ĐẢO CHÍNH KIỂU MỸ

“Chính phủ Mỹ sẽ ủng hộ một cuộc đảo chính…”

- DEAN RUSK,
Ngoại Trưởng Mỹ,
29.8.1963(33) [(Bộ ngoại giao Mỹ, Foreign Relation of the United States (1961-1963/Vol.IV/ Vietnam, August-December, 1963)]
Lời đề từ trên đây trích từ một bức điện tín do Dean Rusk gửi cho đại sứ Mỹ tại Việt Nam Henry Cabot Lodge. Xin đừng quên Rusk không chỉ là ngoại trưởng mà còn là kẻ ba phải hàng đầu của Kennedy. Ngay sau cuộc họp của Hội đồng An ninh Quốc gia, Rusk cho chuyển bức điện tín xuyên đại dương này, trong đó ông nêu rõ những chỉ dẩn đầu tiên cho một cuộc đảo chính được Mỹ tán thành chống lại đồng minh là Chính phủ Nam Việt Nam.
Vào ngày 29.8.1963, Lodge vừa mới nhận nhiệm vụ đại sứ được một tuần, và đây là loại điện văn từ Whashington mà ông ta nhận ngay lập tức. Không chối cãi gì nữa, Lodge ủng hộ mạnh mẽ việc lật đổ chính quyền Diệm, và Rusk cũng vậy. Bộ trưởng Tư pháp Robert Kennedy cũng đồng ý. Các Thứ trưởng Ngoại giao Chuyên trách Những Vấn Đề Viễn Đông Averrel Harriman và Roger Hilsman cũng đồng ý. Cố vấn An ninh Quốc gia McGeorge Bundy và em trai là William ở Bộ Quốc Phòng cũng đồng ý.
Nói cách khác, đó là tất cả những cận thần quan trọng nhất của vua. Mà John F.Kennedy là vua.
Đây là những nhân vật được tổng thống lắng nghe nhất những con người đầy quyền lực và rõ ràng là có đủ tư cách nhất để lo liệu cho những chỉ thị của Kennedy được thực thi đến từng chữ một.
Không cuốn sách lịch sử nào phủ nhận một điều như đinh đóng cột là tất cả những con người kề trên – Kennedy và ê kíp của ông – đều muốn Diệm, Tổng thống của chính phủ Nam Việt Nam bị lật đổ và bị giết, bởi vì tài liệu dẫn chứng có quá nhiều. Những người quan tâm (và đặc biệt là những người nghi ngờ sự quả quyết này) nên nghiên cứu ấn phẩm của Vụ Aân loát Chính Phủ mang tựa đề Foreign Relations of the United States, 1961-1963, Volume IV, Việtnam: August – December 1963 (“Quan hệ ngoại giao của Mỹ, 1963-1964, Tập IV, Việt Nam: Tháng 8 – Tháng 12 1963), hai mươi năm qua vẫn chưa được công bố rộng rãi. Đây không phải là một bản văn lịch sử trừu tượng. Không phải là sách tóm tắt được viết dưới dạng xã luận, và cũng không phải là “The Pentagon Papers” (Hồ sơ Lầu Năm Góc). Nó là một ấn bản hồ sơ lưu trữ chính thức về chính sách ngoại giao của Mỹ liên quan đến Việt Nam trong khoảng thời gian đó. Cuốn sách chứa đựng những baó cáo đánh giá, các tờ trình của chính phủ, các bài thẩm tra những kỳ họp tại Nhà Trắng với Kennedy, và đặc biệt là tất cả những điện văn trao đổi giữa Nhà Trắng và Toà Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn. Nhiều trang trong cuốn sách này còn vạch rõ trách nhiệm của Chính phủ Kennedy khi quan hệ với Chính phủ của Tổng thống Ngô Thì Nhiệm. Và điều mà cuốn sách này chứng minh, một cách toàn diện, là Chính phủ Kennedy đã dính líu vào những hành động phản bội nhất: nó đỡ đầu cho cuộc lật đổ một nguyên thủ quốc gia là đồng minh của mình
Chính Harry Truman đã nói “Trách nhiệm ở đây chịu” và đúng là như vậy. Tổng thống Mỹ phải chịu trách nhiệm tối hậu về mọi hành động của chính phủ, nhưng trước khi đi sâu hơn về vấn đề đó và những chuyện có liên quan, chúng ta hãy dành chút thời gian ngược trở lại với thời điểm khủng hoảng của chế độ Diệm và những gì xảy ra liền sau đó …
Vào ngày 21.8.1963 – sau khi chính quyền Kennedy đưa ra những lời cảnh cáo cứng rắn – Diệm và Nhu vẫn tiến hành một loạt các trò đàn áp bạo lực nhắm vào người theo đạo Phật, chủ yếu là tại Chùa Xá Lợi, một ngôi chùa linh thiêng nhất của Phật tử tại Sài Gòn. Trong suốt cuộc tấn công dồn dập, binh lính của Nhu lộng hành cướp bóc và lùng sụt bắt giam cả ngàn tăng ni. Và rồi, rất nhiều người trong số “những kẻ phá rối công cộng” này đã lặng lẽ biến mất(34) [(Karnow.)] và không ai còn gặp lại họ nữa.
Xin nhớ rằng, từ tháng 6.1963, những hồi chuông báo động đã vang lên ở Nhà Trắng, vì sự đối xử thù nghịch của Diệm dành cho người theo đạo Phật – và những cuộc biểu tình phản đối liên tiếp diễn ra với nhiều nhà sư tự thiêu cho đến chết – đã bắt đầu lên trang nhất của báo chí thế giới, tiếp sau đó nó bắt đầu chỉ ra một nước Mỹ ám muội vì đứng sau một chính phủ áp bức như vậy. Tuy nhiên, ngay cả trước đó chúng ta cũng có một manh mối tốt từ một nguồn đáng tin cậy. Ngày 8.3.1963 – bảy tháng trước khi cuộc đảo chính Diệm thực sự xảy ra – Đại sứ Việt Nam tại Mỹ (Trần Văn Chương, cha của Bà Nhu, nhạc phụ của Nhu) nói với chuyên viên Hội đồng An ninh Quốc gia Michael Forrestal (được Forrestal kể lại trong hồ sơ lưu trữ chính thức): “…Chúng ta không thể thắng cuộc chiến khi Diệm nắm quyền. Do đó chỉ có một con đường mở ra trước chúng ta là thay đổi chính quyền, và chỉ có thực hiện được điều đó bằng bạo lực” (35) [(Foreign Reletion of the United States, 1961-1963, Vol III,( từ đây gọi là FRUS)].
