Nhớ nơi nghèo khổ, quên nơi sang giàuÐã ba thứ tóc trên đầuGẫm trong sự thể thêm âu cho đờiVân Tiên thưa đã hết lờiNgư ông chẳng đã tách rời đưa sang Dắt Tiên vào trước tiền đàngVũ công xem thấy lòng càng hổ ngươiChẳng qua sợ thế gian cườiMột lòng gượng gạo chào người ngày xưaNgư ông đã có công đưaTới ngày sau sẽ lo lừa đền ơnNgư rằng lòng lão chẳng sờnXin tròn nhân ngãi còn hơn bạc vàngNhớ xưa trong núi Lư sanCó ông ngư phủ đưa chàng Ngũ viênTới sau đình trưởng đỗ thuyềnGiúp ngươi Hạng Võ qua miền Ô-giangXưa còn thương kẻ mắc nànHuống nay ai đã quên đàng ngãi nhânMột lời gắng giúp keo sơnNgư ông từ giã lui chân xuống thuyềnVõ công không ngớt lòng phiềnÂn tình, thế lợi khó tuyền đặng vayDạy Tiên: Ngươi hãy ngồi đâyCho ta trở lại sau này lo toan Công rằng: Hỡi mụ Quỳnh TrangDò lòng ái nữ Thể Loan thế nàoMặc bay toan liệu làm saoVốn không ép vợ, nỡ nào ép conLoan rằng: Gót đỏ như sonXưa nay ai nỡ đem chôn xuống bùnAi cho sen muống một bồnAi từng chanh khế sánh phồn lựu lêThà không trót chịu một bềNỡ đem mình ngọc dựa kề thất phuDốc lòng chờ đợi danh nhuRễ đâu có rễ đui mù thể nayÐã nghe người nói hội nàyRằng Vương Tử Trực đậu rày thủ khoaTa dầu muốn kết sui giaHọ Vương, họ Võ một nhà mới xinhCông rằng: Muốn trọn việc mìnhPhải toan một chước dứt tình mới xongNghe rằng trong núi Thương tòngCó hang thăm thẳm bịt bùng khôn ra Ðông thành ngàn dặm còn xaÐem chàng bỏ đó ai mà biết đâuPhút vừa trăng đã đứng đầuVân Tiên ngồi trước nhà cầu thở thanVõ công ra đó dỗ chàngXuống thuyền rồi sẽ đưa sang Ðông thànhRa đi đương lúc tam canhDắt vào hang tối bỏ đành Vân TiênBỏ rồi rón rén bước liềnXuồng gay chèo quế dời thuyền tách xaTiên rằng: Các chú đưa taXin đưa cho tới quê nhà sẽ hayGhi lòng dốc trọn thảo ngayMột phen mà khỏi, ngàn ngày chẳng quênLặng nghe văng vẳng hai bênTay lần hang tối đá trên chập chờnVân Tiên khi ấy hãi hùngNghĩ ra mới biết Võ công hại mìnhNực cười con tạo trớ trinhChữ duyên tráo chác, chữ tình lãng xao Nghĩ mình tai nạn xiết baoMới lên khỏi biển, lại vào trong hangDây sầu ai khéo vương mangTránh nơi lưới thỏ gặp đàng bẫy cheoTrong hang sau trước quạnh hiuMuốn ra cho khỏi ai dìu dắt điOan gia nợ đã khéo gâyÔi thôi thân thể còn gì mà toanÐã đành xa cõi nhân gianDựa mình vào chồn thạch bàn nằm coÐêm khuya ngọn gió thổi lòSương sa lác đác, mưa tro lạnh lùngNăm ngày nhịn đói khát ròngNhờ ba hườn thuốc đỡ lòng hôm maiDu thần xem thấy ai hoàiXét trong mình gã có bài phù tiênMới hay là LụcVân TiênCùng nhau dìu dắt đều liền đem raKhỏi hang một dặm vừa xaÐến nơi đại lộc trời đà hửng đông Du thần trở lại sơn trungVân Tiên còn hãy giấc nồng mê manLão tiều cơm gói sẵn sàngSớm mai sách búa đi ngang qua rừngTới đường đại lộc là chừngXẩy nghe có tiếng trong rừng thở thanHay là yêu quái tà gian Rung cây nhát lão làm đường hại nhânLão tiều liền bước lại gầnThiệt là một gã văn nhân mắc nànChi bằng lên tiếng hỏi hanNhân sao mắc việc tai nàn thế nay?Vân Tiên nghe tiếng mừng thayVội vàng gượng dậy trình bày trước sauLão