Chí Minh. Cuốn nhật ký lập tức được gửi về Bộ Công an(5).
Nghe nói Nguyễn Văn Kỉnh trước Cách mạng Tháng Tám cũng là một trí thức ở Nam bộ, được nhiều người mến mộ. Nhưng trong việc chỉ đạo ông bạn họa sĩ đảng viên ăn cắp nhật ký của tôi, Kỉnh tỏ ra còn có khiếu làm mật thám, là điều không ai biết. Thời ấy năng khiếu mật thám được coi là một năng khiếu đáng được khuyến khích. Tôi bị Lê Văn Rạng, vụ trưởng Vụ Ðại học và Trung học chuyên nghiệp, một tay trí thức bảo hoàng hơn nhà vua, giữ lại ở trong nước. Việc tôi có trở lại Liên Xô học tiếp hay không sẽ được xét sau.
Tôi trở về Xưởng phim Việt Nam. ê đó được gần một năm tôi phải bỏ nghề điện ảnh vì không chịu nổi tên trưởng phòng tổ chức vốn là thư ký đội Cải cách ruộng đất. Tên hãnh tiến này gọi tôi lên gặp y rồi vặn tôi: "Cả xưởng chào tôi, tại sao anh không chào?".
Tôi lễ phép hỏi tên y, rồi cũng lễ phép như thế tôi thưa với y rằng rất có thể y quan trọng, y có ích, tôi biết, tựa như cái cột đèn vậy, không có nó điện không vào nhà được, tôi sẽ không có ánh sáng để đọc. Nhưng, tôi kính cẩn thưa tiếp, không phải vì thế mà tôi sẽ dừng lại trước mỗi cái cột đèn để chào nó.
Tôi sang nghề báo. So sánh các tờ báo muốn nhận tôi, tôi thấy báo ảnh, hay còn gọi là họa báo Việt Nam, hợp với tôi hơn cả. Nó là tờ báo chủ yếu dành cho độc giả nước ngoài, bài vở không nhất thiết phải viết theo công thức của các báo trong nước. Hơn nữa, mấy anh trong bộ biên tập báo ảnh mến tôi qua những truyện ngắn và bài báo đã đăng, chèo kéo bằng được tôi về với tờ báo của các anh.
Trong những cuộc đụng độ lặt vặt kiểu như chuyện xảy ra với anh chàng tổ chức Xưởng phim tôi không thể tránh được những câu nói lẽ ra không nên nói do bực bội. Cơ quan tổ chức, cũng như cơ quan công an, rất mẫn cán thu thập thông tin về thái độ chính trị của cán bộ. Chỉ cần anh ăn nói không giữ gìn một chút, để lộ ra những suy nghĩ không theo dòng chính thống, là tội của anh lập tức được ghi nhận, anh bắt đầu bị theo dõi mà không biết. Cho tới ngày anh chợt nhận ra mình bị theo dõi thì đã muộn - anh đã bị ném khỏi boong con tàu cách mạng.
Còn nhớ năm 1961, mọi người trong tòa soạn đã được nhận Thẻ nhà báo rồi mà mãi tôi chưa được nhận. Tôi chỉ ngạc nhiên tí chút, cho rằng những cái bàn giấy quan liêu bao giờ mà chả thế, chúng không vội vã trong bất cứ việc gì. Tòa soạn gọi điện thoại hỏi. Người ta nói ảnh của tôi bị thất lạc. Tôi đưa tiếp ảnh khác. Vẫn không xong. Hóa ra không phải chuyện mất ảnh. Chỉ sau khi chủ nhiệm tờ báo đích thân lên Sở báo chí kiện cáo thế nào không biết, tôi mới được nhận thẻ. Bây giờ nghĩ lại mới biết chẳng qua người ta ngần ngại, người ta còn phải xin ý kiến trên, bởi vì tên tôi nằm trong một danh sách nào đó đòi những người trực tiếp quản lý các nhà báo phải suy nghĩ. Cấp trên trực tiếp của tôi chắc chắn chẳng khó chịu với tôi, nhưng vào hồi ấy chẳng ai muốn chịu trách nhiệm về ai hết.
Sau vụ này tôi bắt đầu để ý đến thái độ của lãnh đạo, tức là các quan chức cấp trên của tôi, ngang cũng như dọc. Mới thấy rằng trong công việc hàng ngày người ta tránh không phân công tôi làm những đề tài có dính tới bí mật quân sự hoặc những bí mật khác. Mà bí mật trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì lại quá nhiều, cái gì cũng bí mật, thành thử tôi chỉ được phân công đi các địa phương khi cần có các bài về văn hóa, nông nghiệp, công nghiệp hoặc ngồi nhà làm công việc chữa cháy cho các số báo chẳng may bị ông Trường Chinh, người khai sinh ra tờ báo, bất ngờ gạch bỏ một bài, thậm chí vài bài một lúc(6).
Ðến lúc thấy mình không có tên trong danh sách những nhà báo được cử đi B(7) thì tôi mới biết chắc chắn rằng cái sự cảnh giác cách mạng đã được áp dụng cho tôi rồi. Chả trách đợt vào Vĩnh Linh công tác, khi tôi muốn ra Cồn Cỏ thì bị người ta từ chối khéo. Hòn đảo nhỏ bé lúc ấy đang cô độc chiến đấu chống lại những cuộc tấn công bão táp của hải quân Mỹ. Như bất cứ nhà báo nào tôi muốn có mặt ở đó. Nguyễn Khải(8) ở Vĩnh Linh cùng thời gian với tôi. Anh ra được Cồn Cỏ còn tôi thì không. Tàu đi Cồn Cỏ chỉ có một chỗ dành cho văn nghệ sĩ, mà anh Nguyễn Khải đã đăng ký từ lâu rồi, người ta nói thế.
Những tin tức rò rỉ từ Bộ Nội vụ cho biết tôi nằm trong diện không đáng tin cậy. Từ diện không đáng tin cậy sang diện có vấn đề chỉ là một bước, mà bước không dài. Các bạn tôi nhắc tôi phải thận trọng, phải giữ gìn lời ăn tiếng nói. Nghe thì nghe, chứ trong thâm tâm tôi không tin hẳn, chẳng lẽ người ta lại có thể nghĩ bậy bạ đến thế?
Mọi việc chỉ sáng tỏ khi tôi đã ở trong Hỏa Lò: thì ra từ lâu rồi tôi đã bị nhà cầm quyền nghi ngờ. Họ thậm chí còn lo tôi sẽ chạy sang bên kia chiến tuyến khi gặp cơ hội thuận tiện nữa kia.
Tôi cay đắng được biết sự thật. Tôi coi cuộc kháng chiến chống Mỹ, do những điều kiện lịch sử bó buộc, là bước kế tiếp, lần này là bất đắc dĩ, trong hành trình giải phóng dân tộc. Nguyện vọng thống nhất đất nước bao giờ cũng là nguyện vọng của toàn thể dân tộc.
Ngô Ðình Diệm đã sai lầm khi chủ trương đàn áp mọi xu hướng khác ông ta, chứ không riêng cộng sản, bằng những biện pháp phong kiến, gia đình trị. Trong tình thế đó những người cộng sản không thể không đứng lên chống lại, kéo theo sau mình quần chúng bất bình. Sự chống đối chính quyền Sài Gòn còn mạnh mẽ hơn nữa khi những người cầm quyền sau Ngô Ðình Diệm đã để cho người Mỹ ồ ạt đưa quân vào miền Nam Việt Nam. Người Mỹ tự thị đã đi lầm nước cờ. Dân tộc Việt Nam có truyền thống chống ngoại xâm, là điều người Mỹ không biết và khi hiểu ra thì đã muộn. Sau năm 1965 người ta không thể trở về với năm 1954, cho dù có muốn.
