Ngày Tết, người ta thường đến thăm nhau, chúc tụng nhau với cái bắt tay nồng nhiệt. Đấy là một cử chỉ thân thiện. Tôi cũng đến với bạn đây. Và sau lời chúc bạn một năm mới an khang thịnh vượng, tôi cũng tin cậy trao cho bàn bàn tay thân thiện của tôi. Đó là 5 bài thơ lục bát mà tôi rất đỗi yêu mến này. Nó là 5 ngón tay trên một bàn tay. ở đây, tôi không làm cái việc lẩn thẩn là đo đếm độ dài ngắn. Tôi chỉ biết đây là 5 ngón tay trên một bàn tay. Bởi vậy mới là 5. Chỉ 5 thôi, không thể 4, 3 hay 6. Ngày Tết, tin cậy và yêu mến nhau, không lẽ tôi lại trao cho bạn một bàn tay dị dạng.Nhưng tại sao tôi không chọn 5 bài ở các thể thơ khác nhau cho đa dạng, đỡ nhàm tẻ, mà lại cứ phải lục bát? Muốn bảo vệ thể thơ dân tộc này ư? Không! Lục bát chẳng cần tôi bảo vệ, lưu giữ, nó vẫn trường tồn. Còn dân tộc - thì đâu cứ phải lục bát mới dân tộc? Có khi thơ viết theo thể lục bát - một thể thơ thuần túy dân tộc mà vẫn cứ lai căng, chẳng dân tộc tí nào. Nhưng thôi, chuyện đó ta sẽ bàn vào một dịp khác. Tôi chọn lục bát, vì nó thân thuộc, gần gũi với người Việt ta. Nói như nhà thơ Nguyễn Đình Thi, lục bát là hơi thở của người Việt. Nó tự nhiên như hơi thở con người, bởi thế câu thơ mới so le, dài ngắn không đều. Hít vào thì ngắn. Thở ra thì dài. Lục bát là cái nhịp hít vào, thở ra ấy. Chả biết có đúng không? Bởi nghĩ đi thì thế, nghĩ lại thì chả cứ gì người Việt Nam ta, mà người da trắng ở Airơlen, người da đen ở Công-gô, cũng hít vào thì ngắn, thở ra thì dài như mình, nhưng sao họ không có thơ lục bát, âu cũng là cái bí hiểm của thi ca, phải bàn vào lúc khác thôi. Đây là một thể thơ thông dụng, rất đễ viết, ai cũng có thể viết được, kể cả những người ít học, thậm chí nhiều bà con không biết chữ cũng có thể làm được lục bát. Nhưng viết lục bát cho hay thì lại khó vô cùng. Sau kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, với lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu, những tưởng lục bát đã khép lại, không ai còn dám bén mảng đến chân cái toà lâu đài châu ngọc mà nội thất toàn gâm thêu ấy nữa. Nhưng đâu có phải. Nó còn mở bao nhiêu cánh cửa, hướng ra cõi vô biên. Lục bát còn thử thách bút lực các thi sĩ. Nói một cách thông thái như nhà văn Nguyễn Tuân: Anh là nhà thơ việt Nam ư? Vậy anh hãy chiềng ra cho tôi mấy câu lục bát của anh, tôi sẽ nói ngay anh là hạng thi sĩ thế nào? 1 QUÊ HƯƠNG VIệT NAMNguyễn Đình Thi là một nghệ sĩ và là một nhà văn hoá lớn. Nói như nhà văn Kim Lân, đó là người mà cái tài thì đàn ông ghen, cái tình thì đàn bà ghen. Một người như thế, sống được, kể cũng vất vả. Nguyễn Đình Thi là người đa tài, ông viết văn, soạn kịch, làm thơ, viết nhạc, làm lý luận. ở lĩnh vực nào, ông cũng có thành tựu, góp phần quan trọng vào quá trình phát triển của từng thể loại đó. Nhưng cũng bởi sự đa tài này mà rồi chính