guyên Hương đậu xe trên đường Nguyễn Huệ. Từ nhiều tháng nay, từ ngày sở dọn về tòa nhà khang trang gần bờ Sông, chưa bao giờ nàng được hưởng cái thú đậu xe trên đường Nguyễn Huệ để vào Tax dán mắt vào tủ gương, chiêm ngưỡng và mua sắm những đồ làm đẹp sang trọng nhất và tối tân nhất, hoặc vào bên trong các tiệm giải khát cửa kiếng trong suốt, để ăn kem, ngắm trai thanh gái lịch lượn đi lượn lại như đèn cù giữa trăm ngàn màu sắc. Nguyên nhân không phải vì nàng lái xe dở ẹt, chưa đủ bản lãnh len vào giữa đoàn xe dài ngoẳng. Nàng lái giỏi không thua nam giới (dĩ nhiên nàng không dám so sánh với Văn Bình), xe hơi của nàng thuộc loại ngắn và gọn, loại Honda đua, mui trần. Chiếc xe đua nhỏ xíu của nàng còn đắt tiền hơn khổng lồ uống xăng Mustang của Hoa Kỳ, vì nó là Honda 800-SS. Có đủ 6, 7 ngàn đô-la để sắm xe đua hạng nhất, Nguyên Hương không thể không có tiền sắm quần áo và mỹ phẩm thượng đẳng được bầy bán trong khu vực trung tâm này của thành phố. Trên thực tế, nàng có hàng vạn đô-la, hàng triệu bạc Việt Nam, nàng muốn tiêu bao nhiêu cũng được, không ai ngăn cản, không ai kiểm soát nàng. Song nàng không thể vào Tax, không thể bách bộ trong đồ mini-jupe trên đại lộ Tự Do, vì lẽ nàng phải làm việc suốt ngày đêm. Nàng không thể đậu xe trên đường Nguyễn Huệ vì cách đó một quãng ngắn là văn phòng bí mật của sở Mật Vụ, nhân viên của địch có thể nhận ra nàng và tìm cách ám sát. Kỹ thuật ám sát đã tiến đến trình độ tinh vi và khoa học vô song, chỉ một cái bút máy nhỏ, một viên lát-tích lớn bằng hòn bi của trẻ con cũng đủ làm chiếc Honda của nàng nổ tan thành nhiều mảnh vụn. Một lý do khác đã khiến Nguyên Hương xa rời cụộc sống mua sắm và trưng diện của mọi phụ nữ cùng lứa. Lý do này là tình yêu. 30 tuổi, nàng còn trẻ, trẻ như thiếu nữ 23, 24 song trái tim nàng đã khóa chặt với hình bóng thường trực của Văn Bình ở trong. Nàng buông ra một tiếng thở dài. Đại lộ Nguyễn Huệ ban ngày đông đảo, náo nhiệt chừng nào thì ban đêm vắng vẻ, yên lặng chừng nấy. Thiên hạ đã đi ngủ từ lâu. Nàng lên kiếng, cho tay vào hộc dưới táp-lô lấy cái xách (sac) bằng da hải cẩu sơ sinh, loại hải cẩu mới đẻ được một tháng, màu vàng nhạt sinh sống trên biển băng ở miền Bắc Gia nã đại. Trong một chuyến qua Mỹ, Văn Bình đã mua tặng nàng. Da hải cẩu sơ sinh không phải là da đắt tiền, vì da chồn biển (vison) còn đắt tiền cả chục lần. Chàng mua tặng nàng vì một lý do đặc biệt. Anh đã đến tận nơi, theo chân những người săn hải cẩu. Suốt đời, anh sẽ không thể nào quên được cái cảnh hàng chục, hàng trăm thợ săn lực lưỡng tay cầm cây gậy kếch xù lục lọi trên một vùng băng cứng mênh mông trắng xóa. Kỹ nghệ thuộc da chỉ cần hải cẩu mới chào đời độ ba bốn ngày nên thợ săn chỉ cần giáng cây gậy vào đầu con vật, một lần, hai lần, ba lần cho đến khi nó hộc máu tươi và lăn ra, rồi cúi xuống, rút dao lột lấy da, mang về bán. Nghe chàng nói, Nguyên Hương rú lên, tay che mắt: Ghê sợ quá, em không thích cái ví hải cẩu này nữa đâu. Văn Bình nâng cái xách lên ngắm nghía: Anh mua cho em cũng vì lý do đó. Em nghĩ coi, anh cũng như em, chúng mình có thích bắn người, giết người đâu? Vậy mà năm nào anh cũng dúng tay vào máu hàng chục người. Hàng năm vào khoảng 260 ngàn con hải cẩu sơ sinh bị thợ săn tàn sát. Hàng năm, con số điệp viên bị tàn sát trong cuộc chiến tranh bí mật, được mệnh danh một cách văn vẻ, giữa hai phe, cũng lên tới cả trăm. Cuộc tranh dành điệp báo cũng tàn nhẫn như cuộc săn hải cẩu sơ sinh ở miền Bắc Gia nã đại. Chúng ta không thích nhưng vì quyền sống của dân tộc, quyền sống của nhân loại tự do, chúng ta phải thích. Nguyên Hương vuốt ve làn da hải cẩu mịn màng, giọng ngậm ngùi: Tội nghiệp. Văn Bình thở dài: Nếu được mục kích tại chỗ, em còn tội nghiệp hơn nữa. Mới ra đời chưa đầy một tuần lễ, con hải cẩu còn nằm bên mẹ. Đột nhiên thợ săn xấn đến, giết chết nó trước mắt người mẹ. Làm nghề gián điệp cũng vậy, nếu bị bại lộ hoặc lâm nguy, nhân viên của sở như anh và em chỉ biết trông cậy vào tài năng bản thân và thần may rủi vì chính phủ không nhìn nhận cũng như không can thiệp. Nguyên Hương dùng cái ví hải cẩu được mấy tuần lễ thì Văn Bình phải qua Thái Lan. Trở về, chàng mang bệnh mất trí. Nhiều lần nàng vào dưỡng đường thăm chàng, chàng đều ngồi yên một góc, không thốt nửa lời. Y sĩ tưởng chàng phải điều trị một thời gian dài mới có hy vọng bình phục. Tình cờ cái xách tay bằng da hải cẩu đã giúp chàng ra khỏi cơn mơ hỗn loạn. Nàng trượt chân, đánh rơi cái xách xuống đất. Chàng cúi xuống nhặt. Trong những lần thăm trước, nàng âu yếm với chàng song chàng vẫn dững dưng như thể chàng chưa hề gặp nàng và yêu nàng. Mủi lòng, nàng bưng mặt khóc. Chàng bèn hỏi: Tại sao cô khóc? Nàng sụt sùi: Vì em thương anh quá. Em không ngờ nghề điệp báo đã làm một người đàn ông khỏe mạnh, khả ái, văn võ toàn tài như anh trở thành bệnh nhân loạn trí. Cô thương tôi hả? Tại sao cô lại thương tôi? Em là Nguyên Hương đây mà! Hừ, hồi nãy có một lão già là dò vào đây vỗ ngực tự xưng là ông Hoàng, ông Hoàng tổng giám đốc sở Mật Vụ, bây giờ đến lượt cô. Cô làm phiền tôi quá! Đêm qua tôi ngủ không được phút nào. Vì phép xã giao, cô nên ra về, đóng cửa lại cho tôi ngủ. Anh quên đấy. Đêm qua, anh uống thuốc ngủ nên có thức phút nào đâu. Cô nói xạo. Em nói thật mà.... Vì đêm qua, em đến thăm anh hồi 9 giờ, khi ấy anh đã ngủ. Em ngồi bên giường, canh cho anh ngủ. Đến 3 giờ sáng, anh mới trở mình, dậy đòi uống nước, uống xong, anh ngủ luôn một mạch. Em ra về hồi 6 giờ sáng trong khi anh còn ngủ. Đúng cô là người mất trí. Đêm qua tôi thức, còn cô mới ngủ. Nguyên Hương cầm cái xách ngắm nghía một hồi, rồi không hiểu sao nàng lại đánh rơi một lần nữa. Văn Bình lại cúi xống lượm. Chàng hơi nhăn mặt: Hầu cô như thế này thì tôi điên mất. Khi chàng ngẩng đầu lên, Nguyên Hương khựng người. Viên y sĩ chuyên trị thần kinh đứng bên cũng khựng người như nàng. Cặp mắt lờ đờ của bệnh nhân mất trí Văn Bình bỗng sáng vụt lên như trong con ngươi có ngọn đèn. Ngọn đèn của trí tuệ và tiềm thức bị tắt một thời gian đã bùng cháy lại mãnh liệt. Bùng cháy lại mãnh liệt vì cái xách da hải cẩu màu vàng nhạt.... Bàn tay Văn Bình run run. Chàng nâng cái xách lên ngang mày, quan sát giây lâu. Rồi chàng từ từ mở ra. Tim Nguyên Hương đập nhanh như muốn phá toang lồng ngực nhảy ra ngoài. Giây phút quan trọng đã đến. Cơn bệnh mất trí giống như cái máy bị cắt dòng điện. Phải nối dây điện lại thì động cơ mới chạy. Theo lệnh y sĩ, các bạn thân của Văn Bình nối đuôi nhau vào thăm chàng, tìm cách gợi lại kỷ niệm đã qua, hầu giúp chàng nhớ lại. Nguyên Hương không ngờ cái xách da hải cẩu vô tri đã cứu được Văn Bình khỏi bệnh mất trí.... Cặp mắt bừng tỉnh của Văn Bình vừa thoáng nhìn thấy một mảnh quá khứ và kỷ niệm. Trong tâm trí chàng một sự biến đổi xảy ra. Nhưng cái xách bằng da hải cẩu mới sinh vẫn chưa đập mạnh vào ngũ quan mê ngủ của Văn Bình bằng cái ve hình trái tim dèn dẹt nhỏ xíu mà Nguyên Hương luôn luôn cất trong ví. Cái ve này bằng pha lê trắng nõn và trong suốt, đựợc chế tạo đặc biệt để đựng nước hoa, nên mỗi khi ghé Pháp - quê hương của