1. Một Cuộc Cứu Chữa Nhiệm Màu Chúng tôi dậy thật sớm vào sáng ngày hôm sau, và lên đường trước khi mặt trời mọc, để đi đến chỗ làng quê của Bạch Lãng. Chúng tôi đến làng ấy mười hai ngày sau đó. Khi đến nơi chúng tôi được đón tiếp bởi những vị siêu nhân đã viếng thăm chúng tôi vào ngày cuối cùng trên sa mạc, và lấy làm sung sướng nhận lời khi các vị mời chúng tôi nghỉ ngơi tại nhà các vị trong vài ngày. Chúng tôi được đưa vào những gian phòng rất sang trọng so với những lều trại của chúng tôi trên sa mạc, buổi cơm tối đã sẵn sàng nửa giờ sau đó. Chúng tôi thay đổi y phục chỉnh tề và bước vào gian phòng khách bên cạnh, tại đây chúng tôi gặp lại nhiều vị chân sư mà chúng tôi đã từng được quen biết trong những chuyến du hành đã qua xuống miền Nam, các vị vui mừng tiếp đón, nói rằng vùng này là chỗ đất lành của chúng tôi, và sẵn sàng mở rộng cửa để tiếp đón tất cả mọi người. Vị thống đốc của vùng này tiếp đón chúng tôi bằng một bài diễn từ khả ái xuyên qua một thông dịch viên. Người còn cho biết rằng buổi cơm tối được sắp đặt tại tư dinh và chúng tôi sẽ đến đó ngay lập tức. Chúng tôi rời khỏi phòng khách, do vị thống đốc đi trước dẫn đường, có hai vị vệ sĩ đi kèm hai bên theo lễ nghi bổn xứ. Kế đó là Lê Mông và bà chủ nhà trọ của chúng tôi khi trước, rồi đến Tô Mặc và người thiếu phụ tuyệt sắc, và sau cùng là đức Tuệ Minh, đức bà Mã Ly, mẫu thân của ngài, và tôi, kỳ dư đều tháp tùng đi theo sau. Chúng tôi vừa mới đi được một đoạn chừa bao xa thì một đứa gái ăn mặc rách rưới tách ra từ trong đám đông người đang nhìn chúng tôi từ bên nề đường, và hỏi bằng tiếng bổn xứ để xin nói chuyện với đức bà Mã Ly. Bà Mã Ly nắm tay tôi và đức Tuệ Minh rồi cả ba chúng tôi đều bước ra khỏi hàng ngũ để nghe xem bé ấy muốn hỏi điều gì. Thấy vậy bà chủ nhà chúng tôi do dự một lúc, rồi nói rằng bà muốn ngừng lại. Trong khi bà bước ra khỏi hàng ngũ khách, tất cả đoàn đếu dừng chân lại. Bà Mã Ly giải thích cho viên thống đốc biết rằng bà muốn tất cả mọi người hãy tiếp tục lộ trình và ngồi vào bàn ăn trước, sau đó bà sẽ đến để nhập tiệc chung với tất cả. Trong khi đó, bà nắm hai bàn tay của đứa bé gái trong lòng bàn tay bà. Sau khi viên thống đốc và đoàn tùy tùng đã đi qua, bà quỳ xuống thấp để áp khuôn mặt bà vào gò má của đứa bé, và nói: - Con hỡi, con muốn ta giúp điều gì? Sau đó, bà Mã Ly đã được biết rằng em trai của đứa bé gái này đã bị té ngã vào lúc xế trưa và có lẽ bị gãy xương sống. Đứa bé khẩn cầu bà Mã Ly đi theo nó để xem có thể cứu chữa cho em trai nó, vì đứa em trai này đang đau đớn rên xiết rất khổ sở. 2. Căn Nhà Huyền Diệu Bà Mã Ly đứng dậy, giải thích tình hình cho chúng tôi nghe và yêu cầu chúng tôi hãy đi về tư dinh viên thống đốc, còn bà đi theo đứa bé gái và sẽ gặp lại chúng tôi sau. Lê Mông xin phép đi với bà. Bà nói rằng tất cả chúng tôi có thể đi theo bà nếu chúng tôi muốn. Chúng tôi bèn đi theo bà. Bà vừa đi vừa nắm tay đứa bé gái, em bé này nhảy nhót vì vui mừng. Bà chủ nhà chúng tôi thông dịch lại những lời em nói. Nó nói biết rằng đứa em trai của nó sẽ được đức bà chữa khỏi. Khi đến gần nhà, đứa bé gái chạy vọt tới trước để báo tin cho chúng tôi đến. Chúng tôi thấy em ở một cái chòi vách đất nghèo nàn. Bà Mã Ly có lẽ đọc được tư tưởng chúng tôi vì bà nói: - Căn nhà nghèo nàn này chứa đựng những quả tim ấm áp. Khi đó, cánh cửa đột nhiên mở. Chúng tôi nghe một giọng đàn ông và chúng tôi bước vào. Chòi lá này bên trong rất nheo nhóc. Nó chỉ vừa đủ khoảng trống để chứa tất cả chúng tôi, và trần nhà thấp đến nỗi chúng tôi không thể đứng thẳng người. Một ngọn đèn dầu leo lét chiếu ánh sáng lập lòe lên gương mặt của cha mẹ đứa bé ngồi một góc, áo quần dơ bẩn. Trong góc ở xa nhất, nằm trên một đống rơm rạ và giẻ rách cũ hôi hám ẩm thấp, là một đứa bé trai độ chừng năm tuổi đang rên xiết, gương mặt tái ngắt như sáp và nhăn nhó như có vẻ rất đau đớn. Đứa bé gái ngồi xuống bên cạnh và đặt hai bàn tay lên hai gò má đứa em trai. Em nói với đứa bé trai rằng nó sẽ được hoàn toàn chữa khỏi vì đức bà đã có mặt tại đó. Em rút hai bàn tay và xích qua một bên để cho em trai ấy nhìn thấy đức bà. Đến khi đó em mới nhìn thấy lần đầu tiên những vị khách lạ, và nét mặt em liền biến đổi ngay, dường như em đang trải qua một cơn sợ hãi. Em lấy hai tay che mặt, và thân mình run rẩy hòa nhịp với tiếng khóc thổn thức. - Ồ! Con tưởng rằng đức bà chỉ đến một mình. Bà Mã Ly ngồi xuống bên cạnh em và ôm em vào lòng trong một lúc. Khi em đã bình tĩnh, bà nói rằng bà sẽ cho chúng tôi về nếu em muốn. Em đáp rằng em chỉ ngạc nhiên và sợ hãi, thế thôi, vì em chỉ nghĩ đến đứa em trai đang đau ốm. Bà Mã Ly nói: - Con thương yêu em con nhiều lắm phải không? Đứa bé gái, tuy chưa chín tuổi đáp: - Dạ, nhưng con thương yêu tất cả mọi