Hồi 7
Màn mưa tưởng tuyết xông pha
Nghĩ thôi lạnh lẽo kẻ ra cõi ngoài

(Chinh phụ ngâm khúc)

Đoạn này thuật cuộc chiến của đạo binh Ngô Hán,
mà Phùng Vĩnh Hoa làm quân sư.
Sau khi rời bản doanh của Nghiêm Sơn, Ngô Hán cùng các anh hùng Lĩnh Nam lên đường trở về Hán-trung. Mấy năm qua y lĩnh chức Xa kị đại tướng quân, thống lĩnh binh mã Hán-trung, Tây-lương, Trường-an cùng với Đại tư mã Đặng Vũ đánh Thục. Y gặp phải tướng cầm quân Thục là Thái tử Công-tôn Tư, văn võ kiêm toàn. Cạnh Tư có nhiều cao thủ phái Thiên-sơn. Tướng sĩ hết lòng cố thủ trong thành Dương-bình quan hiểm trở, y bị thất bại mấy trận.
Lần hội quân với Nghiêm Sơn, với con mắt nhận xét của y, Thục tất bị chiếm trong vòng một hai tháng là cùng. Quân sư Phương Dung, Trưng Nhị, Vĩnh Hoa hứa giúp y vào Thành-đô trước, thì cái mộng làm chúa Ích-châu trở thành sự thật.
Y từng ở dưới trướng Nghiêm Sơn mấy năm. Y biết Nghiêm Sơn có tài vương bá, khéo thu phục lòng người. Chả vậy mà đám anh hùng Lĩnh Nam cảm nghĩa Nghiêm Sơn, theo giúp hết lòng. Phùng Vĩnh Hoa, y chưa biết tài nàng cho lắm, còn Khất đại phu, Cao Cảnh Minh, y biết đó là những cao thủ bậc nhất thiên hạ. Vĩnh Hoa mang theo đội Thần-báo, Thần-hổ, mỗi đội 300 con, chuyên chở trên hơn 600 cỗ xe. Nếu hai bên đang giao tranh, mà xua đội Thần-báo, Thần-hổ vào tấn công địch, phần thắng dễ dàng như không. Y là người đọc sách, đã được đọc tài liệu nói về Nỏ-thần Âu Lạc đặt trên xe, bắn một lúc hàng ngàn mũi tên, tầm xa gấp đôi tên thường. Dọc đường, y còn nhận thấy đám anh hùng Lĩnh Nam tính tình giản dị. Họ đối xử với nhau như anh em trong nhà. Y cũng xin Khất đại-phu cho phép gọi ông là Thái sư-thúc như Phùng Vĩnh Hoa.
Phải mất đến hơn mười ngày mới về tới Hán-trung. Lập tức y cho mời hết các quan văn võ, giới thiệu anh hùng Lĩnh Nam cùng mưu sự.
Từ ngoài vào bản doanh phải qua nhiều trại quân. Giáp sĩ đi đứng uy nghiêm hùng tráng, binh sĩ kỷ luật. Trần-gia tam nương là đệ tử của Thiên-thủ Viên-hầu Lại Thế Cường, từng thao luyện tráng đinh, hùng cứ một vùng chống Tô Định. Ba nàng thấy quân phong, quân khí Ngô Hán, nói nhỏ vào tai Phùng Vĩnh Hoa:
– Trưng sư tỷ dự tính giúp Ngô Hán chiếm Ích-châu, để sau này không còn sợ y cầm quân đánh nhau với Lĩnh Nam cũng phải. Xem quân khí thế này, y chỉ thua có Nghiêm đại ca mà thôi.
Hồng Nương cất tiếng khen:
– Ngô đại tướng quân, tôi thấy các đạo quân Lĩnh Nam, Kinh-châu, Hán-trung. So sánh chung, quân khí đạo Lĩnh Nam hơn hết. So về quân phong thì đạo Hán-trung là đệ nhất. Hèn gì trên đường từ Lĩnh Nam sang đây, Lĩnh-nam vương không tiếc lời ca ngợi tướng quân.
Ngô Hán là một loại anh hùng, y nói:
– Đa tạ cô nương khen ngợi. Trước tôi chỉ là một tên nhà quê, cắp gươm theo hầu Lĩnh-nam vương, được Vương gia chỉ dạy cho rất nhiều.
Ngô Hán truyền đánh trống, tụ hội tướng sĩ nghe lệnh. Các tướng tề tựu đông đủ. Ngô Hán chỉ từng người một giới thiệu:
– Đây là Vũ-oai đại tướng quân Lưu Thương.
Cao Cảnh Minh buột miệng:
– Tại hạ ở Lĩnh Nam đã từng nghe danh. Mới đây được Lĩnh-nam vương nhắc nhở: Lưu tướng quân tiễn lực, tiễn thuật đệ nhất Trung-nguyên.
Lưu Thương nghe trong đạo Lĩnh Nam có Thần-nỏ Âu Lạc, đều là đệ tử, cháu của Cao Cảnh Minh. Cao Cảnh Minh là đệ nhất cao thủ tiễn thuật đời nay. Do đó, tuy đắc chí, nhưng y khiêm nhượng nói:
– Không dám, tiểu tướng hy vọng được Trường-yên đại hiệp chỉ dậy thêm.
Ngô Hán tiếp:
– Đây là Chinh-tây đại tướng quân Phùng Dị.
Phùng Vĩnh Hoa kêu lên:
– Lĩnh-nam vương thường nhắc nhở: đến võ lâm trung nguyên mà không được gặp Sầm-Phùng-Mã thì coi như chưa biết gì về võ công. Không biết các vị Sầm Bành, Mã Vũ có ở đây không?
Phùng Dị đáp:
– Hai vị đó ở đạo Kinh-châu.
Phùng Vĩnh Hoa nhìn các tướng Hán, nàng đọc được trong con mắt họ những vẻ nghi ngờ về khả năng của nàng. Nàng lờ đi, tự nhủ:
– Những người này, một đời đọc binh thư, ngồi trên mình ngựa, mạng sống của họ nay còn mai mất, họ thấy mình còn trẻ, nghi ngờ là phải. Chưa chắc mình đã bằng họ. Sư phụ mình thường bảo: Ngoài bầu trời này có bầu trời khác. Trung Nguyên đất rộng người nhiều, là nơi phát tích văn minh lâu đời, chính những sách mình đọc đều của người Hán. Mình chẳng nên coi thường thiên hạ.
Tham quan Vương Hữu Bằng trình bày:
– Nguyên soái đi mấy ngày, chúng tôi tiếp được lệnh chỉ của Lĩnh-nam vương Tả tướng quân, bắt các Thái-thú Lũng-thượng, Đông-xuyên, Trường-an đem tinh binh bổ sung. Chúng ta hiện có đủ tinh binh. Còn thêm mấy vạn mới đến đóng ở Nam Trịnh, chờ lệnh Nguyên-soái. Lương thảo gia nạp đủ, thừa nuôi quân trong ba năm. Lừa ngựa khí giới hùng tráng, cho nên tinh thần các tướng sĩ rất hứng khởi. Chờ Nguyên-soái về là tiến quân.
Ngô Hán gật đầu:
– Lĩnh-nam vương gia dùng ba quân sư đều là nữ, mỗi đạo một người. Các nữ quân sư có võ công cao. Ba nữ quân sư đã thiết kế bổ xung binh sĩ bằng cách chọn lấy những người khỏe mạnh, kinh nghiệm chiến đấu gửi cho mặt trận, chứ không lấy tân binh. Các địa phương phải tuyển tân binh bổ xung chỗ thiếu hụt.
Các tướng sĩ nhìn Vĩnh Hoa với con mắt thán phục đôi chút. Vĩnh Hoa hỏi:
– Muốn thắng giặc phải biết mình trước, xin Tham-quân cho tôi biết chi tiết về quân số, đồn trú hai bên.
Vương Hữu Bằng đem ra tấm bản đồ lớn chỉ lên:
– Quân Hán có 25 vạn bộ, 5 vạn kị, 3 vạn thủy binh, đây là lực lượng cơ động đánh giặc. Bên giặc có 15 vạn bộ, 5 vạn kị, 5 vạn thủy tất cả đều cơ động. Về ý đồ của giặc thì chỉ muốn giữ lấy Ích-châu. Biệt lập như một nước, đợi thời kéo ra đánh Trung-nguyên. Như trước đây đức Cao Tổ nhà Hán đã dùng để đánh Sở Bá Vương Hạng Võ. Nhờ vậy mà chúng ta chiếm được ưu thế. Trong các thành Võ-đô, Hồng-nguyên, Tùng-khê, Bình-võ, Nam-bình, Bà-trung, Thông-giang mỗi thành có hơn hai vạn, vừa kị, vừa bộ, vừa thủy. Tổng cộng 20 vạn nữa, lực lượng cơ động đóng Dương-bình-quan và Kiếm-các. Tính chung thì lực lượng cơ động của ta là 33 vạn, rất tinh nhuệ, đa số thuộc đất Thục, một số thuộc các bộ lạc ở phía Tây đưa về.
Vĩnh Hoa hỏi tiếp:
– Còn các tướng của giặc như thế nào?
– Tổng chỉ huy toàn miền Bắc Ích-châu, là con trưởng Công-tôn Thuật, tức Thái-tử Công-tôn Tư, năm nay 30 tuổi. Y học kiêm Bách-gia, Chu Tử, Lục-thao, Tam-lược, tính tình lại ôn hòa, biết trọng hiền tài, thương sĩ tốt, đối với dân chúng coi như con đẻ. Y được Công-tôn Thuật tin yêu, định nhường ngôi vua cho. Về võ công y đứng vào bậc nhì Ích-châu, chỉ thua có sư phụ, sư thúc mà thôi.
Vĩnh Hoa nhìn Ngô Hán:
– Khi đi đường đàm luận với Ngô tướng quân, tôi thấy Ngô tướng quân lược thao gồm tài, mà bị thua mấy trận, đã đoán giặc có nhiều ưu thế đặc biệt. Xin Tham-quân tiếp cho.
– Quân sư bên giặc là Tào Mạnh, tước Trung-lang tướng, thầy dạy Văn cho Công-tôn Tư. Thục còn có 8 tướng nữa, hầu hết văn võ kiêm toàn. Đứng đầu là Lũng-tây vương Triệu Khuôn, sư phụ Công-tôn Tư, sau đó là Phiêu-kị đại tướng quân Nhiệm Mãng, tước phong Vũ-dương hầu. Dưới quyền Công-tôn Tư, còn 7 người sư huynh, sư đệ của y, đều võ công kinh thế.
Phùng Vĩnh Hoa hỏi kỹ về địa thế rồi nói:
– Trước đây chúng ta đã đánh những trận nào?
Ngô Hán chỉ lên bản đồ:
– Lần đầu tiên chúng tôi tiến đánh Nam-bình, Võ-đô và Dương-bình-quan, hạ được Nam-bình, thì giặc tiến công chiếm mất Tử-dương, chúng cũng lấy lại Nam-bình, trận này coi như hòa. Lần thứ nhì chúng tôi dẫn quân đánh Dương-bình quan, thắng giặc ba trận, đến trận thứ tư bị bại vì Thiên Sơn thất hùng bất thần xuất trận, các tướng Hán không ai địch lại, chúng tôi bị thua. Trận cuối cùng chúng tôi đánh Võ-đô, giặc xuất raở Dương-bình quan, đánh cắt đường tiếp tế, chúng tôi lui về Hán-trung. Trận này tôi bị bại nặng, Kiến-võ hoàng-đế thân chinh ra tra xét, thấy giặc quá mạnh mới ủy Lĩnh-nam vương, Tả tướng-quân từ Lĩnh Nam về chinh tiễu. Chính ngài phán rằng, đất Lĩnh Nam nhiều đại tôn sư võ học, có thể giúp Hán thành công.
