Tại điện Uy-viễn Thăng-long, Đại-Việt Ngày hai mươi chín tháng giêng, niên hiệu Anh-vũ Chiêu-thắng năm thứ nhì đời vua Lý Nhân-tông bên Đại-Việt; bên Trung-nguyên nhằm niên hiệu Hy-Ninh thứ mười đời vua Thần-tông nhà Tống (Đinh-Tỵ, DL.1077). Triều đình họp tinh-triều. Vì tầm quan trọng của xã-tắc, nên Linh-Nhân hoàng thái hậu còn mời thêm các đại tôn sư võ phái tham dự. Lễ nghi tất. Quan Đại-tư-mã Lý Thường-Kiệt tường trình về tình hình chiến cuộc Tống, Việt: Từ sau ba trận đánh ngày 22 tháng giêng đến giờ thì vua bà Bình-Dương, phò mã Thân Thiệu-Thái trấn tại chiến lũy Phú-lương. Công-chúa Bảo-Hòa, đô đốc Trần An, Trần Hải trấn tại chiến lũy Như-nguyệt. U-bon vương Lê Văn với công chúa Nong-Nụt trấn tại chiến lũy Vạn-xuân. Suốt bẩy ngày, không thấy Tống có một hoạt động nào đáng kể. Ngược lại, Đại-Việt đã lấy quân ở các hiệu địa phương tổ chức, bổ xung cho mười một hiệu Thiên-tử binh bị tổn thất. Ông kết luận: – Tính chung từ khi quân Tống phạm cảnh đến giờ tổn thất về tướng của ta quá nặng nề. Tổng cộng 36 vị. Nhưng về quân thì mất chưa quá năm vạn. Ông hướng vào cử tọa: – Để duyệt xét tình hình, Thái-hậu tuyên chỉ thiết tinh triều, hầu đưa ra phương lược hợp thời. Xin chư vị tôn trưởng đừng tiếc công chỉ dạy. Quốc-trượng Trần Tự-An đưa mắt nhìn quốc mẫu Thanh-Mai ngồi đối diện với ông, rồi nói: – Khi một cuộc chiến diễn ra, thì đôi bên đều phải chấp nhận tổn thất. Đối với vấn đề tổn thất, có hai điều quan trọng. Một là tổn thất của ta với Tống, bên nào nặng hơn? Hai là dù ta tổn thất nặng, Tống tổn thất nhẹ cũng không đáng quan tâm. Điều đáng quan tâm là giữa ta với Tống, bên nào đạt được mục đích? Bên nào còn tiềm lực chiến đấu? Nguyên-soái Thường-Kiệt chắp tay xá Tự-An: – Thưa thái sư phụ, đệ tử xin so sánh tổn thất ta với Tống. Về tướng, ta mất ba tướng ở cấp bộ tối cao là Trung-Thành, Tín-Nghĩa vương với phò mã Hoàng-Kiện; mất năm tướng ở cấp bộ cao là công chúa Động-Thiên, Thiên-Ninh, Dư Phi, Nguyễn Căn, Bùi Hoàng-Quan; mất hai mươi tám tướng ở cấp bộ trung là nhị vị vương phi Trung-Thành, Tín-Nghĩa, công chúa Ngọc-Huệ, Thanh-Thảo, Long-biên ngũ hùng với năm vị phu nhân, Tây-hồ thất kiệt với bẩy vị phu nhân. So với Tống thì năm tướng ở cấp bộ tối cao bị bắt, hoặc được ân xá, hoặc được trao cho Kinh-Nam vương; mười tám tướng ở cấp bộ cao bị giết, hoặc bị bắt rồi được ân xá hay trao cho Kinh-Nam vương. Bẩy mươi hai tướng ở cấp bộ trung bị giết, bị bắt rồi trao cho Kinh-Nam vương. – Bây giờ ta xét về khả năng tham chiến của tướng đôi bên. Vua bà Bình-Dương tiếp lời Thường-Kiệt: – Tất cả tôn sư võ học, cao thủ, tướng Tống bị ta bắt, rồi thả ra, đều bị nghi ngờ, không được nắm binh quyền nữa. Hiện các tướng tối cao của Tống chỉ còn Quách Quỳ, Triệu Tiết, Yên Đạt, Khúc Chẩn, Ôn Cảo. Ngược lại các tướng tối cao của ta hiện còn rất nhiều: Côi-sơn tam anh; đại đô đốc Lý Kế-Nguyên, bốn đô đốc thủy quân; U-bon vương, công chúa Nong-Nụt; tiên nương Bảo-Hòa; Tôn Mạnh, Thanh-Nguyên; Cảnh-Long, Thiên-Thành; phò mã Thiệu-Thái với tôi; trong triều còn Hoàng-thái hậu, Thường-Kiệt. Các tướng bậc trung thì có Thần-vũ thập anh, Kim-cương thập bát. Tóm lại về tướng, ta vẫn còn một lực lượng hùng hậu gấp bội Tống. Về tôn sư võ học, ta chưa bị tổn thất lấy một người. Trong khi bên Tống thì Thập-đại thần tăng Thiếu-lâm, Trường-bạch song hùng không tham dự vào cuộc chiến nữa. Hoa-sơn tứ lão bị hai hòa thượng Mộc-tồn, Viên-Chiếu dồn thuốc vào người, bị bắt mê man chưa tỉnh. Liêu-Đông tam ma bị hòa thượng Mộc-tồn bắt trao cho Kinh-Nam vương. Về phương diện cao thủ, ta còn đầy đủ tinh lực, hơn hẳn Tống. – Đa tạ sư phụ. Linh-Nhân hoàng thái hậu hướng vua bà Bình-Dương xá một xá: Còn về quân, ta bị mất hoàn toàn ba hiệu Thiên-tử binh ở Như-nguyệt, Phú-lương, đã được tái lập. Bốn hiệu bị tổn thất nặng, đã được trang bị, bổ xung. Nay quân khí, quân thế lại như xưa. Thủy quân ta còn toàn vẹn. Kị binh ta không bị tổn thất, mà lại tăng thêm, nhờ bắt được ngựa Tống ở Cổ-pháp, ở trận Nham-biền. Trong khi thủy quân Tống không còn; kị binh gần như chỉ còn một sư, mà ngựa thì gầy ốm, binh tướng thì mất hế ý chí chiến đấu. Duy bộ binh thì phải đợi tin tức của sư bá Mộc-tồn với sư phụ mới biết chắc được. Đến đó, viên tá lĩnh chỉ huy Ưng-binh của Khu-mật viện bước vào trao cho nguyên soái Thường-Kiệt một ống đựng mật thư. Ông mở thư ra đọc rồi hướng Linh-Nhân hoàng thái hậu: – Tâu Thái-hậu, tin của Mộc-tồn hòa thượng. Ông đọc lớn: «...Từ sau trận đánh ngày 22, binh Tống thiệt hại quá nặng nề. Thứ nhất mặt Phú-lương, chỉ còn ba vạn quân triều, năm vạn tân-đằng-hải. Yên Đạt, Khúc Chẩn không đủ sức đánh Đâu-đỉnh, khai thông con đường tiếp tế lương thảo từ Bắc-biên xuống. Tại Bắc Như-nguyệt, mười đạo binh mang số 10 tới 19 trực thuộc Triệu Tiết bị tan rã hoàn toàn, các tướng chỉ huy, các sư trưởng, lữ trưởng hầu hết tử thương; Tiết gom đám tàn quân lại tái lập được ba đạo. Y sai quân đắp chiến lũy phòng quân Việt đổ bộ. Tại tổng hành doanh, sau trận đột kích, bắn Lôi-tiễn đêm 22, đạo quân Tả Đệ-nhất, Tả Đệ-nhị bị tử thương một nửa, đạo quân Tả Đệ-tam chỉ còn hơn trăm người; kị binh còn đâu một sư. Cộng chung tân-đằng-hải còn hơn mười lăm vạn, quân triều mười vạn. Quách Qùy ra lệnh cho binh tướng củng cố hàng rào thực chắc cố thủ, vì sợ ta tấn công. Có tin tức gì sẽ báo sau... » – Hay lắm. Hầu khen: Vậy lát nữa hai sư huynh sẽ làm như thế, như thế. Biết đâu chẳng giết được Yên Đạt, Khúc Chẩn. Hùng Trí cực kỳ cao hứng: – Tuân lệnh tướng quân. Đêm đó hoàn toàn yên tĩnh. Sang ngày 20 tháng giêng cho đến giờ Thìn vẫn không thấy Tống tấn công. Tin tế tác báo cho hầu biết: «...Yên Đạt, Khúc-Chẩn cho binh sĩ đẵn tre, bện cỏ làm lá chắn, loại lá chắn lớn đến tám người khiêng. Chúng dùng lá chắn kết thành xe, rồi cho trâu đi phía sau lá chắn đẩy xe. Quân thiết đột nấp sau xe mà tiến lên... » Hầu nhảy phắt lên: – Cái thằng Yên Đạt này khôn thực. Chúng biết rằng ta có nỏ thần lợi hại, chúng làm lá chắn để che phủ cho quân tiến lên. Như vậy ta chỉ có thể đánh cận chiến với chúng mà thôi. Chợt nghĩ ra một kế, hầu nói với quận chúa: – Từ đây về Siêu-loại không xa. Em mau lấy ngựa về làng bảo lý trưởng rằng có lệnh của anh, tập họp tất cả nam nữ mục đồng (trẻ chăn trâu) tuổi từ mười hai trở lên, tuyển lấy ba chục người, rồi đem đến đây. Nhớ dặn chúng mang theo ống sáo, tù và. Quận chúa Trần Ngọc-Liên không biết chồng tuyển mục đồng làm gì, nhưng thấy dáng điệu vội vã khẩn cấp của hầu, bà không dám hỏi lại. Quận chúa tuyển năm nữ binh theo hầu, rồi lấy ngựa lên đường. Đến giờ Mùi, hầu đang ngồi bàn luận với chư tướng, thì có tiếng trống ngũ liên báo động vọng vào. Hầu cùng chư tướng vội ra vị trí chiến đấu. Hướng mắt quan sát ba mặt Tây, Bắc, Đông, bất giác hầu nổi da gà lên: Quân Tống dàn trận thành ba lớp đang từ từ tiến sau một bức thành kết bằng lá chắn để trên các xe do trâu đẩy. Lý Đoan chỉ vào hai người