người. Đức Tuệ Minh thông dịch lại cho chúng tôi, vì chúng tôi không hiểu môt tiếng nào. Bà Mã Ly nói: - Nếu con thương em con nhiều như vậy, con có thể giúp sức một phần vào sự cứu chữa cho nó. Kế đó, bà bảo em bé ấy ngồi trở lại tư thế lúc nãy, với hai bàn tay ôm lấy hai gò má của em nó, rồi bà xoay mình lại để đặt một bàn tay lên trán đưa bé. Ngay lập tức những tiếng rên xiết liền ngưng bặt, gương mặt đứa trẻ sáng lên, thân mình nó duỗi thẳng một cơn yên tĩnh hoàn toàn của bầu không khí chung quanh, và đứa trẻ ngủ yên trong một giấc ngủ tự nhiên. Bà Mã Ly và đứa bé gái đó ngồi yên trong tư thế đó trong một lúc, rồi bà gạt nhẹ hai bàn tay đứa bé gái và nói: - Em bé trai này thật khôi ngô, mạnh giỏi và tráng kiện thay. Kế đó bà rút bàn tay ra một cách thật nhẹ nhàng. Lúc đó tình cờ tôi lại đứng gần bà trong khi bà đưa tay trái ra trước. Tôi đưa bàn tay tôi để đỡ bà đứng dậy, nhưng khi bàn tay tôi chạm vào bàn tay trái của bà thì tôi cảm thấy bị va chạm như điện giật, nó làm cho tay tôi bị tê liệt bà nhẹ nhàng đứng dậy và nói: - Tôi đã quên đi mất, đáng lẽ tôi không nên nắm lấy tay bạn như tôi đã làm, vì tôi cảm thấy trong một sức mạnh kinh khủng của luồng từ điện chạy xuyên qua thân mình tôi. Khi bà vừa nói dứt lời, thì tay tôi đã lành mạnh trở lại như thường. Tôi tin rằng không ai đã nhận thấy việc ấy xảy ra, vì họ còn đang chú trọng vào những gì diễn ra ở chung quanh. Đứa bé gái đã thụp xuống chân bà Mã Ly, và hôn lấy hôn để gấu áo của bà. Bà Mã Ly cúi xuống, lấy tay đỡ gương mặt ứa lệ của đứa bé, rồi quỳ xuống ôm nó vào lòng và hôn lên mắt lên miệng nó. Đứa bé quàng tay ôm cổ bà Mã Ly, và cả hai đều yên lặng như thế trong một lúc. Kế đó, ánh sáng lạ lùng mà chúng tôi đã diễn tả trước đây bắt đầu tràn vào gian phòng. Ánh sáng ấy mỗi lúc càng trở nên sáng rỡ, và sau cùng tất cả mọi vật đều có vẻ trong suốt, dạ quang. Không có vật gì phát ra một cái bóng, và gian phòng mỗi lúc càng tỏ ra to lớn hơn. Từ lúc đầu, cha mẹ những đứa bé vẫn ngồi yên trên nền đất, có vẻ im lặng vì sợ hãi. Nhưng đến lúc đó, thì cả hai đều biến sắc, gương mặt họ trở nên trắng bệch vì kinh hoàng; người cha sợ hãi đến nỗi y chạy phóng ra cửa và đụng vào mình Lê Mông trong cơn hấp tấp vội vàng. Người mẹ thì thụp xuống chân bà Mã Ly, vừa lạy vừa khóc mướt. Bà Mã Ly đặt một bàn tay lên trán người đàn bà ấy và kề vai nói thì thầm. Tức thì người đàn bà kia hết khóc, y bèn ngồi nhổm dậy và nhìn thấy sự biến đổi đang hiện ra trong gian nhà. Gương mặt y lại lộ vẽ kinh hoàng, y bèn hối hả đứng dậy và toan chạy trốn. Đức Tuệ Minh nắm lấy một tay y trong khi vị giai nhân tuyệt sắc nắm cánh tay kia. Hai vị giữ y lại tư thế trong một lúc, rồi thay vì là cái chòi lá bẩn thỉu khi chúng tôi mới bước vào, thì lúc ấy chúng tôi đang ở trong một gian phòng đầy đủ tiện nghi với những bàn ghế giường tủ tươm tất. Đức Tuệ Minh bước qua gian phòng, ẳm lấy đứa nhỏ đang nằm ngủ trên đống rạ mốc meo, và nhẹ nhàng đặt nó lên một cái giường có trải nệm trắng và chăn mền sạch sẽ. Ngài cúi xuống đặt một chiếc hôn lên trán đứa bé một cách âu yếm như một người hiền mẫu. Bà Mã Ly và đứa bé gái đã đứng dậy và bước tới gần người mẹ các đứa nhỏ. Chúng tôi cũng tựu lại chung quanh y. Người mẹ quỳ thụp xuống hôn lấy hai bàn châân của bà Mã Ly và khẩn cầu bà đừng tách rời khỏi y. Đức Tuệ Minh bước tới nắm lấy hai bàn tay người đàn bà kia, đỡ y đứng dậy, rồi nói chuyện với y bằng tiếng thổ ngữ bổn xứ. Khi người mẹ đã đứng dậy, những áo quần lấm lem nhơ nhuốc của y đã biến thành những áo quần mới. Y thị im lặng trong một lúc dường như không còn hiểu biết chuyện gì nữa, và lao mình vào trong vòng tay mở rộng của bà Mã Ly. Hai người đàn bà giữ tư thế đó một lúc trong im lặng, rồi đức Tuệ Minh bước lại gỡ người ấy ra. Kế đó, đứa bé gái chạy tới đưa hai tay ra trước và nói: - Bà hãy nhìn xem quần áo mới của con. Nó day lại bà Mã Ly, bà cuối xuống đỡ nó lên; trong khi đó nó choàng tay ôm cổ và áp mặt vào vai bà. Lê Mông đang đứng phía sau, đứa bé gái bèn đưa hai tay ngang qua vai bà Mã Ly, ngẩng đầu lên và mỉm cười với y. Lê Mông bước tới và đưa hai tay y ra, đứa bé nắm lấy và nói rằng nó yêu thương tất cả chúng tôi, nhưng nó yêu mến bà Mã Ly nhiều nhất. Đức Tuệ Minh nói để ngài đi tìm người cha các đứa bé. Một lúc sau ngài đưa y về nhà, với dáng điệu sợ sệt và còn lầm bầm. Bà Mã Ly bước tới và đặt đứa bé gái xuống gần bên y. Dưới cái vẻ mặt khó chịu của người đàn ông này, chúng tôi có thể nhận thấy ẩn tàng một lòng biết ơn sâu xa. Chúng tôi bèn bước ra khỏi căn nhà. Trước khi chúng tôi ra về, người mẹ các đứa bé yêu cầu chúng tôi hãy trở lại khi có dịp. Chúng tôi cho biết là sẽ trở lại vào ngày hôm sau. Chúng tôi bèn hối hả đi đến tư dinh viên thống đốc vì sợ rằng