Đấy là những lời Đại sứ Nam Việt Nam nói với đại diện Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ, rằng quốc gia của họ không thể chiến thắng nếu còn Chính quyền Ngô Đình Diệm, và một giải pháp duy nhất là thay đổi Chính quyền Diệm bằng bạo lực.
Tiếp sau là một kết luận thích đáng lấy ra từ báo cáo đánh giá của Tình báo Mỹ trong đó mô tả cảm tưởng của Nhà Trắng lúc ấy: “Khủng hoảng Phật giáo ở Nam Việt Nam đã lên cao, làm sâu sắc thêm sự bất mãn lâu dài và rộng khắp đối với chế độ Diệm và kiểu cách cai trị của nó” (36) [(Herring, George C.(ed), The Pentagon Paper( McGraw- Hill, 1993)].
Kennedy có thể ngồi chờ biến cố to lớn này xảy ra, và điều ông có thể thấy nữa là cơ hội tái đắc cử của ông, trong hơn một năm sắp tới đây, tuôn hết xuống ống cống. Xét cho cùng, Diệm là vị tổng thống được người Mỹ hậu thuẫn bằng vô số tiền bạc và vật chất ( không kể hàng ngàn nhân viên ), nhưng ông ta chỉ tiếp tục làm người Mỹ ngượng ngùng trước sự soi mói của thế giới. Một cách hợp lý, Kennedy đã đưa ra một loạt lời đe doạ, liên tiếp những phát đạn chính trị hứa hẹn hành động mạnh tay hơn bắn về phía Diệm. Diệm nhận được lệnh phải chấm dứt tất cả những việc làm sĩ nhục người theo đạo Phật… nếu không.
Nếu không mọi sự viện trợ sẽ bị cắt. Nếu không, có thể người Mỹ sẽ rút hết cố vấn Mỹ khỏi Việt Nam.
Rõ ràng, không có sự hỗ trợ của Mỹ thì Diệm và Nhu và vị trí quyền lực của họ ở Nam Việt Nam không thể tồn tại lâu dài được. Hoặc có thể họ không tin điều đó; hai người đàn ông này đã có cái tôi lớn hơn cả Dinh Tổng thống. Dù gì đi nữa họ cũng phớt lờ những lời cảnh cáo của Mỹ. Khi khủng hoảng ngày càng nóng dần lên, Lodge được phái tới nhận nhiệm vụ Đại sứ, vì lúc này Nolting đã bị nắm cổ lôi về nước (Nolting bị mất ghế chủ yếu vì lập trường thân Diệm của ông. Thậm chí có hàng đống bằng chứng tội ác của Diệm trong tay, nhưng vì là bạn của Diệm, Nolting không ngớt khẳng định rằng Diệm là một bảo đảm cho những “nguyên tắc dân chủ” và “công bằng xã hội”) (37) [(Karnow.)]. Kennedy nổi giận; vậy thì Nolting phải rời sân thôi, và Lodge sẽ vào sân để thực hiện những mệnh lệnh của Kennedy.
Lodge lập tức tiếp xúc Diệm tại Dinh Tổng Thống… và hẳn đã bị xúc phạm đến hết mức vì thái độ của Diêm. “Tôi nêu ra ở đây vấn đề đưa Nhu ra khỏi đất nước” Lodge nói trong một cuộc phỏng vấn năm 1983, “và Diệm tuyệt đối từ chối không bàn luận về bất cứ việc gì mà tôi {đươc Kennedy chỉ thị} phải bàn luận. Thú thực là tôi hơi bị choáng váng. Tôi nghĩ là khi một đại sứ ra mắt một nguyên thủ quốc gia, ông đại sứ sẽ phải trình bày một số vấn đề theo lệnh của tổng thống nước mình, thì ít nhất vị nguyên thủ kia cũng nên bàn qua chứ”(38) [(Vietnam: A Televition History, “Amerrica/s Mandarin”)].
Quan điểm của Diệm và sự ngạo mạn của ông ta thật dễ hiểu. Ông không thể phản bội em Nhu của ông; ông sẽ không đuổi Nhu đi, không thay đổi lập trường chống Phật giáo, không rời ngôi tổng thống. Ông ta thậm chí từ chối bàn luận về những việc này. Kennedy hiểu hành động xấc láo của Diệm như một cú đá vào bụng dưới của người Mỹ; Diệm là kẻ ăn cháo đái bát.
Nhưng Kennedy cũng không vừa.
Các tướng lĩnh chính của Diệm ngày càng bất mãn với đường lối của chính phủ đương nhiệm (nhiều người trong số này không theo đạo Công giáo; họ có gốc gác Phật giáo), và người ta được biết, vào đầu năm đó, đã có một cuộc nói chuyện giữa các thành viên trong Bộ Tổng Tham mưu bàn việc lật đổ Diệm. Nhà Trắng nghe phong phanh tin này qua nhiều kênh khác nhau: Nhóm Cố vấn Quân sự, các đơn vị tình báo Lục quân, Hải quân, và Không quâm, và CIA. Các chính phủ khôn ngoan luôn lưu ý đến những viễn cảnh xấu nhất, và Kennedy đã và đang làm đúng ngay việc ấy, thậm chí khá lâu trước khi những vụ đàn áp Phật giáo tràn ngập trên báo chí và đe doạ bôi xấu việc điều hành chính sách ngoại giao của ông. Ông ta thường xuyên đọc cả núi báo cáo đánh giá không chỉ về diễn tiến của cuộc chiến mà còn về năng lực của Diệm trên cương vị tổng thống(39) [(Karnow)]. Những bánh răng đang chuyển động. Kennedy là một người rất thông minh, và ông biết lường trước những trở ngại chính trị tiềm tàng; ông đang không ngừng xem xét hiện tại trong các mối liên quan tốt hay xấu của nó đối với tương lai. Kennedy cân nhắc mọi động thái của Nhà Trắng vì có thể nó sẽ bị khai thác thành vũ khí cho Đảng Cộng Hoà trong cuộc bầu cử sắp tới.