ông lại tự che khuất ông. Khi cần ngắm ông ở thể loại này, lại thấy ông lấp lánh sáng ở thể loại khác. Cũng vì thế, có nhà phê bình nghiên cứu, chẳng biết xếp ông vào đâu, ở thể loại nào, ông cũng có đóng góp, nhưng rồi ngay trong chính thể loại ấy người ta cũng thấy ông khiêm nhường đứng khuất sau những bóng dáng khác.Riêng ở lĩnh vực văn chương, ông là một thái cực của Nguyễn Tuân và Tô Hoài, Trong lúc Nguyên Tuân gò lưng luyện chữ, sáng tạo chữ, muốn đưa ra những con chữ tưởng như hoàn toàn mới, thì Nguyễn Đình Thi lại cố gắng xoá hết những chữ mới đi, để trang văn phẳng lì, không còn cợn lên một chữ nào nữa. Bởi thế ông thường chọn những chữ mòn nhẵn, bạc phếch, mang tính khái niệm, những con chữ mà các thi sĩ khác vứt bỏ, vì sợ không dám dùng, nó như những thửa ruộng bạc màu, hoang hoá, không có dấu hiệu hứa hẹn mùa màng. Nguyễn Đình Thi lại chọn chất liệu ấy để tạo dựng tác phẩm, ông muốn bạn đọc đến với ông một cách tự nhiên thoải mái. Chân cứ thung thăng bước mà không sợ bị vướng vào câu, tay cứ tự do vung mà không ngại bị va phải chữ, để đến nhanh hơn cái đích mà ông muốn gửi gắm, chuyển tải. Mọi cố gắng của Nguyễn Đình Thi là để làm một nhà văn không có chữ. Đây dường như là một chủ định của ông. Một người nước ngoài, học tiếng Việt, chỉ cần biết dăm, bảy trăm tiếng là đã có thể đọc được toàn bộ thơ văn Nguyễn Đình Thi. Cái hay của thơ Nguyễn Đình Thi không nằm ở chữ. Nó là cái hồn phảng phất ở đằng sau những con chữ bạc phếch kia. Bởi thế phân tích thơ ông mà lại mang câu, chữ ra mổ xẻ là một việc làm không phải, ông bộc lộ tài năng mình rực sáng hơn cả là ở trong thơ ca. Tuy vậy, thành tựu của thơ ông lại không nằm ở thể lục bát: Việt Nam đất nước ta ơiMênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơnCánh cò bay lả rập rờnMây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều Quê huơng biết mấy thân yêuBao nhiêu đời đã chịu nhiều thương đauMặt người vất vả in sâuGái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn Đất nghèo nuôi những anh hùngChìm trong máu lửa lại vùng đứng lênĐạp quân thù xuống đất đenSúng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa Việt Nam đất nắng chan hoàHoa thơm quả ngọt bốn mùa trời xanhMắt đen cô gái long lanhYêu ai yêu trọn tâm tình thuỷ chung Đất trăm nghề của trăm vùngKhách phương xa tới lạ lùng tìm emTay người như có phép tiênTrên tre lá cõng dệt nghìn bài thơ Nước bâng khuâng những bên đòĐêm đêm còn vọng câu hò Trương ChiĐói nghèo nên phải chia lyXót xa lòng kẻ rời quê lên đường Ta đi ta nhớ núi rừngTa đi ta nhớ dòng sông vỗ bờNhớ đồng ruộng, nhớ khoai ngôBát cơm rau muống quả cà giòn tan... II. NHớBằng Việt đến với chúng ta từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Anh nổi tiếng ngay từ những bài thơ đầu tiên: Bếp lửa, Về hoả tuyến thăm con. Thông