đi trễ làm cho mọi người phải đợi chờ. Chúng tôi có cảm giác như đã trải qua nhiều giờ trong cái chòi lá, nhưng thật ra chỉ có nửa giờ đã trôi qua từ lúc chúng tôi tách rời khỏi đoàn người đến khi chúng tôi gặp họ trở lại. Tất cả mọi sự đã diễn ra trong một lúc còn ngắn ngủi hơn là cái thời giờ cần thiết để ghi chép lại câu chuyện. Chúng tôi đến tư dinh viên thống đốc đúng vào lúc mọi người đang ngồi vào bàn ăn. Lê Mông xin phép ngồi gần bên Tô Mặc. Y lộ vẻ vô cùng khích động. Về sau Tô Mặc cho chúng tôi biết rằng Lê Mông bị xúc động mạnh về những gì y nhìn thấy, đến nỗi y không thể nào giữ được sự bình tĩnh. Qua ngày hôm sau, Lê Mông thức dậy trước hết mọi người. Trong bữa ăn sáng, y ngồi giữa đức Tuệ Minh và Dật Sĩ và luôn luôn đặt câu hỏi trong suốt bữa ăn. Khi chúng tôi vừa ăn xong, y đã đứng dậy và muốn chạy ra ngoài để nhìn xem cái nhà "đã mọc lên trong một khắc đồng hồ." Quàng một tay lên vai Dật Sĩ, y nói rằng nếu y có được hai vị cứu trợ như đức Tuệ Minh và bà Mã Ly, y sẽ đi chu du khắp chốn và làm cho nhà cửa mọc lên để giúp đỡ những kẻ nghèo khổ không nhà. Y nói thêm: - Nhưng tôi chắc là những tay chủ phố và nhà đất ở Nữu Ước sẽ nổi giận, và họ sẽ không để tôi yên. Về sau, Lê Mông cho chúng tôi biết rằng y bị xúc động và ngạc nhiên đến nỗi y không thể nào ngồi yên mà không đặt câu hỏi. Y nói chuyến đi này thật là chuyến xuất hành sôi nổi hào hứng nhất trong đời y, tuy rằng y đã từng đi du lịch ở nhiều nơi xa lạ. Khi đó y có ý định giúp chúng tôi tổ chức một chuyến hành trình thứ nhì để tiếp tục những cuộc đào xới khảo cổ theo chỉ thị của các vị siêu nhân. Nhưng bất hạnh thay, dự án này không được thực hiện vì Lê Mông đã đột ngột từ trần vào năm sau. Chúng tôi phải vất vả khó nhọc lắm mới cản ngăn được y đến ngay ngôi nhà nhỏ mới dựng lên. Điều này được giải quyết ổn thỏa, theo đó y sẽ đi cùng với Dật Sĩ và một người nữa đến một nơi mà từ đó y có thể nhìn thấy ngôi nhà ấy từ đàng xa. Sau độ nửa giờ, họ đã trở về. Lê Mông mừng rỡ lộ ra mặt vì y đã nhìn rõ ngôi nhà nhỏ thật sự. Ngôi nhà ấy làm cho y hồi tưởng lại một trong những giấc mơ hồi thơ ấu, trong khi đó y mơ thấy vừa đi dạo chơi với các vị tiên nữ vừa xây nhà cho những kẻ nghèo và làm cho họ được sung sướng. Đức Tuệ Minh cho chúng tôi biết rằng chiều hôm đó sẽ có một cuộc hội họp giống như phiên họp hồi năm ngoái tại làng quê của ngài. Ngài mời tất cả chúng tôi cùng đến dự, chúng tôi sung sướng nhận lời. Chúng tôi quá đông người để có thể cùng đi một lượt đến xem ngôi nhà nhỏ. Bởi đó, chúng tôi chia ra để đi từng nhóm nhỏ độ năm hay sáu người. Nhóm đầu tiên gồm có đức Tuệ Minh, Lê Mông, một hay hai vị phu nhân, và tôi. Chúng tôi đi ngang qua nhà trọ của bà Mã Ly, bà cùng nhập bọn với chúng tôi. Khi chúng tôi gần đến ngôi nhà nhỏ, đứa bé gái chạy ra đón, rồi nhảy vào nằm gọn trong vòng tay mở rộng của bà Mã Ly, và nói rằng em trai nó nay đã khỏe mạnh. Khi chúng tôi đến nhà, người mẹ các đứa bé chạy ra quỳ thụp xuống chân bà Mã Ly và thốt vài lời tạ ân bà. Bà Mã Ly đưa tay ra đỡ người đàn bà ấy và nói: - Bà đừng quá khiêm cung. Tôi có thể làm cho bất cứ ai những gì tôi đã làm cho bà Cái ân huệ thiêng liêng mà bà đã nhận được, không phải do tôi ban ra, mà do Trời. Đứa bé trai ra mở cửa, và mẹ nó mời chúng tôi vào nhà. Chúng tôi đi theo sau các bà, và bà chủ nhà trọ tình nguyện làm thông ngôn. Không còn nghi ngờ gì nữa, cái nhà vẫn còn đó, với bốn phòng đầy đủ tiện nghi. Ba phía chung quanh là những nhà chòi tranh rất lụp xụp nghèo nàn. Chúng tôi được biết rằng các chủ nhân của các chòi tranh này đang lo chuẩn bị dọn đi nơi khác vì họ tin rằng ma quỷ đã dựng lên ngôi nhà mới này và sẽ làm cho họ chết nếu họ tiếp tục sống ở chung quanh. Chúng tôi vừa được tin của vị thống đốc. Sáng hôm ấy, ông ta gởi một toán quân hầu và một viên đại úy đến mời chúng tôi tới dự bữa cơm trưa tại tư dinh. Chúng tôi nhận lời, và đến giờ hẹn, một vệ sĩ đến để hộ tống chúng tôi đến tư dinh viên thống đốc. Đến tư dinh viên thống đốc, chúng tôi thấy một số đông những vị Lạt Ma của tu viện Lạt Ma giáo gần bên đã có mặt tại đó cùng với vị Sư Trưởng của họ. Chúng tôi được biết rằng tu viện này rất quan trọng và có độ (1, 500) đến (1, 800) sư sãi. Viên thống đốc cũ có chân trong đại Hội Đồng sư sãi của tu viện này. Khi đó chúng tôi được biết được bữa tiệc này có mục đích tạo nên một dịo tiếp xúc giữa các vị Lạt Ma và các đoàn viên trong phái đoàn chúng tôi. Các vị Chân Sư đã từng biết Sư Trưởng này từ lâu, vì các ngài thường hay gặp gỡ và đã từng làm việc chung với vị Sư Trưởng ấy. Cho đến sáng ngày hôm ấy, viên thống đốc dường như vẫn chưa biết sự liên hệ trên. Thật vậy, vị Sư Trưởng đã vắng mặt ở tu viện trong ba năm nay và mới trở về chỉ có một ngày trước