đứng trên mình trâu phía sau đội hình quân Tống, nói với Lý Tứ: – Sư huynh nhìn xem kìa. Tên cỡi trâu bên trái là Yên Đạt, tên cỡi trâu bên phải là Khúc Chẩn. Hôm nay chúng ta phải một mất một còn với chúng đấy. Lý Tứ hỏi Lý Đoan: – Tướng quân! Tại sao quân của Yên Đạt tới mười một vạn, mà thuộc hạ thấy dường như chúng chỉ dùng chưa tới ba vạn tấn công ta? – Sư huynh nên biết Yên Đạt là một tướng cầm quân kinh nghiệm. Sau trận Phú-lương, chỉ một hiệu Thiên-tử binh của ta, mà y phải hy sinh tới năm vạn người. Vì vậy lần này y tính toán cẩn thận. Với ba lớp quân thế kia, nếu đánh thực sự thì chỉ phá được hai lớp rào là đã chết hết rồi. Đây chắc là y thử hệ thống phóng thủ của ta đấy. Hầu ra lệnh: – Tuyệt đối không dùng Lôi-tiễn bắn vào đội hình lá chắn. Đợi chúng tới gần, rời bỏ lá chắn sẽ có biện pháp đánh chúng. Cần kiên nhẫn, không nên xuất hiện. Quân Tống vẫn từ từ tiến theo sau đội hình xe trâu đẩy lá chắn. Trong chiến lũy im lặng, không một tiếng người, một tiếng thú. Trên trời đoàn Thần-ưng bay lượn thực đẹp, trong tư thế chờ đợi đánh xuống. Bên ngoài, Yên Đạt nói với Khúc Chẩn: – Vợ chồng thằng Lý Đoan chết hết rồi hay sao mà trong chiến lũy không một tiếng động, không một bóng người. Cả cờ xí cũng không? Khúc Chẩn tỏ vẻ ngần ngại: – Tôi nghe nói, trong Giao-chỉ ngũ kiêu, thì tên Đinh Hoàng-Nghi lắm mưu nhiều mẹo nhất. Tên Lý Đoan dùng binh hay nhất. Ta phải cẩn thận mới được. – Tôi không sợ nó. Bởi nó chỉ có một hiệu binh, trong khi ta còn tới mười một vạn người ngựa. Quân Tống vẫn tiến từ từ. Còn năm mươi trượng, rồi ba mươi, rồi hai mươi trượng. Trong chiến lũy vẫn im lìm. Từ đâu đó có tiếng kèn âm ỷ như tiếng ma quỷ gọi hồn vọng lại. Khúc Chẩn càng lo lắng: – Chẳng lẽ Lý Đoan dùng kế không thành? Y chưa phản ứng gì cả! Trong chiến lũy vẫn im lìm. Khúc Chẩn đánh ba tiếng lệnh. Quân Tống cùng hô lên một tiếng rồi tung mình ra khỏi lá chắn nhào xuống hào, xung phong. Nhưng hào sâu, lại đầy chông, lớp đầu tiên xuống hào dẵm phải chông kêu thét lên; lớp thứ hai cũng đã rời lá chắn, xung phong; lớp thứ ba vừa rời lá chắn. Cả ba đội hình quân Tống đồng reo hò tiến lên. Trong chiến lũy vẫn im lìm. Đến lượt Yên Đạt phập phồng lo sợ: – Hay chúng bỏ chạy hết rồi? Không lẽ. Bọn Thiên-tử binh chỉ biết chết mà không biết lui kia mà? Lớp đầu của quân Tống dẵm phải chông đã được lớp thứ ba lôi lên khỏi hào. Tiếng rên, tiếng la, tiếng gọi nhau ơi ới ngoài chiến lũy. Mà... trong chiến lũy vẫn im lìm. Khúc Chẩn chửi tục: – Tổ bà nó! Giả như trong chiến lũy không có quân Việt, mà quân mình bị thương đến mấy nghìn thế kia thì tức đến chết đi được! Hoài-hóa thượng tướng quân Lý Đoan đứng trên một đài cao, hầu mở to mắt quan sát rất kỹ tình hình quân Tống, trên tay hầu cầm năm lá cờ năm mầu để ra lệnh. Cạnh hầu là đô thống Lý Tứ ứng trực trợ giúp. Vì chưa quen chiến trận, Lý Tứ thấy quân Tống lớp thì bị chông đang được đồng đội cấp cứu, lớp thì đang vượt hào, lớp thì bắt đầu chặt rào; thế mà Lý Đoan vẫn chưa phát lệnh phản công, khiến ông chịu không được, miệng nghiến răng ken két, tay bật lên như muốn phát chiêu. Nhưng vì giữa tình thế cực kỳ căng thẳng này, Lý Tứ không dám lên tiếng. Lý Đoan chỉ cho Lý Tứ: – Sư huynh xem kìa, chúng dùng toàn bảo binh với tân đằng hải. Chắc đây chỉ là cuộc tấn công thám thính. Đã vậy ta cũng không cần tiếp chiến. Ta để cho chông với đội Thần-long (rắn lục) làm thịt đám binh này là được rồi. Hầu gọi quân chấp pháp tới ra lệnh: – Truyềống rồi vẫy tay cho nàng chạy theo. Khi đến bên bờ sông, bóng đen nhảy xuống chiếc thuyền lớn. Minh-Ðệ cũng nhảy theo. Bóng đen vào trong khoang thuyền, trong khoang có đèn thắp sáng. Bóng đen lên tiếng: – Vào đây! Minh-Ðệ bước vào. Bấy giờ nàng mới nhìn rõ, đó là một ông già râu, tóc bạc như cước, da mặt dăn deo coi mà phát khiếp. Nàng vội vàng cung tay hành lễ: – Cháu cung kính ra mắt tiên sinh, đa tạ tiên sinh đã cứu mệnh cho cháu. Xin tiên sinh cho cháu được biết cao danh quý tính? Lão trượng không trả lời Minh-Ðệ, ông lẩm bẩm, nói một mình: – Vừa rồi cháu ra chiêu Ðông-hải lưu-phong trong Ðông-a quyền pháp khá vững. Nhưng nội lực của cháu dường như là Mê-linh. Lạ thực. Ông hỏi Minh-Ðệ: – Ba tên đại đạo định hại cháu là ai vậy? – Thưa tiên sinh không những cháu biết tên chúng, mà còn rõ cả sư môn của chúng nữa. Rồi nàng thuật chi tiết về ba tên Trịnh Phúc, Ðặng Minh, Vũ Ðức cho lão nghe. Lão hỏi: – Cháu có biết ba tên này định làm hại cuộc đời cháu không? – Thưa tiên sinh, cháu hoàn toàn không biết. – Vụ án chùa Từ-quang hiện còn trong bóng tối, chưa ra manh mối. An-phủ sứ tấu về triều. Quan Hình-bộ cũng phân vân không quyết định. Cái mấu chốt của vụ án là cháu có còn trinh hay không? Nếu cháu mất trinh rồi, thì các sư chùa Từ-quang sẽ bị kết tội phạm giới, làm gian tế cho Tống. Ví bằng cháu còn trinh, thì mọi nghi vấn được giải toả, các sư sẽ được tha ra. Mấy hôm nữa người ta sẽ giải cháu về kinh để quan Hình-bộ xử tội. Hình bộ cho người khám nghiệm xem cháu có còn đồng trinh không? Vì vậy bọn này định đánh thuốc mê cho cháu ngủ, rồi chúng lẻn vào hiếp dâm cháu. Trong cơn mê cháu đâu biết gì? Khi bị giải về kinh, bà mụ khám thấy cháu mất trinh, thì Hình-bộ sẽ kết tội nặng chư tăng chùa Từ-quang. – Thưa tiên-sinh, như vậy vụ án này do trường Trung-nghĩa vu cáo để hại chư tăng chừa Từ-quang hay sao? – Dĩ nhiên! Minh-Ðệ nghe xong, nàng phát rùng mình. Lão bảo Minh-Ðệ: – Trước đây đã có ba người dạy võ công cho cháu. Một người là đàn bà, dạy cháu chút ít tâm pháp của phái Mê-linh, mà cháu tưởng bà ta là Phật bà Quan-Âm phải không? Với thứ tâm pháp này, cháu luyện thì thân thể khỏe mạnh, da dẻ tươi mịn, hồng hào, người thon lại. Hơn nữa có thể chịu đòn mà không biết đau đớn. Sau cháu lại gặp hai người nữa dạy cho cháu ít thức quyền pháp, nội công tâm pháp. Vì vậy cháu thắng mấy cái bị thịt, mà người ta gọi là thái bảo trường Trung-nghĩa. Nhưng cháu chưa có sư phụ chính thức. Có phải thế không? – Thưa tiên sinh đúng vậy. – Cháu có biết cặp vợ chồng dạy võ, cho cháu vàng bạc là ai không? – Cháu không biết, vì ông bà không chịu xưng tên. Nhưng Siêu-loại hầu bảo ông bà là Ưng-sơn song hiệp. – Ðúng vậy. Chỉ hai đứa đó mới có hành vi như thế. – Tiên sinh cũng biết ông bà Ưng-sơn ư? – Không những biết, mà còn rất thân nữa. Thân vô cùng. – Thưa tiên sinh, thân đến trình độ nào? – Thằng lỏi đó là con trai út của ta. Minh-Ðệ kinh hoàng đến ngẩn người ra, vì nàng đẽ nghe nói: Ưng-sơn nam hiệp có tên là Trần Tự-Mai, con trai út của Thiên-trường đại hiệp Trần Tự-An, chưởng môn phái Ðông-a. Ông là người có võ công cao siêu không biết đâu mà kể. Nhưng từ sau khi Nùng Trí-Cao khởi binh, xưng là Nhân-Huệ hoàng-đế, bị Ðịch Thanh đem đánh bại, ông yêu cầu triều đình Ðại-Việt đem quân tiếp viện. Nhưng vua Lý Thái-tông trì nghi, vì vậy Trí-Cao thất bại. Từ đấy ông bỏ đi ngao du thắng cảnh biệt tăm. Không ngờ hôm nay nàng lại