Các tướng sĩ ngồi nhìn Vĩnh Hoa, xem nàng giải quyết ra sao, Vĩnh Hoa thản nhiên nói:
– Tham-quân vừa nêu ra 5 ưu điểm của giặc, Lĩnh-nam vương Tả-tướng, với chúng tôi đã biết những điều đó, dự trù cách phá rồi. Lợi thế thứ nhất của giặc là đông hơn ta. Nay đã bị mất, vì ta thêm đạo Kinh-châu cả thủy, bộ, kỵ lên tới 30 vạn. Cộng chung ta có số quân cơ động, đông gấp đôi giặc. Lợi thế thứ nhì là địa thế giặc cũng mất, vì ta chia ra 3 mặt tiến đánh. Bây giờ lợi thế thứ nhì của giặc hóa ra lợi thế cho ta. Lợi thế thứ ba của giặc là tướng sĩ đồng lòng, nay ta có Lĩnh-nam vương Tả-tướng ở trên, thống lĩnh ba đạo, lợi thế thứ ba ta cũng có, coi như ngang với giặc. Lợi thế thứ tư của giặc là được lòng dân, thì Lĩnh-nam vương ra truyền hịch cho dân chúng biết, làm cho lòng quân, tướng giặc xôn xao, thì thế này của giặc cũng bị tê liệt. Lợi thế thứ năm là tướng giặc võ công cao hơn ta, nay ta hơn giặc gấp bội. Đất Lĩnh Nam về võ công, anh hùng hào kiệt nhiều không biết bao nhiêu mà kể. Theo Lĩnh-nam vương, có gần trăm đại cao thủ, ta không sợ giặc nữa.
Ngừng một lát Vĩnh Hoa tiếp:
– Đạo quân Kinh-châu có kế hoạch sẵn, chỉ trong ba ngày phải đánh Công-tôn Thiệu một trận, để y mất nhuệ khí về dùng binh giỏi. Đánh bại Công-tôn Thiệu, Vũ Chu cho Thục mất uy thế võ công. Sau đó chiếm Xuyên-hẩu, kế hoạch phải thực hiện trong 10 ngày, giờ này quân Hán đã vào Xuyên Khẩu, đang đánh thành Bạch Đế.
Các tướng sĩ nhìn nhau, họ bắt đầu nhìn Vĩnh Hoa bằng con mắt khâm phục, Vĩnh Hòa tiếp:
– Giặc tin tưởng vào dãy núi Kim-sơn cao 2000 trượng, tuyết phủ quanh năm, không đề phòng mặt Giang-an, tin tưởng địa thế Độ-khẩu, họ không có nhiều quân ở Độ-khẩu, Đức-xương. Nhưng Công-tôn Thuật quên mất rằng đất Lĩnh Nam toàn đồng lầy, sông ngòi. Anh hùng hiệp sĩ vùng này lội nước như cá. Ta đã có kế hoạch vượt sông Nhã-giang, Định-hà, tung kị binh đánh Độ-khẩu, Mễ-dịch, Đức-xương, Phổ-khách, Tây-xương, Việt-tây. Giặc thấy miền Nam thất thủ, tất kéo quân về đây phòng thủ, ta chỉ đánh một trận là lấy được Dương-bình quan, Kiếm-các.
Các tướng sĩ nghe Phùng Vĩnh Hoa phân tích tình hình mới tỉnh ngộ, Phùng Vĩnh Hoa nhìn xuống các tướng, thấy một tướng trẻ là Đỗ Mạo, nàng nói:
– Phiền tướng quân mang theo 10 quân kị dẫn đường, tôi quan sát Dương-bình quan một chuyến.
Hoành-giã tướng quân Vương Thường nói:
– Xin cô nương cẩn thận mang theo nhiều binh sĩ một chút, vì sợ bên giặc đổ ra bất thần.
Phùng Vĩnh Hoa cười:
– Tôi tuy võ công không cao, nhưng thanh kiếm này không dở.
Nàng rút kiếm đánh ra 10 chiêu, ánh thép lóe lên, kiếm chiêu bao trùm một vùng, rồi tra kiếm vào vỏ đến cách một, tiếng, các tướng Hán giật mình, không ngờ một thiếu nữ xinh đẹp, nho nhã như thế mà kiếm pháp lại hiểm ác, bao hàm sát thủ khủng khiếp.
Quế Hoa, Quỳnh Hoa đều nói:
– Sư tỷ cho em đi với!
Vĩnh Hoa gật đầu đồng ý.
Đoàn người lên ngựa hướng Dương-bình quan, dọc đường Vĩnh Hoa quan sát địa thế rất kỹ càng. Tới chân thành, nàng nhìn lên: Trên mặt thành binh tướng đi lại tuần phòng hùng tráng. Bất thình lình cửa th của y sắp chụp vào người nàng, thì nghe một tiếng kêu o o ở trên không nhức tai, khó chịu vô cùng. Y nhảy lùi lại, nhìn lên thì thấy một vật to bằng hai nắm tay đang vù vù tiến về phía y rất chậm chạp, kình lực mạnh kinh người. Y biết người ném đó sử dụng hai kình lực một lúc. Một làm cho vật đó quay tròn, hóa cho nên có tiếng kêu o o. Hai là kình lực đẩy vật đó tiến tới rất chậm. Y không dám coi thường, vận đủ mười thành công lực đánh vào vật đó. Bình một tiếng vật đó vỡ tan, bắn ra làm mười mấy mảnh văng lại trận Thục, trúng vào đám quân sĩ. Chúng đau quá la ối ối, nhưng không có tên nào bị thương. Nhiệm Mãng coi lại vật tròn thì ra là trái bưởi. Nhiệm Mãng hoảng sợ nghĩ:
– Ai mà công lực mạnh đến thế? Khiến cho quả bưởi quay tròn với tốc độ kinh người, phát ra tiếng kêu điếc tai, kình lực mạnh làm cho vỏ bưởi rạn ra. Đến khi chạm vào chưởng ta thì vỡ ra từng múi, dư lực bắn vào trận Thục.
Y còn hoang mang thì Quế-Hoa đã đánh trúng vào vai y một chưởng. Chưởng này rất mạnh đau đến nảy đom đóm mắy. Y nổi giận quát lớn:
– Cao nhân nào, xin xuất hiện, bằng không tôi giết vị tiểu cô nương này.
Vẫn không có tiếng trả lời. Nhiệm Mãng móc trong túi ra bốn lưỡi phi đao, phóng vào Quế-Hoa, kình lực rất mạnh. Quế-Hoa hoảng hốt chưa biết tránh né cách nào, thì có tiếng kêu rít lên nhức tai, rồi bốn vật bay tới đụng vào bốn lưỡi phi đao đánh choang một tiếng. Bốn lưỡi phi đao gãy vụn từng mảnh, bay tỏa ra bốn phía. Còn một vật nữa trúng ngực Nhiệm Mãng bịch một cái. Mặt y tái mét nhìn lại, thì ra là một trái chanh. Y bàng hoàng như trong giấc mơ:
– Người này võ công cao không biết bao nhiêu mà kể, nhưng y là cao nhân không muốn giết ta, chỉ cảnh cáo thôi. Bằng không với một viên sỏi, mạng ta đã tuyệt.
Y hướng về trận Hán:
– Cám ơn đại đức của cao nhân Lĩnh-Nam đã tha mạng.
Y vẫy tay cho quân chạy về phía sông Hán-thủy. Chính y đi cản hậu. Chạy đến bờ sông, thấy dọc sông cờ Hán bay phất phới. Song tìm hoài, không một bóng người. Y cho quân rẽ vào con đường men sườn núi mà đi. Chạy được một quãng nghe tiếng reo hò inh ỏi, rồi quân Hán đổ ra. Hai tướng Hán chặn mất lối đi. Nhiệm Mãng không nói không rằng, vung đao chém liền. Tướng Hán là Chu Á-Dũng vung thương đỡ. Choảng, thương gãy đôi. Y hoảng hốt vọt khỏi mình ngựa xuống đất, vừa tránh kịp ngọn đao thứ nhì của Nhiệm Mãng. Giao tranh một lúc, quân Hán bỏ chạy lên núi. Nhiệm Mãng cho quân tiến lên, y đi đoạn hậu. Tới một khe núi có tiếng gọi:
– Nhiệm Mãng, đầu hàng đi thôi, ngươi bị chúng ta vây kín rồi chạy không thoát đâu.
Nhiệm Mãng nhìn lên thấy một người hùng vĩ mặt hồng hào, oai nghiêm, đứng trên cành cây cổ thụ.
Người đó nói:
– Nhiệm tướng quân, ta là Trường-yên đại-hiệp Cao Cảnh-Minh, người đất Lĩnh Nam. Ta với ngươi không thù, không oán, ta không giết ngươi. Vậy ngươi hãy đi đi. Ta chỉ bắt quân của ngươi thôi. Ngươi hãy xem ta bắn gãy lá cờ soái của ngươi đây.
Người đó bưông tên, tiếng kêu chát tai, cây cờ soái của Nhiệm Mạng cán bằng sắt, chạm vào mũi tên tóe lửa rồi gãy làm hai.
Nhiệm Mãng là người bác học nghe nhiều, y biết Lĩnh-Nam là nơi sản xuất nhiều tiễn thủ kinh người. Y chưa kịp phản ứng thì người đó nói:
– Ta bắn rơi bảo kiếm của ngươi đây.
Nhiệm Mãng rút kiếm vung lên, mũi tên xé gió, chạm vào kiếm kêu choảng một tiếng. Kiếm bị đổi chiều chạm vào bao kiếm, cả bao lẫn, kiếm đều bật văng ra xa.
Nhiệm Mãng phát run nghĩ:
– Với công lực của ta, đệ nhất cao thủ chưa chắc đánh rơi được vũ khí, mà sao người này có thể đánh rơi được kiếm, thì công lực y không vừa. Chắc y là người đã dùng trái cây ném ta hồi nãy đây.
Nhiệm Mãng đã lầm, người dùng trái cây ném y hồi nãy là Khất đại-phu. Còn người bắn y là Trường-yên đại hiệp, hai người hoàn toàn khác nhau. Y thấy hai người võ công cao quá, tưởng là một. Y bỏ ngựa cùng hai đệ tử kéo nhau lên núi chạy thoát thân.
Vĩnh-Hoa thấy đại quân Thục đã tan, cho thu quân. Các tướng lục tục trở về. Nàng ra lệnh:
– Chinh-tây Phùng tướng quân trấn thủ Võ-đô. Hoành giả tướng quân trấn thủ Lưỡng-hà-khẩu. Còn Trung-lang tướng quân Lai Háp thống lĩnh quân để công thành Nam-bình. Tiền-quân Hiệu-úy Chu tướng-quân vây Võ-bình. Chỉ cần đánh cầm chừng. Nếu thấy quân Thục từ Kiếm-các tới cứu thì phải rút về Bắc ngạn sông Bạch-long cố thủ.
Nàng cùng Khất đại-phu, Trường-yên đại-hiệp, Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa lên đường về Dương-bình quan. Dọc đường Quế-Hoa hỏi Trường-yên đại-hiệp:
– Đại sư-bá, sư bá bắn giỏi như vậy, tầm xa nhất sư bá bắn xa được khoảng bao nhiêu?
– Không nhiều lắm độ 200 trượng.
Quế-Hoa úi chà một tiếng rồi hỏi tiếp:
– Mỗi phát sư-bá bắn được bao nhiêu mũi?