Ðây là đề tài thuộc thẩm quyền các sử gia, tôi không dám lạm bàn. Nhìn cuộc chiến từ góc độ người làm báo tôi cho rằng trong suốt thời gian chiến tranh không phải hoàn toàn không có cơ hội để thoát khỏi nó, và trong chuyện không muốn tìm cơ hội thoát ra lỗi không phải ở một bên, mà ở cả hai phía.
Nhưng thôi, ta quay lại với Hỏa Lò mùa đông năm 1967 cái đã.
Ði qua khu tù binh, viên cai ngục nông dân đưa tôi tới một ngôi nhà dài phía trái cổng Hỏa Lò, có rất nhiều cửa. Phòng hỏi cung là một trong những căn ở đây. Nó là một phòng nhỏ, chừng mười sáu thước vuông, không hơn, được chiếu sáng một cách hà tiện bởi một bóng điện 60 oát.
Huỳnh Ngự đã chờ sẵn. Thấy tôi bước vào, y ngẩng lên. Mặt nhẹ nhõm, không hằn học, không căng thẳng, trông yị, xuề xòa và hồn hậu. Cũng giống như chúng tôi, những người lính nông dân vừa rời tay súng về cầm cày không coi ông là tướng, mà là người cha, người chú trong gia đình.
Khi nổ ra cuộc xung đột ý thức hệ Trung-Xô, ông không do dự đứng ngay về phía Liên Xô. Là đảng viên cộng sản lão thành, nhưng ông không rành lý thuyết cộng sản bao nhiêu. Ông, theo chỗ tôi biết, là một nho sĩ với phương châm xử thế bất biến lấy nhân, nghĩa, lễ, trí, tín làm đầu. Với tinh thần nho sĩ ông gay gắt lên án Stalin giết hại đồng chí để củng cố quyền lực, ông chống Mao, mà ông gọi là "tên đồ tể" cũng mạnh mẽ không kém.
- Stalin ngập trong máu, bác biết lắm chứ, nhưng đó không phải là chủ nghĩa xã hội. - ông nói với tôi - Cái nhà không xấu chỉ vì chủ nhà là một thằng khốn nạn. Bác nghĩ thế. Hôn quân có thể làm sập một vương triều, nhưng không làm mất nổi một đạo. Cháu thấy không, các triều vua thay nhau đổ trong khi Nho giáo, Khổng giáo vẫn cứ trường tồn. Chủ nghĩa Mác với tư tưởng giải phóng nhân loại còn mãi. Chủ nghĩa Mác không muốn thấy một nhân loại như bây giờ. Nhân loại phải được sống hạnh phúc. Con người phải được sống như con người. Khrusov lên án sùng bái cá nhân là phải lắm, người có luân thường tất không thể làm khác. Mao mới là tên ăn cháo đá bát. Lợi dụng chống Khrusov chống luôn Liên Xô. Thử hỏi không có Liên Xô làm sao Trung Quốc có ngày nay? Công nghiệp gang thép ai dựng cho? Rồi công nghiệp máy cái, tàu bay, tàu biển, ô tô? Trước kia Trung Quốc có gì? Ngày nay có gì? ỉ thì lãnh đạo Liên Xô cư xử không nên không phải khi nổ ra bất đồng, nhưng ai là người đổ mồ hôi sôi nước mắt giúp Trung Quốc vững vàng được như bây giờ? Là nhân dân Liên Xô chứ, là người lao động Liên Xô chứ. Xét cho cùng, cũng chẳng lấy gì làm lạ - mộng vương bá là cố tật của người Trung Hoa. Cứ xem sử Trung Quốc thì thấy, mỗi vùng mỗi vua, anh nào cũng lăm le bá chủ thiên hạ, chưa bá chủ được chưa yên. Nước ta rồi còn khổ với mấy cái anh bá này!
Trong thời gian làm thứ trưởng Bộ Nông trường ông đã đề xuất những chủ trương táo bạo như khuyến khích sản xuất bằng lợi ích vật chất, chia ruộng phần trăm cho nông trường viên, hợp tác đầu tư với các nước xã hội chủ nghĩa, cho các nông trường liên doanh với các nông trường nước bạn. Tất cả những chủ trương cách tân đó đều bị Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ coi là "xét lại", "đi theo con đường tư bản chủ nghĩa".
Tướng Giang đi khuất rồi, tôi còn phải đứng đợi một lúc nữa mới thấy viên quản giáo xuất hiện.
Anh ta lẳng lặng dẫn tôi tới một phòng hỏi cung khác nằm sâu trong dãy nhà bên cánh trái Hỏa Lò. Ðợi tôi ở đó là một người đàn ông cao to, da mặt bì bì, đẹp trai như một con hà mã. Trong quân phục dạ dành cho cấp tá, không quân hàm, bên trong chiếc áo choàng cũng bằng dạ, y lừ lừ nhìn tôi.
Thế là chúng nó phải thay người làm việc với mình, tôi nghĩ. Nhìn Huỳnh Ngự khúm núm bên cạnh y, tôi đoán y là cấp trên của Huỳnh Ngự.
Ðã một tuần lễ trôi qua kể từ hôm tôi bị bắt, nếu không hơn. Trong những ngày đó, sau cuộc cãi vã tay đôi làm Huỳnh Ngự tức điên, y còn gọi tôi ra vài lần nữa, nhưng cứ vừa nhìn thấy y là tôi bắt viên quản giáo đưa tôi lộn lại xà lim. Cái lối chơi chướng ấy thế mà được việc. Cần phải cho chúng nó biết tôi không dễ nhá. Cha tôi nói về đối sách của ông với nhân viên sở Liêm phóng:"Chỉ cần run sợ một chút là chúng lấn tới. Cho chúng nó đánh, cho chúng nó tra khảo, tra chán rồi chúng nó mệt, chúng nó bỏ. Chứ tỏ ra sợ đòn thì cứ cần hỏi gì là chúng nó lại lôi ra".
- Tôi đã đọc những báo cáo về anh. - người đàn ông đặt tập hồ sơ đang đọc khi tôi bước vào lên bàn - Hôm nay tôi bố trí thời gian gặp anh...
Tôi lặng thinh nhìn y.
- Chỉ để khuyên anh một điều, với tư cách người lớn tuổi...
Tôi không nói gì.
- Trước hết, tôi khuyên anh không nên cố chấp. - bằng giọng không có hồn, y dề dà nói - Anh là trí thức, hẳn anh biết cổ nhân có câu:"chấp kinh thì phải tòng quyền"...
Tôi liếc nhìn Huỳnh Ngự. Bên cạnh con người này y nhỏ bé hẳn, so rụi hẳn, chẳng giống Huỳnh Ngự những ngày trước.
Không đợi con hà mã nói hết, tôi hất hàm chỉ Huỳnh Ngự, làm ra vẻ không biết hoặc không nhớ tên y:
- Nếu anh có ý định phổ biến nội quy trại giam cho tôi một lần nữa, như anh này đã phổ biến thì tôi xin cảm ơn, tôi đã được nghe kỹ...
- Khoan đã. Tôi hiểu anh đang bực bội trong lòng. Bực bội là phải thôi, ai muốn mình bị Ðảng coi là kẻ thù của cách mạng? Nhưng cho tới giờ đã có ai coi anh là kẻ thù đâu! Sai thì có, sai quá đi ấy chứ. Do nhận thức sai nên hành động sai. Cũng là lẽ thường tình. Sai thì sửa. Mao chủ tịch dạy: chỉ có hai thứ người không sai thôi - ấy là đứa trẻ trong bụng mẹ và người nằm trong quan tài. Mình chưa hiểu ra cái sai, Ðảng biết thì Ðảng chỉ ra, Ðảng uốn nắn cho, sửa chữa cho. Vì thế, như tôi vừa nói với anh, tôi nhắc lại lần nữa anh nghe cho rõ: đừng cố chấp. Nội quy, xét cho cùng, nó là cái gì? Nó chẳng là cái gì hết - một quy ước được soạn ra cho cuộc sống tập thể mà mọi người có trách nhiệm tuân thủ để duy trì trật tự chung...