Vào lúc 1 giờ chiều ngày 1.11.1963, cuộc lật đổ bằng quân sự, cuộc đảo chính chống chính quyền Diệm do tướng Nam Việt Nam Dương Văn Minh (biệt danh là “Minh Lớn”) lãnh đạo, đã bắt đầu. Để phòng ngừa, Minh Lớn ra lệnh giết một tướng chỉ huy hải quân thân Diệm rất có thế lực và nhiều chỉ huy của lực lượng đặc biệt Nam Việt Nam ngay trước khi cuộc đảo chính chính thức nổ ra, bóp chết từ trứng nước mọi ý đồ tập hợp lại lực lượng. Và rồi giao tranh bắt đầu bằng các cuộc tấn công chớp nhoáng vào các trung tâm truyền tin, các đài phát thanh, các sở cảnh sát, và Dinh Tổng thống lộng lẫy của Diệm. Trong khi đó, các đơn vị quân đội chủ lực có thể được sử dụng để bảo vệ Diệm đã bị khôn khéo điều động ra khỏi vòng giao tranh. Khi cuộc nổi dậy bắt đầu, Lodge liền được tổ đặc trách CIA thông báo. Khi Diệm cho gọi đích thân vị đại sứ này và yêu cầu được biết thái độ của Mỹ, Lodge đáp: “Tôi cảm thấy không đủ thông tin để có thể trả lời ngài”(40) [(Foreign Relation of United States, 1961-63: Vietnam, Vol IV)].
Sao ông đại sứ lại có thể trả lời người đứng đầu một nước đồng minh như thế?
Lodge cho rằng ông không biết gì về lập trường của chính phủ ông! Diệm gác điện thoại.
Cuộc đảo chính diễn tiến như một bộ máy đồng hồ. Khi đụng độ dữ dội nổ ra tại Dinh Tổng Thống, Diệm và Nhu tìm cách tẩu thoát qua một đường hầm ngầm, sau đó được một người bạn ở Chợ Lớn che giấu (Chợ Lớn là nơi Nhu có nhiều người quen thân thông qua mạng lưới thuốc phiện). Thật thú vị để nói thêm ở đây, như một chi tiết bổ sung cho bản chất của Diệm và Nhu, rằng các lực lượng bảo vệ trung thành của tổng thống trong dinh tiếp tục chiến đấu thêm nhiều tiếng đồng hồ nữa và hy sinh mà không hay biết rằng vị tổng thống mà họ đang chiến đấu bảo vệ đã bỏ chạy từ lâu. Khi đã đến được chổ an toàn cách xa dinh, lẽ ra Diệm có thể gọi một cú điện thoại theo cách không thể truy ra người gọi để khuyên các lực lượng bảo vệ của mình trong dinh đầu hàng phe đảo chính để giữ mạng sống. Nhưng Diệm không là thế ông ta quyết định để cho họ chết).
Nhưng chính Diệm cuối cùng cũng phải đầu hàng – vì quá ít lựa chọn – và cuộc giao tranh chấm dứt. Sau một hồi mặc cả, Diệm đồng ý tiết lộ chỗ trốn của mình và công khai đầu hàng Minh Lớn và các tướng lĩnh nổi dậy của ông nếu như họ hứa để cho Diệm và Nhu an toàn chạy ra nước ngoài. Minh đồng ý.
Lúc đó Diệm cho biết ông và Nhu đang lẩn trốn trong một nhà thờ Công giáo ở Chợ Lớn, và ông đảm bảo rằng họ sẽ chờ quân của ông Minh tới bắt đưa về dinh tổng thống để ông chính thức thoái vị. Minh phái các vệ sĩ của ông và một trung đội quân xa đi thi hành lệnh bắt Diệm. Khi họ đến nhà thờ, Diệm và Nhu hoà dịu nộp mình. Sau đó hai ông được hộ tống ra khỏi nhà thờ và đưa vào trong một chiếc xe bọc thép.
Ngay khi cánh cửa chiếc xe bọc thép vừa đóng lại, Diệm và Nhu liền bị đánh đập, trói gô bốn vó, rồi bị bắn cho tới chết(41) [(Đây chỉ là một bài học tóm lược các khía cạnh kỹ thuật của vụ đảo chính dẫn đến các chết cùa Diệm và Nhu. Độc giả quan tâm có thể tìm thêm chi tiết trong Vietnam: A History của Karnow.)]
Câu chuyện trên đây nghe cụt ngủn và khô khan. Các tướng lĩnh Nam Việt Nam bất mãn lật đổ chính quyền rồi giết tổng thống và cũng là tổng tư lệnh của họ. Không có người lính Mỹ nào nhúng tay vào. Vậy thì có gì liên quan đến tội đồng loã của chính phủ Kennedy?
Chúng ta hãy nhìn kỹ những chi tiết để trả lời câu hỏi này.