khi chúng tôi đến. Trong bữa ăn, chúng tôi nhận thấy các vị Lạt Ma là những người có học thức, có quan điểm rộng rãi về cuộc đời, đã từng du lịch nhiều và có hai vị trong số đó đã từng sống một năm bên Anh Quốc và Hoa Kỳ. Trước khi chia tay, vị Sư Trưởng mời chúng tôi ngày hôm sau đến tu viện Lạt Ma giáo và làm thượng khách của vị Lạt Ma trong một ngày. Đức Tuệ Minh khuyên chúng tôi nên nhận lời, và chúng tôi đã trải qua một ngày rất tốt đẹp và hữu ích tại tu viện. Vị Sư Trưởng là một người đạo hạnh uyên thâm. Ngày đó, ông ta đã cùng với Tô Mặc kết tình thân hữu, tình thân hữu này về sau đã trở nên một sự cảm thông đậm đà nồng hậu và kéo dài đến suốt đời của hai người. Vị Sư Trưởng đã đem đến cho chúng tôi một sự trợ giúp vô cùng quý báu trong những chuyến du hành về sau của chúng tôi tại vùng này. 3. Phái Đoàn Trở Về Căn Cứ Mùa Đông Theo chương trình được sắp đặt, phái đoàn chúng tôi sẽ lên đường vào trưa ngày hôm sau. Dật Sĩ và Chandersen sẽ cùng đi với chúng tôi đến một địa điểm trao đổi hàng hóa để chúng tôi mua sắm thêm lương thực dự trữ, và đức Tuệ Minh cũng sẽ đến đó sau với chúng tôi. Kế đó, ba vị siêu nhân sẽ cùng với chúng tôi trở lại địa điểm căn cứ mùa đông. Khi chúng tôi đến căn cứ, phái đoàn thám hiểm giải tán, và mọi công việc sắp đặt cho những người nào muốn về nhà, có thể đi đến chỗ khởi điểm của họ do con đường mòn của khách thương buôn. Ngày hôm sau, đức Tuệ Minh đến với chúng tôi. Chúng tôi từ giã các bạn đoàn viên và cùng với ngài đi về phía căn cứ mùa đông. Chúng tôi nghỉ hai ngày tại trại bọn cướp. Hai người bổn xứ đi theo chúng tôi tại đây, và toán chúng tôi chỉ còn lại có bảy người. Hai tên cướp thuật lại cho bọn chúng nghe về chuyến du hành kỳ lạ vừa rồi và những điều nhiệm mầu mà chúng đã nhìn thấy. Chúng tôi được đối xử một cách vô cùng chu đáo. Ba vị siêu nhân được chúng dành cho những ưu đãi danh dự đặc biệt. Viên đầu đảng bọn cướp cho ba vị biết rằng để đáp lại thịnh tình của các vị Chân Sư đã tỏ ra đối với họ, họ sẽ coi địa điểm chôn dấu của thành phố cổ như một vùng cấm địa tuyệt đối thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Vả lại, cũng không có sự e sợ rằng bọn cướp rời khỏi căn cứ họ để toan đánh cướp một nơi xa xôi như thế. Thật vậy, những bọn cướp sa mạc không bao giờ xâm phạm vào miền núi, và trái lại bọn cướp núi không hề xâm chiếm vùng đồng bằng, vì họ luôn chiên tranh với nhau. Theo chỗ chúng tôi biết, thì cho đến nay họ vẫn giữ lời hứu phân chia khu vực hoạt động, và không lấn ranh lãnh thổ của nhau. Sáng ngày chúng tôi lên đường, viên đầu đảng tặng cho Tô Mặc một huy chương bạc nhỏ bằng đồng tiền Shilling, trên đó có khắc chữ rất lạ. Y cho Tô Mặc biết rằng nếu chúng tôi bị một bọn cướp đánh trong vùng này, chúng tôi chỉ cần đưa cái hay chương này là chúng tôi được trả tự do lập tức. Gia đình y đã giữ huy chương ấy từ nhiều thế hệ và coi nó như một vật quý vô giá, nhưng y muốn tặng cho Tô Mặc để tỏ lòng ngưỡng mộ của y đối với chàng. Sau khi xem xét kỹ lưỡng chiếc huy chương, đức Tuệ Minh nói cho chúng tôi biết rằng đó là một bổn sao rất đúng đắn của một đồng tiền đã từng được lưu hành ở phía bắc vùng Gobi từ nhiều ngàn năm nay. Riêng chiếc huy chương này đã có đến trên bảy trăm năm. Những đồng tiền loại này thường được các thổ dân bản xứ dùng như những linh vật hộ phù, và họ cho rằng đồng tiền càng cổ xưa thì nó lại càng quý và càng có hiệu lực nhiều hơn. Viên đầu đảng và cả bọn cướp hẳn là đánh giá món quà của họ một giá trị rất lớn. Chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình một cách êm thấm và đến căn cứ mùa đông vào giờ đã định trước. Tại đây chúng tôi được sự tiếp đón nồng nhiệt của các vị siêu nhân đã đến viếng chúng tôi trên vùng sa mạc và đã từ biệt chúng tôi tại nơi làng nọ khi chúng tôi gặp vị Sư Trưởng của tu viên Lạt Ma giáo. Một lần nữa chúng tôi lại được mời đến nhà ở của bà chủ trọ hồi năm trước, và chúng tôi liền vui vẻ nhận lời. Lần này chúng tôi chỉ còn lại có bốn người, vì bảy người đoàn viên đã trở về Ấn Độ và Mông Cổ để thực hiện những cuộc sưu tầm khác nữa. Việc sắp đặt ấy giúp cho chúng tôi có nhiều thời giờ hơn để phiên dịch các tài liệu cổ. Làng nhỏ này rất yên tịnh. Chandersen và chủ nhà luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ chúng tôi dịch các đoạn văn khó và bí hiểm. Công việc này tiếp tục cho đến cuối tháng muời hai. Khi đó chúng tôi lại nhận thấy một đám khá đông dân chúng lại tựu họp trở lại trong phiên hội hàng năm. Phần đông đều là những người đã tham dự năm ngoái, nhưng địa điểm hội họp lại khác. Lần này cuộc lễ sẽ diễn tại ngôi đền đục trong vách núi, trong gian phòng trung ương dùng làm tòa đại sảnh. Chiều nay đầu năm dương lịch, chúng tôi bước lên tòa sảnh đường khi còn