- Tôi nói rồi: tôi không thích cái nội quy ấy. - tôi lạnh nhạt, đồng thời cương quyết - Tôi không chấp nhận nó.
- Bình tĩnh, bình tĩnh nào! Nghe tôi nói đã. Sáng nay anh Thành(2) thay mặt anh Sáu, có vào đây gặp các anh, từng người một. - người đàn ông vẫn bình thản, nhưng qua giọng nói, cách nói của y tôi hiểu y phải cố gắng lắm mới giữ được bình tĩnh như thế - Nhưng rồi do công tác đột xuất lại phải quay về ngay, không gặp được. Anh Thành ủy nhiệm tôi phổ biến cho các anh quyết định mới nhất của Bộ Chính trị và Ban tổ chức Trung ương...
Người được ủy nhiệm của Bộ Chính trị và Ban tổ chức Trung ương không thèm tự giới thiệu. Sau mới biết tên y là Trúc, không rõ họ gì, cục trưởng Cục chấp pháp. Trúc là nhân vật quan trọng nhất trong đám quan binh mà tôi được tiếp kiến kể từ khi bước chân vào Hỏa Lò. Trong ngành công an người giữ chức cục trưởng quan trọng hơn thứ trưởng thật hiền lành. Khó tưởng tượng được vừa mới đây y còn hầm hè với tôi như với kẻ thù của cá nhân y chứ không phải của Ðảng.
- Ngồi xuống, ngồi xuống đây, anh Hiên! - y vồn vã chỉ cho tôi ghế đối diện - Anh dùng trà, hỉ?
Phòng hỏi cung được bày biện như một phòng khách nghèo - mấy cái ghế ba nan quây quanh một bàn nước chân quỳ. Trên bàn là một ấm men rạn bắt chước đời Lý, không hợp chút nào với mấy chén sứ Hải Dương rẻ tiền. Bộ đồ trà được đặt trong một đĩa sắt tráng men sứt sẹo với mấy con tôm Tề Bạch-thạch bạc màu. Mặc dầu đã có áo bông, tôi vẫn run rẩy - nhiệt độ xuống quá nhanh, buổi sáng trời còn ấm, vậy mà bây giờ đã lạnh dữ. Căn phòng hỏi cung còn lạnh hơn cả xà lim, lại có mùi gỗ mốc, như thể nó bị bỏ hoang lâu ngày.
Huỳnh Ngự bốc trà cho vào bình, tỉ mẩn nhặt từng cánh trà rơi xuống mặt bàn, rồi từ tốn với tay lấy cái phích Trung Quốc, từ tốn chế nước sôi, đợi một lát cho trà thật ngấm mới chuyên chậm chậm vào hai chén. Cung cách pha trà cho thấy y là tay nghiện trà nặng, như mọi cán bộ đứng tuổi hồi bấy giờ.
Tôi lặng thinh quan sát.
- Uống đi, anh Hiên! - y chìa bàn tay gày, với những ngón dài, xương xẩu về phía tôi - Kẻo nguội.
Tôi vẫn nín lặng.
- Tiết trời như ri uống trà thiệt thú vị, phải không? Anh dùng đi, tự nhiên nghen. Anh thấy đó, ở ngoài nhìn vô ai cũng nghĩ cái sự bị bắt, cái sự ở tù nó ghê gớm lắm lắm kìa, khủng khiếp lắm lắm kìa, chớ thiệt ra thì, hì hì... có chi ghê gớm lắm mô...
Y đẩy chén trà về phía tôi.
- Tác giả "Chiếc va-li" đã báo trước cho anh biết anh sẽ bị bắt, phải không? Hắn còn nói với anh những chi nữa, hè?
Ðó là Huỳnh Ngự nói về Hoàng Ðạo(9). Tôi không ngạc nhiên. Y muốn khoe y biết hết, đừng hòng giấu y điều gì.
Ðúng là Hoàng Ðạo có báo t đã thấy đường lối nớ sai chưa?
- Chưa. - tôi đáp - Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải có hòa bình trước đã, tôi quan niệm như vậy. Còn cụm từ chung sống hòa bình mà báo chí quen dùng là do dịch sai gây ra hiểu nhầm. Người Nga nói mirnoe soshushestvovanie, người Pháp nói coexistence pacifique không có nghĩa chung sống hòa bình, mà là cùng tồn tại trong hòa bình.
Huỳnh Ngự hừ một tiếng không rõ rệt.
Vài năm sau trên báo chí không thấy dùng cụm từ chung sống hòa bình nữa. Người ta dùng đúng như tôi nói hôm đó: cùng tồn tại trong hòa bình.
Cuốn Người Với Người Là Bạn của nhà văn Liên Xô Boris Polévoii(3) bị đặt lên bàn mổ. Nó bị phỉ nhổ là lá cờ rách của "chủ nghĩa nhân đạo chung chung", thứ đồ bỏ nhặt từ trong đống rác thối tha của chế độ tư bản. Các nhà tuyên giáo(4) nói rằng thứ nhân đạo chung chung của bọn xét lại hiện đại không mê hoặc nổi ai. Nhưng cứ phải cảnh giác (!), họ nhấn mạnh, bởi vì nó thường dùng hình thức văn học là cái đi vào lòng người một cách êm ái.
Chủ nghĩa cộng sản, cũng theo các nhà tuyên giáo, đương nhiên hàm chứa chủ nghĩa nhân đạo tiến bộ nhất, văn minh nhất, rộng rãi nhất, cao cả nhất. Mọi thứ chủ nghĩa nhân đ họ cho rằng họ nhầm.
Chúng tôi dẹp mọi chuyện qua một bên, bàn tiếp việc viết kịch bản cho bộ phim về hoạt động của tổ điệp báo do anh chỉ huy, kết thúc bằng vụ đánh đắm thông báo hạm Amyot d'Inville tại ven biển Thanh Hóa năm 1950. í định này có từ lâu, khi tôi còn ở Moskva. Hoàng Ðạo và tôi vẫn thư từ cho nhau để bàn về bộ phim tương lai.
Khi điệp vụ được thực hiện, Hoàng Ðạo là trưởng ty công an Thanh Hóa. Anh bố trí một chiến khu giả tại Ngọc Lặc (miền Tây Thanh Hóa), rồi vào Hà Nội với tư cách người chủ của chiến khu. Lãnh tụ giả mạo của một đảng không có thật vượt qua được thử thách của tình báo Pháp, trở thành bộ trưởng không bộ nào của chính phủ Bảo Ðại. Trong thời gian ở lại trong vùng địch Hoàng Ðạo đã gặp Ngô Ðình Diệm, Năm Lửa, Ba Cụt, Bẩy Viễn
...và nhiều nhân vật chính trị ở miền Nam. Sau khi biết chắc người Mỹ có ý định dùng con bài Ngô Ðình Diệm thay thế Bảo Ðại, Hoàng Ðạo đề xuất với Trung ương cho phép anh thủ tiêu Ngô Ðình Diệm để thế chân ông ta. Kế hoạch của anh bị Trường Chinh gạt đi. Trường Chinh kịch liệt phê bình điệp vụ này, nói rằng việc Hoàng Ðạo tổ chức chiến khu giả ở Thanh Hóa làm ảnh hưởng xấu đến uy tín của chính phủ kháng chiến, lợi bất cập hại. Ông còn nói Hoàng Ðạo là người ham mê tửu sắc, nếu làm việc với Mỹ sẽ bị Mỹ mua chuộc, "đến lúc ấy đánh nhau với nó còn khó hơn đánh nhau với Ngô Ðình Diệm nhiều"(10). Hoàng Ðạo nhận được lệnh kết thúc điệp vụ, trở về vùng tự do. Việc đánh đắm thông báo hạm Amyot d'Inville là hành động cuối cùng của tổ điệp báo trước khi rời bỏ trận địa.