Trước nhất, Lucien Conein, nguyên là lính nhảy dù tính tình thô lỗ hung bạo và là một chiến sĩ kháng chiến Pháp, giờ đây – năm 1963 – là đặc tình cấp cao của CIA. Lodge chọn Conein làm trung gian bí mật giữa các tướng lĩnh nổi loạn và văn phòng Lodge. Conein sinh ra ở Pháp; ông biết tiếng Pháp và các phong tục của nước này, và điều này rất quan trọng bởi vì Minh Lớn và nhiều tướng lĩnh nổi loạn của ông đều lớn lên trong nền văn hoá Pháp. Conein có thể quan hệ ngay với những người này theo cách mà các gián điệp Mỹ khác không làm được. Nhiệm vụ của Conein – mà ông đã thực hiện hoàn hảo – là đảm bảo với Minh Lớn và bộ tham mưu của ông rằng Mỹ sẽ đứng sau lưng họ trong cuộc đảo chính lật đổ Diệm. Conein là sứ giả (một sứ giả mật, vì hầu hết những cuộc họp giữa ông với các tướng lĩnh nổi loạn không bao giờ được tường trình lại cho các chỉ huy quân đội Mỹ ở Nam Việt Nam) giữa các tướng lĩnh và Lodge, trao đổi thông tin qua lại theo chỉ thị của Lodge(42) [(Sheehan)]. Conein là người trong nội bộ của Minh Lớn, người đồng chí tin cậy giữ kín không cho những phương án đảo chính của họ đến tai Phái bộ Quân sự của Mỹ vốn thân Diệm. Conein thậm chí còn là người thắt chặt những tình bạn gắn bó, trước khi Lodge đến làm đại sứ, với những người như tướng Trần Văn Đôn(43) [(Karnow.)],cánh tay phải của Minh Lớn trong suốt cuộc đảo chính.
Do đó, Conein là mật viên chủ yếu của CIA tại Sài Gòn trong chừng mực có liên quan đến cuộc đảo chính. (Đó chắc chắn không phải là Giám đốc phân bộ CIA John Richardson. Richardson, cũng như cựu đại sứ Nolting và chỉ huy trưởng Phái bộ Cố Vấn Quân Sự Mỹ Paul Harkins, đã kịch liệt phản đối cuộc đảo chính chống Diệm; Kennedy đã cho bãi chức ông ta vào tháng 10.1963(44) [(Corey, C. L,” Whatever Shot Ngo Dinh DIEM, It Couldn/t Have Been the CIA”, trong Insight on the News, 15.3.1999.)]. Cái cách bứng các quan chức Mỹ phản đối đảo chính ra khỏi chức vụ của họ không kỳ cục sao)?
Nhưng chính xác thì Conein đã làm gì dính tới việc lật đổ Diệm ngoài chuyện trao qua trao lại những thông tin giữa Lodge và các tướng lĩnh mưu loạn?
1) Trước khi cuộc đảo chính chính thức bắt đầu, Conein được gọi đến tổng hành dinh của Minh Lớn và được giao một đường dây thông tin trực tiếp đến văn phòng tiền phương của CIA tại Sài Gòn (45) [(Karnow.)]. (Để củng cố chi tiết này, gần đây, người ta biết được là trong suốt cuộc đảo chính, Conein thường xuyên liên lạc điện tín với McGeorge Bundy tại Phòng Tình Huống Nhà Trắng. Bundy là cố vấn Hội đồng An ninh Quốc gia thân cận của JFK)(46) [(Bird, Kai, “ Cries and Whispers”, trong Washingtonian, tháng 10.1998.)]
2) Mối bận tâm lớn nhất của Minh Lớn và các tướng lĩnh của ông là nhận được “lời chúc lành” của Mỹ, có thể nói như vậy, dành cho nỗ lực lật đổ Diệm của họ. Họ muốn biết quân đội Mỹ có can thiệp hay không, và chính Conein là kẻ cam đoan với họ rằng Mỹ sẽ không can thiệp. Họ muốn được cam kết rằng viện trợ quân sự của Mỹ sẽ tiếp tục một khi Diệm ra đi, và cũng chính Conein đảm bảo với họ viện trợ sẽ tiếp tục. Điều mà Minh Lớn và các tướng lĩnh của ông muốn – điều họ cần hơn bất cứ gì khác – là Mỹ “bật đèn xanh” để khởi động cuộc đảo chính
Và đây là những gì Conein đã nói liên quan tới chuyện đó trong một cuộc phỏng vấn nhiều năm sau: “Tôi biết rằng tôi đã bật đèn xanh cho họ bằng vào những chỉ thị của chính phủ tôi”(47) [(Từ đoạn phỏng đoạn phỏng vấn Coein trongVietnam: A Televition History, “America/s Mandarin”.)]
3) Lodge và các đường dây CIA cung cấp cho Minh và những kẻ nổi dậy tiền bạc và vũ khí để phục vụ đảo chính(48) [(Hersh.)]. Thông tin tình báo cũng được cung cấp cho phái nổi dậy: vị trí đóng quân của các đơn vị chiến đấu có khả năng vẫn còn trung thành với Diệm cũng như vị trí các kho đạn dược và quân nhu mà Nhu từng giấu kín quanh Sài Gòn nhiều tháng.
Một ngày trước khi bắt đầu cuộc lật đổ, Lodle thậm chí còn gửi đi một thư xác nhận kinh phí có thể trở nên cần kíp đối với các tướng lĩnh phút cuối cùng sẽ được chuyển giao, và “Tôi tin là chúng tôi phải trang bị cho họ đầy đủ,” ông ta nói(49) [(Herring, The Pentagon Paper.)]. Khi được Minh mời tới tổng hành dinh ngay trước khi cuộc đảo chính bùng nổ, Conein còn mang theo một bao đựng đầy tiền (tiền giấy Việt Nam tương đương với 40.000 đô la Mỹ [cần nhớ rằng, 40.000 đô la Mỹ năm 1963 có thể tính ngang với hàng trăm ngàn đô la Mỹ trong điều kiện kinh tế hiện nay]) như khoản kinh phí khẩn cấp phút chót, và, hơn nữa, đây là lộ phí dành cho các tướnh lĩnh trong trường hợp cuộc đảo chính thất bại(50) [(“The Dislodging of Dim” trong The Boston Globe, 1.12.1998.]). (Mới đây, hồi tháng Tư, 2000, người ta biết rằng bản thân Diệm, trong đêm xảy ra đảo chính, có mang theo một chiếc cặp đựng 1.000.000 đô la Mỹ. Minh Lớn đã đoạt chiếc cặp đó, và cho đến nay, không ai biết số tiền đó từ đâu đến và Minh đã sử dụng nó vào việc gì)(51) [(Brinkley, Douglas, “ Of Ladders and Letters,” Time, 24.4.2000)].