gặp ông ở đây. Minh-Ðệ vội quỳ gối rập đầu binh binh: – Cháu xin kính cẩn ra mắt tiên sinh. Ða tạ tiên sinh đã cứu cháu. – Bây giờ ta thu cháu làm đệ tử, rồi đêm đêm ta sẽ tìm đến dạy cháu, vậy cháu nghĩ sao? Minh-Ðệ mừng quá, vội quỳ gối rập đầu tám lạy, miệng hô: – Sư phụ! Nàng mừng quá, nước mắt chảy xuống gò má, chân tay run run. – Con biết rằng đệ tử lớn của ta năm nay cũng đi vào tuổi sáu mươi rồi, nghĩa là đáng tuổi ông nội, ông ngoại con. Ta thu con làm đệ tử là một trường hợp ngoại lệ. Vì vậy tuyệt đối con không được nói với ai. Tuy nhiên từ nay, mỗi khi con xử dụng võ công, nhất định có đứa nhận ra con là đệ tử của ta, tất chúng hành lễ với con thì con không được chối, mà cứ thản nhiên cho chúng lạy. – Con nhớ lời sư phụ. Ông quay mặt vào trong khoang thuyền gọi: – Sư mẫu đâu, ra đây cho đệ tử nó hành lễ. Một thiếu phụ dung nhan xinh đẹp tuyệt trần, tuổi còn rất trẻ mở màn bước ra. Minh-Ðệ vội hành đại lễ: – Ðệ tử tham kiến sư mẫu. Bà nắm tay nàng nâng dậy, để nàng ngồi cạnh, rồi nói: – Tiên sinh tuổi gần tám mươi mà còn nhận đệ tử trẻ thế này đây. Lỡ sau đây nó gặp đám đồ tôn của ông, thì đám đồ tôn sẽ xưng hô sao kia chứ? – Sao với chả sao, cứ lấy lễ mà đối xử. – Này, ông có cho tôi dạy nó không? – Bà muốn dạy âm nhạc cho nó hả? Ðược chứ. Ðược chứ. Chúng ta cứ dốc túi truyền hết cho nó, biết đâu sau này ta không gả nó cho một thằng vua nào đó, nó nghiễm nhiên thành Hoàng-hậu. Làm Hoàng-hậu thì phải biết ca hát chứ? Trước đây Minh-Ðệ từng nghe huyền thoại nói về vợ của Trần Tự-An tên là Ðào Hà-Thanh, nổi tiếng hoa khôi đất đế-đô, trước nàng đã ước hẹn với một võ lâm cao thủ phải Mê-linh tên Ðinh Kiếmn cho các đội Thần-long dàn rắn chuẩn bị cho rắn nằm sẵn trên các cành tre, cùng bờ ngoài lũy tre chờ lệnh. Quân chấp pháp đi liền. Ba lớp quân Tống lội lõm bõm hơn hai khắc (30 phút) mới đem hết thương binh ra ngoài. Số còn lại đã vượt qua hào, đang dùng đao chặt lũy tre. Lý Đoan cầm cờ đen phất lên ba lần. Lập tức nỏ binh châm lửa, bắn lên trời ba trái Lôi-tiễn. Lôi-tiễn xé không gian vọt tới mây rồi phát nổ. Ba trái cầu lửa tỏa ra như ba cái nấm khổng lồ. Đó là lệnh cho Thần-long phản công. Nhưng cờ xí, chiến lũy vẫn chưa thấy dựng lên. Quân Tống đang chặt lũy, thì từ trên những cành tre, trên những ngọn tre, trong những bụi tre, không biết bao nhiêu rắn rơi xuống đầu, cổ, mặt, chân tay. Những con rắn lục nhỏ như cái đũa rất nhanh nhẹn, sau khi đợp người này, lại phóng sang đợp người khác. Quân Tống vội buông đao bắt rắn, phủi rắn khỏi người, nhưng không ai bắt được con nào cả. Yên Đạt, Khúc Chẩn thấy quân mình đang phá chiến lũy thình lình bỏ đao nhảy nhót, la hét, phủi phủi, đập đập... thì kinh ngạc không biết cái gì đã xẩy ra. Hai người thúc trâu tiến vào sát bờ hào hỏi: – Cái gì vậy? – Rắn! Quân sĩ bị rắn cắn, Đâu đó trong chiến lũy có tiếng loa gọi ra: – Cùng binh tướng Tống. Các người vừa bị những con rắn độc cắn. Nếu không có thuốc giải của ta thì trong hai giờ sẽ chết. Vậy các người mau bỏ vũ khí lùi lại, không được dùng sức. Nếu các người dùng sức, nọc độc sẽ chạy vào tim, chỉ trong hai khắc là chết. Nếu các người tuân lời ta, nội trong một giờ ta sẽ sai y sĩ đem thuốc giải cho các người. Ta, Hoài-hoá thượng tướng quân, Trực-tâm hầu Lý Đoan không bao giờ nói dối các người. Trước đây, quân Tống đã chứng kiến tận mắt mấy nghìn đồng đội vì truy kích quân Việt trong lần quân Việt đột kích ở Bắc cương, rồi bị rắn cắn, lúc trở về trại chết rất thê thảm. Nghe tiếng loa gọi, như tìm được đường sống, chúng hò nhau quẳng vũ khí lùi lại. Yên Đạt quát lên: – Ai lùi một bước thì chém! Y hô đội cận vệ chém mấy người để ngăn cản. Không ngờ đám binh tướng này hóa liều, chúng hò nhau đánh lại. Thoáng một cái đội cận vệ bị giết hết. Trước sau, trong chiến lũy vẫn không thấy một bóng người. Yên Đạt chưa biết giải quyết sao, thì bỗng con trâu của y hí lên inh ỏi rồi ngã lăn ra. Y tung người lên cao, đáp xuống lưng trâu của một cận vệ. Quay đầu nhìn lại: Bất giác y rùng mình, vì con trâu bị bốn con trăn quấn bốn chân. Giận cành hông, y rút kiếm nhảy xuống chém trăn; nhưng kiếm vừa vung lên, thì cả bốn con trăn đã vọt tới tấn công y. Kinh hãi, y nhảy lùi lại ba bước, rồi đáp lên lưng con trâu khác của viên cận vệ. Thình lình, véo, véo, véo, ba mũi tên từ trong chiến lũy hướng người y. Kình lực tên quá mạnh, y không dám dùng tay bắt, mà rút kiếm gạt. Choang, choang, choang, ba mũi tên bị đổi chiều. Nghe tiếng kêu, Yên Đạt mới biết tên bằng thép. Y vừa thu kiếm về thì lại sáu mũi nữa hướng người y. Kinh hoảng, y tung mình lên cao, chín mũi khác lại bay tới. Đang chới với trên không, bị tới chín mũi tên một lúc; y hét lên be be cầm chắc cái chết trong tay, thì một người quần áo đen vọt tới như con đại bàng. Người này phất tay một cái làm thân Yên Đạt đổi chiều bay ra xa đến hai trượng. Y lộn một vòng rồi đáp xuống. Các mũi tên không trúng Yên Đạt, dư lực bay ra xa tới hai mươi trượng mới rơi xuống ruộng. Thoát chết, Yên Đạt nhìn kẻ cứu mình xem là ai? Thì ra Trường-bạch nhất hùng. Y đưa mắt nhìn sang bên cạnh, Khúc Chẩn cũng gặp nguy như y và cũng được Trường-bạch nhị hùng cứu thoát. Yên Đạt ra lệnh cho binh tướng lùi ra khỏi tầm tên. Y cung tay nói với Trường-bạch song hùng: – Đa tạ nhị vị tiên sinh đã cứu mạng. Trường-bạch nhị hùng cười nhạt: – Từ khi anh em tại hạ ứng lời mời của Thiên-tử hạ sơn theo quân Nam chinh đến giờ, Quách nguyên soái bắt anh em tại hạ ẩn thân. Hôm nay là lần đầu tiên được xuất trận, được trổ một chút bản sự cứu nhị vị tướng quân. Y nói trống không: – Nghe nói cách đây nghìn năm, vào thời Âu-lạc bên Giao-chỉ, có một tướng tên Cao Nỗ đã chế ra Thần-nỏ bắn liên châu cùng phương pháp dùng nội lực bắn liên châu. Thần-nỏ thì quân Giao vẫn còn xử dụng. Nhưng phương pháp dùng nội lực bắn liên châu thì thất truyền. Không ngờ trong chiến lũy lại có tới hai cao thủ biết xử dụng thuật này. Phải cẩn thận lắm mới được. Nhị hùng bàn: – Anh em tại hạ thấy dường như trong chiến lũy không có quân đóng thì phải, bởi ban nãy binh tướng đã phá lũy, mà sao vẫn không thấy một tên quân Việt xuất hiện? Hay là anh em tại hạ thử cho mấy đệ tử vào thám thính xem sao? Yên Đạt xua tay: – Xin các vị đừng nóng nảy. Bởi trong chiến lũy này ẩn núp một hiệu Thiên-tử binh thiện chiến, gan dạ vô cùng tận. Chúng được chỉ huy bởi một tướng có tài dùng binh bậc nhất Đại-Việt. Sở dĩ y không cho quân xuất hiện là vì y muốn giữ sức người, mà trong binh pháp gọi là «Dĩ tật đãi lao» (Lấy khỏe đợi mệt). Vả cuộc tiến quân ban nãy của ta mới là cuộc thử sức phòng vệ của chúng mà thôi. Yên Đạt cho triệu tập tất cả các tướng từ cấp chỉ huy sư trở lên, cùng Trường-bạch song hùng với hơn trăm đệ tử vào trong trướng để truyền lệnh. Y nói với chư tướng: – Qua cuộc tiến quân thử sức phòng bị vừa rồi, chúng ta đã biết rất rõ hào sâu bao nhiêu, rộng bao nhiêu, lũy tre dầy mỏng thế nào. Ngày