"Anh không thể xử nhũn một chút được sao? - Hoàng Ðạo hỏi khi tôi ra về - Anh dây vào chính trị làm chi?". "Không được, anh ạ. Tôi không quan niệm nói ra ý kiến của mình là dây vào chính trị.nh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, lẽ thường giám đốc phải là người con trung thành của những giáo điều mác-xít. Ai ngờ Minh Tranh lại là một trong những tên xét lại cứng đầu. Mấy anh cán bộ tuyên giáo không có thông tin cập nhật, không biết tôi là phần tử có nghi vấn nói với tôi: "Bọn xét lại có ba pháo đài kiên cố là Viện Triết học, Nhà xuất bản Sự Thật và ỷy ban khoa học nhà nước". Viện Triết có Hoàng Minh Chính, Nhà xuất bản Sự Thật có Minh Tranh, còn ỷy ban khoa học nhà nước thì có Tạ Quang Bửu.
Minh Tranh không bị hạ ngục. Ông được Ðảng ban cho ân huệ được rời bỏ cái ghế giám đốc mà chính ông không thiết tha. Trước khi rời Hà Nội ông tới chia tay với cha tôi. Hai người lững thững đi bộ dọc đường Hai Bà Trưng. Tôi không biết họ nói gì với nhau trong buổi chiều đầy lá rụng hôm đó. Cha tôi đánh giá cao Minh Tranh, coi ông là một đồng chí có học và có tinh thần cách mạng kiên định. Tôi không rõ Minh Tranh đi đâu. Ông biến khỏi thành phố, như rời xa ổ dịch. Không ai nghĩ ông sợ. Mọi người đều hiểu - ông đi vì chán ngán.
Tôi buồn. Tôi ngơ ngác. Tôi không thể hiểu nổi những lời thóa mạ ng tồn tại trong hòa bình, hợp tác hòa bình giữa các nước có chế độ xã hội khác nhau, tinh thần giải quyết mọi tranh chấp bằng thương lượng, chấm dứt mọi thứ chiến tranh nóng cũng như lạnh, giải trừ quân bị...
Ðó là ngày 25 tháng Hai năm 1956.
Hôm sau tôi vào trung tâm thành phố để xem phim "Chiến tranh và hòa bình" của Mỹ tại Cung Ðiện ảnh. Các ga metro dông nghịt. Những con đường dẫn tới Hồng trường1 cuồn cuộn những cơn lũ dân chúng vui vẻ, phấn khích. Họ hò reo, ca hát, mang cờ đỏ búa liềm, chân dung Nikita Khrushov tới điện Kremli chào mừng Ðại hội. Họ ôm nhau, hôn nhau, nhẩy múa trong tiếng nhạc đệm của đàn bay-an. Rải rác trên vỉa hè là những bức chân dung Stalin, cái còn nguyên, cái bị xé nát, nhem nhuốc dưới gót giầy khách bộ hành.
Tôi rùng mình. Cảnh tượng diễn ra trước mắt làm tôi bàng hoàng.
Những người chưa từng bị giáo dục lòng yêu mến và kính trọng sâu sắc đối với lãnh tụ vĩ đại Stalin không thể hiểu nổi nỗi xúc động của chúng tôi khi thần tượng của mình bị quật ngã, bị chà đạp.
Tôi còn nhớ tin Stalin qua đời đến với chúng tôi như thế nào. Cuộc kháng chiến trường kỳ bước vào năm thứ bẩy. Tôi đang ở Thanh Hóa. Hàng ngày, từng tốp máy bay Hellcat và Spitfire từ Hà Nội chốc chốc lại bay vào quần đảo trên những làng mạc thanh bình vùng tự do(8). Thỉnh thoảng chúng thu hẹp vòng lượn và bên dưới, từ mặt đất, bốc lên những cột khói đen. Tin Stalin qua đời đến với chúng tôi trong một ngày như thế. Người ta quên bẵng những máy bay - thần chết khi tiếng loa cất lên vang vang trong thôn xóm báo tin người Cha, người Thầy vĩ đại của nhân dân thế giới không còn nữa.
Lớp trẻ chúng tôi lặng đi. ớt lâu sau, học sinh các trường phổ thông đã ra rả học bài thơ Ðời Ðời Nhớ Ông của Tố Hữu(9), trong đó nhà thơ khóc Stalin:
Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương Ông thương mười.
Yêu con, yêu nước, yêu nòi,
Yêu bao nhiêu lại thương Người bấy nhiêu,
Ngày xưa khô héo quạnh hiu,
Có Người mới có ít nhiều vui tươi...
Tôi quyết định bỏ Shakespeare đấy đã để tìm hiểu những gì đang xảy ra. Tôi đem những thắc mắc của mình hỏi giáo sư Turkin. Ông thầy giảng môn kịch bản điện ảnh xua hai tay:
- Chính trị không phải cái để cho chúng ta, anh bạn trẻ ạ. Khi còn ở tuổi 20 tôi cũng chú ý tới nó, y như anh bây giờ, sau đó thì... thôi, tôi chán. Mà không phải chán, tôi sợ. Tôi khuyên anh quên nó đi. Những việc anh thấy hôm nay có vẻ ghê gớm thật đấy, nhưng ngày mai mọi sự lại có thể khác. Dây vào làm gì!
Nghe tôi trình bày, giáo sư môn văn học nước ngoài Nina Anosova ra hiệu cho tôi đi theo bà. Chúng tôi xuống tầng hầm của nhà trường. Trong góc tối, bà chỉ cho tôi cái thang dựng sát tường:
- Ðối với tôi thời Stalin gắn liền với cái thang này. Nó trở thành biểu tượng. Anh có thấy chân dung các nhà lãnh đạo Ðảng và Nhà nước treo trên hội trường không? Thời Stalin còn sống, cái thang được dùng đến luôn. Thỉnh thoảng anh thợ điện Stepan lại vác nó lên để tháo vài vị xuống, treo vài vị khác thế vào. Báo Pravda (Sự Thật) thông báo họ là những tên phản bội, kẻ thù của nhân dân xô-viết. Rồi chính những vị vừa được treo lên lại bị gỡ đi - hóa ra họ cũng là kẻ thù của nhân dân xô-viết nốt. Tất cả đều từng được ngợi ca là bạn chiến đấu, là học trò ưu tú của Lênin và Stalin. Cứ mỗi vị bị bắt thì một loạt cán bộ khác bị bắt theo, như là một đợt sóng. Ngay tại trường ta này những cán bộ hiền lành bỗng nhiên cũng bị công an đang đêm tới nhà bắt đi. Hồi ấy chúng tôi chỉ biết ngạc nhiên: chế độ mình tốt thế sao có lắm người chống lại đến thế, lắm kẻ thù của nhân dân xô-viết đến thế? Tôi không tin những người nọ là kẻ thù của nhân dân xô-viết, tôi biết rõ họ mà, người khác cũng không tin, nhưng chẳng ai dám nói ra. Thật xấu hổ, nhưng chúng tôi đã sống hèn như thế đấy!
Anosova là người trung thực. Bà không bịa đặt. Chẳng lẽ bà cũng là một trong những kẻ thù của nhân dân xô-viết?