4) Khi Diệm phôn tới tổng hành dinh của các tướng lĩnh nói đồng ý đầu hàng để đổi lại được đảm bảo ra đi an toàn, Minh đồng ý. Nhưng rồi Minh vẫn ra lệnh hành quyết Diệm và Nhu như thường. Tại sao? Bởi vì khi Minh yêu cầu Coein cấp một máy bay cho Diệm và Nhu trốn ra khỏi nước, Coein nói không. Coein nói không thể nào điều động được một máy bay trong vòng 24 tiếng đồng hồ(52) [(Karnow.)]. Minh Lớn hiểu rõ nếu Diệm và Nhu không được bốc ra khỏi nước ngay tức khắc, thì cuộc đảo chính sẽ xảy ra. Do vậy, chỉ còn một lựa chọn là hành quyết. Đối với một việc quan trọng như thế này, chắc chắn Mỹ có thể cung cấp ngay một máy bay ( tổng hành dinh chỉ huy cuộc đảo chính nằm trong câu lạc bộ sĩ quan tại sân bay Tân Sơn Nhất, nơ Mỹ có hàng chục nếu không muốn nói là hàng trăm máy bay có thể dễ dàng được giao nhiệm vụ này!). Nên nhớ Coein chính là người bật đèn xanh cho Minh Lớn, dựa trên những chỉ thị của chính phủ Mỹ, khởi đầu cuộc đảo chính; rồi cũng dựa trên những chỉ thị của chính phủ đó, Coein thông báo việv từ chối cấp một máy bay cho Diệm và Nhu ra đi an toàn, khiến Minh không còn cách nào khác hơn là ra lệnh giết Diệm và Nhu.
Có thể Kennedy khônh khăng khăng đòi giết Diệm và Nhu, nhưng chắn hẳn ông cần họ chết. Nếu không, một khi đượv tị nạn chính trị ở đâu đó, họ sẽ đóng đinh Kennedy trên báo chí thế giới và thônh tin này sẽ được các đối thủ chính thị thuộc đảng Cộng Hoà lợi dụng để chống lại ông trong cuộc tái tranh cử tổng thống. Một nước Mỹ khiếp đảm cộng sản sẽ nghĩ gì về Kennedy sau khi đồng minh Diệm mới bị hạ bệ tung ra một chiến dịch bôi tro trát trấu vào mặt Kennedy? Bao nhiêu người sẽ bỏ phiếu cho Kennedy trong cuộc bầu cử sắp tới?
Không, truất phế chưa đủ.
Diệm và Nhu phải bị giết, và phải là các tướng lĩnh của Diệm ra tay. Coein đã tác động đến việc này mà không cần khổ công gì cả. Một chú thích sau cùng về bản chất của Coein? Chưa đầy muời năm sau đó, E. Howard Hunt, gián điệp “đột nhập”(black-bag) của CIA đã cân nhắc kỹ việc tuyển Coein làm thành viê của nhóm chuyên đột nhập mà sau này khét tiếng với tên gọi Những tên đột nhập Watergate. Về chuyện này, Coein quả quyết: “Nếu có tôi, chúng ta làm ăn đàng hoàng hơn”.(53) [(Fussel, James A,” Coein....Lucien. Who Was He?”( Kansas City Star: 20.9.1998)]
Cho nên có một nhận định khá rõ về Lucien Coein. Tránh né- thật chất là phớt lờ- người phụ trách của mình( Richardson, Giám đốc Phân bộ CIA tại Sài Gòn), Coein làm việc trực tiếp với Lodge, và Lodge làm việc trực tiếp với Kennedy. Thật sự, tác giả Neil Sheehan mô tả Coein đúng hơn hết: “Chỉ có vài gián điệp từng có được cơ hội leo lên đỉnh cao nghề nghiệp bằng việc sắp đặt cuộc lật đổ một chính phủ. Coein mang quyền lực của nước Mỹ để tác động các tướng lĩnh bắt họ phải tuân lệnh”.(54) [(Sheehan.)]
Coein là sứ giả của thần chết đứng giữa lương tri của Nhà Trắng và cuộc cách mạng đã chôn vùi chính quyền hợp hiến Nam Việt Nam, một chính quyền mà Mỹ đã hết lòng ủng hộ từ năm 1954. Một đồng minh.
Chúng ta vừa tìm hiểu qua về Coein, một diễn viên chính, bây giờ hãy nói về vài nhân vật khác, và đưa ra thêm vài luận điểm nằm chỉ ngón tay kết tội chính phủ Kennedy nói chung và Kennedy nói riêng. Nhưng trước hết hãy tóm tắt lại:
JFK thực sự là kẻ thù kiên định của chủ nhgiã cộng sản, nhưng khi bộ mặt thật của Diệm bắt đầu lộ rõ- một kẻ khủng bố, một bạo chúa, một nguyên thủ quốc gia mà lại bắt bớ tăng ni và trẻ em đưa vào trại tập trung- Kennedy bị dội ngược về mặt chính trị, như bất cứ ai khác. Nhưng thay vì nói với dân chúng Mỹ: “Chao ôi, chúng ta đã phạm một sai lầm lớn ở đó. Thì ra cái tay Diệm này đang đàn áp một tôn giáo chiếm đa số, cho nên chúng ta cần phải làm điều gì đó,” Kennedy đã quyết định sử dụng đúng cái thủ đoạn đã cứu ông trong thời gian xảy ra vụ Khủng hoảng Tên Lửa Cuba:” các kênh thônh tin cửa sau” bí mật dàn xếp vấn đề. Kennedy đã hoàn toàn phớt lờ những người am hiểu tình hình nhất. Không ai trong giới quân sự và chính trị ở Mỹ thật sự ưa thích Diệm, nhưng chừng nào họ còn muốn ngăn chặn cộng sản tại Nam Việt Nam, thì Diệm vẫn được coi là vũ khí tốt nhất dưới mắt các cố vấn tiền phương tài giỏi nhất của Kennedy. Và rồi hoá ra, nhũng ông cố vấn này- chẳng hạn Đại sứ Nolting, Giám đốc Phân bộ CIA Riichard, Tướng Harkins phụ trách nhóm Cố vấn Viện trợ quân sự Mỹ, Giám đốc CIA John McCone và phụ tá William Colby- đều đúng. Nhà văn, nhà sử học, Gíao sư C.L.Corey nói về điều này rất ấn tượng trong bài báo ra tháng ba, 1999: “Chính quyền Kennedy và các phương tiện thông tin đại chúng, bằng cách tiêu diệt chính quyền Nam Việt Nam, đã biến cuộc chiến tranh trở thành con quái vật không đầu”(55) [(Corey, C.L, Whatever Shot Ngo Dinh Diem, It Couldn/t Have Been the Cia”, trong Insight on the News, 15.3.1999.)]