những loại nước hoa quý phái và đắt tiền nhất thế giới - chàng đều không quên đến miền Nam đến Grasse để mua nước cốt. Đối với phụ nữ, không gì quý bằng nước hoa. Phụ nữ thích nhất nước hoa mà người khác không có. Văn Bình đến tận các hãng xưởng, tự tay pha chế. Pha chế nước hoa là nghệ thuật vô cùng khó khăn và cầu kỳ. Một nước hoa tốt thường gồm từ 80 đến 150 chất thơm khác nhau. Mọi thứ hoa nổi danh trên trái đất đều được xử dụng, như phong lữ thảo (géranium) của miền Bắc-Phi da đen, bạc hà từ Nhật Bản, Trung Hoa gởi tới, hoa hồng ở Viễn Đông, nước cốt hoa hồng của Bảo Gia Lợi, hồ phách và xạ hương Trung Hoa.... Nguyên Hương ưa nước cốt hoa nhài hơn mọi thứ nước hoa khác. Hoa nhài ở miền Nam nước Pháp được coi là thơm nhất thế giới. Văn Bình thường đến Grasse vào mùa Thu, mùa hái hoa nhài. Gần 10 ngàn bông hoa mới cân được một kí. Và phải dùng đúng một tấn nghĩa là một ngàn ký bông nhài mới ép được một ký rưỡi nước cốt. Nhưng đó là nước cốt hạng nhì, muốn có nước cốt thượng hảo hạng phải cho vào nồi cất như cất rượu. Và muốn có một ký nước cốt thượng hảo hạng này, người ta phải dùng từ 7 đến 10 tấn hoa nhài. Cái ve thủy tinh cất trong xách Nguyên Hương đựng nước cốt thượng hảo hạng hoa nhài pha trộn với nhiều nước cốt khác. Xức vào, nhất là vào da và tóc, nó tiết ra một mùi hương thác loạn, ngửi thấy, đàn ông sẽ cồn cào ruột gan, mắt mờ, tay chân run run, máu nóng chạy rồn rập trong cơ thể. Văn Bình đặt tên cho ve nước cốt này là "thác loạn". Chàng vừa tặng nàng một lọ nước hoa Thác Loạn gần nửa lít. Tuy vậy, Nguyên Hương chỉ dùng một cách dè xẻn. Hồi tối trước khi lên xe đến phi trường Tân Sơn Nhứt để gặp Uyên-sơn, nàng lóng cóng mở nút, giốc ngược ve nước hoa, khiến cái chai đầy ắp trở thành chai không trong nháy mắt. Mùi thơm của nó thật độc đáo, và lạ lùng. Đang ngủ li bì, con voi khổng lồ trong rừng rậm cũng có thể vùng dậy trước mùi thơm Thác Loạn. Nhờ một sự ngẫu nhiên khác thường, Văn Bình được ngửi mùi thơm Thác Loạn. Chàng mở xách tay ra, sắc mặt đột nhiên biến đổi. Chàng cầm ve nước hoa đưa lên mũi, rồi ngoảnh nhìn Nguyên Hương. Rồi chàng buột miệng: Mùi thơm này quen quá! Quen quá! Nguyên Hương mừng đến chảy nước mắt. Vậy là Văn Bình sắp sửa bình phục. Nàng muốn chạy băng ra đường la lớn cho toàn thể mọi người nghe: Sung sướng quá! Sung sướng quá! Trời ơi! Đêm nay, trên đường Nguyễn Huệ, Nguyên Hương có cảm tưởng như mùi thơm của nước hoa Thác Loạn được hòa trộn vào không khí, chan hòa trong cảnh vật. Lữ quán Đại Lục còn mở cửa. Nguyên Hương thản nhiên đi thẳng lại cầu thang. Bộ xiêm y sang trọng, và nhất là sắc đẹp lộng lẫy và quý phái của nàng đã giúp nàng qua khỏi nhân viện gác cửa dễ dàng. Nàng không lấy làm ngạc nhiên. Nhan sắc phụ nữ vẫn được coi là cuốn sổ thông hành quốc tế từ xưa đến nay. Cho dẫu nhân viên gác cửa là chú lính da đen cộc cằn, thô bỉ của tòa bin-đinh Mỹ bất khả xâm phạn, Nguyên Hương vẫn có thể xử dụng pháp thuật cao siêu của nàng để bước vào tự do. Phương chi đây chỉ là khách sạn.... Nguyên Hương ung dung lên lầu. Đế giầy mỏng của nàng bước êm ru trên thảm ni-lông đỏ. Nàng dận giầy thật thấp, vậy mà dáng dấp của nàng vẫn cao, trông như đàn bà Tây phương. Trình độ cân đối và nẩy nở của nàng cũng chẳng thua đàn bà Tây phương là bao, và ở một số ưu điểm, còn hơn nữa là khác. Nàng không cần chầu chực tại dưỡng đường giải phẫu thẩm mỹ mà cơ thể vẫn tròn trịa, vẫn căn cứng, vẫn làm đàn ông thuộc mọi lứa tuổi mù mắt và mắc bệnh căng máu.... Đến phòng Uyên-sơn, nàng dừng lại nghe ngóng. Nàng đặt tay lên quả nắm cửa. Kinh ngạc xiết bao, cách cửa từ từ đẩy vào trong. Nàng định lùi lại nhưng không kịp nữa. Nàng định rút súng ra nhưng cũng không kịp nữa. Nàng chỉ chậm hơn đối phương một vi phân tích-tắc đồng hồ. Nên càng đành phải nuốt hận. Một nòng súng chĩa qua khung cửa mở hé. Một tiếng nói cất lên nho nhỏ: Mời cô vào trong phòng. Khi ấy, Nguyên Hương mới nhận chân được tài ba lỗi lạc của Văn Bình. Kể ra, nàng đã có nhiềụ dịp thưởng thức và khâm phục chàng. Tuy nhiên, có lẽ đây là lần thứ nhất nàng mới nhận chân được sự tối cần thiết, tối quan trọng của giác quan thứ sáu trong nghề gián điệp. Trong số nữ nhân viên Biệt Vụ, Nguyên Hương là người có đệ lục quan khá nhậy cảm. Nàng thường tiên đoán được sự việc xảy ra. Nhưng so sánh với đệ lục quan của Văn Bình, nàng chỉ được coi là cô bé học trò khờ khạo. Nếu có Văn Bình một bên, nàng đã có thể thoát hiểm. Vì mũi chàng, tai chàng, mắt chàng có thể ngửi thấy, nghe thấy, nhìn thấy, qua cánh cửa và bức tường lữ quán. Và chàng tìm cách phản công... Cho dẫu bị dí súng xuất kỳ bất ý chàng vẫn phản công được như thường. Nhiều khi kẻ địch bị chàng đánh rơi súng mà không biết. Văn Bình đã dậy Nguyên Hương một số tư thế bí truyền để đoạt khí giới của địch, và nàng học đâu nhớ đấy. Tuy vậy, chàng vẫn chưa hoàn toàn bằng lòng. Chàng lắc đầu ngao ngán: Em có thể phản ứng nhanh hơn nữa không? Nguyên Hương đáp: Hết sức rồi, anh ạ. Thật là khó hiểu. Theo sự cấu tạo thiên nhiên, đàn bà thường có phản ứng nhanh hơn đàn ông. vấn đề nhanh chậm rất quan hệ trong việc đoạt súng của địch. Địch kề súng vào người, ngón tay đã đặt lên cò, chỉ ấn nhẹ là đạn nổ, ta phải làm cách nào để khi địch lảy cò thì viên đạn bắn trệch ra ngoài. Nào, em tập lại lần nữa đi. Nhưng tập lại lần thứ 10, lần thứ 20, lần thứ 50, nhưng vẫn không theo kịp Văn Bình. Chàng nỗi nóng, gắt um lên. Như đứa trẻ, nàng òa lên khóc. Kỷ niệm nên thơ ấy sống lại trong lòng nàng khi họng súng của địch được chĩa vào ngực nàng. Có lẽ vì vậy mà nàng quên cả phản công. Cửa mở rộng ra. Nguyên Hương khoan thai bước vào. Nàng hơi tái mặt song vẫn giữ nguyên bình tĩnh. Địch giơ súng hăm dọa, nghĩa là địch chưa định giết nàng. Nghĩa là nàng đang còn cơ hội chuyển bại thành thắng. Mùi thơm nước hoa nhài thượng lưu hợp với mùi thơm da thịt nàng tạo thành một mê hồn hương tràn ngập gian phòng khách sạn. Nàng nhận thấy tác động mãnh liệt của mùi thơm này trong tia mắt đột ngột biến đổi của đối phương. Hắn đạp cho cánh cửa xập lại. Trọng phòng chỉ có hắn và nàng. Hắn cao hơn nàng một cái đầu, cái sơ-mi cụt tay trắng để lộ những bắp thịt rắn chắc và bộ ngực nở nang. Bộ tóc húi cua, đôi vai dầy, sống mũi và vành tai lỏng lẻo chứng tỏ hắn là môn đệ trung thành của võ đài. Cách cầm súng ung dung và dáng dấp lạnh lùng của hắn cũng ngầm báo cho nàng biết hắn là kẻ chuyên nghiệp trong nghề xử dụng đạn chì. Mắt hắn chớp vài ba cái rồi trở lại như cũ. Hắn vừa chế ngự được tình cảm sôi sục. Tuy nhiên, Nguyên Hương vững tin vào bản lãnh thiên phú của nàng. Nàng biết rằng địch có thể kiểm soát được sự thèm khát trong phút chốc mà thôi. Đến một mực độ nào đó hắn sẽ không điều khiển lý trí được nữa. Khi ấy sự thèm muốn sẽ trào ra như trận lụt cuốn phăng những con đê kiên cố nhất. Anh hùng cái thế hét một tiếng là trăm vạn hùng binh bỏ chạy mà còn bị khuất phục dễ dàng, huống hồ cái ngữ đàn ông đầy thịt này.... Hắn hươi tròn khẩu súng trái khế 9 li: Cô là ai? Ngay trong phút đầu tiên, hắn đã phạm một lỗi lầm nghề nghiệp không thể tha thứ được. Lẽ ra hắn không nên hỏi nàng là ai. Vì hỏi như vậy hắn đã dại dột thú nhận là chưa biết ất giáp gì về nàng. Nguyên Hương bèn hỏi ngược lại: Còn ông, ông là ai? Nàng điểm câu hỏi bằng nụ cười quyến rũ. Hắn thè lưỡi liếm mép như thể cả ngày chưa được hớp nước, cử chỉ này không xa lạ đối với Nguyên Hương. Đàn ông bối rối trước đàn bà đẹp thường có cử chỉ như hắn. Sự bối rối dầu chỉ là trong vài ba giây đồng hồ phù du sẽ có thể giúp Nguyên Hương lấy lại vai trò chủ động. Lợi dụng tình thế, nàng tiến lên một bộ. Gã đàn ông lắc lắc khẩu súng: Đứng lại, cô làm gì thế? Hắn đinh ninh nàng tiến lên để giằng lấy khẩu súng. Hắn không thể nào ngờ được nàng tiến lên một bộ để phản công bằng bát quái quyền. Bát quái quyền là một trong các bộ môn võ thuật kỳ bí của nước Trung Hoa cổ xưa, và từng được coi là tiền thân của nhu đạo hoặc karatê hiện đại. Nguyên Hương, nhờ sự chỉ bảo tận tâm của Văn Bình, đã nắm được tinh túy của bát quái quyền. Theo chương trình huấn luyện dài hạn của sở, cứ 6 tháng nhân viên cao cấp văn phòng phải đến phòng tập một lần dượt lại những thế võ đã học, và học thêm một số thế võ mới. Hôm ấy, Nguyên Hương đang tập đánh bằng gót chân và bàn chân. Văn Bình đứng nhìn nàng tập rồi nhăn mặt: Không được. Nàng phụng phịu: Đối với anh thì cái gì của em cũng là không được cả. Văn Bình phì cười: Em nói sai rồi. Cái gì của em cũng được cả. Trừ phi anh điên anh mới chỉ trích cái gì của em. sở dĩ anh nói "không được" vì anh nhận thấy phụ nữ không thích hợp với môn đá. Nguyên Hương đỏ mặt đứng yên. Trong thâm tâm, nàng nghĩ như chàng từ lâu. Không có gì bất tiện cho bằng phụ nữ dận giày cao gót, ngón chân nuôi móng dài lê thê và tô son láng bóng, phóng bàn chân lên trong thế độc cước hoặc song cước. Tư thế này làm đàn bà mất hẳn vẻ đẹp tha thướt thiên nhiên. Hơn thế nữa, nó còn ảnh hưởng nguy hại đến khả năng sinh lý và làm cho thân thể xiêu lệch, mất vẻ cân đối thẩm mỹ. Văn Bình nắm bàn tay búp măng của nàng, giọng âu yếm: Để anh dậy em nhá! Phụ nữ chỉ thích hợp với một số thế khóa atêmi của nhu đạo. về quyền Tàu thì có Phuợng chỉ bí pháp (1). Tuy nhiên học bát quái quyền vừa nhanh lại vừa đẹp hơn. Anh bảo đảm với em chỉ một vài ngày là em am hiểu 8 thế căn bản của bát quái quyền. Và từ 8 thế căn bản này, em có thể biến hóa thành 64 thế, thừa đủ để đánh ngã đối phương nam giới trong nháy mắt. Không phải lần đầu Văn Bình nhắc đến bí quyết của bát quái quyền, nhưng trong những lần trước, chàng chỉ nói phớt qua rồi quên luôn. Từng học võ lâu năm, và tham khảo nhiếu sách võ” Nguyên Hương đã biết sự lợi hại ghê gớm của bát quái quyền mà 8 thế căn bản dựa trên 8 quẻ của Kinh Dịch là càn, khảm, cấn, chấn, tốn, ly, khôn, đoài. Nàng lại biết bát quái quyền ra đời từ gần năm ngàn năm trước, dưới triều vua Phục Hy, một trong Ngũ Đế (2). Trong 8 thế căn bản, thì phân nửa là tấn công, và hầu hết thế công cũng như thế thủ đều dùng hai bàn tay. Hồi ở Hoa Lục, Văn Bình đã mầy mò đến tận tỉnh Hồ-Bắc để khảo cứu vệ bát quái quyền. Vì sau hàng ngàn năm, bát quái quyền đã thay hình đổi dạng, riêng tại quê hương của nó là Hồ-Bắc là còn một số võ sư chính thống (3). Dựa vào bát quái quyền, Văn Bình đã sáng chế ra một số đòn thần tốc, hễ đánh là chết, ít ra cũng trọng thương, hễ đở là đối phương bị hóa giải dễ dàng. Tuy nhiên, chàng chưa hề truyền thụ lại cho ai. Đúng như Văn Bình trù liệu, Nguyên Hương chỉ cần 48 giờ đồng hồ để đi sâu vào thế giới kỳ lạ của bát quái quyền. Sau nhiều ngày tháng tập luyện kế tiếp, nàng đã tạo được hai bàn tay nửa cứng, nửa mềm, khi cứng có thể đánh nát sọ đối phương, khi mềm có thể hút đòn đối phương như thể được thoa bằng chất keo thật dính. Vì vậy, khi nàng tiến lên một bộ, vung hai bàn tay xòe rộng trong thế "rồng xanh ngoảnh mặt", gã đàn ông bị thịt hoa cả mắt, chưa kịp lảy cò súng thì bàn tay phải cầm súng của hắn đã bị đau thấu xương. Hắn nghiến răng chịu đau để giữ khẩu súng khỏi rơi. Nhưng cũng trong giây đồng hồ ấy, bàn tay trái của Nguyên Hương đã đập vào giữa mặt hắn. Hắn loạng chọang muốn ngã song đã kịp thời xuống tấn để sửa soạn tấn công. Song Nguyên Hương đã tiến lên một bộ nữa với thế "hắc hổ xuất động", cả hai bàn tay của nàng đều bổ vào mặt hắn. Gần 80 kí thịt xương cứng rắn bỗng trở thành mềm nhũn như bún. Hắn rú lên một tiếng ngắn rồi vập đầu vào cánh cửa. Nguyên Hương dựng hắn ngồi đậy, tát mạnh vào má cho hắn tỉnh lại. Hắn nhìn nàng bằng cặp mắt sửng sốt hải hùng. Có lẽ sự sửng sốt hải hùng của các nạn nhân sống sót trong hai vụ oanh tạc bom nguyên tử tại Trường Kỳ, Quang Đảo trong thế chiến thứ hai cũng chỉ đến thế là cùng. Sở dĩ hắn kinh ngạc ngoài sực tưởng tượng vì hắn tưởng nàng là phụ nữ chân yếu tay mềm, hoặc chỉ biết sơ sài dăm ba miếng võ tự vệ. Thế tấn công bằng bát quái quyền của nàng đã làm tinh thần hắn hoàn toàn bấn loạn. Nguyên Hương trả khẩu súng cho hắn: Đáng lý tôi giáng thêm đòn nữa cho anh táng mạng, nhưng vì lòng nhân đạo tôi tha chết cho anh. Hắn chống tay đứng lên, đút khẩu súng trái khế vào túi, rồi thất thểu mở cửa ra ngoài. Nguyên Hương mỉm cười nhìn theo. Nàng đã đọc thấy ý nghĩ trong đầu hắn. Hắn chỉ bước đến gần cửa thì quay ngoắt lại, khẩu súng lại lọt vào lòng bàn tay. Nhưng Nguyên Hương đã phá lên cười khanh khách. Biết bị lỡm, gã đàn ông cúi xuống, dùng ngón tay hất cối đựng đạn ra. Bên trong không còn viên đạn nào cả. Trước đó một phút, khẩu súng chưa bị đánh rớt xuống sàn gác còn chứa đầy đạn, loại đạn 9 li có sức tàn phá mãnh liệt. Hắn kêu lên tiếng "trời ơi" rồi hốt hoảng mở cửa, toan chạy trốn. Nguyên Hương đã nắm áo hắn lôi lại: Thế nào, anh định chạy đi đâu? Cặp mắt hắn mất hết thần sắc: Tôi xin cô.... Nàng dằn từng tếng: Anh đã thấy chưa? Lần thứ hai, tôi tha chết cho anh. May mà anh gặp tôi, chứ nếu gặp người khác thì phút này anh đã nằm thẳng đơ trên đất. Vâng, tôi biết tài nghệ và lòng khoan dung của cô rồi. Tôi chỉ là nhân viên thừa hành.... Hừ, Nguyễn Chấn đã lừa anh vào chỗ chết. Lát nữa, anh trở về tay không, Nguyễn Chấn sẽ tặng anh một viên đạn. Anh hiểu chưa? Gã đàn ông tái mặt không còn hột máu. Nguyên Hương đã nói đúng tâm tư hắn. Hắn được lệnh đến phòng của Uyên-sơn ngồi chờ, dẫu phải chờ đến sáng, nếu có ai tới thì dùng võ lực bắt mang đi. Sự việc đã xảy ra khác hẳn.... Thất bại, hắn không dám trở về nữa. Kỷ luật của Quốc Tế Đặc Vụ được tượng trưng bằng cái đầu lâu đen sì kê trên hai khúc xương tréo cũng đen sì.... Nguyên Hương chỉ mất một phút đồng hồ để thuyết phục gã thuộc viên của Quốc Tế Đặc Vụ. Hắn ngoan ngoãn theo nàng xuống cầu thang. Trước khi ra khỏi phòng, nàng không quên để lại trên bàn bức thư ngắn giả mạo tuồng chữ của Uyên-sơn. Bức thư này sẽ đánh lạc hướng tìm tòi của đồng minh MI-6. Gió mát thổi vù vù quanh công trường Lam Sơn. Giữa đêm khuya vắng lặng, tiếng giầy đế cờ-rếp của gã đàn ông vẫn kêu vang vang như thể đe da đóng cá sắt. Nguyên Hương đối xử dịu dàng và rộng rãi với hắn không phải vì nàng ghét dúng tay vào sự giết chóc. Nàng đã sống quá lâu trong nghề xung đột bóng tối để hiểu rằng tình nhân đạo chỉ là danh từ trống rỗng và khôi