Tôi được nghe một người vừa được tha về từ trại tập trung Kôlưma nổi tiếng(10) phát biểu. Người đàn ông đứng tuổi, trước kia làm việc tại văn phòng nhà trường, khóc nức nở trong cuộc họp chi bộ(11):"Các đồng chí ơi! Tôi bị Ðảng đưa đi giáo dục mười một năm. Trở về, tôi như bị lạc vào một thế giới khác. Tất cả đều khó hiểu, mọi cái đều xa lạ. Hãy giúp đỡ tôi, các đồng chí! Tôi muốn được làm một người bình thường...như mọi người".
Người tù được tha không hề thốt lên một lời oán trách đảng. Ông cũng chẳng nói gì tới lý tưởng cộng sản. Dường như cơn ác mộng còn đó, về tới Moskva rồi ông vẫn chưa hết sợ. Nhưng lý trí phản bác rằng cảm giác của tôi sai, rằng nhờ tính đảng cao nên trải qua đọa đầy ông ta vẫn trung thành với đảng. Chỉ đến khi chính mình nếm trải những gì mà những người cộng sản nọ nếm trải tôi mới hiểu trực cảm của tôi là đúng.
Ðó chính là cái sợ. Không phải cái gì khác(12).
Trong những cuốn hồi ký được xuất bản sau đó, các tác giả viết rằng khi nước Ðức Quốc xã vượt qua biên giới Ba Lan tiến vào lãnh thổ Liên Xô, xé toạc hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau Xô-Ðức, Stalin mới ngã ngửa người ra thấy các tướng lĩnh và cán bộ chỉ huy quân đội đã nằm gần hết trong các trại tập trung. Ông hạ lệnh tha khẩn cấp để họ trở về đi đánh nhau với Ðức. Ðiều đáng ngạc nhiên và hơn nữa, đáng khâm phục, là những người được tha đều sẵn sàng ra ngay mặt trận để chiến đấu chống quân xâm lược.
Những người bị bắt oan khi được tha vẫn phải ký vào một tờ giấy cam đoan không nói lại với ai về giai đoạn đã qua. Một quân đoàn trưởng gặp cấp dưới, tư lệnh sư đoàn, tại nhà an dưỡng miền Nam Liên Xô:"Kìa, Ivan, lâu lắm tôi mới được gặp đồng chí! - ông mừng rỡ kêu lên - Dạo này đồng chí gày quá!", "Báo cáo thủ trưởng, tôi vừa đi công tác xa về. - tư lệnh sư đoàn trả lời - Tôi trông thủ trưởng cũng không được khỏe?". Quân đoàn trưởng cười:"Tôi cũng vậy, tôi vừa đi công tác xa về".
Một số người bênh Stalin nói rằng Sta-lin không biết gì về các nguyên soái, các tướng lĩnh bị bắn hoặc bị đi đầy. Tôi không tin. Cái huyền thoại về vị lãnh tụ anh minh bị cấp dưới bịt mắt, bị lừa dối, không đứng vững trước sự thật hàng ngày diễn ra bên những người dân biết suy nghĩ như giáo sư Anosova.
Một người bạn ở khoa lý thuyết điện ảnh, Naum Kleiman(13), cho tôi biết chính anh và gia đình đã bị đầy đi Sibir gần chục năm chỉ vì họ là người Do Thái. Mà người Do Thái, theo Stalin, là giống người không tin được, phải chịu tội chung cùng với những bác sĩ Do Thái bị bắt trong cái gọi là "vụ án bọn áo choàng trắng" ở Lêningrad(14). Mãi tới khi Stalin qua đời Naum mới được trở về Moskva. Anh nói anh không bao giờ quên chuyến đi tới miền Cực đông băng giá trong toa chở súc vật với những thanh gỗ đóng chéo ngoài cửa. Cách di chuyển dân đi đày của cơ quan an ninh Liên Xô giống hệt cách phát-xít Ðức chuyển tù.
Câu chuyện của Naum làm tôi choáng váng. Chủ nghĩa cộng sản trong hình dung của tôi không có và không thể có gì chung với tệ kỳ thị chủng tộc. Tôi quan niệm mọi giống người là như nhau, bình đẳng với nhau, người ta sinh ra là để thương yêu nhau. Tôi rất thích một ca khúc của Lưu Hữu Phước(15), mở đầu bằng hai câu "Vàng, đen, trắng - nước da không chia tấm lòng. Biên giới kia khôn ngăn mối dây tâm tình..." Ðó chính là thế giới mà tôi muốn được thấy khi đi với chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa cộng sản của Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ và Huỳnh Ngự hoàn toàn không giống thế. Có thể, tôi sai. Trong tôi chủ nghĩa cộng sản có dáng dấp Thiên Chúa giáo, nơi mọi người đều là con cái Chúa. Lần đầu tiên tôi được thấy một chủ nghĩa cộng sản phân biệt chủng tộc.
Những đứa trẻ cũng không được yên khi cuộc trấn phản đã bùng lên thành cơn cuồng tàn sát. Nhân danh cách mạng người ta chuyên chính cả với con nít. Cách suy nghĩ của những nhà chuyên chính vô sản thật đơn giản: nếu cha mẹ đã là kẻ thù của nhân dân xô-viết thì con cái họ lớn lên nhất định cũng sẽ là kẻ thù của nhân dân xô-viết. Một trong những nghị định của Bộ Nội vụ thời Sta-lin ghi rõ:"...Vợ con những tên phản bội Tổ quốc phải bị giam giữ trong các trại tập trung với thời hạn không dưới 5-8 năm tùy theo mức độ nguy hại cho an ninh xã hội. Những đứa trẻ có hại cho an ninh xã hội phải đem xử án, tùy theo tuổi, tùy theo mức độ nguy hại và khả năng cải tạo chúng, chúng phải bị giam giữ trong các trại tập trung, các trại cải tạo lao động của Bộ Nội vụ hoặc giam giữ tại các nhà trẻ với chế độ đặc biệt "(16).
Thì ra dưới lớp vàng son lộng lẫy trưng ra mặt tiền một xã hội tuyệt vời lại là những vụ thanh toán cung đình, những vụ thủ tiêu mờ ám, những vụ trấn phản đẩy hàng triệu dân chúng vô tội vào các trại tập trung khủng khiếp, không trừ phụ nữ và trẻ em.
Tôi bị sốc thật sự.
Một phần trong những tội ác của Stalin - tôi nói một phần vì sau này người ta còn phát hiện nhiều tội ác khác, thí dụ như vụ thủ tiêu binh lính, sĩ quan và các nhà chính trị Ba Lan vào năm 1940 (lực lượng những người kháng chiến Ba Lan này chạy sang lánh nhờ đất bạn) tại khu rừng Katưn thuộc tỉnh Smolensk. Con số được nói tới khoảng 30.000 người. Không thể nào tưởng tượng nổi: bắn chết 30.000 người rồi vùi trong các huyệt tập thể. Lời bình trong một bộ phim tài liệu về khu rừng khủng khiếp nói trên nói rằng ở đây còn có cả di thể các công dân xô-viết "không rõ là những ai, con số họ là bao nhiêu, bởi vì chẳng ai quan tâm tới những người xấu số ấy". Những gì được nêu lên trong Báo cáo mật(17) do Nikita Khrusốp trình bày trước Ðại hội XX còn xa mới tới sự thật. Không biết bằng cách nào, chỉ ít lâu sau Ðại hội Báo cáo mật đã được đăng tải trên trang nhất những tờ báo lớn ở "thế giới tự do". Những người cộng sản Liên Xô được đọc Báo cáo mật về tình hình quốc gia mình sau những kẻ vô công rồi nghề ở các nước khác.