– Nhiều nhất là 20 mũi, trúng vào hai mươi mục tiêu khác nhau.
Qua câu hỏi của Quế-Hoa, Vĩnh-Hoa nghĩ ra được một kế:
– Nếu công thành, chỉ cần Trường-yên sư-bá bắn ba mũi tên vào một cổng thành, giết sạch binh tướng trấn thủ trên vọng lâu, ta cho người đánh thành dễ dàng.
Quỳnh-Hoa hỏi ông ngoại:
– Ông ngoại ơi! Tại sao ông chỉ dùng trái cây ném Nhiệm Mãng mà không ra tay bắt sống?
Khất đại-phu cười:
– Cháu không biết đấy thôi. Chính sư-tỷ Vĩnh-Hoa nhờ ông dọa Nhiệm Mãng để hắn sợ, chứ có muốn ngoại giết hắn đâu. Vả lại hắn là một người tài trí, anh hùng giết đi thì uổng quá.
Về tới đại bản doanh, Ngô Hán cùng các tướng ra đón, mừng hớn hở. Vì Vĩnh-Hoa đã cho ngựa lưu tinh về báo rồi. Nàng thăng trướng ra lệnh:
– Bây giờ chúng ta chuẩn bị đánh Dương-bình quan. Việc này xin Ngô tướng-quân suất lĩnh cho. Tôi hẹn giờ Mùi cùng với Công-tôn Tư hội ở núi Định-cường. Tôi chỉ cần Thái sư-thúc Khất đại-phu đi theo thôi. Còn tất cả do Ngô tướng-quân điều động. Chúng ta đánh cầm chừng thôi. Khi hay tin Nam-bình, Võ-đô, Võ-bình bị vây. Công-tôn Tư chia quân đi cứu các nơi, chúng ta mới lấy Dương-bình quan.
Bấy giờ tiết Đông-chí, trời lạnh, tuyết rơi lất phất. Vĩnh-Hoa trang điểm thật lộng lẫy. Nàng mặc bộ quần áo trắng, cổ choàng khăn đỏ dây lưng cũng màu đỏ. Nàng cho lệnh lấy một xe lớn lên đường đi Định-cường. Khất đại-phu giả làm người đánh xe. Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa và mấy thị-nữ ngồi chung một xe với Vĩnh-Hoa. Xa xa đã thấy trên đồi Định-cường có cờ Thục bay phất phới. Tới gần chân đồi, Công-tôn Tư đứng đón nàng, y xá ba xá:
– Hôm nay tên nhà quê đất được tiếp kiến đệ nhất giai nhân đất Việt. Thực là tam sinh hữu hạnh.
Trên đỉnh đồi có khoảng trăm quân Thục canh gác. Công-tôn Tư thấy Vĩnh-Hoa chỉ đi với ông già đánh xe, hai cô gái và ba tỳ nữ, y cũng yên tâm phần nào.
Trên khu đất bằng phẳng, Tư cho làm một nhà sàn bằng gỗ, trong đốt hương nghi ngút tỏa mùi thơm. Y mời Vĩnh-Hoa vào trong. Bên trong có nhiều nhạc khí treo trên tường. Hai người ngồi vào bàn. Tư rót nước mời:
– Đây là trà đất Thành-đô. Mong rằng sẽ làm vừa lòng cô nương.
Vĩnh-Hoa nâng chung trà uống, mỉm cười hỏi:
– Tết sắp đến rồi, không biết Thái-tử có cho quân nghỉ Tết không?
Công-tôn Tư lắc đầu:
– Tôi muốn lắm chứ. Nhưng Ngô Hán đâu có để tôi yên mà ăn Tết. Này Phùng cô nương, tôi nghe đất Lĩnh-Nam có nhiều anh hùng sang dự trận đánh Thục chúng tôi, phải không? Những người tài hoa như cô nương khiến chúng tôi lo sợ. Còn Nghiêm Sơn hiện ở đâu, chúng tôi không thấy y xuất hiện.
Vĩnh-Hoa thở dài:
– Công-tôn Thái-tử! Giữa Phụ-hoàng thái-tử và Hán Quang-Vũ chẳng qua là người Hán tranh chấp với nhau mà thôi. Ai được, ai thua đất Thục vẫn là người Hán cai trị người Hán. Còn Lĩnh-Nam chúng tôi từ đời vua Thần-Nông đã phân biệt cương giới với Trung-nguyên. Nhưng sau Tần Thủy-Hoàng đánh chiếm Nam-hải, Quế-lâm, Tượng-quận, chúng tôi mất nửa nước. Rồi kịp tới Triệu Đà lợi dụng lòng ngay thẳng của vua An-Dương mà chiếm mất Âu-Lạc. Nhà Hán dứt, Triệu Đà lập thành quận, huyện. Người Hán tới cai trị chúng tôi, coi chúng tôi như trâu, chó. Mở miệng là gọi Nam-man, Man-di, khổ không biết bao nhiêu mà kể. Anh hùng Lĩnh-Nam chúng tôi đã hợp lại với nhau xin Hán-Đế trả lại đất cũ lập lại cố quốc. Chúng tôi vẫn là nước thần phục, tiến cống hàng năm. Chúng tôi tòng chinh đất Thục, chẳng qua cho Quang-Vũ biết: Nếu trả đất Lĩnh-Nam thì có một người bạn tốt, nếu không trả, khó mà giữ được.
Công-tôn Tư thấy Vĩnh-Hoa không giấu diếm điều cơ mật phục quốc của anh hùng Lĩnh-Nam. Nàng nói với y, có nghĩa là giữa hai người đều tin tưởng lẫn nhau. Y nói:
– Cô nương biết thương Lĩnh Nam, sao không nghĩ đến đất Thục? Sao cô nương không giúp chúng tôi đánh Hán?
Vĩnh-Hoa cảm thấy thương hại Công-tôn Tư:
– Thái-tử nói vậy cũng phải, nhưng việc đời như dòng nước trôi. Chúng tôi với Thái-tử lâm vào thế đối nghịch mất rồi. Chúng tôi sang đây là vì một người bạn là Nghiêm Sơn, giúp y vì tình bằng hữu mà thôi. Chính nhờ y mà đất Lĩnh-Nam chúng tôi mới được tập võ, do đó nảy sinh anh tài. Tuy nhiên tôi nghĩ đất nước cần thống nhất thành một mối, sao Thái-tử không xin với Phụ-hoàng trở thành một nước phiên, hàng năm tiến cống có phải tốt đẹp không? Ích-châu là một nước nhỏ, chịu nhún một chút, đâu có gì đáng kể là nhục? Nếu muốn mưu đồ đại sự, sau này chỉnh đốn quân mã, đợi Trung-nguyên rối loạn kéo binh ra ngã Trần-thương về kinh đô, thiên hạ vào tay như không? Nếu Thái-tử quyết ý như vậy, tôi nguyện giúp Thái-tử.
Công-tôn Tư thở dài:
– Phụ-hoàng tôi đã sai sứ sang Hán xin thần phục. Trước đây Ngỗi Hiêu, Xích Mi, Vương Mãng còn, Quang-Vũ để chúng tôi yên. Bây giờ các nơi kia bị diệt rồi, y cất quân muốn diệt nốt chúng tôi luôn.
Nghĩ một lát Công-tôn Tư nói:
– Trước đây Tổ-sư chúng tôi là Thiên-sơn lão tiên với Khất đại-phu Trần Đại Sinh có giao tình rất hậu. Hai vị hẹn mười năm sau lại lên đỉnh Kim-sơn uống rượu, đánh cờ, luận võ. Lần cuối cùng người mang theo thúc-phụ tôi là Công-tôn Thiệu, Khất đại-phu mang theo sư thúc Đặng Thi Sách.
Vĩnh-Hoa ngạc nhiên bật kêu lên:
– Úi cha!
Công-tôn Tư tiếp:
– Thúc phụ tôi với Đặng sư thúc kết làm huynh đệ. Hai bên hẹn cùng tuốt gươm cứu dân. Đặng sư thúc lập lại Lĩnh Nam. Chúng tôi lập lại Thục, chiếm Kinh-châu, Trường-an. Chúng ta chia ba thiên hạ với Hán. Hán đánh Thục thì Lĩnh Nam cứu. Hán đánh Lĩnh Nam thì Thục cứu. Không ngờ… bây giờ Lĩnh Nam lại giúp Hán diệt Thục.
Phùng Vĩnh-Hoa nói:
– Trở về tôi sẽ hỏi Khất đại-phu xem chuyện này thế nào. Nếu đúng như vậy chúng tôi sẽ đổi thái độ. Song khi tôi với Thái-tử ngồi đây thì Ngô Hán mang quân đi đánh Dương-bình quan. Chuyện này coi như tôi vô tình không biết.
Công-tôn Tư chắp tay:
– Nếu được như lời cô nương, từ nay nguyện một đời không quên đại ơn, đại đức.
Quân hầu dâng bàn cờ, Vĩnh-Hoa nhìn bàn cờ hỏi:
– Tôi chơi cờ không hay, Thái-tử chấp tôi một quân xe đi?
Công-tôn Tư gật đầu cười:
– Được tôi xin chiều cô nương.
Vĩnh-Hoa là học trò phái Sài-sơn, cầm, kỳ, thi họa đều thông. Nàng thấy Công-tôn Tư đi cờ rất cao, nước đi nào của y cũng tỏ ra là người quân tử. Nàng muốn kéo dài thời gian, nên nghĩ rất kỹ mới đi một nước. Đánh ba bàn, nàng ghìm cho hòa cả ba. Công-tôn Tư biết thế, y nói:
– Phùng cô nương quả là anh thư đất Lĩnh Nam.
Chiều đến tuyết lất phất rơi, trên đồi nhìn xuống trời đất trắng xóa, trông thật đẹp. Nàng lấy cây đàn Nhị (đờn cò) ra, kéo những khúc nhạc của Trương Chi, của phái Sài-sơn. Cứ mỗi khúc, Công-tôn Tư lại gõ xênh đánh nhịp theo.
Trời đã tối, trước khi từ biệt ra về, Vĩnh-Hoa thở dài:
– Công-tôn thái-tử, chúng ta là bạn tri âm, nhưng vô tình bị đặt vào thế đối nghịch. Duyên kỳ ngộ nay đã hết, nếu sau này có gì bất trắc tôi sẽ chạy sang Thái-tử. Ngược lại nếu Thái-tử có điều chi bận tâm lo lắng, tôi cũng sẽ hết tâm lo lắng.
Công-tôn Tư cảm động thi lễ:
– Phùng cô nương, hậu hội hữu kỳ.
Vừa lúc đó một kỵ mã phi ngựa đến như bay, quỳ gối:
– Thưa Thái-tử, Ngô Hán dẫn quân đánh thành.
Công-tôn Tư cười:
– Ta nể bên Hán là nể anh hùng Lĩnh Nam, chứ Ngô Hán ta sợ gì hắn? Trước khi đến đây tương hội với Phùng cô nương, ta đã dự trù kế hoạch đối phó, nếu hắn đánh thành rồi. Công-tôn Tư phi ngựa về thành. Vĩnh-Hoa cũng lên xe trở về bản doanh. Tới nơi Ngô Hán tiếp vào, nói:
– Nhờ cô nương cầm chân Công-tôn Tư, tôi cho vây Dương-bình quan, không ngờ trời bỗng dưng đổ tuyết thành ra không đánh được.
Ngô Hán cùng Vĩnh-Hoa đến Dương-bình quan xem, thấy binh sĩ trong thành canh phòng rất nghiêm ngặt, khó có thể lên được. Vĩnh-Hoa đi khắp hết bốn cửa thành xem xét, nàng nghĩ thầm:
– Tiếc thay ta chỉ giỏi dùng mưu mẹo mà không biết cách điều binh, đánh thành. Cho nên trước hoàn cảnh này đành bó tay. Giá có Trưng Nhị hay Phương-Dung ở đây tất lấy thành này dễ như trở bàn tay..
Quả thực đúng như ý nghĩ của Vĩnh-Hoa, tuy nàng cũng đọc binh thư như Trưng Nhị, Phương-Dung, nhưng thiên tư mỗi người một khác. Phương-Dung, Trưng Nhị thì sách lược, chiến lược giỏi đã đành. Hai người đã ở trong phủ Lĩnh-nam công một thời gian, cùng Đào Kỳ nghiên cứu rất kỹ sách huấn luyện tướng sĩ của Hán. Từ một viên sĩ tốt cho tới Tốt trưởng, Lữ-trưởng, Sư-trưởng, Quân-đoàn trưởng như thế nào, cách điều hợp lực lượng, công thành, phá ải ra sao. Rồi cả hai hợp với những điều trong Lục-thao, Tam-lược, Tôn-Ngô binh pháp, mà thành một bản lĩnh riêng biệt. Còn Vĩnh-Hoa chỉ biết những điều trong Lục-thao, Tam-lược, Tôn-ngô binh pháp, mà thôi. Trận đánh Võ-ơô, nàng ra lệnh cho các tướng đánh mặt này, chận mặt kia, chứ không thể nào cho chỉ thị chi tiết phải đánh như thế nào. Bốn tướng mang theo đều ở lứa tuổi 40, đánh dư trăm trận, nàng chỉ cần bảo đánh đâu, là họ ứng biến đánh như thế nào rồi. Bây giờ Ngô Hán cũng như nàng không hơn, không kém. Nàng giữ Công-tôn Tư trong hơn nửa ngày, mà Ngô Hán chỉ xua quân đánh thành như những lần trước, chứ không có gì mới mẻ hơn.
Bỗng đâu tiếng pháo nổ vang trời, từ Định-cường một đội Thục binh xuất hiện, đánh vào phía cửa Nam Dương-bình quan. Một đội nữa từ Quảng-nguyên đánh vào phía Tây.
Ngô Hán ra lệnh cho hai đạo quân vây cửa Nam và Tây rút trở về Bắc. Quân đang rút thì từ trong thành, bốn cửa mở tung, quân đánh ra mạnh như vũ bão. Thế đạo quân vây cửa Tây do Mã Thành chỉ huy và đạo quân vây cửa Nam do Đỗ Mạo chỉ huy bị ép vào giữa.
Ngô Hán đang luống cuống chưa biết giải quyết ra sao. Thì Vĩnh-Hoa ra lệnh:
– Hán-trung Thứ-sử Sử Hùng giữ vững mặt Đông, có Quế-Hoa trợ chiến. Hành-quân Tư-mã Vương-Bá giữ vững mặt Bắc, có Quỳnh-Hoa trợ chiến. Nhất thiết không được lùi một bước. Ai lùi chém tại chỗ.
– Cao Cảnh-Anh, Cao Cảnh-Hùng dẫn đội Thần-nỏ 1 đánh cửa Tây, cứu Tây-lương Thứ-sử Mã Thành. Sư huynh Cao Cảnh-Hào, Cao Cảnh-Kiệt dẫn đội Thần-nỏ 2 đánh cửa Nam giúp Hậu-quân Hiệu-úy Ngô Triệu. Trần Đạm-Nương, Trần Thanh-Nương mang quân đánh vào phía sau địch
– Thái sư-thúc Khất đại-phu và Trường-yên sư bá vào trong thành, đốt kho lương giặc làm náo loạn lòng quân.
Nàng nhìn thấy người chỉ huy đoàn quân Thục từ phía Nam vây ép Đỗ Mạo và Công-tôn Tư. Nàng không muốn đối trận với y, nên lùi lại gò cao quan sát tình hình. Hai bên đánh nhau dưới tuyết, trống đánh, quân reo, ngựa hí vang trời. Đêm mùa đông, mờ mờ trắng, hai bên chém giết nhau khủng khiếp. Bỗng nàng gọi Hoàng Hổ lại nói mấy câu. Hoàng Hỗ cười ha hả rồi lui về trận. Một tiếng sau những tiếng gầm gừ vang dội lên, trên trăm con cọp chia thành mười đội xông vào cửa Bắc. Đám quân trấn thủ cửa nầy đang giao tranh ác liệt với Quế-Hoa, Vương Bá thì bị đội cọp chọc thủng phía sau. Thục binh bỏ vũ khí chạy sang cửa Tây. Quân trên thành hoảng sợ, đóng cửa lại. Đám canh gác ở vọng lầu bắn tên xuống như mưa. Đội cọp bị chết mấy con phải lùi lại.
Bỗng vèo vèo mấy tiếng xé gió trên không, một loạt tên bay lên, toán xạ thủ Thục ngã gục trên vọng lâu.
Trường-yên đại hiệp hô lớn:
– Hoàng Hổ, cháu cho cọp tiến sát vào chân thành đi.
Hoàng Hổ hú lên một tiếng cho cọp tiến sát chân thành. Đám quân trên vọng lâu vừa thò đầu định bắn xuống, thì Trường-yên đại hiệp lại bắn liền bốn phát, mỗi phát mười mũi tên, đám xạ thủ lại ngã gục xuống.
Ông lại bắn tiếp một mũi tên thật lớn vào cánh cửa vọng lâu. Mũi tên cột một sợi dây. Khất đại-phu chạy đến chân thành nắm sợi dây giật sẽ một cái, rồi hô:
– Ta lên đây!
Ông bám dây thoăn thoắt leo lên thành. Trên thành một tướng xuất hiện, múa kiếm định chặt đứt dây. Hắn vung kiếm lên. Cao Cảnh-Minh giương cung, choang, thanh kiếm văng mất. Viên tướng kia vẫn không nao núng, rút dao ngắn định tiếp tục cắt, thì véo véo năm mũi tên bay lên, một trúng vào đầu y, còn lại trúng vào bốn tên xạ thủ của vọng lâu. Mũi tên cột một sợi dây, tất cả ngã lộn đầu xuống đất.
Khất đại-phu đã lên đến vọng lâu. Ông vung chưởng đánh vào vọng lâu. Bùng, vọng lâu kêu răng rắc rồi đổ ầm xuống chân thành. Thục binh ngẩn người ra, vì thấy công lực ông thật kinh người.
Khất đại-phu nhảy xuống thành, chỉ ba chưởng ông đã đánh bay cả đám quân phía trong. Ông rút kiếm chặt sợi dây cột cổng thành, mở ra cái rầm. ghen ghét. Mà bại thì ngôi Thái-tử e khó giữ được. Thái tử là người đọc sách, mà không nhớ tích Thái-tử Lịch Sanh bị cha là Tấn Linh Công giết chết ư? Hiện giờ ở trong, các em đang ngấm ngầm vận động tranh ngôi Thái-tử. Các bà phi tần của vua cha chỉ biết vàng bạc, thương yêu những người cúi đầu tuân phục. Còn Thái-tử, mẹ qua đời, lo chinh chiến mà không được lòng các phi tần. Vì vậy đại họa không biết lúc nào sẽ tới.Tôi vì Thái-tử mà ra đây nói vài lời phải trái. Nghe hay không là quyền của Thái-tử.
Công-tôn Tư quả đang lo những điều Vĩnh Hoa nói. Mẹ của y đã qua đời. Công-tôn Thuật đặt một phi tần khác lên làm hoàng-hậu, cực kỳ sủng ái. Thuật còn nuôi ba con trai của Vương Nguyên làm con, tước phong tới Bình-nam vương, trấn thủ phía nam Ích-châu. Ngoài ra y lại không được lòng hai người chú là Công-tôn Thiệu, Công-tôn Khôi đang trấn thủ Đông và Đông-nam. Bây giờ trước trận Phùng Vĩnh Hoa nói toẹt mối lo ngại cuả y ra. Y biết là đúng, song vẫn thản nhiên:
– Phùng cô nương dạy quả đúng như hoàn cảnh của ta. Nhưng đạo làm tôi phải trung với chúa, đạo làm con phải hiếu với cha mẹ. Thái tử Lịch Sanh tuy chết oan, nhưng danh còn với thiên cổ. Ta được vua cha ủy thác trấn nhậm biên thùy, phải cố giữ cho nước yên, dân được sung sướng thì đã toại nguyện. Còn làm vua hay làm tôi ta không cần nghĩ tới. Cám ơn cô nương đã dạy dỗ. Xin cô nương lui về, để ta cùng Ngô Hán đấu với nhau một trận long trời lỡ đất.
Y lại nói với Ngô Hán:
– Ngô Hán, chúng ta đánh nhau mãi chết quân sĩ nhiều quá, vậy người có dám đấu với ta chăng? Dù đấu văn, đấu võ môn gì ta cũng nhận.
Phùng Vĩnh Hoa nói ;
– Không biết Thái-tử có thể thù tiếp tôi được chăng? Tôi xin đấu văn với Thái-tử. Xin Thái-tử ra đầu đề trước đi.
Công Tôn Tư nói:
– Nếu là cô nương, tôi xin nhường cô nương ra đầu đề. Chúng ta đấu ba cuộc, ai thắng hai thì coi như được. Không biết cô nương nghĩ sao? Cô nương thắng, tôi nguyện lui binh, dẫn đường mời cô nương du lịch thắng cảnh Dương-bình quan hay cả đất Ích-châu như cô nương đã nói với sư-đệ tôi hôm qua. Còn nếu tôi thắng, xin cô nương bảo Ngô Hán lui quân về, để tướng sĩ được nghỉ một tháng. Không biết cô nương có chấp thuận không?
Phùng Vĩnh Hoa nghiêng mình đáp lễ:
– Tôi xin tuân lịnh Thái-tử. Môn thi đầu tiên của tôi là âm nhạc. Tôi tấu một vài khúc, xin Thái-tử đánh nhịp cho.
Vĩnh Hoa là đệ tử phái Sài-sơn, nàng rất giỏi âm nhạc. Nàng vẫy tay về sau, một nữ binh theo hầu dâng lên cây đàn bầu. Nàng để cây đàn trên mình ngựa, dạo khúc Dương Xuân Bạch Tuyết. Nàng dùng nội lực chuyển vào cây đàn, âm thanh đi rất xa. Tướng sĩ hai bên trước nay đã cùng nhau đánh hàng trăm trận, sống chết có thừa. Nay bỗng dưng được thấy một thiếu nữ xinh đẹp, ra trước trận tấu nhạc bằng thứ đàn chỉ có một giây. Tiếng đàn đầm ấm, thanh cao, u nhã, khiến hồn họ như lâng lâng bay bổng lên cao.
Bên trận Thục, Công-tôn Tư rút kiếm ra đánh nhịp theo điệu đàn của nàng, hợp thành một khúc nhạc tuyệt vời. Khúc nhạc dứt, quân sĩ hai bên vỗ tay hoan hô rúng động trời đất.
Phùng Vĩnh Hoa nói:
– Trời sắp vào Xuân, hai bên đánh nhau mãi chán lắm rồi, chi bằng chúng ta cùng nhau tấu nhạc cho tướng sĩ nghe chẳng thú lắm sao. Từ ngày rời Lĩnh Nam đến giờ, nay là lần đầu tiên tiện nữ được gặp tri âm. Đời này tri âm được mấy người, có phải không Thái-tử? Nào tiểu nữ lại thổi một khúc tiêu, mong nhã lượng quân tử dạy cho.