thường mỗi nhà thơ trẻ xuất hiện, bao giờ cũng có đằng sau một thi sĩ lớn, một nhà phê bình lớn đi kèm, Xuân Diệu có Thế Lữ, Nguyễn Duy có Hoài Thanh, Thanh Thảo có Chế Lan Viên, Phạm Tiến Duật và tôi có Xuân Diệu. Bằng Việt chẳng có ai. Anh cũng chẳng có giải thưởng văn học nào để đảm bảo. Anh là một ca tương đối đặc biệt. Giữa những năm chống Mỹ, với bầu không khí ồn ào súng đạn, khói lửa, Bằng Việt mang đến cho thơ một khoảng tĩnh mịch, thanh vắng của một tu viện. Chính cái vẻ thanh vắng, tĩnh lặng này đã cho anh một vị trí trong văn đàn. Đọc anh, tôi cứ hình dung một chàng trai sinh viên cố đô, trắng trẻo đến xanh xao, suốt ngày ngồi trong phòng kín, bao quanh là bốn bức tường sách vở âu, á.Cuộc sống phải xuyên qua bốn bức tường sách vở ấy mới đến được với anh. Và rồi, anh đi giữa hè đường bụi bặm hay giữa nghị trường trang nghiêm, vẫn với gương mặt ngơ ngác xanh xao của sách vở. Đây là chân dung Bằng Việt do chính anh tự hoạ: Từ ánh nê-ông xanh biếc buổi chiềuĐến hơi mưa trong khóm hoa màu tímGáy sách cũ xếp chồng như kỷ niệmLá thiếp mừng đám cưới mát trên tay Thật nhàn tản, đài các và vui vẻ. Thơ Bằng Việt mang cái dáng vẻ nhàn tản, đài các này. Nó là một dạng thơ thính phòng. Bài Nhớ mà bạn đọc dưới đây cũng là một bài thơ như thế. Mặc dù, bài thơ này Bằng Việt viết trong những năm bom đạn ác liệt lại viết ngay giữa chiến trường khói lửa nóng bỏng. Thơ cũng có đạn bom, sốt rét, cũng mái lán của lmh lợp bằng lá gồi, cũng rừng già với đá núi, những chất liệu bề bộn của đời sống chiến trường, mà rồi vẫn tịch mịch, tĩnh lặng và nhàn tản. Toàn bộ thơ Bằng Việt có lẽ là như vậy. Chả thế mà một thi sĩ trẻ, khi đọc xong tuyển tập Phía nửa mặt trăng chìm chắt lọc trong cả đời thơ của anh, đã xếp anh, cùng với văn chương Đỗ Chu sang phía... Tác phẩm tuổi xanh. Giữ được vẻ thanh xuân của văn chương khi tuổi đã xế bóng ư? Tôi nghĩ đấy đâu phải là một lời chê khéo... Lá gồi lợp kín ba gianRừng sâu, những buổi chiều càng lắng sâuUớc gì cơn sốt qua mauĐể ngồi yên được lâu lâu cùng chiều Cây cao chi đọng nắng nhiềuEm xa chi, nặng lòng yêu thế nàyNgỡ như cách mây tầm tayMà ra thành mấy ngàn ngày đạn bom Ngược xuôi đá núi đã m ònChút phân vân tuổi trăng tròn đã quaEm như một bóng cửa nhàSau gian lao đủ ngỡ là bình yên Em như đốm lửa ưu phiềnBiết lo toan để nối liền ngày vuiEm như lớp lóp sóng dồiĐắng cay đọng lại ngọt bùi theo đi... III. Bờ SÔNG VẫN GIó Sau Chầm chậm tới mình(°), Trúc Thông bắt đầu chạy Maratông(°). Có lẽ do mặc cảm, lại lo ngại đường xa, nên anh chạy quá nhanh. Nhanh đến mức tất cả thành loà nhoà. Anh chẳng còn nhìn thấy ai, và cũng chẳng để cho ai nhìn rõ anh. Có điều cái đích mà anh cần tới lại nằm xa dần ở phía... sau lưng: Bờ sông vẫn gió... ấy là nơi mẹ anh vẫn thường đi về. Bây giờ, bờ sông vẫn gió, nghĩa là cảnh vật vẫn