mai (21-1) ta tiến đánh. Các tướng cùng im lặng chờ đợi. Yên Đạt khích lệ: – Hoàng thượng đã ban chỉ rằng, trong bốn cánh quân Vạn-xuân, Như-nguyệt, Phú-lương và thủy quân; cánh nào tới Thăng-long trước, thì tất cả tướng sĩ đều được thăng lên bốn trật. Nay tôi nghe tin cánh Phú-lương thất bại. Cánh Như-nguyệt đã phá được phòng tuy bọn mi có làm điều gì bất chính, nhưng vì thân phận của người này quá cao nên chỉ để ít chữ lại mắng vốn ta. Vậy ta phải xử cho đúng. Vụ này thực không nhỏ. Cần điều tra cho minh bạch. Ông nói với các quan: – Trước hết tôi xin quan đề điểm hình ngục thẩm cung Vũ Ðức. Hình-quan Tô thẩm cung Trịnh Phúc. Hình quan Vương thẩm cung Ðặng Vinh. Ông chỉ mặt ba đệ tử: – Ta nói để các người biết, nếu như ba người cung khai khác nhau, thì ta sẽ cho tra tấn các người, cho đến khi các người cung khai giống nhau thì thôi. Trường Trung-nghĩa nổi danh không phải ta giỏi, ta tài, mà vì có nhiều đệ tử trong quân đã tạo được huân công với xã tắc. Ta quyết không thể để cho ba đứa mi làm cho bại hoại trong một sớm, một tối. Kinh-lược-sứ hỏi Minh-Ðệ: – Yến-Loan. Trong đêm qua, ba người bị treo ngay trước nhà giam mi, vậy mi có thấy gì khác lạ không? Minh-Ðệ định khai rằng mình ngủ say không biết gì. Song nàng nghĩ khai như vậy thì vô lý quá. Vì thế nàng nói: – Kính trình thượng quan, đêm qua lúc giờ tí, con đang ngồi đọc kinh Phật, thì thấy ba người tiến tới cửa phòng giam. Hai người núp ngoài cửa, một người đột nhập vào phòng. Con định la lên, thì một bóng đen xẹt tới, bóng đen điểm huyệt ba người, rồi cột dây treo lên. Xong việc, bóng đen đểm huyệt con với Thúy-Phượng, vì vậy cả hai ngủ như chết, đến nỗi chị Hồng đánh thức mới tỉnh. – Cái lúc bóng đen trói ba người đem treo, tại sao mi không hô hoán lên? – Bẩm con kinh hãi quá nên ngồi chết lặng, mở miệng không ra lời. – Thôi, mi ra tưới hoa đi. Minh-Ðệ cúi đầu ra vườn. Nàng vừa gánh nước tưới hoa, vừa suy nghĩ: – Vụ án chùa Từ-quang bị vu vạ nhất định do bàn tay của trường Trung-nghĩa gây ra để báo thù cái vụ ta đánh bại chúng đây. Nhà ta có dính vào vụ này rồi. Người dính vào vụ này là Minh-Can, nó đem quần áo của ta cho bọn sư huynh, sư đệ, để bọn chúng lén đột nhập tăng phòng bỏ vào đó hầu vu cáo cho chư tăng. Cái vụ lông chó, xương chó, thịt chó, thịt gà trong chùa chắc cũng do chúng ám toán đây. Cái tên thư lại Quách Ðồng viết lời cung khai hại chùa, ắt cũng có liên quan. Ta e trong dinh Kinh-lược còn nhiều người dính vào, bởi công văn nói sẽ giải ta về kinh cho khám nghiệm, ít người biết, thế mà tên Ðặng Vinh lại hay được, y mới tổ chức cho tên Trịnh Phúc, Vũ Ðức định ra tay trước, hại ta. Ta cứ im lặng xem sao. Bề gì cũng có sư phụ. Ðêm đó, Minh-Ðệ dùng khinh công vượt tường ra bờ sông, tới con thuyền để gặp sư phụ. Ông lại dạy võ cho nàng. Còn bà thì dạy nàng về âm nhạc. Khác với mọi lần, hôm nay bà nấu một nồi thang dược, bốc hơi nghi ngút. Ông chỉ vào nồi nói với Minh-Ðệ: – Bây giờ con vận tâm pháp mà ta dạy con. Sau đó con nhúng tay vào nồi thuốc này, hút hết thuốc vào bàn tay. Như vậy, tay con sẽ thấm thuốc, rồi chuyển khắp người. Sau đây, mỗi khi con giao đấu với ai, mà bị chúng dùng độc dược hại con, thì con không sợ bị nguy hiểm nữa. Minh-Ðệ ngồi xếp chân vận công, khi nàng vận xong, thì nồi thang dược đã nguội. Nàng nhúng hai tay vào, rồi dẫn khí từ sáu tĩnh huyệt ở tay, theo lục kinh, đưa khắp cơ thể. Lúc thuốc mới nhập tới vai, người nàng cảm thấy cực kỳ khó chịu. Nhưng sau đó, nàng vận khí theo vòng Tiểu-chu-thiên mấy lượt, lập tức cảm giác khó chịu hết. Cứ như vậy, nàng luyện công với thuốc liền một tháng, thì sư phụ bảo nàng: – Thế là dược chất trong người con đủ rồi. Từ nay không độc chất nào có thể hại con được nữa. Cứ như vậy, thời gian lặng lẽ trôi qua. Võ công, âm nhạc của Minh-Ðệ ngày càng tiến thêm. Hôm ấy, trời vừa đứng bóng, thì một tên hình-binh tới gọi nàng lên công đường nghe tuyên án, vì án từ trong kinh đã chuyển ra. Minh-Ðệ đến công đường, đã thấy đại sư Viên-Chiếu cùng chư tăng đầy đủ. Kinh-lược-sứ với các quan tại lộ Kinh-Bắc mũ cao, áo rộng đứng làm hai hàng văn võ hai bên kinh-lược-sứ. Viên Ðề điểm hình ngục Hoàng Khắc-Dụng bước ra nói: – Lộ Kinh-Bắc đã nhận được bản án chùa Từ-quang do quan Hình-bộ xét xử gửi về. Hôm nay ta tuyên đọc. Một hình quan hô: – Các tội nhân chùa Từ-quang quỳ xuống nghe án. Từ sư trưởng Viên-Chiếu cho tới Minh-Ðệ đều quỳ gối. Ðề điểm hình ngục cầm tờ giấy đọc lớn: "... Hình-bộ thượng thư, tại triều Chương-thánh Gia-khánh, chiểu chi đơn tố giác của các võ quan là Ðặng Vinh lữ trưởng; Lê– Kim-Cương lữ phó; Phạm Trung thiên tướng; tất cả đều tùng sự tại lộ Kinh-Bắc. Ba võ quan đệ văn thư lên kinh-lược-sứ rằng chư tăng chùa Từ-quang phạm giới sát, giới tửu, và giới dâm. Chiểu chi bản phúc thẩm của đề điểm hình ngục lộ Kinh-Bắc rằng sau khi khám xét chùa Từ-quang, quả có nhiều lông xương chó, gà, trâu; lại có cả ba con là luộc, một nồi rựa mận thịt chó với mấy chai rượu. Quan quân đã tìm thấy trong phòng của chư tăng có quần áo, yếm đàn bà. Quan quân cũng tìm thấy mấy chai rượu. Khi khám bảo điện, còn thấy có ba nén vàng, chín nén tám lượng bạc. Trong chùa quả có chứa con gái mười sáu tuổi không rõ họ, tên là Yến-Loan. Sau khi đã thẩm cung, chịu tra khảo đầy đủ, nhưng chư tăng cũng như Yến-Loan không chịu nhận tội hành dâm. Do tang vật, chứng cớ, không thể chối cãi, nay tuyên án: – Bởi nguyên cớ trì nghi, nên tha cho tội phạm giới dâm. Nhưng phạt về tội chứa gái trong chùa. – Phạt tội phạm giới sát, giới tửu. – Phạt thực nặng tội nhận vàng của ngoại bang để làm gian tế. Tuyên phạt: – Thu tất cả tăng-điệp của chư tăng chùa Từ-quang, đuổi về dân dã, không được tu hành nữa. Vàng bạc bị xung công. – Sư trưởng Viên-Chiếu đáng tội lăng trì, nay ân giảm vì tuổi tác cao, cũng đáng thương, chỉ phạt phải xung quân nghìn dặm trong năm năm. – Năm đệ tử là Viên-Căn, Viên-Mộc, Viên-Chi, Viên-Diệp, Viên-Hoa bị đánh hai mươi côn lớn, xung quân mười năm. – Mười lăm tiểu sa-di, tuổi còn nhỏ, không chủ trương được, ân giảm hai bậc, chỉ bị đánh hai mươi roi mây, xung quân một năm. – Còn thị Yến-Loan vì lý lịch chưa rõ, đợi Tuyên-vũ-sứ trấn Thanh-hóa điều tra xem là tôi tớ nhà nào, sẽ tuyên án sau. Tạm giao cho huyện Thọ-xương để làm lao dịch. Nay truyền cho kinh-lược-sứ lộ Kinh-bắc chiếu chi thi hành. Pháp-thiên, Ứng-vận, Sùng-nhân, Chí-đức, Anh-văn, Duệ-võ, Khánh-cảm, Long-tường, Hiếu-đạo hoàng đế, niên hiệu Chương-thánh Gia-khánh thứ nhì, tháng năm, ngày Giáp-Tý. Thái-tử thiếu-sư, đồng tri Khu-mật-viện, đồng trung thư môn hạ bình chương sự, lĩnh Hình-bộ thượng thư, tước Cổ-am hầu, Nguyễn Quý-Thuyết. Khán, kiểm thự: Kiểm hiệu thái phó, Long-thành tiết độ sứ, Ðồng bình chương sự, Khu-mật-viện sứ, lĩnh Chiêu-văn quan đại học sĩ, giám tu quốc sử, tước Gia-viễn quốc-công, Dương Ðạo-Gia. Quan đề điểm hình ngục hỏi: – Các tội phạm có nghe rõ không? – Nghe rõ. Hình