sớm để nói chuyện với những người đã hội họp tại đó. Họ đến từ nhiều vùng khác nhau và cho chúng tôi biết tin tức của thế giới bên ngoài, cái thế giới mà chúng tôi thật sự cảm thấy rằng đã mất hẳn liên lạc từ lâu. Tuy nhiên công việc của chúng tôi làm cho chúng tôi bận rộn quên cả ngoại cảnh, và thời gian đã trôi qua rất mau. Ngày hôm sau, Tô Mặc đề nghị với cả bọn cùng xuống phòng tài liệu để tiếp tục công việc phiên dịch. Chúng tôi mải lo chăm chú vào công việc đến nỗi không ý thức được sự hiện diện của những người khác trong phòng. Thình lình Tô Mặc đứng dậy và bước tới đón chào những người mới đến. Chúng tôi ngước mắt nhìn lên thì thấy đức Jesus, bà Mã Ly, bà chủ nhà trọ và Chandersen. Vị sau cùng này vốn là người mà chúng tôi vẫn thường gọi là "Ông già giữ pho tài liệu," nhưng bây giờ thì chúng tôi gọi y là "Người thanh niên." Ngoài ra còn có Bạch Lãng, và một người lạ mặt được giới thiệu với chúng tôi cái tên Bút Già. Lúc ấy đã quá trưa, chúng tôi dọn bàn và chuẩn bị bữa ăn. Xong rồi chúng tôi ngồi vào bàn và sau một lúc im lặng, đức Jesus cất tiếng nói: - Chúng ta hãy chiêm ngưỡng đức Chúa Cha toàn năng. Nguyên lý đồng đại thấm nhuần tất cả vạn vật, Ngài là ánh sáng, tình thương và mỹ lệ mà chúng ta được ban những ảnh hưởng tốt lành. Chúng ta có thể vĩnh viễn được thấm nhuần những ân huệ tốt lành ấy nếu chúng ta muốn. Chúng ta nghiên mình kính trước bàn thờ trên đó chiếu diệu ngọn lửa thiêng trường cửa của tình bác ái đại đồng, sự điều hòa, minh triết chân chính, sự sùng kính vô tận, và sự khiêm tốn chân thật. Ngọn lửa thiêng ấy đã chiếu sáng không bao giờ lu mờ. Nó xuất từ đáy lòng của những người đang tựu vào giờ phút này và nhân danh đấng Cha Lành và Tình Bác Ái. Xuất phát từ những người thân cận và mến yêu của chúng ta, ngọn lửa thiêng ấy lan tràn trong không gian, soi sáng những vùng xa xôi nhất trên Trái Đất để cho mỗi người có thể nhìn thấy ánh sáng của nó và nhận được những ân huệ tốt lành do tình thương khiết bạch và vô tận của nó ban giải ra. Những tia sáng rung động của ánh sáng đó, của cái mỹ lệ đó và sự tinh khiết đó đi xuyên qua những tâm hồn thụ cảm của những người chung quanh bàn thờ của Ngài. Bây giờ chúng ta đã có ý thức về tình bác ái mà sức ấm áp đang lan khắp vũ trụ. Chúng ta gởi những tia bác ái đó đi khắp nơi để biến đổi thế gian, cải tạo và hòa hợp tất cả nhân loại. Chúng ta nghiêng mình trước Tinh Thần của Chúa Trời vốn sống động trong mỗi người. Chúng ta đứng đối diện với Chúa Trời, ngang hàng với ngài, hợp nhất với ngài. Một lần nữa, chúng ta kính cẩn chào đức Chúa Trời vốn sống động nơi chỗ thâm sâu bí ẩn nhất trong lòng chúng ta. Khi đức Jesus nói xong, có người đề nghị rằng cả bọn trở lại gian phòng mà chúng tôi đã chứng kiến sự phục sinh của Chandersen. Khi chúng tôi đến nơi, gian phòng được thắp sáng một cách lộng lẫy cũng như khi chúng tôi ra đi. Gian phòng này đối với chúng tôi là một linh điện, một nơi mà chúng tôi có cái đặc ân thực hiện trên đường tâm linh một giai đoạn trước đó mà không thể nào quan niệm rằng nó có thể có được đối với người phàm tục như chúng tôi. Kể từ ngày đó đến ngày m ười lăm tháng tư là ngày chúng tôi lên đường, không có ngày nào hoặc đêm nào mà chúng tôi không tựu họp tại đó với tất cả các Chân Sư trong khoảng ít nhất một tiếng đồng hồ. Trong những cuộc hội họp đó, gian phòng không bao giờ có cái hình dáng đục trong vách đá nữa. Dường như chúng tôi luôn luôn có thể nhìn thấy xuyên qua các vách tường vào khoảng không gian vô tận. Chính trong gian phòng này mà những bức rào tâm thức của chúng tôi bị xóa bỏ. Chính ở đây là nơi đã mở rộng trước mắt chúng tôi môt viễn cảnh rộng lớn về tương lai. Khi chúng tôi đứng dậy khiếu từ, các vị siêu nhân chúc chúng tôi yên giấc và rút lui. Chúng tôi còn ở nán lại trong giây lát để bình luận những kinh nghiệm vừa qua trước khi trở về nhà trọ. Khi đứng dậy ra về, chúng tôi liền tự đặt câu hỏi: - Làm sao tìm thấy đường về mà không có đèn lửa chi cả? Mỗi người trong chúng tôi đều nghĩ như vậy, chỉ có một mình Tô Mặc không đồng ý, vì y nói: - Các bạn thấy chăng chúng ta chỉ luôn luôn bám víu lấy những thói quen cũ của mình và luôn luôn bị trói buộc bởi những ý tưởng thủ cựu. Ở đây chúng ta hoàn toàn được thấm nhuần trong một vầng sáng không hề sút giảm sau khi các vị siêu nhân quý mến của chúng ta đã ra đi. Phải chăng đây là một dịp để chúng ta tiến tới và tỏ rằng chúng ta tự tin nơi sức mình, tự tin nơi quyền năng của mình và có thể thực hiện những công trình giống như các ngài? Ít nhất chúng ta hãy thử làm xem sao và hãy có căn bản tiến lên một bước đầu tiên đến chỗ thực hiện. Chúng ta quá nương tựa vào tình thương của các vị Chân Sư đến nỗi chúng ta cảm thấy một vết thương khi cần phải xa