Lẽ đương nhiên, các đoàn đại biểu dự Ðại hội đều nhận được Báo cáo mật. Nhưng ở Việt Nam trừ các ủy viên Bộ Chính trị và vài ủy viên Ban Bí thư, không ai được đọc nó. Tôi được biết nội dung Báo cáo mật tướng Lê Liêm kể lại. Ông chỉ là ủy viên Trung ương, không có tiêu chuẩn đọc Báo cáo mật, ông phải đi mượn. Nhiều ủy viên Trung ương khác thậm chí chưa được cầm nó trong tay.
Báo cáo mật là tiếng nói bất bình, là sự lên án lối cai trị tùy tiện, độc đoán, tàn bạo nhưng chưa phải sự đoạn tuyệt với nó. Nikita đã không đi đến cùng. Hoặc ông chưa đủ gan, hoặc ông còn bị kiềm chế bởi các thế lực thân Stalin, hoặc chính ông thấy xấu hổ nếu phơi bày tuốt tuột những cái xấu của chế độ xô-viết. Vì thế báo cáo mới là mật, mới không công khai. Cái còn thiếu trong bản báo cáo là thái độ sám hối. Trong báo cáo Nikita xuất diện chỉ với tư cách người buộc tội. Ông xấu hổ trước những gì xảy ra trên đất nước xô-viết. Ông kịch liệt lên án những việc làm bất nhân, vô đạo. Như chẳng lẽ không phải chính ông đã từng ở trong đám thuộc hạ của Stalin trong khi tội ác diễn ra, nếu không trực tiếp thì cũng gián tiếp nhúng tay vào máu. Ông cũng chưa một lần nói "Không!" để chặn đứng bàn tay giết người của Stalin.
Như một nghịch lý, những người dựng nên chế độ xã hội chủ nghĩa lại thiếu đức tính mà họ có thừa khi còn đấu tranh chống nền chuyên chế: lòng dũng cảm. Chỉ tới Ðại hội XX các đại biểu mới bàng hoàng trước sự thật: trong số 139 ủy viên Trung ương được Ðại hội XVII (1934) bầu ra đã có tới 98 người bị bắn và tống giam. Vị chi là trên hai phần ba. Không một ai trong những người còn sống sót dám lên tiếng. Stalin đã thành công trong việc đánh thức bản năng sinh tồn trong mỗi người. Ai cũng sợ cái chết cầm chắc khi động tới lãnh tụ vĩ đại. Không cứ Ban chấp hành Trung ương, trong số 1.956 đại biểu đi dự Ðại hội XVII có tới 1.108 người sau này bị kết án phản cách mạng, bị bắt và bị giết.
Hiện tượng Khrusov gây ra sự ngạc nhiên có lý trong hàng ngũ những người cộng sản Việt Nam. Kể cả những người có tư tưởng cấp tiến nhất trong thời kỳ ấy cũng không hiểu nổi vì sao ngay trong lòng chủ nghĩa xã hội đã được thiết lập vững ánh thức họ?
Xử lý nội bộ có nghĩa là chúng tôi sẽ được thả, sẽ được trở về nhà mình, sau khi phải viết những bản xưng tội, phải đấm ngực mà kêu rên thống thiết mea culpa, mea maxima culpa(11). Một thứ xà lách chỉnh huấn trộn xà lim?
Hãy cảnh giác, không có lẽ mọi chuyện lại đơn giản như vậy.
- Có phải chúng tôi sắp được về? - tôi thọc một mũi thăm dò - Ðảng bao giờ cũng sáng suốt.
- Cái đó tôi không biết - Trúc nhăn nhó - Ðảng sẽ thả các anh hôm nay, ngày mai hay thả lúc nào là do Ðảng quyết định. Mà giá có biết chúng tôi cũng không được phép nói trước khi Ðảng lệnh xuống cho chúng tôi.
Y nói tràng giang đại hải một hồi về chính sách nhân đạo của Ðảng, rằng chủ trương của Ðảng bao giờ cũng nhất quán là trị bệnh cứu người. Vả lại, phòng bệnh hơn chữa bệnh, thậm chí có trường hợp chưa tới mức phải bắt mà Ðảng vẫn bắt thì chẳng qua cũng chỉ nhằm để các anh không đi quá xa. Ðảng đau lòng lắm, y nói, khi phải bắt cán bộ của mình, nhưng trong sự việc cụ thể này những hành động sai trái của chúng tôi đã vượt quá giới hạn mà Ðảng có thể chịu đựng, cho nên Ðảng buộc phải dùng biện pháp giam giữ, tuy nhiên giam giữ thế này cũng không nhằm mục đích nào khác hơn là "giáo dục các anh, để đưa các anh trở lại trong lòng Ðảng..."
Nghĩa là, than ôi, chẳng có gì mới. Chúng tôi vẫn tiếp tục ở tù. Lạy Chúa tôi lòng lành! Ðảng của chúng tôi tốt quá, tử tế quá!
Tôi buồn ngủ. Dù sao con béc-giê của Huỳnh Ngự cũng làm tôi ngủ ít hơn là không có nó. Tôi nói ngủ ít hơn vì đòn đánh của Huỳnh Ngự không gây được hiệu quả mong muốn. Thành xé một mụn giẻ, tước sợi tơi ra như bông, chúng tôi vê lại làm nùi nhét vào lỗ tai, gắng rồi cũng ngủ được.
Tôi cúi xuống, giấu cái ngáp trẹo quai hàm.
- Sở dĩ Ðảng giao việc trông nom các anh cho cơ quan an ninh chúng tôi vì cơ quan chúng tôi có điều kiện tốt nhất, thích hợp nhất để giúp đỡ các anh cải tạo tư tưởng...
Tôi không nhịn được cười. Thì ra người ta tin rằng xà lim Hỏa Lò là điều kiện thích hợp nhất, tốt nhất cho sự cải tạo tư tưởng. Cứ đà này Ðảng sẽ lần lượt cho hết thẩy cán bộ vào ở xà lim để cho tư tưởng họ tiến bộ hơn, trung thành với chủ nghĩa xã hội hơn.
- Các anh đang làm một công việc rất cần thiết cho Ðảng, đó là: bằng những báo cáo của mình giúp Ðảng củng cố tổ chức, để Ðảng đã vững mạnh rồi còn vững mạnh hơn nữa. Có nghĩa là ngay tại đây các anh cũng có công tác để làm, cũng tham gia chống Mỹ cứu nước.. Chúng tôi có trách nhiệm giúp đỡ các anh hoàn thành nhiệm vụ. Công việc của chúng ta càng được tiến hành khẩn trương bao nhiêu thì Trung ương càng có điều kiện quyết định tương lai của các anh sớm bấy nhiêu. Tôi mong chóng được gặp lại các anh trên những cương vị công tác mới...
Trời hỡi, cứ như tôi là đứa trẻ không bằng! Ban tổ chức Trung ương muốn quăng một mẻ lưới lớn đây. Nhưng sai những con chim mồi ngớ ngẩn đi làm mẹ mìn thì ngu quá!
Viên cục trưởng không nhận thấy cái nhếch mép của tôi.
- Tôi cũng thông báo để các anh được biết: chiếu cố công lao của các anh đối với cách mạng, Ðảng giữ nguyên biên chế cho các anh. Giữ nguyên biên chế có nghĩa là các anh vẫn được hưởng nguyên lương, nhưng gia đình chỉ được lĩnh một nửa, cho tới khi các anh trở về. Mọi tiêu chuẩn cung cấp ở ngoài thế nào ở đây thế vậy, nguyên như trước...Tiêu chuẩn thịt của anh bao nhiêu nhỉ?
- Một cân.
- Hơn cả tôi đấy. Ðường bao nhiêu?
- Cân rưỡi.
- Nhiều thế?
Nghe trong câu hỏi của y có âm sắc khó chịu. Y tiếc cho nhà nước hay ghen tị với tôi?