Sau khi Diệm chết, miền Nam Việt Nam lần lượt phải chịu đựng những chế độ cai trị mục nát, bất hảo và chưa lúc nào chống lại có hiệu quả ảnh hưởng cộng sản ở trong nước- điều này Kennedy đã được các cố vấn thân Diệm của ông cảnh báo trước. Trước khi Diệm bị sát hại, nước Mỹ chỉ chứng kiến khoảng 150 quân nhân ngã xuống trong khi làm nhiệm vụ; sau khi Diệm bị giết chết, trong mười năm tiếp theo, nước Mỹ sẽ chứng kiến 58.000 nam nữ qâun nhân Mỹ chết. Cho dù bằng một cách gián tiếp, ngay cả sau khi chết, Kennedy vẫn phải chịu trách nhiệm về số người đã hi sinh này. Kennedy phớt lờ các cố vấn tiền phương của mình để lắng nghe những Ông ba nịnh hót trong Bộ ngoại giao vì họ đã vẽ ra một bức tranh dễ dãi nhất để ông được tái đắc cử. Hãy để các tướng lĩnh nổi dậy lật đổ Diệm và Nhu, họ nói lý thuyết với Kennedy, và hãy để các tướng lĩnh nổi dậy giết chết Diệm và Nhu... rồi thì mọi lo lắng về cuộc tái tranh cử của ngài sẽ được giải quyết.
Con đường dễ dãi đối sánh với con đường ngoại giao.
Kennedy đã chọn con đường thứ nhất.
Một chuyên gia khác về Việt Nam, William J.Rust,nó một cách súc tích trong cuốn sách có lẽ đã mô tả chi tiết hơn bất cứ cuốn sách nào về lệnh hành quyết Diệm. “ Mặc dù các quan chức Mỹ ở Washington và Sài Gòn đã biết trước cuộc đảo chính và mối nguy hiểm mà Diệm có thể gặp phải, nhưng không có cuộc sắp đặt nào đưa Diệm ra nước ngoài.” Và “... mười bảy giờ sau khi nổ ra cuộc đảo chính, vẫn không thấy nỗ lực nào bốc Diệm bay ra khỏi nuớc”.(56) [(Rust, William J. Kennedy in Vietnam( Da Capo Press, New York, 1985)]
Bạn vẫn chưa tin chắc rằng Kennedy và chính phủ của ông ta sốt sắng thúc đẩy một cuộc đảo chính chống lại một nước đồng minh sao? Hãy xem xét các bức điện văn trao đổi xuyên đại dương giữa Nhà trắng và Đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn, và cùng với nó, hãy nhìn những Ông ba nịnh hót đứng sau John F. Kennedy. Sau đây là một bức điện của Ngoại trưởng Dean Rusk gửi Lodge, vào hồi 12 giờ 4 phút rtưa ngày 1.11.1963- một giờ trước khi cuộc đảo chính bắt đầu: “Nếu cuộc đảo chính thành công, dân chúng ở đây sẽ rất tán thành và hiểu rõ hơn về mục đích của cuộc đảo chính nếu các tướng lĩnh và quan chức dân sự tiếp tục phát huy mạnh mẽ và công khai một kết luận được thông báo trên đài phát thanh của họ, rằng Nhu đã mặc cả với những người Cộng sản để phản bội sự nghiệp chống cộng” (57) [(Frus, Vol IV.)]
Trong bức điện này Rusk cho Lodge biết rằng cử tri Mỹ sẽ được xoa dịu nếu Lodge yêu cầu các tướng đảo chính công khai tuyên bố rằng Nhu là người cộng tác với cộng sản.
Tiếp đó là lời phát biểu của Roger Hilsman, Trợ lý Ngoại giao Phụ trách các Vấn đề Viễn Đông: “Nếu Diệm vẫn ngoan cố không chịu truất quyền Nhu, chúng ta phải đối mặt với nguy cơ bản thân Diệm cũng không thể được bảo đoảm an toàn.” Hôm đó là ngày 24.8.1963, hai ngày sau khi Lodge nhận nhiệm vụ Đại sứ(58) [(Herring, The Pantagon Paper.)]
Trong bức điện gửi cho Lodge này, Rusk cũng yêu cầu được trao đổi thông tin với các tướng chống đối, đó là một dấu hiệu rõ ràng cho thấy chính quyền Kennedy tán đồng việc lật đổ một chính phủ đồng minh. Stanley Karnow nói một ẩn ý khá hay trong tiểu luận nổi tiếng của ông về chiến tranh Việt Nam: “Vì nó( bức điện tín) hàm ý, ít nhất là trên lý thuyết, rằng nước Mỹ( tức là Chíng phủ Kennedy) giành quyền thao túng một chính phủ phụ thuộc không tuân thủ các chuẩn mực của nó” (59). [(Karnow)]
Ngày 29.8.1963, Lodge gửi bức điện sau đây cho Nhà trắng để xác định thái độ của chính phủ:” Chúng ta đã rơ vào một giải pháp không có đường thoái lui mà không mất mặt: lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm” (60) [(Frus, Vol IV.)]