cách các ngài trong một lúc. Nếu chúng ta không thể tự lực tự cường trong sự thực hiện những việc nhỏ, chúng ta sẽ không bao giờ thành công trong những việc lớn. Tôi chắc rằng các vị đã từ chúng ta để cho chúng ta có một cơ hội chứng tỏ khả năng của mình. Trước khi ra đi, một bạn tôi đề nghị là tốt hơn hãy nên suy nghĩ trước về cách hành động. Nhưng Tô Mặc đáp bằng một giọng cứng rắn: - Không. nếu chúng ta định đi, ta phải đi ngay tức khắc. Sau những dấu hiệu mà chúng ta đã thấy và những diễn biến mà ta đã tham dự, chúng ta phải hành động một cách quả quyết, nếu không chúng ta không còn xứng đáng được một sự trọng vọng nào cả! Chúng tôi liền đi xuống các cầu thang, đi ngang qua nhiều gian phòng, vượt qua con đường hầm, đi xuống thung lũng trở về làng. Trong khi chúng ta đi, thì đường đi hoàn toàn được chiếu ánh sáng. Thân thể chúng tôi dường như mất cả sức nặng, chúng tôi di chuyển một cách rất dễ dàng không hề mệt nhọc, và trở về nhà trọ mà trong lòng như điên lên vì sung sướng do bởi sự thành công này. Kể từ lúc đó cho đến khi chúng tôi rời khỏi làng, chúng tôi có thể đi khắp nơi tùy ý mà không cần có đèn đuốc chi cả. Những phòng ngủ của chúng tôi tự nhiên thắp sáng lên khi chúng tôi và tỏa ra một sự ấm cúng đẽ khó tả. Chúng tôi ngủ yên giấc ngay sau khi đó và thức dậy rất trễ vào sáng ngày hôm sau. 4. Bọn Cướp Hăm Dọa Tấn Công Ngày một tháng tư đến rất mau chóng. Chúng tôi đã hoàn tất công việc phiên dịch các tài liệu và sắp sửa vẽ họa đồ những bức tượng cổ xưa tạc trong núi đá. Công việc này được thực hiện một cách mau chóng vì sự hứng thú và hăng say của chúng tôi khi bắt tay vào công việc. Một buổi xế trưa, một người sứ giả đem tin đến làng. Nhìn thấy cách mà các dân làng tụ họp chung quanh người ấy, chúng tôi hiểu rằng đó là một biến cố khác thường. Chúng tôi bỏ dở công việc và đi xuống làng. Tại đó chúng tôi gặp bà chủ nhà trọ cho chúng tôi biết rằng một toán quân cướp khá đông đang có mặt ở dưới thung lũng cách đó không xa. Điều này gây cho dân làng một sự lo ngại rất lớn, vì từ nhiều năm nay, quân cướp thường đánh phá làng này. Người ta đồn rằng ngôi đền đục trong hang núi có chứa đựng một kho tàng khổng lồ. Những mưu toan đánh cướp làng này từ trước đến nay vẫn thất bại, và những toán quân cướp cho rằng phần lớn sự thất bại này là do bởi sức chống cự mãnh liệt của những nông dân sống ở miền thung lũng. Hôm nay, nhiều toán quân cướp đã tập hợp nhau lại để tăng cường lực lượng. Chẳng khác nào một đạo binh nhỏ, độ bốn ngàn quân khinh kỵ có võ trang khí giới đầy đủ đang tấn công miền thung lũng để đánh tan sự chống cự của những người nông dân sống chung quanh làng. Bọn cướp hy vọng rằng chiến lược tấn công lần này sẽ có hiệu quả hơn những lần trước. Người sứ giả kêu gọi cứu trợ giúp cho dân làng vì nhiều người đã bị giết, và những người khác sắp sửa từ bỏ mọi sự chống cự. Bà chủ nhà chúng tôi đáp rằng trong làng không còn sẵn người nào để đi xuống thung lũng. Bà nói y có thể trở về và và sẽ không có gì xảy ra cho những người chung quanh y. Chúng tôi lại tiếp tục làm việc mặc dầu cũng ý thức được sự lo ngại của dân làng, và chia sẽ phần nào sự lo ngại của họ. Sáng ngày hôm sau, chúng tôi lại tiếp tục vẽ họa đồ và ổ túc công việc thu góp tài liệu để có thể tìm thấy lịch sử của nền văn minh cổ xưa và của một dân tộc đã từng sống trên phần đất bao la này của thế giới, nay đã trở thành bãi sa mạc hoang vu. Viễn ảnh ấy bị mất đi những kết quả sưu tầm của chúng tôi trong một trận đánh thư hùng với bọn cướp làm cho chúng tôi rất đỗi lo âu. Chúng tôi bèn góp nhặt tất cả các giấy tờ đem vào trong phòng dự trữ tài liệu của ngôi đền, đền này đã từng thoát khỏi một loạt tấn công tương tự của bọn cướp. Tối hôm đó, chúng tôi cùng với bà chủ nhà mưu toan kế hoạch trợ giúp dân làng. Chúng tôi bày tỏ sự ngạc nhiên mà không thấy các vị chân sư. Bà chủ nhà nói rằng sau khi có sự cầu cứu của người đem tin, bọn cướp có lẽ bị bắt buộc phải gián đoạn cuộc tấn công, nếu không họ sẽ tự diệt lấy họ. Đêm đó, chúng tôi đi ngủ với ý niệm rõ rệt là nỗi lo ngại về sự an toàn của chúng tôi thật là quá đáng. Ngày hôm sau, chúng tôi thức dậy sớm và sắp sửa bắt tay vào việc, thì người đem tin ngày hôm qua lại xuất hiện. Y báo tin rằng những cuộc tấn công đám nông dân đã dứt và bọn cướp đã tập trung lực lượng ở đó độ ba mươi lăm cây số, có lẽ để đánh vào làng chúng ta. Trong khi bà chủ nhà nói chuyện với người sứ giả đem tin, với một nhóm dân làng tựu họp ở chung quanh, một người kỵ mã phóng ngựa vào làng và chạy ngay đến chúng tôi. Trên đường y chạy vào làng, những nhóm dân làng có vẻ nhận ra y và liền giải tán và dường như là sợ hãi. Trong khi người kỵ mã sắp đến gần, người sứ giả bất giác thốt ra tên y và liền chạy trốn