tiều nghe nói giờ lâuGẫm trong thế sự lắc đầu thở thanít người trong tuyết đưa thanKhó ngồi giữa chợ, ai màng đoái thươngVân Tiên nghe nói mới tường Cũng trang ẩn dật biết đường thảo ngay Ngửa trông lượng cả cao dàyCứu trong một thuở ơn đầy tái sinhMai sau về tới Ðông thànhÐền ơn cứu khổ mới đành dạ tôiLão tiều mới nói thôi thôiLàm ơn mà lại trông hồi sao hayGià hay thương kẻ thảo ngayNày thôi để lão dắt nay về nhàTiên rằng: Trong dạ xót xaNay đà sáu bữa không hòa mùi chiLại thêm rũ liệt tứ chiMuốn đi theo đó mà đi khôn rồiLão tiều này ngỡ nực cườiMở cơm trong gói miệng mời Vân TiênGắng mà ăn uống cho yênLão ra sức lão cõng Tiên về nhàKhỏi ra rừng tới ngã baMay đâu gặp một chàng là Hớn MinhLão tiều lật đật bôn trìnhHớn Minh theo hỏi sự tình một khi Vân Tiên nghe nói cố triVội mừng bạn cũ còn nghi nỗi mìnhMinh rằng: Dám hỏi nhân huynhCớ sao nên nỗi thân hình thế ni?Tiên rằng: Chẳng xiết nói chiThân này nào có khác gì cây trôiLênh đênh gió dập sóng giồiRồi đây mai đó, khôn rồi gian nanMinh rằng: Ðây khó hỏi hanXin vào chùa sẽ luận bàn cùng nhauTiều rằng: Chẳng dám ngồi lâuVào rừng đốn củi bán chầu chợ phiênHớn Minh quỳ gối lạy liềuƠn ông cứu đặng Vân Tiên bạn lànhNay hai lạng bạc trong mìnhTôi xin báo đáp chút tình cho ôngTiều rằng: Lão vốn tay khôngMột mình ngẩn ngơ non tòng hôm maiTấm lòng chẳng muốn của aiLánh nơi danh lợi chông gai cực lòng Kìa non nọ nước thong dongTrăng thanh gió mát, bạn cùng hươu naiCông hầu phú quí mặc aiLộc rừng gánh vác hai vai tháng ngàyVân Tiên nghe biết người ngayHỏi thăm tên họ phòng ngày đền ơnLão tiều trở lại lâm sơnTiên, Minh vội vã phản hoàn am mâyTiên rằng: Ðã gặp khoa nàyCớ sao ngọc hữu ở đây làm gì?Minh rằng: Xưa dốc xuống thiGặp nơi miếu võ cùng đi một lầnAnh thì trở lại viếng thânTôi thì mang gói trước lần xuống kinhÐi vừa tới phủ Ô MinhGặp con quan huyện Ðặng Sinh là chàngGiàu sang ỷ thế dọc ngangGặp con gái tốt cưỡng gian không nghìTôi bèn nổi giận một khiVật chàng xuống đó bẻ đi một giò Mình làm nỡ để ai loBó tay chịu trói nộp cho huyện đàng.Án đày ra quận Sóc phangTôi bèn vượt ngục lánh đàng đến đâyVừa may lại gặp chùa nàyMai danh ẩn tích bấy chầy náu nươngVân Tiên nghe nói thảm thương Lại bày mọi khúc tai ương phận mìnhMinh nghe Tiên nói động tìnhHai hàng châu lụy như bình nước nghiêngTiên rằng: Thương cội thung huyênTuổi cao tác lớn chịu phiền lao đaoTrông con như hạn trông dàoMình này trôi nổi phương nào biết đâuVầng mây giăng bạc trên đầuBa năm chưa trọn một câu sinh thànhHữu tam bất hiếu đã đànhTiểu đồng trước đã vì mình thác oanTưởng thôi như cắt ruột ganQuặn đau chín khúc, chứa chan mấy lần. Minh rằng: Người ở trong trầnCó khi phú quí, có lần gian nanThấp cao vàng biết tuổi vàngGặp khi lửa đỏ màu càng thêm xuêThôi thôi anh chớ vội vềỞ đây nương náu toan bề thuốc thangBao giờ hết lúc tai nànÐem nhau ta sẽ lập đàng công danhCam La sớm gặp cũng xinhMuộn mà Khương tử cũng vinh một đờiNên hư có số ở trờiBôn chôn sao khỏi, đổi dời sao xongVân Tiên khi ấy an lòngở nơi am tự bạn cùng Hớn MinhVõ công làm việc trớ trinhChú thích:1.Ba thứ tóc trên đầu: đầu đã đốm bạc, có ba thứ tóc đen, vàng (dở đen dở trắng) và trắng.2.