Hồ sơ lưu trữ quốc gia nói rất rõ ràng, hiển nhiê và xác định nước Mỹ, dưới quyền Tổng thống Kennedy, bị rơi vào chuyện gì – trù liệu một cuộc phá hoại ngầm và đi đến lật đổ tổng thống của một nước đồng minh mà Mỹ đã bỏ ra hàng tỉ đô la và hy sinh một trăm sinh mạng để ủng hộ.
Đến phút chót khi quả bóng đã lăn, ông sợ hậu quả nếu cuộc đảo chính thất bại( phần nào giống với sự dè dặt đã khiến ông nuốt lời vào phút chót không cho quân yểm trợ trong vụ xâm nhập Vịnh Con Heo, khiến bao nhiêu nỗ lực[ mà ông ta đã biết và chuẩn y ngay từ đầu] biến thành thảm hoạ và là nỗi phiền toái duy nhất của ông ta trước công chúng). Dù vậy, chẳng bao lâu sau sự phê chuẩn của ông ta đã trở nên rõ ràng, khi đích thân ông đánh điện cho Lodge và nói rằng: “Nhưng một cuộc đảo chính đặt dưới sự lãnh đ5o của những người có trách nhiệm bắt đầu... thì chính vì quyền lợi của nước Mỹ mà nó phải thành công” (61) [(Karnow.)]
Trong cuốn phim tài liệu đặc sắc Việt Nam: Thiên sử Truyền hình, Lodge được phỏng vấn vài năm trước khi mất năm 1985, và ông đã phát biểu một cách cứng cỏi rằng “Tôi đã sống với cuộc đảo chính đó trong nhiều tuần (phải nói là nhiều tháng chứ, Henry) tuy nhiên tôi không thể nói là tôi ngạc nhiên... mà đúng là thú vị khi được chứng kiến cảnh người ta bắn lẫn nhau”.
Chứng kiến cảnh người ta bắn nhau là một điều thú vị? Một người thông minh như Henry Cabot Lodge không thể im lặng hay sao mà lại phát biểu một câu lố bịch như vậy? Rồi còn nói “Tôi đã sống với cuộc đảo chính đó trong nhiều tuần...” Ở đây Lodge cố liều phản bác chuyện ông ta đã tiếp tay kích hoạt cuộc đảo chính. Sự ttực được tài liệu xác chứng là Lodge đã thúc đẩy cuộc lật đổ này không phải chi trong nhiều tuần mà trong nhiều tháng, thậm chí trước các cuộc họp ở Nhà trắng có ông tham dự, trước khi ông được phái tới Sài Gòn hồi tháng 8 năm 1963.
Seymour Hersh, trong cuốn sách kỳ lạ The Dark Size of Camelot (“Mặt tối của Triều đình Camelot”), trích dẫn nhiều đoạn hồi ký chưa công bố của Lodge để lại sau khi chết, “Tôi được lệnh gửi các bức điện trực tiếp đến [Tổng thống Kennedy],(62) [(Hersh,)] thêm nhiều bằng chứng cho thấy Kennedy chỉ thị cho Lodge phá hỏng các kênh chính thống để sử dụng các kênh “cửa hậu” và thận trọng không để cho các sĩ quan chỉ huy Mỹ ở Nam Việt Nam và những chính khách hoạt động tiền phương ph2n đối giải pháp của Kennedy biết kế hoạch ủng hộ cuộc đảo chính.
Như đã nói trước đây, kế hoạch của JFK sẽ không thành nế Diệm và Nhu sống sót sau cuộc đảo chính- và họ đã chết- mặt khác kế hoạch cũng sẽ không thành nếu có một vài thành viên khác trong gia đình Diệm hoặc sống sót hoặc không bị vô hiệu hoá hoàn toàn. Bà Nhu nhiều tai tiếng (chúng ta sẽ biết thêm về con người này sau) đang đi du thuyết ở Mỹ lúc xảy ra đảo chính, đã tìm mọi cách – nhưng không được – nài nỉ Mỹ ủng hộ sự nghiệp của của Nam Việt Nam; bà an toàn đứng ngoài cuộc đảo chính và chắc hẳn không thể bị giết chết đột ngột (như nhiều nhân chứng vụ ám sát Kennedy chẳng hạn) bởi vì bà quá nổi bật lúc bấy giờ. Tuy nhiên, Lodge lo liệu các con của bà tránh được nguy hiểm; ông ta đưa họ ẩn trốn trên núi ngay trước cuộc đảo chính, sau đó thu xếp cho họ bay qua Rome. Riêng anh cả của Diệm, Tổng Giám mục Thục, được triệu hồi một cách dễ dàng về Vatican ngay sau khi JFK tiếp kiến giáo hoàng hồi tháng Sáu. Và còn có một người em khác cuỉa Diệm, Ngô Đình Cẩn, người được coi là “lãnh chúa” ở Miền Trung Việt Nam. Nhân vật này là một câu chuyện khác- ông ta tỏ ra rất có chính kiến và lớn tiếng nói về những toan tính của Mỹ can thiệp vào chính phủ độc lập của Diệm. Tuy vậy, trong thới gian xảy ra đảo chính, Cẩn nhận ra tình trạng gay go của mìng bên liên lạc với Lodge xin được tị nạn chính trị, vì biết rằng nếu bị bắt, phe của Minh Lớn sẽ giết ông. Lodge sẵn lòng đáp ứng hoặc có vẻ như vậy. Lodge chỉ cho Cẩn trốn trên một máy bay Mỹ, trong mộtkhoang dành cho người đưa thư ngoại giao, rồi sẽ được bốc bay đi an toàn rời khỏi nước tới Philippines. Nhưng ngay khi Cẩn trốn được lên máy bay thì chuyến bay chợt đổi hướng rồi được lệnh hạ xuống căn cứ không quân Tân Sơn Nhất nơi lính Mỹ của Minh Lớn đang đợi. Cẩn bị bắt ngay lập tức và về sau này bị một đội hành quyết bắn chết(63) [(Sheehan.)]. Lodge đã lừa đưa Cẩn vào nanh vuốt của chính quyền mới, và họ không có lựa chọn nào khác hơn là sát hại ông ta.