hài. Sở dĩ nàng dùng lời lẽ ngọt ngào vì nhận thấy không còn giải pháp nào khác. Hắn không đáng tội chết, nhưng nếu nàng tha hắn, kế hoạch của ông Hoàng có thể bị bại lộ. Để bảo vệ bí mật, nàng phải giết hắn. Nhưng giết hắn rồi mang xác đi đâu? Chỉ còn cách chuyển lên mái nhà. Lực lượng an ninh ở trung tâm thành phố rất đông đảo, họ sẽ nhìn thấy và sẽ nêu ra nhiều câu hỏi soi mói bất lợi. Cho dẫu không gặp nhân viên an ninh chính quyền, Nguyên Hương vẫn gặp nhiều khó khăn lớn lao khác. Khó khăn lớn lao nhất là tuy giỏi võ, nàng vẫn là đàn bà, nàng không thể khiêng gã đàn ông lên vai vượt mái nhà nhanh nhẹn như Văn Bình. Thượng sách là lừa hắn ra khỏi lữ quán. Và hắn đã vui vẻ đi theo nàng. Đến giãy quán bán hoa Nguyễn Huệ, Nguyên Hương bước rảo lại chiếc xe hơi Honda. Nàng phải đi thật nhanh vì sợ gã đàn ông đổi ý kiến. Nếu hắn bỏ chạy, bắt buộc nàng phải đuổi theo quật ngã hoặc nổ súng. Nàng mở cửa xe, nhường hắn trèo lên trước. Trước khi cho máy nổ, nàng mở một cái nút ở táp-lô trông giống như nút mở tắt máy thâu thanh xe hơi. Nút này được nối liền với dụng cụ đặc biệt có nhiệm vụ báo động nếu trong khi nàng vắng mặt kẻ gian mở cửa xe, mở nắp ca-bô để đặt chất nổ. Dụng cụ này có thể "nhìn thấy" bất cứ vật lạ nào được gắn vào dưới gầm xe. Trong trường hợp xe hơi bị gắn mìn, một hồi kèn êm tai sẽ nổi lên. Từ ngày nhiều vụ mất trộm xe hơi xảy ra trong thành phố cùng với nhiều vụ gắn chất nổ vào xe hơi của sở Mật Vụ, ông Hoàng đã sai chế tạo dụng cụ "mắt thần" tối tân này. Bởi vậy, tỷ lệ phá hoại và mưu sát nhân viên Mật Vụ đã được giảm xuống mức tối thiểu. Động cơ chiếc Honda 800-SS reo lên bum bum. Tiếng máy nổ tròn trịa và ấm áp như có mãnh lực thầm kín lôi kéo gã đàn ông trở về thực tại. Hắn bắt đầu cảm thấy dại dột. Hắn liếc nhìn Nguyên Hương, rồi hối hả mở cửa xe. Song Nguyên Hương đã hành động đúng lúc khiến gã nhân viên Quốc Tế Đặc Vụ trở tay không kịp. Đề máy xong, nàng quật trái bàn tay vào cuống họng hắn. Hắn hự một tiếng rồi gục xuống. Hắn sẽ ngủ say hàng giờ. Nàng sẽ lái về một địa điểm định sẵn, nhốt hắn vào phòng giam riêng để khai thác. Có thể hắn sẽ được trả tự do sau khi công tác hoàn tất. Nhưng cũng có thể hắn phải đi thẳng một mạch sang thế giới bên kia. Nguyên Hương nhìn đảo một vòng. Chung quanh không có một ai. Nhân viên cảnh sát đang đứng ở xa, tận Tòa Đô Chánh. Nếu có con mắt điện tử họ mới có thể nhận rõ bên trong chiếc Honda 800-SS nhỏ xíu. Nàng mở điện thoại siêu tần số, gọi cho ông tổng giám đốc. Thưa ông, xong rồi. Giọng ông Hoàng khàn khàn (có lẽ vì ông đã hút đến điếu xì-gà Ha-van thứ mấy chục trong ngày). Gặp người của Nguyễn Chấn không? Thưa có. Tôi đã bắt mang theo. Tốt lắm. Cô chở hắn về Ngô Đức Kế, giao cho nhân viên trực. Nhớ chích thuốc ngủ cho hắn. Thưa, vẫn tiến hành kế hoạch? Vẫn. Tôi đang chờ cô. Nguyên Hương đau nhói nơi tim. ông Hoàng đã quyết đơn thương độc mã nhảy vào hang cọp. Nàng cố can gián song ông không chịu nghe. Nàng thở dài, dứt xe ra khỏi lề. Kể ra, Nguyên Hương đã lo lắng hơi quá đáng. Là người thân của ông tổng giám đốc già nua, nàng có quyền lo lắng. Song nàng quên rằng ông Hoàng chỉ già tuổi chứ chưa già tâm trí. Về mưu lược, ông vẫn sắc bén, hữu hiệu hơn bao giờ hết. Cho nên ông nhảy vào hang cọp thật đấy nhưng không e ngại vì ông đã mang theo đầy đủ phương tiện và dụng cụ thích ứng để giết cọp con. Ông Hoàng lái xe vào vệ cỏ đường Trương Minh Giảng, sắp dấn thân vào nguy hiểm, ông bỗng cảm thấy trong lòng thơ thới. Lâu lắm, ông không có dịp dượt lại tài bắn súng và đấu quyền. Và cũng từ lâu lắm, ông không có dịp đi một mình, lái xe một mình, theo một lộ trình do ông tự ý định đoạt. Thật vậy, chức vụ tổng giám đốc Sở Mật Vụ đã bắt buộc ông phải giữ an ninh tối đa. ông đi đâu, vệ sĩ bén gót theo đến đấy. Trong thời gian gay cấn đầu tiên, vệ sĩ mặc thường phục ngồi chật ních xe hơi, lấy xương thịt làm mộc che cho ông. Đến khi sở có tiền, và sắm được xe hơi bọc thép dầy, sườn xe, và kiếng xe đạn bắn không thủng, con số vệ sĩ tháp tùng được giảm xuống còn 4 người. Sau đó, Lê Diệp đã thay đổi hoàn toàn. Chàng sếu vườn của sở Mật Vụ đuổi hết đám vệ sĩ sau khi thử tài họ. Vệ sĩ nào cũng có hàng tá bằng cấp cận vệ chiến mà chỉ chịu đựng một phút đồng hồ với Lê Diệp. Chàng cho rằng sự hiện diện của bọn giá áo túi cơm càng làm cho ông Hoàng gặp khó khăn thêm. Từ đó, Lê Diệp trở thành con bài trùng của ông Hoàng. Chàng theo ông ngày cũng như đêm, như bóng với hình. Vì chàng còn độc thân, lại không bận bịu tình yêu, bận bịu rượu huýt-ky như Văn Bình, nên nhiều khi ngủ luôn tại sở, trên cái ghế bố kê cạnh văn phòng. Nhưng Lê Diệp đã gặp nạn.... Ông Hoàng bước xuống xe. Hai con chó lặng lẽ nhảy xuống theo. Hai con chó này là sức mạnh kinh khủng có thể bảo vệ ông Hoàng hữu hiệu hơn một tiểu đội vệ sĩ đai đen nhu đạo, trang bị khí giới tối tân. Chúng không phải bẹt-giê giống Đức, nổi tiếng trên thế giới. Tuy nhiên, chúng còn lanh lẹ hơn bẹt-giê, tinh khôn hơn bẹt-giê nhiều lần. Chúng là chó Nhật, song không phải loại chó Nhật thấp nhỏ, lông dài chấm đen và đỏ, khuôn mặt hiền lành, loại chó làm kiểng dành riêng cho phụ nữ đài các, giống như chó Pê-ki-noa. Mà là chó Nhật chiến đấu. Chó săn Nhật gồm bốn thứ. Chó săn nhỏ nhất là Shiba-lnu, cao độ 40 phân tây, tai nhỏ, hình tam giác, đuôi dài vắt vẻo, lông muối tiêu hoặc xám, bình thường rất vui vẻ, ưa đùa nghịch, nhưng khi lâm trận không thua cọp beo. Nó ra đời từ thế kỷ thứ 5 trước Tây lịch, từ Trung Quốc du nhập vào đảo Phù Tang. Lớn hơn Shiba-lnu là giống Hokaidô-lnu, cao độ 50 phân tây, mõm nhọn hoắt, mắt nhỏ, tròng nâu sẫm lông dựng tua tủa màu muối tiêu, xám hay vằn, sinh sống tại đão Hokaido. Giống này lớn con, và khỏe mạnh, lại rất trung thành với chủ. Nhiều con Hokaidô-lnu đã liều thân cứu chủ, và còn được ghi danh trong sử sách Nhật Bản. Chó lớn nhất là Akita-lnu, cao độ 70 phân, xương sống cứng như cột sắt, mắt nhỏ hình ba cạnh, tai nhỏ và dây bản, lưng đầy lông cứng, phía dưới có lông măng mịn màng. Trong quá khứ, nó sống tại miền Đông-Bắc. Từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 109, nó được giới võ sĩ đạo dùng để đánh trận. Hiện nay chính phủ Nhật liệt giống Akita này vào loại súc vật hữu ích được bảo vệ. Giống dữ nhất là Tôsa, cao độ 60 phân tây, nặng chừng 38 kí, người tròn lẵn, mõm vuông, tai cụp, lông dày và ngắn, màu đỏ. Nó ra đời vào cuối thế kỷ 19 do sự lai giống giữa chó bẹt-giê tây phương và chó địa phương. Hai con chó của ông Hoàng thuộc loại Tôsa, Shiba và Akita phối hợp. Đích thân Văn Bình qua Nhật, đến một trại nuôi chó lớn ở ngoại ô Quang Đảo, chọn mua và mang về Sàigòn. Ban Huấn Khuyển của sở phụ trách nuôi nấng từ khi chúng mới được 1 tháng, trông nom từng li từng tí, bắt đầu từ tháng thứ hai đã tập tành. Giờ đây, chúng đã được 3 năm. Tuổi chó được tính khác tuổi người, năm thứ nhất của chó tương đương với 25 năm của người, còn năm thứ hai trở đi thì mỗi năm của chó bằng 5 năm của người nên chó 3 năm có thể được coi là tương đương với 35 tuổi của người. Người 35 tuổi đã chín chắn, cơ thể và trí