Âu: âm chính của chữ "ưu": lo3.Lo lừa: lo tính, mưu làm một việc gì.4.Lư-san: một núi có nhiều thắng cảnh ở tỉnh Giang-Tây, Trung-Quốc, đời Ân, Chu, anh em Khuôn Tục làm nhà ở ẩn trên núi này, nên cũng gọi là núi Khuông-Lư.5. Ngũ viên: tên tự là Tử Tư, một tướng tài đời Xuân Thu, người nước Sở, cha và anh bị Sở Bình Vương giết, Tử Tư chạy trốn sang Ngô. Ðến một dòng sông, gặp ngư phủ, ngư phủ thấy Tử Tư đói, đi kiếm cơm cho ăn, và chở qua cứu thoát nạn. Sau Tử Tư giúp Ngô đánh phá Sở, báo thù cho cha anh.6.Ðình trưởng: đời Tần, Hán, cứ mười lý đặt làm một đình, có đình trưởng coi giữ trộm cướp, Ðình còn gọi là nhưng quán nghỉ lập dọc đường, năm dặm một "đoản đình", mười dặm một "trường đình".7.Hạng Võ (Vũ): một tướng tài có sức mạnh phi thường, đã đánh phá nhà Tần, lập nên cơ nghiệp nước Sở, tự xưng là Tây Sở Bá vương, giành thiên hạ với Lưu Bang tức Cao Hán Tổ, nổi tiếng bách chiến bách thắng trong cuộc "Hán Sở tranh hùng". Sau cùng, Hạng Vũ lại thua to, chạy đến sông Ô-Giang giáp đất Giang-đông, xứ sở của Vũ. Một người đình trưởng biết Vũ, chào thuyền mời Vũ qua sông để về Giang-Ðông. Vũ nghĩ thẹn với đồng bào và xứ sở của mình, không chịu về và lấy gươm tự tử.8.Ân tình thế lợi khó tuyền đặng vay: một bên là ân tình, một bên là lợ thế (quyền thế, tài lợi), mâu thuẫn nhau, khó trọn vẹn được cả hai.9.Ai cho sen muống một bồn: không ai trồng cây sen và rau muống trong một chậu10.Phồn: tiếng miền Nam, có nghĩa là hạng người, như ta nói quân này, quân kia.11.Thà không chót chịu một bề: thà không chồng mà ở một mình còn hơn.12.Danh nhu (nho): người học trò nổi tiếng13.Thủ khoa: người đậu đầu trong khoa thi hương.14.Nhà cầu: cái nhà ngang nối nhà trước với nhà sau.15.Tam canh: Canh ba (một đêm có năm canh)16.Gay: buộc mái chào vào cọc chào, sửa soạn bơi thuyền đi.17.Trớ trinh: tráo trở, đành hanh, trêu ngươi.18.Cheo: tên một con thú, thuộc loài sóc.19.Oan gia: chính chữ là "oán gia", tục (tiếng tục Trung-quốc), gọi trại là oan gia, chỉ kẻ oán thù với mình hay sự oán thù nói chung. Ðây là Vân Tiên nói có lẽ kiếp trước mình có nợ oán thù gì với Võ công, nên mới bị hãm hại như thế này (nói theo thuyết nhà Phật).20.Thạch bàn: bàn đá, tảng đá lớn và phẳng.21.Mưa tro: (tiếng miền Nam) mưa bụi, mưa phùn.22.Du thần: vị thần đi dạo các nơi để xem xét nhân gian23.Phù tiên: bùa tiên để giữ mình, tức đạo bùa của thầy Vân Tiên cho khi Vân Tiên đi thi.24.