Tôi lạnh nhạt:
- Ðó là tiêu chuẩn cho phóng viên phải công tác xa tòa soạn trong điều kiện chiến tranh(12)...
- Ra thế! Anh sẽ được hưởng đúng tiêu chuẩn của anh khi còn ở đây, coi như đang công tác xa tòa soạn...
Từ chỗ chúng tôi đang ngồi tới phòng làm việc của tôi tại tòa soạn chưa đầy hai trăm mét tính theo đường chim bay. Theo cách y diễn đạt thì không phải tôi đang ở tù, tôi chỉ công tác xa tòa soạn mà thôi.
Không biết trong những ngày này ở tòa soạn người ta đang nói gì về tôi? Nhiều người thương tôi, tôi biết. Kể cả những người buộc phải nói theo Ðảng rằng tôi là tên phản động. Với nửa lương của tôi vợ tôi khó bề xoay xỏa để nuôi hai đứa con. Khi chưa bị bắt lương tôi đã chẳng ra gì, nhưng hàng tháng còn kiếm thêm chút ít bằng nhuận bút dịch và viết, cũng đỡ. Trong những ngày đó tôi không biết tôi sắp có đứa con thứ ba.
Sau khi cha tôi bị bắt, gia đình tôi được một tổ sản xuất thương binh giúp đỡ. Không hề quen biết riêng cha tôi hoặc tôi, các anh thương binh thời chống Pháp tỏ ra có lòng nhân ái không ngờ. ỏi ngại cho một gia đình cách mạng bị trấn áp, các anh tự tìm đến bàn cách giúp chúng tôi sinh sống. Ðó là một việc mạo hiểm. Ngôi nhà số 5 Hai Bà Trưng bị theo dõi ngày đêm. Những người đến thăm đều bị công an hỏi: đến gặp ai, có việc gì, nói những chuyện gì? Các anh chân thật và mộc mạc trong sự phản kháng thầm lặng.
Mẹ tôi lúc đầu còn e dè: hay họ là cá chìm(13)? Chẳng bao lâu sau chúng tôi hiểu ra: tình đồng chí vẫn còn lại trong những con người bình dị.
Các anh đã có mặt bên cạnh gia đình tôi trong suốt thời gian hai cha con tôi nằm trong tù. Chúng tôi mãi mãi coi các anh là ân nhân. Làm sao có thể quên anh Trường cụt một tay một chân, anh Phúc thương tích đầy mình, đã nhường cơm xẻ áo cho chúng tôi trong những ngày khốn khó.
Cho đến ngày tôi bị bắt, chúng tôi đã được lĩnh hai lần tiền công dán túi ni-lông trong hợp đồng mà các anh thương binh nhường cho.
Mẹ tôi đếm tiền, nhẩm tính, rồi vui mừng ra mặt:
- Sống được, các con ạ!
Ðang vui bà bỗng ngẩn người:
- Nếu chúng nó chặn nốt cả đường sống này nữa thì biết làm sao đây? Thời Pháp thuộc mẹ còn chống chọi được, bọn thực dân tiếng thế chứ không đến nỗi ác như bọn này. Bây giờ khó lắm, mọi sự làm ăn đều khó, chúng nó bịt kín mọi đường, bắt mọi người muốn sống phải phụ thuộc chúng nó. Lạy Trời, nếu chúng nó không phá thì các anh ấy giúp được. Mẹ tin các anh ấy, có các anh ấy mẹ thấy yên tâm hẳn. Nhưng nếu các anh không giúp được nữa thì các con phải tự lo, tính trước đi thì vừa...
(1) Quà gia đình gửi vào cho người tù. Gọi bằng tiếp tế trong thời kỳ này rất sát nghĩa, bởi vì phần nhiều quà gửi vào là thực phẩm để cho người tù đỡ đói.
(2) Nguyễn Trung Thành, nguyên vụ trưởng Vụ bảo vệ Ðảng vào thời kỳ đánh xét lại. Trong thư gửi Tổng bí thư Ðảng cộng sản Việt Nam Trần Minh Việt (Lê Quang Dụ), phó bí thư thành ủy Hà Nội kiêm phó chủ tịch ỷy ban hành chính Hà Nội, bị bắt ngày 18.10.1967 có viết:"Hai người trực tiếp tham gia vụ đàn áp này là ông Thành (nguyên vụ trưởng Vụ bảo vệ Ðảng, Ban tổ chức Trung ương) và ông Dương Thông (Bộ Nội Vụ)".
(3) Vào thời kỳ này cuốn Người Với Người Là Bạn của nhà văn xô-viết Boris Polévoy đang bị những lý thuyết gia cộng sản Việt Nam phê phán về lập trường tính người chung chung.
(4) Tuyên truyền và giáo dục.
(5) Vào giai đoạn sau Ðại hội XX ÐCSLX, ngành điện ảnh Liên Xô đã cho ra đời nhiều tác phẩm tiến bộ như Ðàn Sếu Bay, Số Phận Con Người, Bài Ca Người Lính...Những tác phẩm này bị các cơ quan tuyên giáo Trung Quốc, Việt Nam tấn công dữ dội. Ðài phát thanh Bắc Kinh dành hàng tháng trời để phê phán chúng.
(6) Nguyên giám đốc Quốc doanh chiếu bóng và chụp ảnh được thành lập năm 1953, tiền thân của ngành điện ảnh Việt Nam, năm 1954 làm giám đốc Xưởng phim truyện Hà Nội, rồi đạo diễn phim truyện.
(7) Một tỉnh thuộc Cộng hòa Dân chủ Ðức (Ðông Ðức), thường được tổ chức các cuộc Liên hoan phim trong các nước xã hội chủ nghĩa.
(8) Sau khi tôi ra tù, vào cuối thập niên 70, nhà biên kịch Hoàng Tích Chỉ, giám đốc một trong hai Xưởng phim truyện Hà Nội muốn tiếp tục công việc bỏ dở đã cho người đi tìm kịch bản này, nhưng không tìm ra. Bản thảo bị công an thu khi khám nhà đã không được trả lại.
(9) Trường Chinh có bút danh Sóng Hồng, Lê Ðức Thọ (Phan Ðình Khải) dùng chính bí danh.
(10) Tướng trong các vở tuồng, khi bước ra sân khấu bao giờ cũng vỗ ngực xưng danh "Như ta đây...!". Quảng Lạc là một gánh hát thời trước Cách mạng Tháng Tám, sau lập một nhà hát mang tên của gánh tại Hà Nội.
(11) Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng (tiếng la-tinh, lời cầu nguyện hàng ngày của tín đồ Thiên chúa giáo).
(12) Vào thời gian này cán bộ được mua nhu yếu phẩm theo tiêu chuẩn hàng tháng như sau: gạo - 13,5kg, thịt 0,3kg, đường 0,5 kg, đậu phụ 1kg, vải 4,5m/năm... Nhưng không phải các hàng tiêu chuẩn đều được mua đúng với tên gọi của chúng: gạo thường được thay bằng ngô hoặc nửa ngô nửa gạo, thịt thường được thay bằng đậu phụ hoặc cá khô vv...
(13) Công an mật.

Truyện Đêm giữa ban ngày Tự Bạch Chương 1 Chương 2 Chương 3 Chương 4 đã biến Bắc Triều Tiên thành một trại lính, trong đó dân chúng bị cai trị theo cách lính tẩy.
Phản ứng của Mao Trạch-đông đối với những kết luận của Ðại hội XX mạnh mẽ hơn cả. Mao không tha cho Khrushov tội dám tấn công vào trật tự đã được thiết lập một lần cho mãi mãi tại cái quốc gia cho đến lúc ấy còn đứng đầu phe xã hội chủ nghĩa, mà phản ứng dây chuyền của nó có thể làm lung lay ngai vàng của chính Mao.