Phùng Vĩnh Hoa được trời phú cho giọng nói thanh tao. Đến sư phụ, cha mẹ nghe nàng nói mà còn thương, huống hồ đứng trước trận tiền nói với Công-tôn Tư. Câu nào cũng êm đềm văn hoa.
Ngô Hán nghĩ thầm:
– Tại sao đất Lĩnh Nam nhiều nhân tài đến thế nhỉ? Nếu nàng không là người bên mình, mình cũng bị mắc mưu. Có ai ngờ, hiện giờ binh tướng của mình đã kéo đến Võ-đô, đánh úp thành mất rồi. Có ai ngờ thiếu nữ trẻ thế kia mà võ công cao, mưu thần chước thánh như vậy.
Nàng vọt người lên cao, con ngựa của nàng phi như bay trước trận. Nàng đứng trên lưng ngựa, cầm ống tiêu thổi bài Động Đình dạ khúc. Nghe thổi tiêu, thì tướng sĩ hai bên cũng từng nghe qua. Đây là nàng đứng trên lưng ngựa, ngựa phi như bay, nàng vẫn giữ được nguồn âm thanh liên miên bất tuyệt là điều không ai tưởng tượng nổi.
Nguồn gốc của phái Sài-sơn bắt đầu từ Phù-đổng Thiên-vương, nghệ thuật cỡi ngựa thần sầu quỉ khốc. Có điều Vĩnh Hoa hợp nghệ thuật cỡi ngựa với âm nhạc được. Ngựa cứ phi bụi mù, tiếng sáo vẫn véo von, khi lên cao vút từng mây, khi nỉ non như tiếng sóng Động-đình. Y phục màu trắng, dây lưng khăn hồng bay phất phới trước gió, tiếng tiêu bay bổng trên không gian. Khúc tiêu hết, quân sĩ hai bên vỗ tay vang dội.
Phùng Vĩnh Hoa vọt người lên cao, đáp xuống, ngồi ngang trên lưng ngựa, chắp tay hướng Công-tôn Tư:
– Xin Thái-tử dạy cho ít lời.
Công-tôn Tư thở dài:
– Tôi thua cô nương cuộc này. Còn cuộc thứ ba, xin cô nương tiếp cho.
Phùng Vĩnh Hoa phi ngựa tới trước trận:
– Tôi xin Thái-tử vừa tấu nhạc, vừa dạy cho mấy thế võ.
Nói rồi nàng cầm ống tiêu đâm liền. Y vội rút kiếm đỡ. Thì Vĩnh Hoa đã thu chiêu trở về. Tiếng gió lọt vào ống tiêu kêu lên những tiếng vi vu. Thế là Vĩnh Hoa dùng tiêu đấu với kiếm của Công-tôn Tư, nhưng tiếng tiêu vẫn phát ra bài Động Đình dã ca nghe rất êm tai. Nếu người nào nhắm mắt tưởng nàng tấu nhạc, có ngờ đâu đó là những chiêu kiếm phổ vào tiêu đầy sát thủ. Đánh được gần trăm hiệp, bài Động Đình dã ca dứt, nàng lui lại:
– Xin thái tử dạy cho ít lời.
Công-tôn Tư nhìn nàng phiêu hốt như có như không, phất phơ trước gió giải lụa trên cổ màu hồng trông như tiên nữ. Y ngất ngây đáp:
– Trong ba cuộc đấu, tôi thua cô nương hai cuộc. Vậy ngoài những điều tôi đã hứa, cô nương muốn thế nào tôi cũng xin chiều lòng tri âm.
Vĩnh Hoa mỉm cười:
– Mai này, Thái-tử với tôi lên đồi Định-cường, chúng mình đánh cờ, gảy đàn, thổi tiêu, uống rượu tiêu dao ngày tháng, chẳng hơn dùng gươm dao giết nhau ư?
Công-tôn Tư trấn nhậm phía Bắc Ích Châu chống với Hán, mục đích của y là trấn thủ chứ không có tham vọng chiếm Trung-nguyên. Y phải xuất thành vì quân Hán tấn công, chứ y không ham chiến. Bây giờ Vĩnh Hoa thắng, lại đề nghị bãi chiến, tấu nhạc, đánh cờ, là điều y cầu mà không được.
Công-tôn Tư ngây người đáp:
– Tôi sẽ hầu tiếp cô nương, tôi mời cô nương ngắm thắng cảnh Định-cường.
Vĩnh Hoa tiếp:
– Đây gần Dương-bình quan hơn, Thái-tử là chủ, tôi là khách, nhất thiết rượu, hoa quả do Thái-tử đem tới. Giờ Mùi ngày mai chúng ta gặp nhau.
Nàng vái dài một vái rồi phi ngựa về trận. Ngô Hán cho lui quân. Y không hiểu kế của Vĩnh Hoa hỏi:
– Mai là ngày chúng ta đánh Võ Đô, cô nương làm sao đánh cờ, tấu nhạc với Công-tôn Tư được?
Vĩnh Hoa ghé tai Ngô Hán nói nhỏ mấy câu, Ngô Hán gật đầu nói:
– Đêm nay quân sư Tào Mạnh cùng Công-tôn Tư nghĩ nát đầu cũng không ra chủ ý của cô nương. Có điều, chúng ta chuyển quân, sợ Tế-tác của giặc khám phá ra nguy hiểm vô cùng.
Phùng Vĩnh Hoa cười:
– Khi rời Phiên-ngung về đây, tôi có giới thiệu với Tướng quân một lão tướng của chúng tôi tên Vi Đại Khê. Vị lão tướng chỉ huy 100 chó Ngao. Tôi đã bí mật cho chó Ngao phục trong các hẻm núi, dọc đường đến Võ-đô. Nếu Tế tác giặc ẩn núp, sẽ bị phát hiện, giết chết liền.
Bỗng Hổ-nha đại tướng Cáp Diên bước vào thưa:
– Trình Nguyên-soái và quân sư, Ngao-sơn Vi Đại Khê bắt được 37 tên Tế Tác, xin Nguyên-soái định liệu.
Vĩnh Hoa cười:
– Giam chúng lại, cho ăn uống tử tế, giờ Mùi ngày mai thả chúng ra.
Nàng nói với Ngô Hán:
– Ngày mai, giờ Mùi tôi hội với Công-tôn Tư, bấy giờ thả chúng ra, chúng có về báo cáo thì đã trễ.
Vĩnh Hoa cùng Khất đại-phu đợi trời tối, âm thầm sai 2000 quân, nay 300 cỗ xe bí mật lên đường. Mỗi cỗ xe chở hai Hổ hoặc hai Báo. Trời vừa sáng thì vượt sông Hán-thủy. Phùng Vĩnh Hoa chỉ phía tòa thành xa xa nói:
– Kia là Võ-đô, chúng ta phải lấy thành trước giờ Ngọ.
Nàng cho gọi Tây-vu tam hổ tướng, tam báo tướng tới họp. Hồ Đề phong chúng là đại tướng quân cho oai, chứ thực sự chúng đều là những thiếu niên, tuổi chưa tới 18. Song chúng chỉ huy, huấn luyện Hổ, Báo đã lâu. Bọn Hổ, Báo nghe tiếng tù-và, tiếng hú hoặc điệu phất cờ mà tiến, thoái, bao vây, tấn công địch như một đạo quân tinh nhuệ.
Vĩnh Hoa ra lệnh cho Hắc Hổ:
– Sư đệ phục đội Hổ binh ở đây. Đợi lệnh tôi thì xua hổ tấn công vào thành. Sư-đệ định tấn công cách nào?
Hắc Hổ nói:
– Em chỉ huy bằng cờ. Em chỉ huy đội Hắc-hổ làm trừ bị phía sau. Còn Hoàng chỉ huy bằng tù và, Bạch thì chỉ huy bằng thanh la. Chúng em liên lạc với nhau bằng cờ. Như vậy, Hoàng, Bạch chia hổ thành 10 đội, mỗi đội 10 con dàn làm hai hàng. Khi xung phong vào đội hình địch, mỗi đội 10 con dàn làm hai hàng. Khi xung phong vào đội hình địch, thì hàng thứ nhất cắt đứt đội hình địch, rồi chia làm hai quẹo sang phải, trái tấn công. Hàng thứ nhì chọc thẳng vào trung ương. Đội hắc hổ của em tùy nghi tiếp viện, đề phòng địch đánh tập hậu.
Phùng Vĩnh Hoa vỗ vai Hắc Hổ:
– Các em đúng là đại tướng.
Nàng gọi Hắc Báo ra lệnh:
– Sư đệ dẫn đội báo phục kích ở giữa đường từ Lưỡng-hà khẩu về Võ-đô, đợi khi Võ-đô lâm nguy, ắt thủy quân từ Lưỡng-hà khẩu về cứu viện. Thái sư thúc Cao Cảnh Minh lập tức xua quân chiếm khẩu. Sư đệ có bổn phận ngăn không cho địch quân trở về.
Phùng Vĩnh Hoa cùng Khất đại phu leo lên ngọn cây cao nhìn về Võ-đô quan sát trận địa. Trước thành Võ-đô, Chinh-tây tướng quân Phùng Dị, cạnh Quế Hoa. Hoành-giả tướng quân Vương Thường cạnh Quỳnh Hoa. Phía sau quân sĩ dàn thành trận nghiêm chỉnh.
Trên thành Võ-đô phát pháo lệnh, quân sĩ từ hai cửa thành ra ngoài. Rồi cũng dàn thành trận trước quân Hán. Mỗi cửa thành vẫn còn khoảng vài trăm quân thiết kị trấn giữ.
Hai tướng xuất trận bên Thục là Điền Nhung và Nhiệm Đăng, dàn trận xong, Nhiệm Đăng phi ngựa ra trước hỏi:
– Phùng Dị, Vương Thường các ngươi là bại tướng, còn đến đây làm gì? Hãy về đi để khỏi uổng mạng.
Y chỉ tay một cái, đại quân Thục tràn sang như nước vỡ bờ. Võ công Phùng Dị, Vương Thường cao hơn Nhiệm Đăng và Điền Nhung. Hai người đứng đốc chiến cho quân sĩ xung sát.
Đánh được một lát, trong thành Võ-đô nổ ba tiếng pháo, hai đạo quân nữa đổ ra tiếp ứng.
Phùng Dị, Vương Thường cho lệnh đổi tiền quân làm hậu quân, lui binh. Thục binh chia làm hai đuổi theo. Bấy giờ ở Vọng-tử quan, Cao Cảnh Minh đốt pháo lệnh đánh vào hậu quân hai đội Thục binh. Quân Thục thấy quân Hán xuất hiện đánh vào hậu quân thì nao núng, gần như rối loạn. Hai tướng Điền Nhung, Nhiệm Đăng bình tĩnh chia quân ra làm hai cự địch. Một mặt đốt pháo hiệu báo về thành cho biết họ bị lâm nguy.
Quế Hoa vọt ngựa lên phóng chưởng đánh Nhiệm Đăng. Nhiệm Đăng thấy một thiếu nữ trẻ tuổi, không mặc áo giáp trụ, phóng chưởng đánh mình, thì gác vũ khí giơ quyền đỡ. Binh một tiếng, y bật người khỏi ngựa. Cũng may võ công cao, y lộn một vòng đứng xuống đất, tay tê chồn. Y cho rằng vừa rồi mình khinh xuất, y lại vung chưởng đáng một chiêu cực kỳ thần tốc. Quế Hoa hít hơi phát chiêu trong Phục-ngưu thần chưởng, chiêu Lưỡng Ngưu Tranh Phong. Bùng một tiếng nữa, lần này nàng mới thấy ê tay, phải lui lại một bước. Bên kia Nhiệm Đăng cũng lùi hai bước. Hai người lại đấu với i Võ Hữu Hạnh mấy câu, ông giận lắm quát:
– Tội ngươi đáng xử trảm. Vậy ngươi có gì kêu ca không?