quân nọc các tội phạm xuống đánh đòn tại chỗ, rồi cho đóng gông giải di. Minh-Ðệ quỳ gối đỉnh lễ chư tăng: – Bạch các thầy, chỉ vì các thầy thương xót con bị đau đớn, bị đưa vào đường cùng, phát tâm Bồ-đề cứu vớt con, mà ra nông nỗi. Con xin đức Phật hộ trì cho các thấy. Ðại sư Viên-Chiếu phóng cặp mắt từ bi nhìn Minh-Ðệ: – Con không nên khóc lóc làm gì. Con ơi, dù con không đến trú ngụ tại chùa Từ-quang, dù thầy có ở chùa khác, thì cái nghiệp nó cũng theo đuổi đến cùng. Thầy biết, vụ án này sau sẽ được bạch hóa, bấy giờ không biết thầy có còn tại thế không? Thầy chỉ dặn con một điều rằng đừng vì chuyện hôm nay mà xuống tay quá nặng với kẻ đã gây ra vụ này. Nói xong, ông thản nhiên để quân sĩ giải đi, mặc Minh-Ðệ khóc nức nở nhìn theo. Ngay chiều hôm đó, Minh-Ðệ được Ðề điểm hình ngục gọi lên. Nhân không có ai bên cạnh, ông nói nhỏ với Minh-Ðệ: – Ta điều tra vụ án này, biết rất rõ các thầy với con bị hàm oan, bị vu cáo. Ta đã đề nghị tha bổng. Nhưng quan Kinh-lược sứ muốn phạt nặng, kết tội chư tăng phạm giới dâm. Vì vậy ta phải tấu về triều, để bộ Hình phúc thẩm. Không ngờ bộ Hình lại không dám quyết đoán, chuyển sang Tể-tướng. Tể tướng đã xử oan ức như vậy. Ta biết làm sao bây giờ. Cái tên thư lại viết tờ cung khai vu cáo đó tên là Quách Ðồng, bị ta tra khảo, nó khai rằng nó tuân lệnh của quan Kinh-lược-sứ Phạm Anh bảo làm. Ta sai giải nó về kinh, đáng lẽ nó phải tội chém đầu, thì Tể tướng Dương Ðạo-Gia lại tha cho nó, cất nhắc nó lên ba bậc, cho làm quan ngay ở huyện Thọ-xương. Còn ba viên võ quan toan cưỡng dâm con, rõ ràng bị biệt giam để điều tra, thì con hầu của phu nhân Kinh-lược an phủ-sứ tên Thanh đem cơm cho chúng, rồi chỉ cho chúng khai giống nhau rằng: hai tên Trịnh Phúc, Vũ Ðức vốn là sư đệ của tên Ðặng Vinh. Nhân đêm trăng sáng, Vinh mời hai đứa đến trại của y uống rượu. Không hiểu ai đó đã bỏ thuốc vào rượu khiến cho ba đứa mê man, rồi đem treo chúng lên cành cây. Siêu-loại hầu với Kinh-lược sứ thấy ba đứa biệt giam ba nơi, mà đồng khai giống nhau, bèn khiến ta làm án rằng chúng vì công vụ mà bị hại. Chúng được tha ra. Chức phận của ta quá nhỏ, ta không làm gì hơn được. Ông nói nhỏ: – Kinh-lược-sứ là con rể của Tể tướng Dương Ðạo-Gia. Dương tể tướng là anh trai của Thượng-Dương hoàng-hậu. Minh-Ðệ hỏi: – Bẩm quan có phải Thượng-Dương hoàng hậu có nhũ danh là Hồng-Hạc không? – Kiến thức mi cũng khá đấy nhỉ. Mi biết gì về gốc tích họ Dương không? – Dạ con đọc trong bộ Khâm-định Ðại-Việt hội điển cương-yếu (2). Chuyện này xẩy ra từ thời Thuận-thiên kia. Bấy giờ vua Thái-tông còn là Khai-thiên vương. Vương có ba vương phi là Triệu phi (3), Mai phi, Ðinh phi. Triệu phi sinh ra hoàng thượng cùng vua bà Binh-Dương, các công chúa Kim-Thành, Trường-Ninh. Sau Triệu phi, Ðinh phi tuẫn quốc trong thời chư vương làm lọan. Hồi vua Thái-tông lên ngôi (1028) phong cho Mai phi làm Hoàng-hậu. Ðến năm Ất-Hợi (1035) lại phong cho Dương phi làm Thiên-Cảm hoàng hậu. Ghi chú: (2) Bộ sách này rất lớn, rất dài, ghi chép tất cả những văn kiện, thủ tục, luật lệ của triều Lý, viết bằng Hán-văn. Tiếc rằng thất truyền. Triều Nguyễn cũng có bộ sách tương tự tên là Khâm-định Ðại-Nam hội điển sự lệ. (3) Sử chép bà họ Vương. Sự thực bà họ Triệu, nhưng Khai-Thiên vương phong người tràn ngập như Quách Qùy, Triệu Tiết. Vì tràn ngập như đã dùng ở Như-nguyệt, Phú-lương quân sẽ chết nhiều lắm, nên chi y dùng mưu. Y tung ra cuộc tấn công dò thám vừa rồi, nhưng bị thất bại. Chiều nay chắc chắn y sẽ tấn công nữa. Nghe hầu luận, chư tướng kinh ngạc tự hỏi: – Đã thất bại, sao Yên, Khúc lại tấn công nữa? Nhưng họ biết kiến thức hầu bao la nên không dám lên tiếng. Hầu tiếp: – Hôm qua tế tác báo cho biết quân Tống vào các xã Bắc ngạn, cũng như Nam ngạn Phú-lương bắt tất cả trâu, thu tất cả rơm rạ. Như vậy ắt chúng dùng trâu mang lá chắn như sáng nay, rồi cho quân núp sau để lấp hào, rồi đốt lũy. Lần này ta cho chúng thất bại nữa. Nhưng có điều sau lần này, Yên Đạt nóng lòng quá, ắt y dùng số đông tràn ngập. Bấy giờ viện binh của ta tới, phía sau chúng bị Ðức-Uy với con trai là Dương Ðức-Thao bị võ lâm giết chết thì phải. – Vâng đúng thế đấy ạ. Bấy giờ hai anh trai của Thiên-Cảm hoàng hậu đều được trọng dụng. Anh cả là Dương Ðức-Minh đang lĩnh chức Tiết-độ-sứ vùng Kinh-bắc. Anh thứ là Dương Ðức-Uy lĩiv>Kế-Nguyên phì cười: – Đâu có! Khi Quách Quỳ rút quân, thì ta cho quân theo bén gót. Đợi đại quân y về tới Ung-châu, lập tức ta tiến quân chiếm lại những trang động bị Tống lấn. Bấy giờ Quỳ không còn quân, không còn lương để trở lại đánh ta nữa. Ví dù y muốn tiến quân sang, lại phải tâu về triều, thời gian của sứ giả di về mất ít nhất bốn tháng. Trong bốn tháng đó, ta đã tổ chức lại các trang động rồi, dễ gì y dám lao đầu vào? Nhà vua tuyên chỉ: – Phương lược ba bước này vừa đỡ tốn xương máu, vừa giữ được hoà khí với triều đình Tống, vừa giữ được uy thế của ta, lại làm cho Tống kinh sợ. Từ nay và mãi mãi họ không dám bàn chuyện đánh ta nữa. Linh-Nhân hoàng thái hậu tuyên chỉ: – Để có thể chuyển đại quân sang đánh Đại-Việt, Hy-Ninh với An-Thạch phải cắt đất cho Hạ, cho Liêu, cầu hòa hầu dồn hết binh hùng, tướng mạnh của Tây-thùy, Bắc-thùy sang đánh ta. Hy-Ninh hy vọng bọn Quách Quỳ chiếm được nước ta trong một tháng, rồi lại đem quân về giữ Bắc-thùy, Tây-thùy, mang theo mấy chục tù hàng binh của ta. Nay bao nhiêu tướng giỏi, binh tinh nhuệ bị giết hết, chắc chắn Liêu, Hạ lại gây sự. Mà than ôi! Tống không còn tinh lực phòng vệ nữa. Từ nay, ta không sợ Tống nữa; trái lại Tống phải sợ ta. Theo ước tính của cô phụ này, e không bao lâu nữa Tống sẽ bị Liêu chiếm. Bấy giờ có khi ta phải giúp Tống giữ nước trong thế yếu, hơn là diệt Tống rồi phải chống với Liêu hùng mạnh. Ghi chú, Kiến giải của Linh-Nhân hoàng thái hậu thực chính xác. Niên hiệu Tĩnh-Khang nguyên niên đời vua Khâm-tông nhà Tống, bên Đại-Việt là niên hiệu Thiên-phù Duệ-vũ thứ bẩy đời vua Lý Nhân-tông (Bính-Ngọ, DL.1126) tức 49 năm sau; quân Kim đánh vào Biện-kinh bắt hai vua Tống là Huy-tông và Khâm-tông đem về Bắc. Con của Khâm-tông là Triệu Cấu chạy xuống Nam, tái lập triều Tống, tức Nam Tống, ở ngôi được 36 năm, sau khi băng được tôn miếu hiệu là Cao-tông. Tại tổng hành doanh « An-Nam đạo hành doanh mã bộ quân đô tổng quảm chiêu thảo sứ kiêm tuyên phủ sứ chư lộ Kinh-châu, Hồ-Nam, Quảng-Đông, Quảng Tây » Ngày 5 tháng hai, niên hiệu Anh-vũ Chiêu-thắng thứ nhì đời vua Lý Nhân-tông bên Đại-Việt, bên Trung-nguyên là niên hiệu Hy-Ninh thứ mười đời vua Thần-tông nhà Tống (Đinh-Tỵ, DL.1077). Quách Quỳ triệu tập chư tướng bàn phương lược đối phó với tình hình. Các tướng Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ, Khúc Chẩn, Đào Bật, Trương Thế-Cự... đều hiện diện. Ôn Cảo tường trình: – Ngày mùng một tháng hai vừa qua, Lý Càn-Đức sai sứ sang Biện-kinh tạ tội, xin Thiên-triều rút quân; từ nay lại thần phục tiến cống như cũ. Để