cùng với những dân làng khác, hiển nhiên là vì sợ rằng bọn cướp sẽ đến nơi sau người kỵ mã. Chúng tôi còn ở lại với bà chủ nhà để đợi y đến. Y gò cương ngựa và hất hàm nói với Tô Mặc một cách hiên ngang, rằng bọn cướp biết rõ chúng tôi là người ngoại quốc và chúng tôi đến đây với mục đích gì. Y nói chuyện bằng tiếng bổn xứ mà chúng tôi không hiểu gì cả. Nhìn thấy chúng tôi đang ngơ ngác, y hỏi có ai thông ngôn được không. Bà chủ nhà trọ day lại đối diện với người kỵ mã lúc ấy hãy còn ngồi yên trên lưng ngựa, và hỏi y rằng bà có thể làm việc ấy giúp y được không? Khi y vừa thấy bà, y có vẻ như là bị điện giật. Tuy nhiên, y trấn tĩnh lại ngay để nhẩy xuống ngựa một cách gọn gàng và vừa chạy lại vừa đưa hai tay ra trước, y kêu lên: - Vậy ra bà ở đây? Kế đó, y đưa hai bàn tay lên trán, quỳ xuống trước mặt bà và xin lỗi bà. Bà chủ nhà chúng tôi ra lệnh cho y hãy đứng dậy và bày tỏ ý muốn của y. Chúng tôi nhìn thấy bà đứng thẳng người, và trong một lúc gương mặt bà đỗi sắc vì nổi cơn thịnh nộ. Bà tỏ ra một cơn xúc động mãnh liệt đến nỗi người kỵ mã phải kinh hoảng. Chúng tôi cũng sợ hãi đến nỗi mất cả sự bình tĩnh. Những danh từ "Hèn nhát, đồ sát nhân, hãy bước tới và nói rõ mi muốn gì" xuất hiện trên môi của bà với một sức mạnh kinh khủng đến nỗi người kia phải quỳ mọp sát đất. Một lần nữa, bà lại mắng mỏ y thậm tệ: - Đứng lên, mi quá hèn mạt đến nỗi không dám đứng dậy chăng? Chúng tôi không ngạc nhiên vì sự sợ hãi bi lụy của người kỵ mã, vì cũng như y, chúng tôi hoàn toàn đứng sững như trời trồng, không dám cựa quậy. Tôi chắc rằng nếu y có thể làm được với sức mình, thì y đã chạy vắt giò lên cổ. Nhưng lúc ấy, cũng như chúng tôi, y không thể làm một cử động hay thốt lên một lời. Y rơi mình xuống đất như một cái xác không hồn, hai mắt giương lên và miệng mồm há hốc. Trong sự tiếp xúc với các vị Chân Sư có những quyền năng siêu phàm, đây là lần đầu tiên chúng tôi có dịp nhìn thấy một vị bày tỏ một cơn xúc động mạnh. Chúng tôi cũng hoảng sợ giống như tên cướp. Những rung động trong giọng nói của bà chủ làm cho chúng tôi bị chạm mạnh như sức va chạm của một tiếng nổ dữ dội kèm theo với một cú điện giật, làm tê liệt những giọng nói mà luôn cả các bắp thịt của chúng tôi. Tôi không tìm thấy danh từ nào khác để diễn tả những cảm giác của chúng tôi lúc ấy. Có lẽ quý vị đọc giả sẽ ngạc nhiên mà thấy những rung động xuất phát từ một thân mình nhỏ thó, mảnh mai, nhẹ nhàng của bà chủ nhà lại có thể làm cho chúng tôi bị đè bẹp và trở nên yếu đuối bất lực, nhưng sự thật là như vậy. Tuy tình trạng đó chỉ kéo dài một lúc, nhưng nó hằng như lâu đến hằng giờ trước khi trở lại bình thường. Chúng tôi đứng trân mình như những pho tượng và lấy làm động lòng trắc ẩn đối với tên cướp. Chúng tôi cảm thấy sự mong ước mãnh liệt là muốn trợ giúp y bằng mọi cách. Đó là sự phản ứng chung của tất cả chúng tôi, nhưng ngược lại chúng tôi chỉ có thể đứng sững nhìn bà chủ nhà trân trối. Thình lình, mọi sự đều thay đổi. Gương mặt bà biểu lộ trước hết một sự cứng rắn, kế đó nét mặt bà biến đổi và trở lại dịu dàng như lúc bình thường. Chúng tôi cảm thấy có lòng trắc ẩn sâu xa đến nỗi chúng tôi tất cả đều chạy lại đỡ cái thân hình nằm mọp dưới đất. Bà chủ nhà cũng cúi xuống và đưa một tay cho tên cướp. Người này giây lát đã tĩnh lại. Chúng tôi đỡ y đứng dậy và đặt y ngồi thoải mái trên một chiếc ghế dài gần đó. Y nhất định từ chối không bước vào bất cứ nhà nào. Bà chủ nhà khi đó mới nhận thấy cái ảnh hưởng mà bà đã gây cho chúng tôi, bèn tỏ lời hối tiếc về cơn thịnh nộ quyết liệt của bà. Chúng tôi vẫn còn run rẩy khắp thân mình, và một chập sau đó mới chấn tĩnh tinh thần lại được. Bà giải thích rằng người kỵ mã là tên đầu đảng của một bọn cướp khét tiếng trong vùng này của đồng sa mạc Gobi. Một vài người rất hiếm biết được tên y, gọi là tên "Cướp Đen," chỉ dám thốt ra tên ấy một cách sợ hãi vì mọi người đều biết y là một kẻ cướp rất bạo tàn, không biết thương xót ai cả. Bà chủ nhà chúng tôi đã có dịp tiếp xúc với người này trong hai lần tấn công bị thất bại của bọn cướp. Mỗi lần như vậy, y đã tỏ rõ một sự thù hận sâu xa đối với bà và đối với các vị chân sư nói chung. Thỉnh thoảng y đã gửi đến các ngài những bức thông điệp với lời lẽ đầy căm hờn và các ngài không hề để ý đến. Sự xuất hiện thình lình của y đã nhắc nhở cho bà chủ nhà những hành động bất hảo trong quá khứ của y một cách rõ rệt đến nỗi bà đã mất bình tĩnh trong một lúc. Nhưng bà liền trấn tĩnh lại và bước đến gần người ấy. Khi bà đến gần, y toan đứng dậy nhưng không thể làm gì khác hơn là thu hình để ngồi ngay ngắn hơn một chút, với một vẽ mặt kinh khiếp sợ hãi đến cực độ. Sự căm hận toát ra từ mọi cử chỉ của y, thân mình y run rẩy lập cập như những người bị chứng liệt bại. Bà