Y cúi đầu khóc lóc không nói gì. Ngô Hán sai đem ra viên môn chặt đầu, đem đi khắp nơi bêu cho quân tướng xem làm gương.
Vĩnh-Hoa ghé tai Ngô Hán nói nhỏ mấy câu. Ngô Hán mừng lắm:
– Xin Quân-sư cứ tự tiện. Mưu Quân-sư cao như thế, thì chẳng mấy chốc chúng ta vào tới Thành-đô.
Phùng Vĩnh-Hoa dự tiệc xong, trở về thư phòng riêng, sai lấy bút mực viết một bức thư gửi cho Công-tôn Tư:
Tả quân-sư của Xa-kỵ đại tướng quân nhà Hán, Lĩnh-Nam Đăng-châu nữ hiệp gửi cho Công-tôn Thái-tử Ích-châu.
Sau lần gặp gỡ tại Định-cường, thì trận đánh trúc chẻ, ngói tan xảy ra, hiện không được biết tôn giá Thái-tử ở đâu. Phàm đã đãi nhau là tri kỷ, thì dù là thù hận, dù việc trọng đại đến đâu cũng không thể bỏ cái nghĩa tri âm. Nhân gặp Vương-phi của Thái-tử, Vương-phi của Lũng-tây vương và phu nhân của Trung-lang tướng Tào Mạnh bị nạn. Nay xin đưa Vương-phi cùng tài sản các vị trở về, để tạ nghĩa tri âm. Hẹn sẽ gặp nhau.
Phùng Vĩnh-Hoa cẩn bút.
Nàng niêm phong, đóng ấn, ký tên xong đưa cho Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa:
– Ta phiền sư muội dẫn đoàn xe của mấy vị này đến Kiếm-các trao tận tay Thái-tử cho ta.
Rồi nàng ghé tai dặn Quế-Hoa mấy câu. Quế-Hoa gật đầu cười rồi cùng Quỳnh-Hoa dẫn đoàn xe hướng Kiếm-các đi tới. Đoàn xe dài tới 20 cỗ, trên chở đầy vợ con, nô tỳ, của cải tướng Thục bỏ lại.
Phùng Vĩnh Hoa về trướng, thì thấy Khất đại-phu, Trường-yên đại-hiệp cùng anh hùng Lĩnh Nam tụ hội đông đủ. Phía ngoài Vi Đại Khê chỉ huy đội Thần-ngao canh phòng nghiêm ngặt. Trên không đội Thần-ưng bay lượn không ngừng.
Nguyên hôm chia tay ở Phiên-ngung, Trưng Nhị dặn dò anh hùng các đạo rằng, mỗi khi cần họp riêng với nhau, nên cho đội Thần-ngao canh chừng ờ ngoài ba hay bốn vòng thực nghiêm mật. Trừ đạo Kinh-châu có 600 Thần-ưng; mỗi đạo mang 10 con để liên lạc. Khi hội họp thì dùng Thần-ưng bay trên cao tuần thám. Công tác bố phòng này giao cho Ngao-sơn tứ lão.
Phùng Vĩnh-Hoa kính cẩn hướng vào Khất đại-phu:
– Thưa sư thúc, chẳng hay sư thúc tổ chức buổi họp, có gì dạy bảo cháu?
Khất đại-phu đáp:
– Ta có nhiều điều muốn nói với cháu chưng chưa đến lúc. Song các anh hùng muốn tổ chức cuộc họp, để chúng ta trao đổi những nhận xét về mấy ngày qua.
Phùng Vĩnh Hoa mời Khất đại-phu, Cao Cảnh Minh ngồi lên chủ tọa. Trường-yên đại-hiệp nói:
– Qua trận đánh Võ-đô, Dương-bình quan, lão nhận thấy tướng sĩ Thục là những anh hùng hào sảng đầy lòng nghĩa hiệp. Quân, tướng một lòng, giống như người Lĩnh Nam của ta. Dân chúng các vùng Võ-đô, Dương-bình quan mình mới chiếm được, họ khóc lóc thảm thiết khi Thục bị thua. Chúng ta hỏi thăm, họ nói rằng với Thục, họ được hưởng hạnh phúc. Với Hán luật pháp khắc khe. Phàm xưa nay, ai đem lại hạnh phúc cho trăm họ, người đó là minh-chúa. Ai đem khổ cực cho dân là giặc. Đời Hồng-bàng trải qua mấy nghìn năm, đem hạnh phúc cho dân Lĩnh Nam ta, nên chúng ta thờ. Đời vua cuối cùng tàn bạo nên chúng ta theo An Dương Vương. Bên Trung-nguyên, Kiệt, Trụ vô đạo nên mới có Thành-Thang, Văn-Vương. Bây giờ Hán vô đạo mới có Thục. Ta có cảm tưởng mình giúp kẻ ác, đánh người nhân mất rồi.
Trần Đạm-Nương nói:
– Thái-tử Công-tôn Tư là người anh hùng hào sảng. Y lấy cái phong nhã đãi sư-muội, không biết sư muội nghĩ sao?
Tây-vu Hoàng-Hổ tướng nói:
– Em thấy hổ xông vào trận, nhiều tướng sĩ đứng lại chịu ăn thịt, để cho binh sĩ rút. Vì vậy em cho hổ tiến từ từ, không nỡ giết người nghĩa sĩ.
Trần Hồng-Nương tiếp:
– Chúng ta mưu phục hồi Lĩnh Nam, vì muốn rút 30 vạn quân Hán ra khỏi đất nước mình, mà phải giúp Hán đánh Thục. Bây giờ Thục đã rút rồi, ta kệ Hán, Thục đánh nhau là hơn hết.
Phùng Vĩnh Hoa nói:
– Tôi tiếp xúc riêng với Công-tôn Tư, quả y là người anh hùng hào kiệt, thấy chúng ta giúp Hán mà không căm hận. Vì vậy khi vào thành Dương-bình quan, tôi nói dối Ngô Hán rằng tha vợ con tướng sĩ của họ về để gây nghi ngờ giữa cha con Công-tôn Thuật, nhưng thực ra là tha họ.
Khất đại-phu nói:
– Vậy như thế nầy, cháu dùng Thần-ưng đưa tin về Giao-chỉ hỏi Đặng Thi Sách, Trưng Trắc, Đào Thế Kiệt xem họ quyết định thế nào. Trong khi đó chúng ta lần lữa tìm cách cản trở Ngô Hán đánh Thục.
Phùng Vĩnh Hoa cung kính thưa:
– Cháu xin tuân lệnh Thái-sư thúc.
Nàng cầm bút viết thư, giao cho Vi Đại Khê sai Thần-ưng chuyển đi. Hôm sau Ngô Hán muốn tiến binh đánh Kiếm-các. Phùng Vĩnh-Hoa cười:
– Đại tướng-quân, chúng ta chiếm hai thành lớn, Thục rung động. Nếu tiến binh nữa Công-tôn Thuật sẽ dồn binh ra đây. Đạo Lĩnh Nam, Kinh-châu sẽ vào Thành-đô trước. Tướng-quân còn hy vọng gì làm chúa Ích-châu.
Ngô Hán chợt nhớ ra, lấy lý do tuyết xuống nhiều, cho quân sĩ nghĩ ngơi.
Sáu hôm sau Thần-ưng từ Giao-chỉ bay sang. Mang theo hai bức thư. Vi Đại-Khê trình bức thư cho Khất đại-phu. Ông liền cho triệu tập đại hội anh hùng Lĩnh Nam. Phùng Vĩnh Hoa cầm ống tre bổ ra, trong có hai bức thư. Một do Đặng Thi Sách viết cho Khất đại-phu. Một của Đào Thế Kiệt gửi cho Phương-Dung. Nàng cầm thư Đặng Thi Sách gửi cho Khất đại-phu đọc:
Đệ tử Đặng Thi-Sách và Trưng Trắc khép nép kính thư lên Thái sư-thúc là Trần lão tiên.
Khi Thái sư-thúc và anh hùng Lĩnh Nam lên đường rồi, công việc nhà vẫn tốt đẹp cả. Các trang ấp của Thái sư-thúc Lê Đạo-Sinh và đệ tử người, cháu đã cử đệ tử bản môn đến quản nhiệm; tổ chức, huấn luyện tráng đinh cùng ban hành chính sách do Thái sư-thúc dậy, bỏ hình pháp, lấy đức trị người. Tô Định không còn quyền làm gì, y chỉ ở quanh Luy-lâu mà thôi. Long-biên hầu Lưu Nhất-Phương chưởng quản hết mọi sự.
Mới đây đệ tử nhận được thư của Thiên-ưng Tây-vu Lục-hầu tướng gửi, nói rằng đạo Kinh-châu đánh thành Bạch-đế bắt được Trường-sa vương Công-tôn Thiệu. Thiệu kể chuyện mối giao tình giữa Thái sư-thúc và Thiên-sơn lão tiên ngày nọ trên đỉnh Kim-sơn, cùng lời giao ước giữa cháu vài y. Lục-Sún xin ý kiến rằng điều Thiệu kể có đúng hay không? Nếu đúng chúng thả Công-tôn Thiệu ra, nếu sai thì thôi.
Khi cháu cùng Đào-hầu chủ tọa đại hội đánh hồ Tây, đã quyết định trợ Hán đánh Thục, nào ngờ Công-tôân Thuật là anh Công-tôn Thiệu và là đồ tôn của Thiên-sơn lão tiên. Bây giờ sự thể đã thế, cháu vội liên lạc với Đào-hầu. Hai bên cùng cử người liên lạc với anh hùng Lĩnh Nam, duyệt xét tình hình, quyết định tại chỗ. Đào-hầu cử Đinh-hầu, cháu cử Trưng Trắc cùng lên đường. Vậy cháu dám xin Thái sư-thúc bàn riêng với anh hùng Lĩnh Nam tạm ngừng tiến quân. Nhất thiết mọi việc không cho Nghiêm Sơn với Hoàng Thiều-Hoa biết vội.
Cháu kính cẩn kính chúc Thái sư-thúc vạn thọ.
Đặng Thi-Sách, Trưng Trắc cẩn bút
Nàng cầm thư Đào Thế-Kiệt viết mở ra đọc:
Đào-hầu chưởng môn phái Cửu-chân thư cho con dâu là Phương-Dung.
Ta gửi sư-thúc Đinh Đại và Trưng Trắc sang Trung-nguyên. Mọi quyết định của sư-thúc và Trưng Trắc là của ta. Con tuyệt đối tuân theo dù quyết định đó có phải hy sinh tính mạng của các con hoặc của tất cả anh hùng Lĩnh Nam đang Bắc-viện.
Đào Thế-Kiệt.
Cao Cảnh-Minh hỏi Khất đại-phu:
– Lão tiên sinh, xin lão tiên sinh dạy cho bọn hậu bối ít lời.