tỏ lòng hối lỗi, Giao-chỉ đem bẩy vạn tù binh bao gồm tướng tá, cao thủ võ lâm do hạm đội Âu-Cơ chở đến Quảng-châu trao cho quan trấn thủ. Chiến thuyền sẽ cập bến chậm nhất là ngày rằm tháng hai này. Nguyên soái đã cử người tiếp dẫn sứ Giao. Sứ Giao với viên tiếp dẫn dùng ngựa phi bất kể ngày đêm, nên hôm qua đã đến Biện-kinh dâng biểu. Hoàng-thượng cùng chư đại thần hội ở Thiên-chương các. Quan giám sát ngự sử Thái Thừa-Hi dâng sớ tâu rằng: Mục đích ra quân để trừng phạt Giao-chỉ, thế mà nay nó đã đến cửa trời nép mình nhận tội thì cũng nên tha cho nó để tỏ lượng bao dung. Tể tướng Ngô Sung cùng các đại thần đều tâu xin hoàng thượng nghe lời Thái ngự sử, tuyên chỉ rút quân.. Khúc Chẩn hỏi: – Hôm qua sứ Giao mới dâng sớ, mà sao nay tin đã đến đây được? Quách Quỳ trả lời: – Tiếp dẫn sứ có mang theo Ưng-binh của Giao-chỉ. Y dùng chim ưng gửi tin về, nên sáng nay ta đã biết. Ôn Cảo tiếp: – Ngày mùng một tháng hai vừa qua Thiên-Thành, Cảnh-Long từ trong rừng đổ ra tái chiếm Lạng-châu; Trần Thanh-Nguyên, Tôn Mạnh tái chiếm Quyết-lý; Lý Tam tái chiếm Chi-lăng. Nguyên soái đã lệnh cho đô tổng quản Yên Đạt đem quân vượt thượng đạo tái chiếm Lạng-châu; phó đô tổng quản Khúc Chẩn tái chiếm Quyết-lý; tướng quân Miêu Lý tái chiếm Chi-lăng. Quan quân phải khó nhọc lắm mới đánh được ba ải. Quân Giao bỏ ba ải rút vào rừng. Nguyên soái truyền ba tướng đóng đồn bảo vệ đường tiếp tế. Giữa lúc quân ta đang giao chiến khốc liệt với quân Giao, thì thình lình hạm đội Động-đình từ biển Đông tiến vào Phú-lương. Thân Thiệu-Thái dùng hạm đội này chở hiệu Bổng-nhật, Vũ-thắng, Phù-đổng, Hoa-lư vượt sông rồi đóng đồn lập phòng tuyến. Phía Vạn-xuân, Lê Văn đem hiệu Thần-điện, Long-dực tới chân núi Nham-biền đóng trại. Với lực lượng của ta hiện giờ, không đủ quân số đuổi Thiệu-Thái, Lê Văn về Nam ngạn. Ta bị ép ba phía. Miêu Lý hỏi: – Hiệu binh Hoa-lư là hiệu binh nào, tôi chưa từng nghe qua! Ôn Cảo chỉ Yên Đạt, Khúc Chẩn: – Nguyên khi Yên, Khúc tướng quân vượt sông đánh Yên-dũng. Hai huynh sai bắt hơn hai nghìn trâu, làm lá chắn cho xe trâu đẩy để tấn công. Không ngờ tên Lý Đoan xuất thân là mục đồng, y từng dùng trâu tập trận nhái theo phương pháp của vua Đinh Tiên-hoàng. Lý tập trung hơn ba chục trẻ chăn trâu, rồi dùng đám trẻ này nói tiếng nói loài trâu, sai trâu dàn trận quay lại đánh ta. Sau trận đó đám trẻ chăn trâu không chịu trở về, chúng quyết xin ra trận. Linh-Nhân hoàng thái hậu trước đây cũng từng chăn trâu. Bà ta mới tập hợp hơn ba trăm trẻ chăn trâu với hai nghìn trâu lại, rồi lập thành hiệu binh Hoa-lư. Hiệu binh này lợi hại hơn hổ, báo nhiều. Chúng buộc dao vào sừng, buộc giáo vào lưng trâu, rồi dàn trận, tiến lui uyển chuyển vô cùng. Yên Đạt chửi thề: – Tổ bà bọn Giao-chỉ thực xảo quyệt. Một mặt chúng sai sứ sang tạ tội, một mặt chúng vẫn tiến binh. Thì ra cái việc sai sứ sang tạ tội chỉ là một đòn khiến hoàng thượng không gửi viện quân cho ta. Làm sao bây giờ? Ôn Cảo tiếp: – Chưa hết đâu! Ngày mùng ba tháng hai, triều đình được tin tổng đàn phái Liêu-Đông bị một bọn lạ mặt đánh phá hôm rằm tháng giêng. Chúng thiêu rụi năm trăm nóc gia, đốt bài vị một trăm linh bẩy liệt tổ phái này, giết hết những đệ tử hiện diện. Chúng còn tàn nhẫn giết hết bố mẹ, vợ con, anh em, tôi tớ, trâu bò, chó mèo, gà vịt của Liêu-Đông tam ma. Nếu chúng ta hiện diện thì biết ngay bọn Giao-chỉ ra tay. Nhưng quan quân địa phương vốn thù ghét đệ tử phái này, nên khi thấy phái này bị tuyệt diệt, thì mừng hớn hở, rồi dâng biểu về triều tâu rằng chúng bị cướp giết chết. Triều đình tin là thực. Tu Kỷ cười nhạt: – Giết tàn nhẫn như vậy, trên thế gian e chỉ có mình Mộc-tồn hòa thượng mà thôi. Điều này cũng tại Liêu-Đông tam ma huênh hoang đóng cũi hăm bắt Minh-Không, Đạo-Hạnh, Lê Văn, Mộc-tồn, Viên-Chiếu đóng cũi giải về kinh mà ra. Nghe nói trận đánh đêm 21 tháng giêng, Tam-ma bị Mộc-tồn bắt đóng cũi giải giao cho Kinh-Nam vương. Hơn trăm đệ tử cũng bị bắt một lúc. Không biết hiện giờ tình trạng chúng ra sao? Y hỏi Triệu Tiết: – Nghe nói, trận đánh đêm 21 sang ngày 22 vừa qua, Hoa-sơn tứ lão bị Mộc-tồn, Viên-Chiếu, Phụ-Quốc, Bảo-Dân đánh trọng thương, mê man, rồi bắt sống. Nay không biết tình trạng ra sao? Kể về vai vế trong phái Hoa-sơn thì Triệu Tiết, Khúc-Chẩn, công chúa Huệ-Nhu đều ngang vai với Hoa-sơn tứ lão. Y đáp: – Bốn vị sư đệ đều bị Mộc-tồn, Viên-Chiếu dồn thuốc nhuyễn cân vào Tam-tiêu kinh, cho nên vẫn còn mê man. Tôi đã sai người báo với công chúa Huệ-Nhu, để người vận động với Kinh-Nam vương xin thuốc giải của Mộc-tồn hòa thượng. Không ngờ gã thầy chùa ăn thịt chó này không coi Kinh-Nam vương ra gì cả. Y nói, đợi sau khi hết chiến tranh, y sẽ cho thuốc giải. Ôn Cảo tiếp: – Hôm qua, bọn Giao-chỉ từ bên kia sông bắc loa gọi sang, báo cho ta biết, lát nữa chúng sẽ xử tử bọn Việt theo ta bị bắt và xử một số tướng sĩ ta giết hại dân của chúng. Vì vậy Nguyên-soái cho mời chư vị đến hội để cho biết ý kiến. Khúc Chẩn đề nghị: – Bọn Việt xử bọn Việt là việc của chúng với nhau, ta chẳng nên quan tâm. Tuy nhiên chúng xử tướng sĩ của ta, thì ta không thể ngồi yên. Trương Thế-Cự xua tay: – Chúng xử những người của ta, nhưng những người đó vốn tàn ác, vô pháp, vô thiên. Ta nên ngồi khoanh tay để cho chúng giết dùm, ta khỏi phải giết. Đến đó, quân vào báo: – Trình Nguyên-soái, một con thuyền của Giao-chỉ dương buồm không người chèo lái cập bến. Trên thuyền có nhiều tù binh. Xin Nguyên-soái định liệu. Quách Quỳ vội cùng chư tướng ra bờ sông xem xét tình hình: Trên con thuyền lớn có ba cái cũi, trong mỗi cũi giam một trong Liêu-Đông tam ma. Ngoài ra, còn hơn trăm đệ tử phái này ngồi xếp hàng dưới thuyền, cổ mỗi người đều đeo một cái xương đầu chó. Bất giác Triệu Tiết kêu lên: – Mộc-tồn hòa thượng! Quách Quỳ sai y sĩ xuống thuyền quan sát xem sao bọn này lại ngồi im như vậy? Y sĩ nhảy xuống kiểm điểm từng người, rồi nói vọng lên: – Trình nguyên soái, tất cả đều bị trúng Hoá-công độc chưởng của chính phái Liêu-Đông. Còn Liêu-Đông tam ma thì bị dồn thuốc độc vào kinh mạch khiến mắt mù, lưỡi cứng, chân tay tê liệt. Tại phía Bắc chiến lũy Như-nguyệt, thuộc Đại-Việt Ngày 27 tháng hai, niên hiệu Anh-vũ Chiêu-thắng thứ nhì đời vua Lý Nhân-tông bên Đại-Việt, bên Trung-nguyên là niên hiệu Hy-Ninh thứ mười đời vua Thần-tông nhà Tống (Kỷ Tỵ, DL.1077). Hôm qua Quách Quỳ họp chư tướng, ban lệnh hôm sau vào lúc nửa đêm sẽ rút quân. Chư tướng được lệnh thì mừng chi diết kể. Sáng nay chư tướng cùng Quỳ vừa định xong kế sách lui quân, thì một chiến thuyền của Đại-Việt, trên có cây cờ lớn với hàng chữ: « Kinh-Nam vương khâm sứ », Đang từ từ cập bến Bắc-ngạn. Quân Tống vội báo cho Quách Quỳ, Triệu Tiết biết. Hai người cùng chư tướng kéo nhau ra bờ sông đón. Bốn sứ giả là ba thế tử Vị-Hoàng, Thiên-Trường, Linh-Cơ và quận chúa Minh-Thúy. Lễ nghi tất. Thế tử Vị-Hoàng cung tay: – Thưa Nguyên-soái, không hiểu sao Đại-Việt biết