thông minh nẩy nở cực độ nên hai con chó Tôsa của ông Hoàng được xếp vào loại bẹt-giê dũng mãnh nhất của sở. Đặc điểm của hai con Tôsa là một đực, một cái. Chúng là vợ chồng nên bảo vệ nhau hết mình. Chúng không sủa gâu gâu như mọi loại bẹt-giê thông thường. Khi nào chúng cũng im lặng. Chúng nhảy ào lại, cắn cổ nạn nhân chỉ gây ra tếng động như gió thổi. Giống chó chỉ phân biệt được khoảng nửa triệu mùi vị khác nhau (4): tuy nhiên, cặp chó Tôsa này lại phân biệt được trên ba triệu, nghĩa là nhiều hơn nữa. Chương trình huấn luyện đã được hoạch thảo và tiến hành một cách khoa học, tinh vi và kiên nhẫn. Ngoài các nhân viên thường trực của sở, ông Hoàng còn cho mời viên phụ tá của ông Hanssman, tổng giám đốc một trung tâm dạy chó lừng danh nhất nhì thế giới đến tận Sàigòn để giám sát việc huấn luyện (5). Sau khi nhảy xuống đất, cặp Tôsa liếm giày ông Hoàng rồi tách làm hai, con đực chạy trước, con cái le te theo sau, ông Hoàng đi giữa. Với thế tiền hô hậu ủng thầm lặng này, ông Hoàng có thể hoạt động trên đất địch như vào chỗ không người. Kẻ nào xấn đến, cặp chó chỉ rướn lên là xô ngã. Trong tầm xa một trăm thước, chúng còn đánh hơi thấy người ẩn núp để bắn lén nữa. Mấy phút sau, ông Hoàng quẹo bên phải vào đường Yên Đỗ. Tòa biệt thự ba tầng mà ông Hoàng sắp đột nhập đứng sừng sững phía trước. Mặt tiền của nó ngoảnh ra đường Trương Minh Giảng, gần góc đường Kỳ Đồng. Đề phòng người lạ ở trên lầu dùng viễn kính chung quanh nên ông Hoàng đi len trong hẻm Yên Đỗ. Ông đang chờ cơ hội thuận tiện để băng qua đường và bắt đầu công cuộc đột nhập. Cơ hội thuận tiện này đã đến. Mọi đèn điện trong khu vực đột nhiên tắt ngúm. Đó không phải do ngẫu nhiên hoặc máy móc trục trặc mà ra. Mà là một phần trong kế hoạch hành động của ông Hoàng. Trước đó đúng 3 phút, Nguyên Hương đã có mặt gần trạm biến điện của khu vực Trương Minh Giảng. Công việc của nàng rất giản dị: mở cửa vào và tìm cách cúp hơi. Cửa trạm biến điện được khóa kiên cố. Nhưng loại khóa này đã trở thành đồ chơi trẻ con đối với chuyên viên điệp báo như Nguyên Hương. Nàng đã trù tính kỹ càng, từ lúc nàng đậu chiếc Honda 800-SS đến lúc đèn điện phụt tắt chỉ mất từ 120 Đến 180 giây đồng hồ. Tuy nhiên, trở ngại bất thần đã hiện ra. Nàng không ngờ trước trạm cũng có người gác, và là người gác cầm súng. Giờ giới nghiêm đã đến từ lâu, đường xá vắng teọ, vắng ngắt, nếu nàng ló mặt ra, người gác sẽ nhìn thấy và kêu lớn "ai đó, đứng lại". Nàng có đầy đủ giấy tờ cần thiết, chỉ đọc sơ qua người gác cũng nổ đom đóm mắt. Song le công việc sẽ bị trì chậm. Và nhất là bị bại lộ. Vì vậy, nàng phải kiếm phương kế thực hiện kế hoạch một cách thần tốc và êm thắm. Đứng trong hẻm nhìn ra, nàng thấy rõ khẩu tiểu liên M.16 trong tay người gác, một thanh niên cao lớn. Hắn cách nàng gần 50 thước. Nếu khoảng cách được thu hẹp vào 5 hoặc tối đa 10 thước, nàng có thể thừa cơ hắn quay lưng lại, phóng vọt ra tặng hắn một atêmi. Hắn sẽ ngã vùi xuống cỏ, ngủ luôn cho đến sáng. Đằng này, hắn lại ở quá xa. Hắn lại đứng nguyên một chỗ, mặt hướng về phía nàng. Nhìn đồng hồ, Nguyên Hương chau mày, lẩm bẩm: Muộn mất rồi. Mình không thể đợi thêm nữa. Nói đoạn, nàng xăm xăm bước ra khỏi hẻm tối. Quả như nàng tiên đoán, nàng mới đi được một quãng ngắn thì gã đàn ông đã quát to: Ai đó? Đứng lại! Nguyên Hương đứng lại và đáp: Thưa ông, tôi đây. Hắn tiến về phía nàng. Nguyên Hương khấp khởi mừng thầm. Nàng có thể quật hắn ngã dễ dàng như lấy mù-soa trong túi. Nhưng chỉ tiến được mấy bước, hắn đứng lại, chĩa súng, giọng chát chúa: Cô có biết mấy giờ rồi không? Nàng đáp: Thưa, đang giờ giới nghiêm. Phải rồi. Phiền cô cho xem giấy tờ. Thưa, giấy tờ đây. Gã đàn ông thiếu kinh nghiệm đã phạm một lỗi lầm ấu trĩ. Hắn chìa tay ra toan đón xấp giấy do Nguyên Hương đưa thì một trận gió đã thổi vèo vào cổ. Trận gió này là một thế đánh sấm sét của bát quái quyền nhằm triệt hạ đối phương trong chớp mắt bằng sống bàn tay quét ngang yết hầu. Thế võ này mang cái tên thi vị là "phượng hoàng vỗ cánh". Chim phượng hoàng vừa vỗ cánh bay tới thi gã đàn ông cân nặng 70 kílô đã bị bắn vào bức tường gạch quét vôi trắng trồng đầy hoa ti-gôn. Hắn chỉ kêu được hai tiếng ngắn: ồi cha! Rồi nằm thẳng đơ ra. Nguyên Hương cúi xuống, cầm cườm tay hắn lên nghe mạch. Huyết quản hắn vẫn đập theo nhịp bình thường. Nghĩa là hắn chỉ ngủ mê chứ không nguy đến tính mạng. Nàng đã canh đúng sức mạnh của ngón đòn. Nếu già thêm một chút, nạn nhân đã hồn lìa khỏi xác. Vào ba giờ đồng hồ nữa, hắn sẽ tỉnh dậy. Khi ấy, kế hoạch của ông Hoàng đã được thực hiện xong xuôi. Hắn sẽ làm tờ trình lên thượng cấp. Trong vòng một tuần lễ, một bản báo sao của tờ trình này sẽ được gởi đến sở Mật Vụ, và nằm trong "hồ sơ đến" của văn phòng bí thư trưởng Nguyên Hương. Nàng mỉm cười nhè nhẹ. Để chữa thẹn, gã đàn ông kia sẽ thêu dệt thêm. Hắn sẽ báo cáo là bị mấy tên lưu manh lạ mặt chặn đánh đột ngột khiến hắn trở tay không kịp. Nguyên Hương rút trong túi ra chùm chìa khóa. Chùm chìa khóa này chỉ gồm 5 chìa dài, ngắn, dài mỏng, to nhỏ khác nhau, hình thù vô cùng quái dị, 5 cái chia này có thể mở được hàng ngàn hàng vạn ổ khóa bí hiểm nhất trên thế giới. Nàng tra chìa vào ổ. Cách một tiếng nhỏ, cánh cửa được mở ra. Rồi đèn điện trong khu vực tắt ngúm. Ông Hoàng bước dọc theo hàng rào cao lút đầu người, được tôn uốn ghép vào nhau, che kín như bưng, bên trên dây kẻm gai lại được truyền điện 220 vôn. Đối với ông Hoàng, Tôn Hành Giả trong nghề điệp báo thế giới, thì vượt qua bức tường, nhảy vào trong vườn chẳng có gì là khó khăn. Tuy ông đã luống tuồi, gân chân ông vẫn còn đủ dẻo để rún lên trên nếu có điểm tựa kiên cố bên dưới. Tuy nhiên, ông Hoàng không cần xử dụng võ thuật. Vì từ nhiều năm nay, ông đã dày công nghiên cứu một nghề điệp báo hành động mới, giống như sách cẩm nang "đẻ không đau", "ai cũng học được tiếng Anh". Nói cách khác, ông cố gắng tìm tòi và phát minh ra những dụng cụ và kỹ thuật tân tiến khiến cho bất cứ ai cũng có thể làm điệp viên hành động dễ dàng, khỏi phải trải qua 5, 7 năm trời huấn luyện như trong quá khứ. Theo như ông Hoàng, khẩu hiệu của điệp viên hành động tương lai là "tất cả phải làm bằng máy". Vì vậy, đêm nay đột nhập tòa nhà ba tầng lầu tức câu lạc bộ Ngũ Nhật Hội, ông Hoàng dùng toàn máy móc kỳ lạ. Đường đi tối như hũ nút nhưng ông không vấp mặc dầu bị cận thị nặng vì trên cặp kiếng cận thị còn có một cặp kiếng mỏng khác, có tác dụng nhìn xuyên qua màn đêm. Vả lại con Tôsa đực chạy trước thỉnh thoảng lại dừng lại, đợi ông Hoàng, đuôi ve vẩy chạm vào người ông, đoạn đường nào khấp khểnh hoặc có ổ gà sâu nó đều ngoạm ống quần ông báo tin. Từ trong vườn vẳng ra tiếng chó sủa gâu gâu. Bọn bẹt-giê trong biệt thự đã đánh hơi thấy người lạ. Nhưng trước đó một phút, ông Hoàng đã lấy trong túi ra một cái tu huýt hao hao như tu huýt của trẻ con chơi. Đó là loại còi riêng, khi thổi thì số siêu âm thanh phát ra, không nghe được thành tiếng, ngoại trừ chó và gia súc. Đàn chó trong biệt thự vừa gâu gâu dữ dội thì ông Hoàng đưa cái tu huýt lên miệng. Trong chớp mắt, như có ma thuật, ông