Ðại lộc: lộc là chân núi, đại lộc tức dưới chân núi lớn (theo Kinh thư).25.Sơn trung: trong núi.26.Tới đường đại lộc là chừng: chừng: mức độ ấy, khoảng ấy, nói ông tiều qua rừng tới khoảng đường chân núi thì nghe thấy tiếng Vân Tiên ở quanh nơi đấy. Chữ "đại lộc" ở đây cũng như chữ "đại lộc" trên kia, nhiều bản chép là đại lộ (đường cái), xét ra không đúng nghĩa chỗ này. Du thần chỉ đưa Vân Tiên ra khỏi hang một dặm tới dưới chân núi trong rừng thôi, chứ không đưa ra ngoài đường cái, vì câu dưới nói: "Có tiếng trong rừng thở than", và mãi tới dưới nữa lại có câu: "Khỏi rừng ra tới ngã ba", rõ là Vân Tiên trước còn ở trong rừng, mãi sau ông tiều mới cõng ra đường cái.27.Nhát (hoặc nát): dọa cho người ta sợ28.Trong tuyết đưa than (hoặc cho than): do thành ngữ chữ Hán "Tuyết trung tống thán": cho than để sưởi ấm khi trời tuyết. Tống Thái Tông nhân tiết mưa tuyết, trời rét lắm, sai cho những người già yếu nghèo khổ than sưởi và gạo ăn. Nhân đó, người ta thường dùng chữ "Tuyết trung tống thán" để chỉ sự giúp đỡ người khi cần kíp cùng quẫn.29.Khó ngồi giữa chợ, ai màng đoái thương: do câu thơ chữ Hán: "Bần cư nào thị vô nhân vần. Phú tại thâm sơn hữu khách tầm" nghĩa là người nghèo ở ngay giữa chợ búa nhộn nhịp không ai hỏi han, giàu ở tận trong núi sâu cũng có kẻ tìm đến.30.Ẩn dật: ở ẩn không theo thế tục.31.Hồi: trả lại, đền lại. Nói làm ơn mà trông báo đáp lại sao nên.32.Bôn trình: đi vội trên đường, như nói rảo bước.33.Còn nghi nỗi mình: Vân Tiên đã bị Trịnh Hâm và Võ công tráo trở hãm hại, nên tuy mừng gặp bạn cũ, nhưng vẫn còn nghi ngại nỗi mình.34.Nhân huynh: người anh tốt, tiếng xưng hô.35.Bán chầu: bán vào buổi ấy.36.Non tòng: núi có nhiều cây thông.37.Lộc rừng: lộc của rừng cho (đây là củi)38.Lâm sơn: rừng núi.39.Phản hoàn: quay trở về. Am mây: chùa trong mây, tức chùa trong núi. Ðây là ngôi chùa ở nơi vắng vẻ.40.Ngọc hữu: bạn ngọc, bạn quí như ngọc41.Viếng thân: thăm cha mẹ42.Cưỡng gian không nghì: lấy sức mạnh mà hãm hiếp phụ nữ43.Bẻ đi một giò: bẽ gãy một chân44.Huyện đàng (đường ): dinh quan huyện45.Sóc phang (phương): cũng như Bắc phương, nói quận ở phương Bắc. 46.Mai danh, ẩn tích: vùi tên, giấu tích, không cho ai biét đến mình.47.Dào: mưa dào, mưa to.48.Sinh thành: đẻ ra và nuôi dạy nên người, chỉ công ơn cha mẹ49.Hữu tam bất hiếu: rút ra ở câu chữ Hán: "Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại" nghĩa là bất hiếu có ba điều, không có con là điều nặng nhất. Ðây nói: mình phải bỏ cuộc thi, chưa lập được công danh, để báo đáp công ơn cha mẹ, lại đeo tật bệnh, chưa lập được gia đình, để nối dõi dòng giống, thật là điều bất hiếu to lớn.50.Tiểu đồng trước đã vì mình đã thác oan: câu này nối câu trên nói: đã không vẹn đạo con với cha mẹ, lại không vẹn tình thầy với trò, Vân Tiên cảm thấy vô cùng chua xót.51.Cam La: người nước Tần thời Chiến quốc, sớm có tài mưu lược, mười hai tuổi đã đi sứ sang nước Triệu, vua Triệu thân ra đón tận ngoại thành và phải nhượng đất cho Tần, khi thành công về nước, được phong là chức Thượng Khanh.52.Khương tử: ông họ Khương ("tử" là tiếng xưng hô chung về nam giới của Trung-quốc, như ta nói ông, chàng, gã v.v...), tức Khương tử Nha, xem chú thích ở câu 515. Hai câu này nói: công danh được sớm như Cam La (mười hai tuổi) càng hay, mà dù muộn như Khương tử (hơn tám mười tuổi) cũy vẫn vẽ vang.53.Bôn chôn: vội vàng, hấp tấp, nóng ruột.54.Am tự: am, chùa, chùa chiền.