Còn đây là một bằng chứng khác về bản chất khác hai mặt trân tráo đến xấu hổ của Lodge. Sau cuộc đảo chính, ông đại sứ đáng kính đi rêu rao và quả quuyết với người Mỹ rằng nước Mỹ hoàn toàn trong sạch trước cuộc đảo chính Diệm và kết cục đẫm máu của nó. Ông viết trên tờ New York Times ngày 30.6.1964:” Cuộc lật đổ chế độ Diệm thuần tuý là chuyện nội bộ của người Việt Nam. Chúng ta chưa bao giờ tham dự vào việc bàn mưư tính kế. Chúng ta chưa bao giờ đưa ra một lời khuyên. Chúng ta không làm bất cứ điều gì liên quan đến nó” (64) [(Karnow)]. Nhưng mà hãy xem dòng chữ sau trong bức điện tính Lodge gửi cho Nhà trắng chỉ năm ngày sau khi Diệm và Nhu bị giết: “... mảnh đất nơi hạt giống đảo chính đang lớn mạnh là do chúng ta vun xới và cuộc đảo chính sẽ không thể xảy ra nếu không có sự chuẩn bị của chúng ta” (65) [(Frus, Vol IV.)]. Tất cả đều xuất phát từ chính một người mà sau này sẽ khẳng định với người Mỹ rằng chính phủ Mỹ không làm bất cứ điều gì liên quan đến nó”. Có nhân nhượng lắm thì cũng phải gọi đây là một lời dối trá khủng khiếp.
Bây giờ, chỉ để sáng rõ hơn, chúng ta hãy nhình lướt những diễn tiến ở Việt Nam sau khi cuộc đảo chính do Mỹ nuôi dưỡng diễn ra, vì theo như đánh giá của Kennedy và Bộ ngoại giao của ông ta thì cuộc xâm lăng của cộng sản sẽ không thể ngăn chặn được nếu còn chính quyền Diệm. Diệm cầm quyền trong chín năm, còn người kế nhiệm ông ta, Minh Lớn, sẽ chỉ tại vị được hai tháng trước khi chính ông ta bị phe quân đội của ông lật đổ. Sau đó, trong mười một mămtiếp theo, cuộc xung đột Việt Nam leo thang thành một cuộc chiến tranh toàn diện sẽ cướp đi sinh mạng 58.000 người Mỹ và hàng triệu người Vệt Nam ở cả hai miền- cuộc chiến tranh duy nhất mà người Mỹ sẽ thất bại và là một trong những vết nhục đen tối nhất trong lịch sử của nước Mỹ. Chức vụ tổng thống Nam Việt Nam sẽ trở thành miếng mồi béo bở: các ông tướng thối nát lần luợt lên ngôi sau những trang giành đấu đá lẫn nhau nhằm chiếm cho được chiếc ghế cao trọng nhất trong Dinh Tổng thống và tận hưởng giàu sang.
Nói cách khác, phải thừa nhận rằng những người kế vị Diệm sẽ không bao giờ giữ được phòng tuyến chống chủ nghĩa cộng sản như Diệm đã làm. Cái chết của Diệm là tiền đề dẫn tới cái chết ở miền Nam Việt Nam. Thời gian cho thấy những người phản bội như Tướng Paul Harkins. Giám đốc CIA McCone, và cựu Đại sứ Nolting đã có lý. Có thể Diệm không phải là nhà lãnh đạo tốt nhưng chắn chắn là tốt hơn bất cứ kẻ nào thay thế – như một thập kỷ đẫm máu, chết chóc, và kinh hoàng sau đó sẽ chứng minh – và mặc dù cách đối xử của Diệm với người Phật giáo là hoàn toàn không chấp nhận được, thì thêm nhiều sức ép ngoại giao nữa chắc chắn sẽ buột đượv Diệm và Nhu chấm dứt những cuộc tấn công đàn áp. Xét cho cùng, điều ưu tiên hàng đầu ở Nam Việt Nam là cố gắng tránh khỏi chế độ cộng sản, và Diệm đã làm được điều này. Vì vậy, “giải pháp” của Kennedy thực sự đã giúp huỷ hoại mục đích ban đầu đó. Diệm bị giết bởi vì sự đàn áp số đông người Phật giáo của ông đe doạ những hy vọng tái tranh cử của JFK, nhưng điều đáng lưu ý là sau cái chết của Diệm, việc đàn áp Phật giáo vẫn không dừng lại; trong thực tế vẫn có thêm nhiều sư sãi tự thiêu để phản đối chính quyền sau khi Diệm bị tống tiễn (66) [(Bouscaren, Anthony T., The Last of the Mandarins: Diem of Vietnam( Duquensne University Press, Pittbiurgh, 1965)].
Sự đồng loã trực tiếp của Mỹ trong cuộc đảo chính Diệm không thể phủ nhận được, và bằng cách phớt lờ những đề xuất cụ thể của đội ngũ cố vấn và CIA, Kennedy dựng lên một nhóm trợ thủ đặc biệt, họ sẽ bí mật thực hiện quyết tâm của ông là lật đổ đồng minh. Và tòan bộ tâm trạng của JFK, vì rằng Diệm và Nhu đã chết, có thể tìm thấy trong dòng cuối cùng của bức điện ông ta trực tiếp gửi đến Lodge ngày 6.11.1963. Tôi khẳng định sự đánh giá cao đối với một công việc được hoàn thành tốt đẹp, John F. Kennedy(67) [(Frus, Vol. IV.0)].