Khất đại-phu, mắt mơ màng nhìn về phía chân trời xa:
– Cách nay hơn mười năm, lão lên đường sang tương hội với người bạn già là Thiên-sơn lão tiên. Lão mang theo đồ tôn là Đặng Thi Sách. Thiên-sơn lão tiên mang theo đồ tôn là Công-tôn Thiệu. Trong khi chúng ta đàm luận võ công, đánh cờ. Thì Thiệu, Sách kết huynh đệ. Thiệu lớn hơn là anh. Chúng nguyện đem ba thước gươm ra cứu đời. Thi-Sách muốn phục hồi Lĩnh Nam. Thiệu muốn lập lại Thục rồi chiếm Kinh-châu, Trường-an. Thục, Hán, Lĩnh Nam chia ba thiên hạ. Nếu Hán đánh Thục thì Lĩnh Nam cứu viện. Khi xuất chinh trợ Hán ta đâu có ngờ Công-tôn Thuật là anh Công-tôn Thiệu. Hà… chúng ta đánh lầm người rồi bây giờ biết làm sao?
Phần Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa điều khiển đoàn xe Thục chở vợ con tướng sĩ Thục, đến Quảng-nguyên thì gặp binh Thục đóng ở đấy. Tướng bên Thục là Hầu Đơn sai quân chặn lại. Y nhận ra Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa:
– Nhị vị Trần cô nương. Nhị vị đi đâu đây?
Quế-Hoa chỉ đoàn xe nói:
– Đoàn xe này chở vợ con cùng của cải các tướng ở Ích-châu bỏ lại. Phùng sư tỷ bảo chúng tôi hộ tống về trao tận tay Thái-tử.
Hầu Đơn đi từng xe kiểm lại, thấy quả toàn vợ con các tướng, trong đó có cả vợ y. Vợ y thấy y òa lên khóc lóc thảm thiết:
– Tướng công, bọn thiếp tưởng không bao giờ gặp lại tướng công nữa, không ngờ nay lại được trở về.
Hầu Đơn giao quân cho phó tướng. Còn y đích thân đi theo Quế-Hoa. Chiều hôm đó đoàn xe đến Kiếm-các. Hầu Đơn để đoàn xe ở ngoài, y vào báo cho Công-tôn Tư biết.
Sau khi thất thủ Dương-bình quan, Công-tôn Tư cùng các tướng sĩ tuy thoát thân, bảo vệ được chủ lực quân, nhưng thành mất, vợ con tướng sĩ bị lọt vào tay địch. Y buồn rầu không biết giải quyết ra sao, sáng nay y được tin báo vợ con binh sĩ được trả về hết. Bây giờ lại được tin báo, vợ con y cùng các tướng do sứ giả hộ tống đến tận nơi trao trả.
Tư sai mở cổng thành cho đoàn xe vào. Y mời Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa vào trướng. Hai nàng thi lễ chứ không lạy:
– Công-tôn thái-tử, sư tỷ Vĩnh-Hoa nhờ chúng tôi chuyển thư nầy tới Thái-tử và hộ tống Vương-phi cùng vợ con các tướng giao về Thái-tử.
Một văn thần quát:
– Hai người con gái thật vô lễ. Luật lệ ở đâu cũng vậy, sứ giả phải quỳ gối lạy chúa tướng. Tại sao hai nàng lại đứng mà nói năng vô lễ như vậy. Bộ các ngươi chê gươm Thục không sắc sao?
Quỳnh-Hoa cười khanh khách:
– Trong lịch sử Trung-nguyên chưa từng có việc bắt được của, vợ con bên địch mà sai sứ giả đem trả về cho bao giờ. Sở dĩ sư tỷ sai tôi đem vợ con, của cải các tướng về trả, một là vì sư-tỷ với Thái-tử là bạn tri âm, thì Vương-phi của Thái-tử là chị của sư-tỷ. Con của Thái-tử là cháu của sư-tỷ. Vợ con các tướng thuộc quyền Thái-tử cũng như anh em họ hàng sư-tỷ. Tôi vì sư-tỷ mà đưa đến đây, chứ đâu phải sứ? Trên đời làm gì có ân nhân phải quỳ gối lạy người thọ ân bao giờ? Ngươi thân làm quan văn, mà không thông đạo lý chút nào, làm sao mà thắng Hán được?
Công-tôn Tư chắp tay tạ lỗi:
– Trần cô nương bỏ lỗi cho.
Y bóc thư Vĩnh-Hoa ra định đọc, thì Quỳnh-Hoa bưng đến một cái hộp.
– Sư-tỷ gửi tặng Thái-tử đấy.
Công-tôn Tư mở ra coi, thì thấy một cây đàn cò (nhị). Trên mặt đàn có bút tích Vĩnh-Hoa viết đề tặng. Công-tôn thái-tử ngẩn người ra, không hiểu Vĩnh-Hoa định làm gì. Nàng là người tốt với y, hay kẻ thù? Mới hôm qua cùng nàng hòa nhạc, rồi nàng chỉ huy quân Hán cướp Dương-bình quan, bây giờ nàng trả vợ con, của cải về, rồi sai tặng đàn. Y nói với Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa:
– Xin hai vị cô nương nghĩ lại đây chơi vài ngày, ta sẽ sai người theo hai cô nương về tạ ơn Phùng cô nương.
Vừa lúc đó có quân báo:
– Khải tấu Thái-tử, có Phiêu-kỵ đại tướng quân, Kiến-oai đại tướng quân, Xa-kỵ đại tướng quân tự trói mình xin vào yết kiến Thái-tử.
Công-tôn Tư giật bắn người lên, sai dẫn ba người vào. Ba người đồng quỳ xuống nói:
– Chúng tôi bất tài để mất Nam-bình, Võ-đô và Bình-võ, xin đem thân về chịu quân pháp.
Mặt Công-tôn thái-tử tái mét, đứng lên cởi trói cho ba người, rồi hỏi Nhiệm Mãng:
– Sư-thúc, vì đâu nên nỗi? Quân Hán làm thế nào mà chiếm được Võ-đô dễ dàng như vậy?
Nhiệm Mãng thở dài, thuật lại chi tiết cuộc chiến. Y kết luận:
– Trên đường về đây, tôi nghe tin Nam-bình và Bình-võ đều thất thủ.
Nhiệm Đăng thấy Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa ngồi đó chỉ vào hai nàng:
– Đây chính hai cô nương nầy đánh tôi với Điền sư huynh trọng thương. Còn một cô nữa lớn tuổi hơn, chỉ huy bốn tướng Hán đánh Võ-đô, Lưỡng-hà khẩu, và một lão già bắn tên, kình lực mạnh vô cùng, khiến suýt nữa sư phụ tôi mất mạng ở Hán-thủy.
Triệu Khuôn lắc đầu:
– Sư điệt, ngươi có nhìn lầm chăng? Cách đây hai ngày chính hai vị cô nương nầy dự trận đánh Dương-bình quan, làm sao các cô có thể dự trận Võ-đô? Còn sư tỷ của cô mới hai hôm trước, cùng lên đồi Định-cường tấu nhạc, đánh cờ, rồi trở về đánh trận Dương-bình quan. Còn lão già mập mạp, lão là ông của hai cô nương này, chính lão leo lên cửa Bắc Dương-bình quan vào thành trước. Ta đã đấu với lão hai chưởng, thì làm sao lão có mặt ở Võ-đô được?
Quân-sư Trung-lang tướng Tào Mạnh bảo Triệu Khuôn:
– Xin các vị tướng quân đừng cãi nhau nữa. Phải chính sư-tỷ cô nương nầy, và cả hai cô lẫn ông cô đều dự trận đánh Võ-đô. Nhưng sau khi trận kết thúc, họ phi ngựa về Dương-bình quan ngay, chúng ta tuyệt không ngờ họ đánh cả hai nơi.
Quế-Hoa cười khúc khích:
– Tào quân sư nói đúng mà sai. Nguyên chúng tôi là ba cặp chị em sinh đôi. Chia nhau đánh Võ-đô và Dương-bình quan.
Công-tôn Tư biết hai nàng nói đùa:
– Xin hai cô nương về quán dịch nghỉ ngơi. Sáng mai chúng tôi sẽ đưa hai cô nương về Dương-bình quan.
Tỳ nữ dẫn hai nàng rời đại sảnh, thì một thiếu phụ xinh đẹp đón lại chào hỏi. Quế-Hoa nhận ra nàng là Trần Hương Lan vợ Triệu Khuôn. Nàng niềm nở đón hai nàng:
– Nhờ đại ơn, đại đức của Phùng cô nương, chúng tôi mới được toàn vẹn, nếu không thì đã bị vùi hoa dập liễu với bọn quân Hán vô loại. Hôm nay chúng tôi xin được mời hai vị cô nương dùng bữa cơm lạt.
Hương-Lan dẫn Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa về phủ, tiệc đã bày ra, Hương-Lan tiếp đãi hai nàng cực kỳ cung kính. Đang bữa ăn, Hương-Lan cứ hỏi về tình hình bên Hán. Quỳnh-Hoa đã được Vĩnh-Hoa dặn trước nên Quỳnh-Hoa bảo với Hương-Lan:
– Xin Vương-phi cho tỳ nữ ra ngoài tiểu-muội mới dám nói.
Hương-Lan đưa mắt nhìn, đám tỳ nữ ra ngoài hết Quế-Hoa mới nói:
– Hán có ba đạo đánh vào Ích-châu. Đạo thứ nhất do Đại tư-mã Đặng Vũ chỉ huy. Giờ này đã lấy được Xuyên-khẩu, Bạch-đế, hiện đã tiến tới Lương-bình, Võ-lăng. Đạo thứ hai toàn người Lĩnh Nam, vượt Kim-sơn, chiếm Độ-khẩu, Mễ-dịch, Phổ-khách, Đức-xương, Mỹ-cơ và Việt-tây. Có lẽ giờ này sắp đến Thành-đô. Còn đạo Hán-trung đã lấy Võ-đô, Nam-bình, Bình-võ và Dương-bình quan. Không biết Vương gia sẽ đối phó thế nào?
Hương-Lan thở dài:
– Hai vị cô nương đã dự trận thì thấy. Hoàng-thượng là người nghĩa hiệp, cùng các sư đệ dựng nên nghiệp Đế ở đất Thục. Chiếm Ích-châu, Kinh-châu, Hán-trung và Lũng-tây. Gần đây binh cô, thế kiệt nên chỉ còn Ích-châu. Tướng sĩ Ích-châu trên dưới một lòng, vì vậy đánh quân Hán nhiều trận kinh thiên động địa. Nhưng từ khi anh hùng Lĩnh-Nam xuất hiện, chúng tôi bị thua liên tiếp. Anh hùng Lĩnh Nam là những người nghĩa hiệp, không biết tại sao lại trợ Hán đánh Thục. Đất Thục tuy nhỏ, nhưng chúng tôi thề chiến đấu tới chết, chứ không đầu hàng Hán.
Từ hôm theo quân đến Hán-trung đánh Thục đến giờ, chị em Quế-Hoa được tận mắt thấy binh sĩ Thục chiến đấu dũng cảm. Tướng sĩ Thục trên dưới đối xử với nhau như huynh đệ. Hai nàng tuổi mới 18, không kinh lịch nhiều, không đọc sách nhiều như Phương-Dung, Vĩnh-Hoa, nhưng cứ theo lý tính mà suy nghĩ, hai nàng cảm thấy hình như mình giúp kẻ bất nghĩa, đánh người nghĩa hiệp. Hôm nay nghe Hương-Lan trần tình, hai nàng nín thinh, không biết đáp lại làm sao.
Sau bữa ăn có thị-nữ vào nói lại với Hương-Lan:
– Thưa Vương-phi, Vương-gia truyền Vương-phi cho phép Vương-gia được tiếp chuyện với hai cô nương Lĩnh-Nam.
Quế-Hoa gật đầu:
– Chúng tôi sẵn sàng tiếp đón Vương-gia.