đã làm đàn chó hung hăng câm lặng, tai cụp, đuôi rũ, nằm bẹp trên đất. Hai con Tôsa không hề gì vì chúng được đeo mặt nạ cao su, có một bộ phận lọc ngăn cản siêu thanh. Loại siêu thanh do tu huýt của ông Hoàng phát ra làm cho đàn chó trong biệt thự ù tai, nhức óc như bị dùi nhọn xắn sâu vào khiến chúng phải nằm xuống thở dốc. Ông Hoàng tiếp tục thổi. Kinh nghiệm cho thấy chó bẹt-giê rất giỏi chịu đựng, có nhiều con vừa nằm xuống đã vùng dậy được ngay và cất tiếng sủa mạnh mẻ hơn trước như thể để mách chủ nhân. Hiện tượng này sẽ làm người gác trong vườn ngờ vực. Và kế hoạch đêm nay của ông Hoàng sẽ hỏng bét. Ba con bẹt-giê to lớn, lông xù, trông như con beo, ngày thường oai vệ bao nhiêu thì đêm nay hèn nhát bấy nhiêu. Ngày thường, chúng chỉ rướn cẳng lên, sủa một tiếng nhỏ là người mang khí giới trong tay cũng hoảng sợ bỏ chạy. Vậy mà khi nghe tiếng còi siêu thanh quái đản của ông Hoàng, cả ba con bẹt-giê hùng dũng đều rúc mõm xuống đất, không dám ngẩng lên. Trong vòng 60 giây đồng hồ, cả ba con bẹt-giê bách chiến bách thắng đã bị mê man hoàn toàn, ông Hoàng ngừng thổi síp-lê, nghe ngóng. Tiếng sủa hoàn toàn câm bặt. Biết là bọn chó đã bất tỉnh, ông Hoàng ung dung tiến lại cánh cửa hông. Tòa nhà rộng trên ba ngàn mét vuông đất này có hai cửa hông, dành riêng cho khách kín đáo không muốn ra về bằng cửa trước. Cánh cửa bằng sắt tròn gắn tôn dày được đóng chặt bằng một sợi xích to tướng. Tưởng như xích khóa cửa xà-lim tử hình của thời Trung cổ cũng có thể lớn đến ngần ấy là cùng. Đầu xích có một ổ khóa hình chữ nhật, trông như gói thuốc lá. ổ khóa này có một đặc điểm: nếu người lạ dùng chìa giả để mở hoặc dùng kềm để bẻ, nó sẽ rú lên một hồi còi báo động. Lệ thường, muốn mở khóa người ta phải quay chia từ trái sang phải, ngược chiều kim đồng hồ, ổ khóa này lại mở lộn lại. Ông Hoàng đã chuẩn bị chu đáo nên không gặp mảy may trở ngại. Toàn khu bị cúp điện, hệ thống báo động khoa học của câu lạc bộ Ngũ Nhật Hội đã bị vô hiệu hóa. Như các biệt thự lớn ở Hoa Kỳ, câu lạc bộ Ngũ Nhật Hội được gắn chuông điện tử báo động ở các cửa lớn ngoài bờ rào và trong nhà. Trên lầu ba, ngoài một số nhân viên thường trực dùng ống viễn kính quan sát quanh vườn còn có một hệ thống truyền hình riêng đảm nhiệm việc kiểm soát và canh phòng. Tòa nhà cũng được trang bị một máy phát điện khổng lồ chạy bằng xăng, khi điện do thành phố bị cắt nó có thể thay thế. Tuy nhiên, nó phải mất đúng 5 phút mới cung cấp được hơi điện. Trong thời gian 5 phút ấy, ông Hoàng đã có thể thực hiện được kế hoạch trù liệu. Ông Hoàng bước vào trong vườn. Con Tôsa đực đã xung phong vào trước, ông Hoàng nghe nó cào đất xột xoạt. Hiểu ý nó, ông bèn ngồi thụp xuống. Một con vật cao lêu nghêu chạy vụt tới, nhanh như trận bão. Tuy vậy, ông Hoàng không ngạc nhiên. Vì ông đã biết con vật dị thường này là con đà điểu. Chủ nhân câu lạc bộ nuôi 2 con đà điểu để giữ cửa cùng với đàn bẹt-giê và các dụng cụ điện tử. Đà điểu chạy nhanh bằng xe hơi, khối thịt rắn chắc của nó đủ sức húc đồ bức tường gạch, hai con Tôsa chưa phải là địch thủ đồng cân của nó. Tuy nhiên, đà điểu chỉ to xác chứ không làm nên chuyện trước cái tu-huýt siêu thanh vạn năng, ông Hoàng nâng còi lên miệng thổi. Kỳ lạ thay, hai con đà điểu lực lưởng, can đảm bỗng khuỵu xuống. Ông Hoàng dừng lại. Cặp vợ chồng Tôsa quấn quít bên chân ông, ông vuốt đầu con cái, giọng thân mật, như thể nói với con người: Nằm ở đây chờ một lát nhé! Đôi bẹt-giê hiểu tiếng người, thè lưỡi ra liếm bàn tay ông Hoàng rồi tuân lệnh rút lui ra gần hàng rào. Chúng nằm thẳng trên đất, mõm hơi nghếch lên. Trong khi ấy, ông Hoàng đã trèo bậc cấp vào phòng khách. Tứ phía tối om. Từ cầu thang có ánh đèn bấm chiếu lại. Song ông Hoàng vẫn thản nhiên đặt chân lên cầu thang xi-măng, lót thảm êm ái. Ông Hoàng lên đến lầu nhất thì đèn điện cũng vụt sáng. Tuy đã nghe báo cáo tường tận về sự thật bên trong tòa nhà bí mật, ông cũng không ngăn được sự sửng sốt. Trước mặt ông, sau lưng ông, là một quang cảnh mà ông chưa hề thấy, mặc dầu ông đã phiêu bạt khắp thế giới, từng lăn lộn trong những thiên đường ăn chơi đắt tiền nhất. Chỗ nào cũng có ánh sáng. Nhưng toàn là ánh sáng gián tiếp bằng đèn ống giấu trong tường, trên trần, dưới sàn tỏa ra. Đèn ne-ông gồm nhiều màu khác nhau, xanh, vàng, lục, hồng, tím, đỏ” tất cả đều nhàn nhạt, huyền ảo, khiến dạ khách ngây ngất như lạc vào động tiên. Khách đã ngây ngất càng ngây ngất thêm vì không khí sực mùi hương hoa, một loại hoa quý phái, đắt tiền, được trọng vọng vì hình dáng xinh đẹp và mùi hương đằm thắm: hoa cẩm chướng. Trên bậc thang xi-măng đá rửa trắng toát, ngoài hành lang, dưới cửa sổ, trong phòng, hàng chục, hàng trăm chậu cẩm chướng, đủ cở, đủ màu được bày la liệt. Cây cẩm chướng có những cái lá nhỏ hơn, mịn hơn lá cây hoa khác, hoa lại nở thật nhiều, nhiều đến nỗi màu xanh phớt của lá bị chìm hẳn trong màu hoa, hoa trắng, hoa hồng, hoa đỏ. Ông Hoàng đã làm nhiều nghề trong đời. Nhiều khi ông đội lốt song nhiều khi ông thành thạo như người trong nghề thật thụ. Một trong những nghề ông thường làm nhất là nghề trồng hoa. Có lẽ ông sinh trưởng trong một vùng trồng hoa, và song thân ông từng sinh sống bằng nghệ thuật trồng hoa hồng, thược dược và lê-dơn. Phần khác, có lẽ vì ông có tâm hồn thi sĩ. Từ ngày hồi hương, nhận lãnh trách nhiệm tổ chức và điều khiển ngành điệp báo, ông Hoàng đã mở trại trồng hoa cả thảy 2 lần. Cơ sở đầu não của ông được ngụy trang trong trại. Hàng ngày, ông dậy sớm, ra vườn chăm hoa, rồi tiếp các nhân viên. Dần dà, vì công việc của sở gia tặng, vấn đề an ninh cũng trở nên phức tạp nên ông Hoàng phải bỏ trại hoa ở ngoại ô để dọn vào trung tâm thành phố. Là chuyên viên trồng hoa, ông đã biết rõ giá trị của hoa cẩm chướng. Nó không phải là bà hoàng của các loài hoa, nhưng khách yêu hoa lại có cảm tình với nó thắm thiết hơn là với hoa nào khác, ông Hoàng có cảm tình đặc biệt với ba biến thể thượng lưu của hoa cẩm chướng, đó là "vương hậu" trắng nõn nà như tuyết, "hoa hồng tháng 5" màu hồng dịu dàng, gợi cảm, si mê, và hoa Saxonia màu đỏ tía. Ba biến thể này được trồng ở Tây phương, trong những trại hoa nổi tiếng, giá đắt kinh khủng, phải là nhà triệu phú mới đủ tiền mua về cắm trong bình. Vậy mà cẩm chướng quý phái màu trắng, màu hồng và màu đỏ đua nhau khoe sắc, khoe hương trước mắt và mũi ông Hoàng, tổng giám đốc sở Mật Vụ. Nếu không có công việc quan trọng phải giải quyết, ông đã ngồi xuống một bên, nâng niu đóa hoa thùy mị.... Ông bước qua giữa hai chậu cẩm chướng màu hồng để vào phòng. Một căn phòng lớn, choáng gần hết lầu nhất. Bên trong đã có nhiều người. Toàn là người ngoại quốc, phục sức sang trọng, vét-tông, cà-vạt đen, sơ-mi trắng cổ cứng. Họ ngồi quanh những cái bàn tròn, bên trên trải khăn vàng nhạt, ông Hoàng đếm được gần 20 cái bàn, hầu hết đều kê hai bên dọc theo tường. Trên bàn nào ông cũng thấy cái xô đá bằng nhom trắng, nhô ra phía trên cái cổ màu xanh của chai rượu sâm-banh. Ông Hoàng đã nhiều lần đọc báo cáo của nhân viên về câu lạc bộ Ngũ Nhật Hội. Nhưng ông không yêu cầu bên cảnh sát can