Chống sùng bái cá nhân không thể không ảnh hưởng tới vị trí độc tôn của Mao. Ðể đối phó với tình hình mới, khi những tiếng nói đòi dân chủ và tự do vang lên ngay bên trong "bức màn tre" Trung Quốc, Mao gài bẫy "Bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh" (trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng(23)) để "cỏ dại", "tiếng lạ" lộ hình. Cuộc vận động này mở đầu cho cuộc tấn công nhằm vào những người muốn thay đổi trật tự xã hội Trung Quốc, gọi bất cứ ai không ưa Mao và không được Mao ưa là phần tử hữu khuynh chống Ðảng chống chủ nghĩa xã hội.
Những lời bài bác Liên Xô vốn có sẵn trong Mao nay được nhấn mạnh thêm. Sự rạn nứt trong khối xã hội chủ nghĩa và trong phnhư họ muốn đụng vào tôi, để nhắc nhở chứ không có ý gì khác.
- Vả lại, còn điều này nữa là điều anh chưa biết, và tôi thấy cần phải nói ngay để cho anh biết. - tôi lạnh lùng tiếp - Ðó là: ngay tại chốn này, ngay trong Hỏa Lò của các anh, tôi vẫn còn có quyền của tôi, cái quyền cuối cùng không kẻ nào tước đoạt nổi...
- Anh nói chi lạ? Anh? Mà còn có quyền? Hứ! Quyền, quyền cái con...Chỉ chúng tôi mới là người có quyền, hiểu chưa, đồ...
Máu tôi lại bốc lên mặt:
- Lẽ ra tôi không nói thêm với anh nữa, vì anh lại giở giọng du côn, cho nên tôi phải nói cho anh hiểu...
- Quyền chi mô? Nói coi thử!
Khoanh tay trước ngực. tôi nhìn thẳng vào cặp mắt ngây dại của y:
- Còn cái quyền này: tôi-tuyên-bố-không-nói-gì-với-anh-nữa!
- Tui... tui sẽ... gang họng anh ra, bắt anh phải nói!
Y lại hét, giọng đã đuối.
- Không ăn thua gì đâu. - tôi dằn từng tiếng - Anh chẳng là gì đối với tôi. Ðừng phách lối. Nhờ anh chuyển lời tôi tới bọn chủ của các anh, bảo họ cử người khác đến gặp tôi. Bằng không tôi sẽ không nói gì hết. Các người cần nói chuyện với tôi, không phải tôi cần nói chuyện với các người.
Không thèm nhìn Huỳnh Ngự, tôi quay ngoắt, bước nhanh về phía cửa. Viên cai ngục lật đật chạy theo.
- Ðưa tôi về xà lim!
Tôi ra lệnh cho anh ta.
(1) Bản dập thử để sửa lỗi của nhà in.
(2) Cuốn Năm Người Im Lặng vẫn được xuất bản trong năm 1968, khi tôi đã ở trong tù. Người quyết định cứ in cuốn sách này bất chấp thói thường thời ấy không dám in sách mang tên người bị bỏ tù là giám đốc Nhà xuất bản Văn Hóa, ông Lý Hải Châu. Trong kháng chiến chống Pháp Lý Hải Châu chỉ huy Ðội biệt động Sài Gòn - Gia Ðịnh, bị chính quyền chiếm đóng kết án tử hình, rồi giảm xuống chung thân và đầy ra Côn Ðảo.
(3) Chỉ tổ chức Ðảng.
(4) Cung văn là người chơi đàn tranh trong cuộc hầu đồng, trong dàn nhã nhạc lễ bái. Cung còn có nghĩa là ngôi nhà tráng lệ, cung điện. Cung văn đây được hiểu như nhà văn cung đình.
(5) Bộ Nội Vụ trước khi đổi tên.
(6) Cho tới năm 1965, Trường Chinh vẫn duyệt từng số báo ảnh, như khi tờ báo vừa ra đời dưới sự bảo trợ của ông, mặc dầu ông không có trách nhiệm đó. Sự đưa tổng bí thư duyệt báo trước khi ra không bị coi là kiểm duyệt, mà là để xin ý kiến. Cho tới nay ở Việt Nam, về mặt công khai, không có chế độ kiểm duyệt nhà nước.
(7) Cách gọi tắt các chiến trường: B - miền Nam Việt Nam, C - Campuchia, D - Lào, E - Thái Lan. Tại những chiến trường này đều có mặt bộ đội Việt Nam. Tại Thái Lan, trong thời kỳ chiếm đóng Campuchea bộ đội Việt Nam chỉ vào sâu trong nội địa chừng hai chục cây số.
(8) Nhà văn (sinh năm 1932) nổi tiếng với những tác phẩm Xung Ðột, Mùa Lạc, Cha Và Con Và...
(9) Nguyên trưởng ty Công an Thanh Hóa trong kháng chiến chống Pháp. Ðiệp vụ do Hoàng Ðạo tổ chức kết thúc bằng việc đánh đắm thông báo hạm Amyot d'Inville tại vùng biển Thanh Hóa năm 1950. Một nữ điệp viên cảm tử tên là Nguyễn Thị Lộc trong vai vợ của lãnh tụ Ðại Việt Hoàng Ðạo đi nhờ tàu ra Hải Phòng đã mang một va li thuốc nổ lên thông báo hạm và cho nó nổ tung. Do không thỉnh thị Trung ương ông bị tổng bí thư Trường Chinh thi hành kỷ luật. Hoàng Ðạo có viết một hồi ký nhan đề Hà Nội - Huế - Sài Gòn - Ðà Lạt rất thú vị, tôi có được đọc bản thảo, nhưng hình như nó đã thất lạc.
(10) Theo lời chứng của cha tôi.
(11) Một loại trà gói rất phổ biến trong những năm ấy. Trà gói loại sang có Ba Ðình, nhưng cán bộ thích Hồng Ðào hơn vì nó vừa rẻ tiền lại vừa ngon.
(12) Thuốc lá loại sang, trên nó chỉ có thuốc lá Thăng Long. Dưới Ðiện Biên bao bạc còn có Ðiện Biên bao thường, Tam Ðảo (bao bạc và bao thường), đứng hạng chót là Bông Lúa. Như vậy có nghĩa tôi được đối xử khá tốt lúc đầu để mua chuộc.
(13) Năm 1965 uy tín của tổng thống suốt đời Sukarno (1901-1975) xuống tới mức thấp nhất kể từ Hội nghi Bandung 1955. Ðường lối thân Trung Quốc đã dẫn tới một cuộc tàn sát của phe hữu chống lại Ðảng cộng sản và các lực lượng cánh tả. Phe quân sự do tướng Suharto giành chính quyền về tay mình năm 1965, lật đổ Sukarno, chấm dứt thời kỳ hỗn loạn. Thời kỳ này ban lãnh đạo Việt Nam rất lúng túng trong quan hệ với chính quyền mới của Indonesia sau Sukarno.
(14) Năm 1927 Ngô Ðức Trì học tại Trường Ðại học Phương Ðông cùng với Bùi Công Trừng, Nguyễn Thế Rục, Trần Phú, Bùi Lâm, Nguyễn Xích. Nhóm cộng sản Việt Nam đầu tiên được thành lập tại Moskva, trong phòng ngủ của Nguyễn Xích, gồm 5 người nói trên. Lê Hồng Phong còn đang học Trường hàng không ở Leningrad nên không có mặt (theo hồi ký Phải Sống Cho Ðời Sống của Bùi Công Trừng).
(15) Tôi còn nhớ hồi Cách mạng Tháng Tám tù cũng gọi cán bộ công an bằng đồng chí.
--!!tach_noi_dung!!--


Nguồn: Mõ Hà Nội
Được bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên
vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--