rằng đêm nay nguyên soái cùng chư tướng rút quân về, nên họ chuẩn bị truy kích, cùng phục binh đánh tiêu diệt toàn quân. Quách Quỳ kinh hãi đến lạnh người, vì lệnh rút quân y mới chỉ báo cho các tướng. Đợi đêm đến mới truyền cho quân âm thầm lên đường, thế mà sao Đại-Việt lại biết được? Vị-Hoàng tiếp: – Nguyên-soái Lý Thường-Kiệt đã chuẩn bị sẵn: Đúng giờ Tý đêm nay, khi quân ta bắt đầu rút, thì cũng là lúc U-bon vương Lê Văn mang hiệu Thần-điện, Long-dực tiến về đây đánh ép bên trái. Phò mã Thân Thiệu-Thái, vua bà Bình-Dương mang hiệu Phù-đổng, Hoa-lư tiến về đánh vào phía phải. Trong trường hợp đó, quân ta tất ùn ùn bỏ chạy. Khi ta chạy về đến Chi-lăng, thì đô thống Lý Tam, Mai Tam sẽ đổ phục binh ra đánh cắt vào khúc giữa. Khúc đầu chạy về tới Quyết-lý lại bị cộng chúa Côi-sơn Trần Thanh-Nguyên với phò mã Tôn Mạnh phục binh đánh cắt nửa sau. Rút cuộc chỉ còn tiền quân. Tiền quân về đến biên giới lại bị công chúa Thiên-Thành với phò mã Thân Cảnh-Long bao vây tiêu diệt. Quách Quỳ với chư tướng phát run. Vị-Hoàng tiếp: – Vương mẫu thương cho chư tướng, chư quân, ra đi trăm vạn, mà bây giờ về không còn quá mười vạn, lại sắp bị giết hết. Người năn nỉ xin phụ vương ra tay tế độ cứu chư tướng với đoàn quân sống sót này. Phụ vương đã yết kiến Linh-Nhân hoàng thái hậu, điều đình việc này. Thái-hậu đồng ý không cho truy kích, phục binh đánh chư tướng nữa. Phụ vương sợ rằng trong khi chư tướng rút quân, có thể gặp quân Việt, rồi ngộ nhận chăng. Nên người sai anh em chúng tôi đến đây dẫn chư tướng rút quân. Vị-Hoàng chỉ Linh-Cơ với Minh-Thúy: – Hai em tôi đi với tiền quân. Còn tôi với Thiên-Trường đi với hậu quân. Thôi, bây giờ chư vị có thể ban lệnh cho chư quân nhổ trại rút quân thư thả, mà không huy của ba anh này, để tùy theo lệnh của ta mà chống giặc. Mọi việc vừa hoàn tất, thì trống báo động thúc vang dội. Ba phe Hổ, Báo, Gấu được trao cho tá lãnh trấn ba mặt Tây, Bắc, Đông. Phía ngoài chiến lũy, quân Tống chia làm ba lớp, thúc trống dàn hàng ngang tiến vào chiến lũy. Lớp đầu núp sau xe trâu, trên xe chất đầy rơm-rạ. Lớp thứ nhì khiêng lá chắn kết bằng cỏ tươi, lưng dắt đoản đao, vai vác rơm-rạ. Lớp thứ ba là các đội tiễn thủ, mỗi người đeo trên lưng một bó rơm-rạ. Trống thúc, quân reo, xe trâu từ từ vượt qua cánh đồng lầy lội tiến đến hàng rào chiến lũy. Hai lớp sau cách lớp trước một tầm tên (30m) reo hò trợ oai. Trong khi quân Tống reo hò, thúc trống rung động trời đất, các xe trâu chỉ còn cách hàng rào trăm trượng, mà trong chiến lũy vẫn im lìm. Rồi hai mươi trượng... mười trượng. Trong chiến lũy vẫn im lìm, không một bóng người, một tiếng thú. Khúc Chẩn đánh ba tiếng lệnh. Xe trâu dừng lại. Quân Tống lớp đầu rời chỗ núp sau xe trâu vọt người lên ném các bó rơm-rạ xuống hào. Hào bị lấp mau chóng. Lớp thứ nhất lấp hào xong, lùi lại giữ các lá chẳn cho lớp thứ nhì. Lớp thứ nhì rời lá chắn, vác rơm-rạ vượt qua hào, ném vào chân chiến lũy, rồi lùi lại nấp sau xe trâu. Chúng đồng loạt đánh lửa châm vào những bó rơm-rạ chất trên xe. Lửa trên xe trâu bắt đầu bốc cháy. Trong chiến lũy vẫn im lìm. Đứng trên mình trâu quan sát quân mình hành sự, thành công quá dễ dàng, Khúc Chẩn sinh hoài nghi. Y nghĩ thầm: – Không lẽ tên Lý Đoan đã dẫn quân trốn hết rồi hay sao mà y chưa có hành động gì? Lửa trên các xe trâu bốc cháy to. Khúc Chẩn đích thân cầm dùi đánh ba tiếng chiêng. Đó là lệnh cho quân thúc trâu vượt qua hào. Thình lình trong chiến lũy cùng vang lên tiếng tù và, rồi tiếng trẻ con gọi trâu nghé ọ! Nghé ô!... Toàn những ngôn ngữ mục đồng ra lệnh cho trâu. Đoàn trâu đang tiến vào chiến lũy, nghe tiếng tù và, tiếng gọi thì ngừng lại, chúng cùng nghểnh cổ lên lắng nghe; mặc cho quân Tống thúc dục, cầm roi quất lên lưng. Trong chiến lũy lại vang ba hồi tù và kéo dài, âm thanh thực thê lương. Đoàn trâu nghe tiếng tù và, chúng rống lên, rồi hai chân trước giữ nguyên vị trí, hai chân sau bước ngang. Sau sáu bước chúng đã đẩy các xe đổi chiều: Trước thì quay đầu vào chiến lũy, bây giờ lại quay đầu trở ra. Quân Tống kinh hoảng, không dám thúc trâu nữa, vì nếu thúc, trâu sẽ xung vào trận mình, đốt quân mình. Trước phản ứng kỳ lạ của đoàn trâu, vô tình lưng chúng quay vào chiến lũy. Tên trong chiến lũy bắn ra vun vút, quân Tống bị trúng tên ngã lăn xuống mình trâu. Thoáng một cái đám quân núp sau phên trâu bị giết gần hết. Đám còn lại kinh hoảng nhảy khỏi xe, bỏ chạy về trận tuyến mình. Lửa bốc cao trên các bó cỏ. Lại có tiếng tù và, tiếng trẻ gọi trâu. Một tiếng pháo nổ lớn, từ trong chiến lũy, ba đội Phe-hổ, Phe-báo, Phe-gấu được Thiên-tử binh hộ tống, chui ra khỏi chiến lũy. Chúng lội ruộng cực kỳ nhanh, thoát một cái, chúng đã cỡi trên lưng trâu, rồi thổi tù và, cất tiếng ra lệnh cho trâu. Đám Thiên-tử binh cũng nhảy lên lưng những con trâu còn lại. Đoàn trâu rống lên đẩy xe tiến về trận tuyến Tống. Hai lớp quân Tống núp sau những tấm phên bằng cỏ tươi thấy đoàn trâu hóa điên đẩy ra lửa quay ngược về trận mình thì kinh hoảng. Chúng bỏ phên tháo chạy. Nhưng sức người chạy dưới bùn sao bằng sức trâu? Chúng bị trâu đẩy xe chứa rơm-rạ cháy ngùn ngụt cán lên người, bị Thiên-tử binh bắn ngã la liệt trên cánh đồng đầy nước. Thế là trận Tống bị vỡ. Ghi chú, Trận chiến này sau được chép trong gia phả họ Khúc như sau: «...Yên Đạt sai bắt trâu đẩy xe chất rơm-rạ kết thành trận đốt ải Yên-dũng, nhưng Yên không dám chỉ huy, mà giao cho tổ (Khúc Chẩn). Trong khi quan quân đang đốt ải, thì tướng Man là Lý Đoan dùng mục đồng sai trâu quay ngược lại đánh Thiên-binh. Trận bị vỡ. Tổ can đảm cùng đội võ sĩ cản hậu, chống với bầy trâu. Nhờ vậy, quân Thiên-binh mới không bị tan ». TTCTGCK chép: « Yên Đạt, Khúc Chẩn giết được phò mã Hoàng Kiện, công chúa Động-Thiên của Giao-chỉ ở Phú-lương, rồi đem quân vượt sông. Quân tới Yên-dũng thì bị tướng giặc là Lý Đoan với vợ là Trần Ngọc-Liên tử chiến chặn lại. Đạt lập ngưu-hỏa trận, sai Khúc Chẩn đốt ải Yên-dũng, nhưng bị tướng Giao Lý Đoan sai mục đồng ra lệnh cho trâu quay đầu lại, quân triều bị chết nhiều... » Lý Đoan thấy trâu đuổi quân Tống rời khỏi chiến lũy đến hơn hai dặm, hầu đánh ba tiếng thanh la. Đội Thiên-tử binh vung đao lên cắt hết dây, trâu thoát khỏi ràng buộc vào xe. Ba đội Phe-hổ, Phe-báo, Phe-gấu lững thững đánh trâu quay về chiến lũy, chúng rút ống tiêu trong bọc ra, tấu khúc nhạc dân dã, âm điệu dìu dặt, đầm ấm. Lý Đoan cùng phu nhân thân ra cổng đón ba đội Phe-bổ, Phe-báo, Phe-gấu cùng đội Thiên-tử binh dẫn gần hai nghìn con trâu chiến thắng trở về. Đúng là điếc không sợ sấm, bọn trẻ con lần đầu tiên ra trận đã chiến thắng ngay; chúng nào có biết những luật lệ trong quân? Miệng chúng bô bô kể cho nhau nghe chiến công của mình, rồi cãi nhau. Biết rằng không thể dùng uy quyền bắt chúng im lặng, quận chúa Trần Ngọc-Liên hỏi chúng: – Các em đã đói chưa? – Thưa chị đói lè lưỡi ra rồi! Các em hãy ngừng tranh luận! Ăn đã. Có thực mới vực được đạo. Đám trẻ rời trâu, bỏ kể truyện, chúng ăn như hổ, như báo. Đợi cho chúng ăn xong, Lý Đoan triệu tập tướng sĩ để bàn kế hoạch giữ chiến lũy. Hầu nói: – Trận đầu, bọn Yên Đạt, Khúc Chẩn dò dẫm thực lực, chướng ngại vật của ta. Trận thứ nhì, chúng định đốt chiến lũy, nhưng ta đã tương kế tựu kế, dùng đám mục đồng phá được. Nhưng thời gian không cho Yên Đạt chờ đợi lâu nữa, chắc chắn y sẽ đánh ta ngay chiều nay. Trong khi viện quân chưa tới. Vậy chư tướng có ý kiến gì? Ngài là một nhân quân bậc nhất trong lịch sử Việt-Nam. Năm sau, Ất-Mùi (1055), tháng mười, gặp rét dữ dội, ngài ban chỉ: ”Trẫm ở trong cung, sưởi than xương thú, mặc áo lông chồn còn rét thế này, nghĩ đến người tù bị giam trong ngục, khổ sở về gông cùm, chưa rõ ngay gian, ăn không no bụng, mặc không kín thân, khốn khổ vì gió rét, hoặc có kẻ chết không đáng tội, trẫm rất thương xót. Vậy lệnh cho hữu-ty phát chăn chiếu, và cấp cơm ăn ngày hai bữa”.