thiệp. Vì ông nghĩ rằng sào huyệt trác táng và đồ bác này sẽ giúp ích không nhỏ vào công tác thu lượm tin tức tình báo, vả lại, ở một thủ đô gần ba triệu dân với mấy trăm ngàn ngoại kiều như Sàigòn thì đầu mụ Tú Bà này bị chặt, đầu mụ Tú Bà khác lại mọc lên, không bao giờ dứt như thể đầu Phạm Nhan. Hơn nữa, câu lạc bộ chỉ dành riêng cho khách ngoại quốc. Tuy nhiên, các báo cáo của nhân viên chỉ nói Ngũ Nhật Hội là ổ trụy lạc hạng cực sang. Mãi đến nay, ông Hoàng mới biết sự liên hệ của Nguyễn Chấn, nghĩa là của Quốc Tế Đặc Vụ, với cựu thiếu tướng Sulivông. Nguyễn Chấn đến câu lạc bộ Ngũ Nhật Hội để làm gì? ông Hoàng không tin hắn đến đó với mục đích tìm vui. Linh tính nghề nghiệp già dặn đã ngầm báo ông Hoàng nhiều bí mật quan trọng. Hầu hết đèn điện trong phòng đều tắt cùng một lượt. Chỉ còn lại mấy ngọn đèn trên trần, ông Hoàng khoan thai ngồi xuống cái bàn trống, ông đeo mặt nạ cao su porotherme nên trẻ hẳn, bộ âu phục đắt tiền của ông cũng làm ông lùi lai hai, ba chục tuổi. Nhờ kỹ thuật cải trang tinh vi này, ông không sợ bị nhận diện. Khách vào câu lạc bộ đều có thẻ riêng, và phải qua nhiều trạm kiểm soát. Lên được lầu nhứt phải là khách quen hoặc được tin cậy. Vì vậy, ông Hoàng thản nhiên ngồi chờ chiêu đãi viên tiến lại bàn. Tuổi tác, sức khỏe và gánh nặng công việc đã biến ông Hoàng thành tu sĩ từ lâu. Nhưng cô bé hầu bàn đang ưỡn ẹo bước đến trước mặt đã truyền vào các thớ thịt, đường gân và xương sống của ông một luồng điện cực mạnh, ông cảm thấy toàn thân rung rung. Chiêu đãi viên ở đây phục sức toàn bằng đồ ni-lông và đăng ten đắt tiền của hãng Valentine, nỗi tiếng ở Mỹ về thời trang lõa lồ khêu gợi đàn ông. Cô gái cúi đầu chào ông Hoàng. Nàng trạc 18, 20, cái tuổi sung sức nhất của nữ giới. Diện mạo và thân thể nàng khá đẹp. Song sắc đẹp của nàng khó thể lôi cuốn những người đàn ông khô khan và nghiêm nghị nếu nàng không mặc đồ voan mini màu trắng. Bộ đồ này gồm một cái áo rộng mỏng như giấy bóng từ ngực xuống tới dưới bụng một chút, phơi trần toàn bộ ngực khiêu khích. Loại áo cuồng loạn này được ghi trong ca-ta-lô của hãng Valentine với số 207. Mặc quần như vậy, phụ nữ trở nên quyến rũ hơn là khỏa thân gấp bội. Bất giác ông Hoàng liên tưởng đến Văn Bình. Điệp viên z.28 hằng bị chê bai là hảo ngọt cực độ đối với đàn bà. Giờ đây, cọ sát với nhan sắc hỏa diệm sơn, ông Hoàng mới biết thái độ si mê của Văn Bình chỉ là phản ứng tất nhiên. Nếu không mang một đống năm tháng và trách nhiệm lớn lao trên đôi vai gầy còm, ông đã nuốt nước miếng, mắt nổ đom đóm, tai ù đi để rồi đầu hàng vô điều kiện. Nàng cất tiếng hỏi, ngọt như mật ong: Em khui sâm-banh cho anh uống nhé? Ông Hoàng gật đầu. Cô gái đứng sát vào người ông. Nàng cố tình cọ bộ ngực đồ sộ và lồ lộ vào má ông Hoàng, ông tổng giám đốc sở Mật Vụ phải giả vờ nghiêng đầu châm xì-gà mới khỏi bị nghẹt thở. Nàng mở nút sâm-banh, kêu một tiếng bụp nhẹ nhàng, rồi rót vào ly pha lê, bưng tận miệng cho ông Hoàng. Dầu cận thị nặng, ông già Mật Vụ vẫn nhìn thấy rõ ràng hai trái tuyết lê trắng nõn của nàng đung đưa cách mặt ông chưa đầy hai gang tay. ông uống một hơi, cạn nửa ly sâm-banh. Cô gái phà hơi miệng vào mũi ông Hoàng: Hôm nay có thực đơn đặc biệt, óc bồ câu trộn thịt băm, lưỡi vịt hầm, và gà gô chiên. Anh bằng lòng không? Ông Hoàng gật đầu ngay để tống cổ cô gái trần truồng đi nơi khác, ông đến đây không phải để ăn cao lương mỹ vị. Nhưng món như óc bồ câu nhồi thịt băm, lưỡi vịt hầm, gà gô chiên được coi là thực đơn trợ lực được các vua chúa ở Trung Hoa và xứ ngàn một đêm lẻ thường dùng, hầu thỏa mãn tam cung lục viện. Người ta phải mỗ từ 20 con bồ câu trở lên mới lấy được đủ óc. Và phải là bồ câu đực và bồ câu cái, số lượng đồng đều, đực nhiều hơn hoặc cái nhiều hơn là tác dụng khích động của nó bị hư hỏng. Thịt băm được nấu chung với óc bồ câu cũng không phải là thịt bò, hoặc thịt heo thông thường. Vì theo bí quyết nấu ăn nội cung, thịt heo hoặc thịt bò trộn với óc bồ cậu mất hết tinh dược, óc bồ câu chỉ được trộn chung với một thứ thịt đặc biệt: thịt đùi ếch. Và cũng phải chọn đủ đùi ếch nam, ếch nữ. Lưỡi vịt hầm cũng khó nấu không kém óc bồ câu. Tùy sở thích, nó được hầm với sâm nhung thứ tốt hoặc với một số cỏ quý. Và gà gô chiên - món ăn mà người Pháp khoái khẩu nhất - cũng không phải thứ gà gô mua ngoài chợ, đem về cắt tiết, vặt lông, moi ruột, bỏ vào lò quay cho vàng rộm. Gà gô này được nuôi trong chuồng riêng, với thức ăn riêng - những thức ăn này được giữ bí mật nên ít ai biết - một đĩa gà gô dọn cho 4 thực khách gồm hai con đực con cái còn tơ. Theo người Trung Hoa thì trên thiên hạ có 8 món ăn quý nhất, gọi là bát trân như gan rồng, tủy phụng, thai con báo, đuôi cá gáy, chả thịt cú, môi đười ươi, bàn tay gấu, nhượng heo con (6). ông Hoàng đã có dịp thưởng thức những món ăn kỳ lạ ấy. Ngon thì ngon thật, nhưng chúng quá cầu kỳ. Tuy nhiên, về sự cầu kỳ, bát trân còn thua xa nghệ thuật nấu món khích dâm ở các vương quốc Trung Đông. Từ nhiều năm nay, ông Hoàng không dúng đũa vào món ăn ngon nữa. Đối với ông, món nào cũng như món nào. Dường như vị giác của ông trở nên yếu kém vì óc suy nghĩ tột độ. Từ nhiều năm nay, ông sống thanh đạm như thày tu, nhiều khi còn thanh đạm hơn cả thày tu. Vì vậy, khi nghe quảng cáo những món ăn khích dâm thượng hạng, ông khựng người, ông gật đầu nhưng không phải để tỏ dấu ưng thuận, ông muốn được ngồi yên một mình để lo công việc. Cô gái núi lửa bước khỏi bàn bỗng hối hả quay lại. Một lần nữa, nàng lại ưỡn ngực trắng phau phau cho ông chiêm ngưỡng. Giọng nàng ỏng ẹo: Anh dùng thêm xúp Ý đại lợi đặc biệt nữa nhé? Cô gái nói dứt, không đợi ông Hoàng trả lời, đã quày quả bước đi. Cũng may nàng bước đi, chứ nếu đứng lại, nàng sẽ nhận thấy một sự thay đổi rõ rệt trên gương mặt ông Hoàng, ông là người không biết xúc động vụn vặt, và vô ích, vậy mà đêm nay nghe nói đến xúp Ý đại lợi ông lại xúc động mãnh liệt như chàng thanh niên mới nếm mùi tinh ái lần thứ nhất trong đời. Mắt ông hoa hẳn. ông không còn nhìn thấy những ngọn đèn ống lờ mờ, những bông hoa cẩm chướng huyền ảo, những người đàn ông phục sức sang trọng say sưa uống sâm-banh nữa. Ông chỉ nhìn thấy bóng dáng sôi đọng của quá khứ. Ý là quê hượng của bà Maria, vợ ông. Tuy khác chủng tộc, ông yêu bà tha thiết, và bà cũng yêu ông tha thiết. Maria lìa bỏ cõi thế từ lâu. Hồi còn sống, nàng đã cung phụng thần khẩu của chồng một cách tài hoa. Ông hay uống rượu, nếu vợ ông không phải là Maria thì thật khó mà chọn được rượu ngon trong số 36 thứ rượu vang trắng và 41 thứ rượu vang đỏ đã được coi là ngon nhất trên đất Ý. Maria thường cho ông uống Valpolicella. Ông hỏi tại sao thì nàng âu yếm đáp: Vì rượu Valpolicella là rượu của những người yêu nhau. Các cặp tình nhân ở vùng Vê-rôn chuyên môn uống rượu này. Người ta nói là uống nó thì mối tình trai gái được bền chặt mãi mãi. Song cũng có những ngày Maria cho ông uống một thứ rượu vang khác thơm ngon và nồng say hơn "rượu tình". Nó màu trắng nhưng không giống vang trắng của Pháp, uống vào, ông cảm thấy tâm thần bâng khuâng, luyến tiếc vẩn vơ. Ông thuật