chủ nhà chúng tôi tỏ ra một dáng điệu trái ngược hẳn với y, vì bà đã lấy được sự bình tĩnh và không còn tỏ ra một dấu hiệu xúc động nào. Chúng tôi có ý nghĩ đem người kia đi. Trước khi chúng tôi có thể thốt ra lời, bà chủ nhà đã đọc được tư tưởng chúng tôi và đưa tay lên để yêu cầu chúng tôi giữ im lặng. Tô Mặc hiểu rằng bà đảm đương trách nhiệm của tình hình lúc ấy, và những gì chúng tôi làm chỉ đưa đến việc đặt bà trong một tình thế khó xử. Chúng tôi bèn rút lui cách đó một quãng xa. Bà nói chuyện với người ấy bằng một giọng thấp nhỏ và êm đềm trong một lúc khá lâu trước khi nhận được sự trả lời. Khi người ấy bắt đầu trả lời, bà chủ nhà bèn ra dấu cho chúng tôi bước lại gần. Chúng tôi ngồi xuống đất trước mặt hai người và lấy làm sung sướng mà có thể làm một cử chỉ khả dĩ đưa đến bớt sự căng thẳng. Tên cướp giải thích rằng y được các tên chúa đảng đề cử y đến với tư cách một sứ giả hòa bình để thương thuyết việc giao nạp kho tàng của cải mà họ nghi rằng đang được chôn dấu trong ngôi đền khoét trong hang núi. Nếu dân làng chịu đem nạp cái kho tàng ấy, bọn cướp hứa là sẽ không đánh phá họ nữa và sẽ thả hết các dân làng bị cầm tù mà theo y cho biết thì có đến trên ba ngàn người. Họ cũng hứa sẽ rời xứ này và không bao giờ còn làm hại những người dân sống ở miền thung lũng. Bà chủ nhà chúng tôi giải thích cho y biết rằng trong đền không có một kho tàng nào có một giá trị nào đối với bọn cướp. Bà cho y biết nhiều chi tiết và đề nghị đưa y xem tất cả các gian phòng trong đền hoặc bất cứ nơi nào y muốn. Y từ chối hẳn, vì sợ rằng bị giữ lại làm con tin. Không một lời đảm bảo nào của chúng tôi có thể thuyết phục được y. Bà chủ nhà xác nhận với y sự thành thật của chúng tôi và y liền tin ngay. Nhưng khi đó y đang ở vào một tình thế khó xử vì y là kẻ chủ mưu vụ đánh cướp này. Chính y đã khêu gợi óc tưởng tượng của bọn cướp và làm cho chúng có nhiệt hứng để đánh cướp kho tàng. Y đã diễn tả một cách linh động và hấp dẫn những kho của cải dồi dào bất tận nó sẽ về tay chúng nếu chúng thành công. Thật vậy, chính sự hứa hẹn kho tàng đã làm cho cha y và y có thể duy trì sự đoàn kết trong bọn cướp. Y là một tên đầu đảng của một trong năm toán cướp đang tập trung lực lượng để phát động cuộc tấn công. Tình hình đã đi đến chỗ bí lối. Nếu y trở về toán cướp của y với cái tin tức không có kho tàng, chúng sẽ lên án y ngay như một kẻ phản bội và đối xử với y một cách tương xứng. Như vậy, y sẽ không thể ngăn cấm bọn cướp mở cuộc tấn công, vì sau tất cả những cố gắng mà y đã làm để đưa cuộc chuẩn bị đến giai đoạn hiện tại, người ta sẽ không còn tin tưởng nơi y nữa. Y thật là bị lâm vào một tình thế rất khó khăn. Trước sự vô cùng ngạc nhiên của chúng tôi, bà chủ nhà tình nguyện đưa y trở về trại. Bất chấp những lời can gián của chúng tôi, bà muốn đi ngay lập tức. Bà trấn an chúng tôi rằng không có gì nguy hiểm nếu bà đi một mình, nhưng nếu có chúng tôi đi theo, thì bọn cướp sẽ nghi kỵ và tất cả chúng tôi sẽ bị lâm nguy. Chúng tôi bèn lẳng lặng tuân theo vì không thể làm gì khác hơn. Tên tướng cướp bèn lên ngựa, và chúng tôi đỡ bà chủ nhà lên ngồi trên lưng ngựa phía sau tên cướp, trên một tấm yên thứ nhì đã sắp đặt sẵn. Hai người ra khỏi làng, bày trước mắt chúng tôi một cảnh tượng khó quên nó sẽ luôn luôn sống động trong ký ức chúng tôi đến tận muôn đời; tên cướp với một nét mặt tỏ vẻ nghi ngờ, còn bà chủ nhà quay lại mỉm cười và thản nhiên nói với chúng tôi rằng bà sẽ trở về vào lúc chiều tối. Suốt những giờ còn lại trong ngày hôm đó, chúng tôi không còn hứng thú để làm việc, và đi thẩn thơ vô định chung quanh làng cho đến lúc xế chiều. Sau đó chúng tôi trở về nhà trọ để đợi bà chủ nhà. Về đến nơi chúng tôi thấy trên bàn đã có bày những thức ăn ngon lành. Quý vị độc giả thử tưởng tượng sự ngạc nhiên của chúng tôi đến bực nào khi chúng tôi thấy bà chủ nhà ngồi đó nơi đầu bàn với nét mặt tươi cười hồn nhiên như mọi ngày. Chúng tôi đứng sững sờ trong im lặng. Bà lấy dáng trang trọng và nói một giọng hơi chế giễu: - Các bạn hỡi, người ta thường chào hỏi nhau khi bước chân vào nhà. Khi đó chúng tôi mới nghiêng mình và tìm thấy lại giọng nói để thốt ra tiếng chào bà. Bà nói tiếp: - Tôi đã hoàn toàn thất bại trong mưu toan thuyết phục bọn cướp, nhưng bọn họ đồng ý với nhau là hứa sẽ trả lời tôi trong vòng ba ngày. Bây giờ tôi biết rằng sự trả lời của họ sẽ là khởi một cuộc tấn công, nhưng tôi đã cứu mạng sống cho tên tướng cướp, ít nhất là trong lúc này. Chúng ta sẽ chuẩn bị đối phó với cuộc tấn công, vì không gì có thể ngăn cản bọn chúng được nữa. Tôi nghĩ rằng mỗi người trong chúng ta chắc phải có lúc nghĩ đến sự công bình thiêng liêng để tìm thấy đức tin vững chắc hầu có vượt qua những lúc khó khăn nguy hiểm trong đời.