Một lát sau Triệu Khuôn bước vào, y dẫn theo hai người nữa. Triệu Khuôn chỉ vào người thứ nhất giới thiệu:
– Đây là Tam sư huynh của chúng tôi, họ Công-tôn tên Thiệu, hiện lĩnh chức Trường-sa vương.
Quế-Hoa nói:
– Tôi nghe Phùng sư-tỷ nói rằng Vương-gia trấn thủ Xuyên-khẩu chống lại Đặng Vũ, sao… lại có mặt ở đây?
Công-tôn Thiệu buồn rầu:
– Tôi bất tài bị Trưng cô nương đánh cho thua hai trận, mất thành Bạch-đế, Xuyên-khẩu, còn bị bắt làm tù binh. Thế rồi… trong khi bị tù, tôi tỏ ý chí cương quyết không chịu khuất phục. Tôi được sáu thiếu niên đại nhân, đại nghĩa thả ra.
Quỳnh-Hoa biết là Lục Sún, nói:
– Là Lục Sún phải không?
Công-tôn Thiệu chỉ biết tên Thiên-ưng Tây-vu Lục tướng, chứ không biết cái tên đặc biệt này, bèn trả lời:
– Không trong sáu người, không có người nào Sún cã. Họ điều khiển Thần-ưng đánh thủy quân Xuyên-khẩu, đốt thành Bạch-đế.
Quế-Hoa bật cười:
– Vương-gia không biết đấy thôi, chúng có tên hiệu là Thiên-ưng Tây-vu Lục tướng. Song hồi nhỏ chúng nó đều bị sún răng, nên sư-tỷ Hồ Đề gọi chúng là Lục Sún. Đó là Sún Lé, Sún Cao, Sún Rỗ, Sún Hô, Sún Đen và Sún Lùn. Không biết chừng chúng thả Vương-gia ra là do ý chúng hay do lệnh sư tỷ Trưng Nhị.
Công-tôn Thiệu tường thuật chi tiết cuộc đối thoại, lý luận với các Sún, củng như việc yêu cầu viết thư cho Đặng Thi-Sách. Cuối cùng các Sún đem búa, cưa cho y cắt xích vượt ngục.
Công-tôn Thiệu kết luận:
– Trước khi từ biệt, Sún Lé tỏ ý buồn rầu, an ủi tôi như một người lớn: Chúng cháu thấy các sư-thúc, sư-bá, sư huynh phái Thiên-sơn là những anh hùng hào kiệt, giống như anh hùng Lĩnh Nam chúng cháu. Sư tỷ cháu vì muốn phục hồi Lĩnh Nam mà đem chúng cháu đi đánh Thục. Chúng cháu tuy lập được nhiều công, mà cảm thấy như mình mang tội lỗi, vì vậy chúng cháu lén thả sư thúc ra. Sún Lé còn cho tôi một cặp Thần-ưng để liên lạc với nó. Tôi khâm phục Lục Sún nghĩa hiệp, bí mật về đây yết kiến Thái-tử, trình bày tự sự, lại nhận được nghĩa cử của Đăng-châu nữ hiệp.
Công-tôn Thiệu đưa thư của Đặng Thi-Sách cho Quế-Hoa đọc.
Triệu Khuôn thở dài:
– Tiếc rằng trong đại-hội, anh hùng Lĩnh Nam quyết định đem quân trợ Hán đánh Thục, đại-ca Đặng Thi Sách không tham dự, nên giữa anh hùng Lĩnh Nam với chúng tôi là đồng đạo, lại không giúp được nhau, hơn nữa thành thế đối nghịch.
Quỳnh-Hoa ngơ ngẩn xuất thần vì câu nói của Triệu Khuôn. Triệu Khuôn chỉ một người cùng đi nói:
– Đây là đại ca của chúng tôi, đứng đầu Thiên-sơn thất hùng, họ Công-tôn tên Thuật, hiện là Hoàng-đế đất Thục. Chúng tôi tới đây tương hội với cô nương không phải giữa một vị Hoàng-đế với sứ giả, mà giữa đồ tôn của Thiên-sơn lão tiên với đồ tôn của Khất đại-phu lão tiên. So vai vế thì hai vị cô nương ngang vai với chúng tôi. Xin hai vị cô nương dạy cho một lời.
Quế-Hoa biết ý Triệu Khuôn muốn nàng hứa giúp Thục đánh Hán, nàng bật người dậy trả lời:
– Tôi còn nhỏ tuổi kiến thức, võ công đều tầm thường không có quyền quyết định gì. Các vị cho người liên lạc với ông tôi hoặc các sư-tỷ Phương-Dung, Trưng Nhị, Vĩnh-Hoa mới có thể giải quyết được mọi chuyện. Hoặc cho người đến đạo Lĩnh Nam yết kiến sư tỷ Trưng Trắc. Sư tỷ là phu nhân của đại ca Đặng Thi Sách. Sư tỷ với Đào-hầu là hai người lãnh đạo đất Lĩnh Nam.
Công-tôn Thiệu nói:
– Thư của sư đệ Thi Sách viết cho tôi nói rằng Trưng Trắc đã lên đường cùng với Đinh-hầu. Không biết hai người này có toàn quyền không?
Quỳnh-Hoa nói:
– So vai vế, thì ông tôi cao nhất. So về đạo đức thì cô tôi là Nam-hải nữ-hiệp có địa vị lớn nhất. Song Đào-hầu, sư-tỷ Trưng Trắc coi như Hoàng-đế Lĩnh Nam vậy. Ai cũng nghe theo, Đinh-hầu là em vợ, là sư đệ Đào-hầu, hai người cùng là một.
Công-tôn Thuật nói:
– Cuộc họp hôm nay rất cơ mật. Cô nương về chỉ nên nói với ông ngoại hoặc Phùng cô nương là đủ rồi.
Sáng hôm sau Công-tôn Thuật trở về Thành-đô. Công-tôn Tư sai sứ giả theo Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa về Dương-bình quan tạ ơn Phùng Vĩnh-Hoa về việc thả vợ con tướng sĩ Thục.
Viên sứ giả vào trướng làm lễ với Vĩnh-Hoa, trình thư và quà lên.
Vĩnh-Hoa hỏi;
– Nhà ngươi có phải là người trung tín của Thái-tử không? Ngươi tên gì? Hiện giữ chức gì?
Viên văn quan đáp:
– Tiểu nhân là Thái-giám hầu hạ Thái-tử. Tiểu-nhân tên Nhật-Thanh.
Vĩnh-Hoa tặng cho Nhật-Thanh một chuỗi ngọc, nàng nói:
– Ta dặn câu nào ngươi phải nhớ câu đó nghe. Ngươi nói với Thái-tử rằng, khi Thái-tử gặp điều bất như ý, ta sẵn sàng trợ giúp. Ta với Thái-tử là tri âm của nhau. Thái-tử gặp hoạn nạn, thì cũng chính là hoạn nạn của ta vậy.
Đoạn nàng mở thư ra đọc:
Đệ-tử phái Thiên-sơn là Công-tôn Tư thư cho Đăng-châu nữ-hiệp Phùng Vĩnh-Hoa cô nương.
Phùng cô nương là trang quốc sắc Lĩnh Nam, văn võ toàn tài. Lĩnh quân-sư, nhưng lại không coi tên nhà quê như tôi là kẻ thù. Trước ba quân cùng tôi hợp tấu, rồi lại hẹn cùng tôi lên đồi Định-cường uống rượu, đánh cờ, tấu nhạc. Nghĩ thực không khác gì lên tiên. Sau trận Dương-bình quan, vợ con, tài sản của tôi và chư tướng được cô nương trả về an toàn. Ơn này nguyện báo đáp. Tuy nhiên hiện nay tôi đang bị nhiều mối lo, nguy nan đến trong sớm tối. Hôm ở trên đồi Định-cường tôi đã yêu cầu cô nương giúp cho một việc lớn. Nếu việc này thành, đất Ích-châu vĩnh viễn trong tay tôi, nguyện không bao giờ quên ơn. Thư ngắn nói không hết lời, mong cô nương đừng quên là được.
Các chi tiết khác, hai vị Trần cô nương sẽ thưa lại sau.
Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa thuật lại tỷ mỷ những gì anh hùng Thiên-sơn, nói với hai nàng.

Truyện Q2 - Động Đình Hồ Ngoại Sử Hồi 1 Hồi 2 Hồi 3ùng chớ đuổi. Bây giờ tôi phải làm cho Nhiệm Mãng mất tinh thần đã, sau mới làm tan quân của y được. Vậy Chinh-tây Phùng tướng quân thủ ở Lưỡng-hà khẩu thay cho sư bá Cao Cảnh Minh. Tại đây có một vạn bộ binh Hán và hơn năm ngàn hàng binh thủy quân Thục. Phùng tướng quân cho chiến thuyền tuần tiễu dọc từ Lưỡng-hà khẩu tới Lâm-giang, ngăn đường giặc qua sông. Tuyệt đối không được lên bờ giao chiến.
Phùng Dị lên đường liền. Vĩnh Hoa tiếp:
– Hoành-giả Vương tướng quân lĩnh một vạn quân bộ, năm ngàn quân kị ra đóng ở đồn Lâm-giang, không cho giặc trở về Dương-bình quan. Tuyệt đối không rời khỏi trại.
Vương Thường lãnh lệnh lên đường. Vĩnh Hoa tiếp:
– Trung-lang tướng Lai Háp trấn thủ Võ-đô, giữ vững thành. Tôi để lại cho một vạn quân, như vậy đủ không?
Lai Háp gật đầu:
– Nếu trong một tháng tôi giữ được. Quá một tháng thì không nổi.
Vĩnh Hoa gật đầu:
– Tôi chỉ cần một ngày thôi.
Nàng tiếp:
– Tiền-quân hiệu-úy Chu Á Dũng dẫn một vạn quân bộ, phục ở phía Nam sông Hán-thủy. Thấy Nhiệm Mãng đến đó thì đổ ra đánh ngay trước mặt, không cho chúng về Dương-bình quan. Xin Cao Cảnh Minh sư bá đi cùng với Chu tướng quân. Vì e Nhiệm Mãng xuất hiện, Chu tướng quân không phải địch thủ của y.
Nàng đứng lên nói với Khất đại-phu:
– Thái sư thúc cùng Quế Hoa, Quỳnh Hoa và cháu đi bắt Nhiệm Mãng.
Nàng gọi Hắc Hổ và Hắc Báo tướng lại dặn nhỏ mấy câu. Hai người vâng dạ, gật đầu đi liền.
Vĩnh Hoa cùng Khất đại-phu đi thẳng đến Vọng-tử quan. Binh Thục đang trên đường đến Hán-thủy. Nhiệm Mãng đi đầu, thấy Vĩnh Hoa chỉ có bốn người với mười quân kị, y cho quân dừng lại. Điền Nhung chỉ Quế Hoa, Quỳnh Hoa cho Nhiệm Mãng biết.
Quế Hoa, Quỳnh Hoa phi ngựa lên trước. Quỳnh Hoa nghiêng mình thi lễ:
– Tiểu nữ là Trần Quỳnh Hoa, gái Việt đất Lĩnh Nam xin vấn an Phiêu-kị đại tướng quân, Kiến-oai đại tướng quân, Xa-kị đại tướng quân. Hôm nay ra trận, vì việc nước chúng tôi phải qua lại mấy chiêu với các vị, thực rất lấy làm áy náy. Tuy được các vị nhẹ tay cho, tôi thấy các vị có khí phách anh hùng, vì vậy đến đây tạ lỗi.
--!!tach_noi_dung!!--

Đánh máy : CDDLT
Nguồn: CDDLT
Được bạn: NHDT đưa lên
vào ngày: 29 tháng 12 năm 2004

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--