(4) Ghi chú: (4) ÐVSKTT, Lý kỷ, Thánh-tông hoàng đế kỷ. Vì biên thần Tống muốn gây sự, đem quân xâm phạm lãnh thổ, lập tức ngài dồn quân đánh Khâm-châu, biểu dương lực lượng rồi rút về. Quả nhiên từ đấy các biên thần Tống kinh sợ, việc này đã thuật ở ba hồi trên. Cũng năm đó ngài cho tổ chức lại quân đội. Trước kia đã có mười hiệu Thiên-tử binh. Nay tổ chức thêm các hiệu Ngự-long, Vũ-thắng, Long-dực, Thần-điện, Bổng-thánh, Bảo-thắng, Hùng-lược, Vạn-tiệp. Mỗi hiệu chia làm tả đạo, hữu đạo. Ðể thống nhất chỉ huy, tạo bộ máy quốc phòng hữu hiệu trấn Bắc, bình Nam, ngài cho lập lại Khu-mật-viện, gồm tả hữu tể-tướng (tức đồng-bình chương sự), tả hữu phó tể-tướng (tức tham-tri chính sự), Binh-bộ thượng thư, Lại-bộ thượng thư, Ðô-đốc thủy binh, các tướng chỉ huy các đạo Thiên-tử binh, Kị-binh, Khu-mật-viện sứ. Những Khu-mật-viện sứ không thường trực. Khi có sự thì bất cứ vị quan nào cũng có thể được cử đi bằng một mật lệnh. Khu-mật-viện sứ quyền hành rất lớn. Hôm nay, Phạm Anh tuy là rể của tể thần, nhưng thấy Khu-mật-viện sứ thì líu ríu tuân lệnh. Y hoảng hốt vội cởi trói cho Ðoàn Quang-Minh, rồi hỏi: – Quân hầu đi kinh lý, sao lại đột nhập vào thiểm dinh, để đến nỗi bị ngộ nhận như thế này, thực mất uy phong đi. – Tôi thi hành chỉ dụ mật, thì sao lại có thể công khai đi ban ngày được. Mục đích của tôi là điều tra vụ án chùa Từ-quang cho minh bạch. Bây giờ sự thể đã thế này, xin Kinh-lược sứ để cho tôi hỏi cung Yến-Loan cô nương mấy câu. Luật lệ thời bấy giờ, khi viên quan cao cấp Khu-mật-viện hỏi cung ai, thì dù là Tể-tướng cũng không được dự thính, nên Phạm Anh vội lùi ra ngoài. Y nói vọng vào: – Xin tướng quân cứ tự tiện. Ðoàn Quang-Minh hỏi Minh-Ðệ: – Tôi theo dõi cô nương từ lâu. Thường đêm cô nương ra bãi sông luyện võ, học âm nhạc. Nhưng cô nương có biết hai vị sư phụ của cô nương là ai không? – Tôi không biết. – Tôi biết rất rõ. Chính lão già là người trói Ðặng Vinh, Trịnh Phúc với Vũ Ðức treo lên cây, rồi sau đó y dạy võ công cho cô nương. Võ công mà cô nương đấu với tôi là võ công phái Ðông-a, nhưng bị sai lạc quá nhiều. Tôi nói thế để cô nương hiểu rằng tôi biết rất rõ những gì cô nương đã làm. Y chỉ bút mực: – Kia, bút mực kia. Cô nương hãy cung khai hết về việc cô học võ từ một người đàn bà mà cô tưởng là Quan-Âm cho tới cặp vợ chồng quý nhân. Cuối cùng là lão già ở bờ sông. Minh-Ðệ biết sự việc không dấu diếm được nữa, nàng đành ngồi khai hết sự thực. Khai xong nàng đưa cho Quang-Minh. Quang-Minh đọc lướt qua một lượt, rồi lên tiếng gọi Phạm Anh. Y nói với Phạm: – Bây giờ tôi có việc phải đi. Xin Kinh-lược-sứ giải cô này về trao cho Khu-mật-viện càng sớm càng tốt. Chiều hôm đó, Minh-Ðệ bị gông cổ, rồi đưa lên một chiếc xe có thùng đóng kín. Chiếc xe do một đội quân trăm người, chính Ðặng Vinh thân áp giải về Thăng-long. Ðường từ Kinh-Bắc đi Thăng-long mất khoảng hơn hai giờ. Xe đi vào cửa Bắc, rồi quẹo sang cung Uy-viễn, nơi đặt Khu-mật-viện. Quân canh cửa đánh ba tiếng chiêng, thì có người đội trưởng từ trong ra. Y thấy Ðặng Vinh mang quân hiệu lữ trưởng, vội hành lễ quân cách, rồi hỏi: – Không biết tướng quân giải trọng phạm nào về vậy? – Trọng phạm là một phụ nữ, võ công rất cao siêu, làm gian tế cho Tống. Ðội trưởng ký nhận tù, cùng một bao thư lớn đựng hồ sơ của Minh-Ðệ, rồi cung tay: – Việc xong, tướng quân có thể về được rồi. Một thanh niên tuổi khoảng trên hai mươi, dáng người thanh nhã, trang phục theo lối quý phái đi tới. Anh ta hỏi viên đội trưởng: – Tù nào vậy? – Trình Thế tử, một nữ gian tế của Tống, do lộ Kinh-bắc gửi về. Thiếu niên nhìn Minh-Ðệ rồi lắc đầu: – Trông cô này hiền lành, mặt mũi xinh đẹp thế kia thì sao có thể là gian tế. Ðem vào trong này để thẩm cung xem sao. Thiếu niên trao bao thư cho một viên quan: – Tướng quân thử xét xem cô ấy phạm tội gì. Viên quan cầm bao thư đi rồi, thiếu niên lên tiếng gọi: – Biểu muội, em ra mà xem này. Từ trong, một thiếu nữ nhan sắc tuyệt trần xuất hiện. Thoạt trông, Minh-Ðệ thấy dáng người nàng rất thân ái, rất quen thuộc, nhưng không nhớ rằng đã gặp nàng ở đâu. Chợt trí nhớ nàng lóe sáng: thiếu nữ giống Quan-thế-Âm như hai giọt nước. Chỉ khác một điều, nàng thì còn trẻ, trong khi Quan-âm thì đã trọng tuổi. Viên đội trưởng thấy thiếu nữ thì cung tay hành lễ: – Tiểu nhân xin tham kiến Công chúa điện hạ. Thiếu nữ xua tay: – Miễn lễ. Minh-Ðệ nghĩ thầm: – Thì ra công chúa Thiên-Thành đây. Ta nghe nói đương kim thiên tử chưa có con trai, mà có đến ba công chúa. Công chúa lớn nhất là Thiên-Thành, nhũ danh An-Hải, đệ tử đắc ý của vua bà Bình-Dương, đã gả cho thế tử Thân Cảnh-Long là con trai vua bà Bình-Dương với phò mã Thân Thiệu-Thái. Có lẽ là cặp này chăng? Còn Công chúa thứ nhì là Ðộng-Thiên, nhũ danh An-Dân, đệ tử của Quốc-mẫu Thanh-Mai tức Vương phi Khai-Quốc vương, đã gả cho Hoàng Kiện, đệ tử của Long-thành ẩn-sĩ. Hoàng Kiện hiện là Ðô-đốc thủy-quân Ðại-Việt. Công-chúa thứ ba là Ðộng-Thiên, nhũ danh An-Quốc, đệ tử đắc ý của công chúa Bảo-Hòa, dường như chưa gả cho ai, bởi công chúa muốn đi tu để cầu phúc cho tộc Việt. Công chúa bảo đội trưởng: – Người mở gông cho cô gái này đi. Ðối với một thiếu nữ yếu đuối mà gông như gông trâu, gông bò coi sao được, như vậy là mất cái đức nhân của phụ hoàng ta. Ðội trưởng vội sai mở gông cho Minh-Ðệ. Công chúa nhìn qua Minh-Ðệ, rồi chỉ ghế: – Người ngồi đó đi! Nàng gọi thiếu niên: – Anh Cảnh-Long, cô này đẹp đấy nhỉ? – Ừ, cô xinh đẹp thực, đâu kém gì biểu muội. Minh-Ðệ nhủ thầm: – Thì ra Thế tử Thân Cảnh-Long với Công chúa Thiên-Thành thực. Mình đoán không sai. Một viên đô thống cầm bao thư đọc xong, ông ta cung tay nói với Công chúa Thiên-Thành: – Khải tấu công chúa. Có một sự kiện rất lạ, là Kinh-lược-sứ lộ Kinh-Bắc gửi thư nói rằng tuân lệnh của Khu-mật-viện sứ lĩnh Tả-thiên ngưu-vệ thượng tướng quân Cổ-am hầu tên Ðoàn Quang-Minh, truyền giải tội nhân về cho Khu-mật-viện. Nhưng trong Khu-mật-viện đâu có vị tướng nào tên Ðoàn Quang-Minh?