lại cho Maria thì nàng cười” cười nhưng vẻ mặt buồn buồn: Rượu này là một trong hai thứ rượu vang ngon nhất nước Ý, có lẽ còn ngon hơn mọi vang khác ở Âu châu nữa kia. Người ta gọi nó là Thiên Lệ, nghĩa là nước mắt của thần linh. Theo thần thoại, Ma Vương, tức Luciphe, bị trục xuất khỏi thiên đường đã ăn trộm một mảnh giang sơn trên thiên quốc xuống hạ giới sinh sống. Mảnh thiên quốc này trở thành bờ biển Ý đại lợi. Nhân một ngày kia giáng trần, Thượng Đế ngự du qua Ý, xúc động trước phong cảnh tuyệt vời đã đánh rơi giọt lệ. Trời khóc vì nhận thấy phong cảnh tuyệt vời ấy không còn ở trên thượng giới nữa. Giọt lệ của Trời rớt xuống đất, nở thành cây nho, và nước ép của cây nho này được đặt tên là Thiên Lệ. Maria kể chuyện tài tình cũng như chọn rượu và nấu ăn. Vì vậy, ông Hoàng được uống toàn rượu ngon cũng như được ăn toàn món ngon, ông Hoàng ưa nhất món xúp với miến, ông ưa đến nỗi Maria phải nói: Xúp này anh còn thích thì không hiểu xúp Ý đại lợi đặc biệt anh còn thích đến đâu nữa. Vì vậy ông Hoàng mới biết món xúp "đặc biệt". Xúp này không phải là món nước thông thường hoặc cầu kỳ của người Ý. Mà là món ăn khích dâm của vua chúa và giới quyền quý trong nước Ý cổ xưa. Món này là tả pí lù gồm chân con bê, tôm hùm nhỏ gỡ thịt nấu lẫn với cà-rốt, rau cần và củ hẹ (7). Nước Ý còn có một loại cây kỳ lạ, gọi là cây pizza ugurdu, đem pha với rượu hoặc dầm với thức ăn có thể biến những người lòng lạnh như tảng đá băng thành núi lửa tình ái, mê đắm cả đêm, cả tuần, cả tháng cũng không thấm mệt. Nghệ thuật gia chánh của Ý cũng chuyên về phương diện cung phụng tình ái với những món xúp nấu với rau ngò, rau nguyệt quế, nấm mèo, lá bách lý hương, rau cần, ac-ti-sô, sô-cô-la và rau bạc-hà.... Maria không còn nữa. Đêm nay, tại câu lạc bộ Ngũ Nhật Hội, người ta mời ông Hoàng ăn xúp đặc biệt thật sự, chứ không đùa bỡn như Maria ngày xưa. Bỗng dưng một giọt nước mắt không biết tại sao mà có rớt vào tròng kiếng cận thị làm mắt ông Hoàng mờ hẳn. Ông ngồi thẳng người để thích hợp với vai trò trung niên mà ông đang đóng. Khay thức ăn vừa được bưng tới. Ông Hoàng nhoẻn miệng cười với cô ả chiêu đãi rồi giả vờ cúi đầu xuống vẻ mặt hân hoan. Tay ông cầm dao và nĩa, song ông không ăn. Ông chờ cô gái đi khuất vào bóng tối rồi ngẩng lên, tiếp tục quan sát chung quanh. Những ngọn đèn mờ ảo trong gian phòng rộng thênh thang không đủ sức chiếu sáng đồ đạc và thực khách. Phải bước từ từ hoặc phải quen biết vị trí của bàn ghế trong phòng người ta mới không bị vấp. Quang cảnh tranh tối tranh sáng này rất lợi cho ông Hoàng, ông Hoàng mỉm cười một mình khi thấy những ngọn đèn cuối cùng đã tắt ngúm. Tất cả đều tối đen. Đã biết nguyên nhân của sự tắt đèn toàn diện, ông Hoàng nhìn lên sân khấu kê ở cuối phòng. Sân khấu này là một bục gỗ khá lớn, bên ngoài che màn nhung đỏ. Lệ thường, các nhà hàng lớn đều có sân khấu "bỏ túi" để trình diễn ảo thuật, múa nhảy, ca hát, và đặc biệt là môn vũ cởi quần áo. Tuy nhiên, ông Hoàng nhận thấy bục gỗ ở đây lớn gấp ba bục gỗ phụ diễn thông thường. Màn nhung chưa mở, bên trên có hàng chữ lớn bằng lân tinh như sau: Liên Nữ Đài. Phía dưới là chữ: Padmini. Không cần vén màn nhung lên, ông Hoàng đã biết phía sau có những gì. Vì Liên Nữ - tiếng Ấn là Padmini - là hiện thân của thần ân ái, là người đàn bà hội đủ điều kiện thể xác và tinh thần để chiều chuộng những người đàn ông khó tính nhất trên thế gian. Một nốt nhạc cao ré lên, tiếp theo là phần dạo đầu của một bản nhạc thời trang dâm loạn. Tiếng đàn dương cầm như tràn ngập gian phòng, từ trên cao tỏa xuống, xoắn sâu vào tim óc mọi người. Rồi màn nhung được kéo ra từ từ. Trên tường, một lùm đèn pha chiếu xuống sân khấu thành một loa tròn. Đứng giữa loa sáng là một cô gái tuyệt đẹp. Trước khi vào đây, ông Hoàng đã biết Ngũ Nhật Hội là sào huyệt của các vũ nữ thoát y táo bạo. Song ông không ngờ người ta đã đốt cháy giai đoạn bằng cách trình diễn khỏa thân hoàn toàn ngay từ phút đầu tiên, và ngay từ phút đầu tiên, điệu nhạc đã làm cử tọa nhảy chồm trên ghế cùng một lúc với những động tác vô cùng khêu gợi, vô cùng dâm toạn của cô gái nhảy múa. Tất cả những cử chỉ thầm kín trong phòng the giữa đàn ông và đàn bà đều được tuần tự gợi lại. Cô gái nhăn mặt, rên lên từng hồi. Đèn pha từ màu xanh chuyển sang màu đỏ rồi một vũ nữ, hai vũ nữ, ba vũ nữ, bốn vũ nữ, toàn thể đều không mang mảnh vải nào trên người cùng tiến ra giữa bục gổ, uốn éo theo điệu đàn man rợ và khích động. Ông Hoàng lặng lẽ đứng dậy. Lẽ ra, ông đứng dậy từ nảy. Mấy chục năm trước, những xen giựt gân này có thể làm ông xao xuyến. Nhưng giờ đây lòng ông đã lạnh. Còn lạnh hơn băng tuyết Tây bá lợi á nữa... Ông men theo bờ tường tiến đến cánh cửa ở góc, bên ngoài che màn kín mít. ông hé màn đặt tay lên quả nắm. Cánh cửa mở ra êm ru. Sau cánh cửa là một cầu thang xi-măng trôn ốc dẫn lên tầng trên, cầu thang này ăn thông với sân khấu. Đoàn vũ nữ khỏa thân phải dùng cầu thang mới xuống được bục gỗ trình diễn da thịt. Trong khi ấy, bản nhạc đã đến những nốt gay cấn nhất. Đoàn vũ nữ bắt đầu nằm ngả nghiêng trên sàn gỗ, tiếng rên hoan lạc của họ át cả tiếng dương cầm thúc giục. Cầu thang chỉ có một ngọn đèn mờ màu hồng. Ngày thường chậm chạp, ông Hoàng bỗng trở nên nhanh nhẹn khác thường. Trong thoáng mắt, ông đã trèo lên hết 25 bậc thang, và rẽ sang trái. Hành lang trên lầu nhì chạy dọc theo nhiều căn phòng nhỏ cửa đóng kín, bên ngoài đeo bảng số. ông Hoàng chưa biết sẽ vào phòng nào thì có tiếng kêu sau lưng: Ê, đi đâu đấy? Ông Hoàng quay lại. Đối diện ông là một cây thịt chừng 90 kí, mặt trái bầu rỗ hoa mè, tay cụp, mũi tẹt, miệng cá ngão, cằm lẹm, má bánh đúc. Đứng với hắn, ông Hoàng nhỏ như con nhái bén. Bàn tay kếch xù của hắn chỉ vươn ra là đầu ông Hoàng nát ngướu. Hơn thế nữa, trong tay hắn lại có khẩu tiểu liên khét tiếng về bắn nhạy: M.16. Chú thích: Về phươngng chỉ bí pháp, tác giả đã trình bày tường tận trong bộ truyện "Kẻ thù không mặt" sắp xuất bản. Ngũ Đế là 5 vua thời cổ bên Tàu. Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn. Vua Phục Hy chỉ dẫn đường cho bát quái quyền, chứ chưa phải là người sáng tạo. Người sáng tạo là Tống Hải Chương (1795-1880 trước Tây lịch) sống tại Hồ-Bắc. Hiện nay chỉ còn một số rất ít võ sư trên thế giới là nắm vững được bí quyết của bát quái quyền. Lối đánh của nó rất ngoạn mục song cũng rất lợi hại. Điều này đã được một nhà sinh vật học Liên Sô, tên là Frolov tìm ra. Một bác học Liên Sô khác, Nỉyi. Mysnikov, tại viện Pavlov, còn khám phá ra khả năng đánh hơi phi thường của giống chó. Theo Nysnikov, thì giống chó có thể đánh hơi thấy chất nước đái quỷ (ammoniaque), một muỗng nhỏ pha với nước trong một con sông lớn. Đó là trung tâm Grunheide, do người Đức Konrad Most sáng lập cách đây 40 năm để dạy chó săn cảnh sát. J. Hanseman là người tiếp tục công việc của Konrad Most. Sau này bát trân được đổi lại, với 8 món như sau: yến sào, hải sâm, bào ngư, hậu xỉ, lộc cân, cửu khổng, tế hỉ, hùng chưởng. Các món này được bán tại nhà hàng lớn của Tàu. Chỉ biết cho vui thôi nhé! chớ thí ghiệm mà khốn!