thế, chỉ vắng mẹ thôi. Vốn là người con hiếu thảo, nhớ thương mẹ, Trúc Thông trở về, đi thập thững trên con đường xưa mẹ đi, anh quên mất mình là nhà cách tân. Và vì thế. anh đã cho chúng ta một bài thơ khá hay. Đây là bài thơ hay nhất trong đời Trúc Thông. Và bài thơ lại viết theo lối cổ điển, chả cách... một tý nào. Lời chắt. ý sâu. Câu chữ như rút ruột mà thành. Bài thơ vừa ra đời, bạn đọc đã đón nhận nồng nhiệt. Và ngay lập tức, người ta sẵn sàng quên đi những chỗ còn khiếm khuyết của nó, và đồng thời cũng quên luôn cả những bài thơ được gọi là cách tân của anh. Bờ SÔNG VẫN GIóChị em con kính dâng hương hồn mẹ Lá ngô lay ở bờ sôngbờ sông vẫn gió, người không thấy vềxin người hãy trở về quê một lần cuối... một lần về cuối thôivề thương lại bến sông trôivề buồn lại đã một đời tóc xanhlệ xin giọt cuối để dànhtrên phần mộ mẹ nương hình bóng chacây cau cũ, giại (°°) hiên nhàcòn nghe gió thổi sông xa một lầncon xin ngắn lại đường gầnmột lần... rồi mẹ hãy dần dần đi... (°) Tên hai tập thơ của Trúc Thông(°°) Giại: cái giại, một thứ như bình phong đan bằng tre dựng trước hiên nhà ở những vùng quê Bắc Bộ. Iv. LờI THề Cỏ MAYGiữa lúc người ta xuôi về thành phố, thì Phạm Công Trứ lại ngược ra ngoại ô, trở về làng quê, và rồi anh cứ đi mãi, đi hút mãi về xứ dân gian, ở đó anh gặp Nguyễn Bính, và ngay lập tức, anh đã bị ông thi sĩ đồng hương này bắt mất hồn! Bởi vậy, có một nhà thơ ở bậc đàn anh, đọc xong Trứ bảo: Đời đã có một Nguyễn Bính rồi. Có nên cần thêm một Nguyễn Bính hạng hai, hạng ba nữa không? Nói thế thì oan cho Trứ quá. Anh đâu phải Nguyễn Bính. Dù có khoác tấm áo the, có đội cái khăn xếp xưa của Nguyễn Bính cũng đâu đã phải là Nguyễn Bính. Hãy xem cô gái nhà quê ra tỉnh này về thì rõ. Cái áo chẽn, cái quần bò đã khác xa cái áo the quần lĩnh cổ cài khuy bấm ngày xưa, chí ít cũng là sự khác biệt về mốt trang phục của thiếu nữ ở hai thời.Dẫu khác thế, người đọc Phạm Công Trứ vẫn cứ nhớ đến Nguyễn Bính. Giá không có Nguyễn Bính, có lẽ Phạm Công Trứ đã có một cái chiếu trải giữa làng văn rồi. Nhưng cái chiếu Trứ đang ngồi vào hiện nay, Nguyễn Bính đã ngả bóng mình xuống đó cách đây nửa thế kỷ. Bởi thế, thơ Trứ có chỗ quả cũng cớm nắng, xanh xao. Thiết tưởng, Trứ cũng có thể bắt chước người xưa, ngửa mặt lên trời mà than rằng: Trời đã sinh ra Trứ, sao trước đó còn sinh ra Bính?Làm sao quên được tuổi thơTuổi vàng, tuổi ngọc - Tôi ngờ lời aiThủa ấy tôi mới lên mườiCòn em lên bảy theo tôi cả ngàyQuần em dệt kín bông mayáo tôi đứt cúc mực dây tím bầmTuổi thơ chân đất, đầu trầnTừ trong lâm láp, em thầm lớn lênBây giờ xinh đẹp là emEm ra thành phố dần quên một thờiVề quê ăn tết vừa rồiEm tôi áo chẽn, em tôi quần bòGặp tôi, em hỏi hững hờAnh không lấy vợ, còn chờ đợi ai?Em đi để lại chuỗi cườiTrong tôi vỡ một khoảng trời pha lêTrăng vàng đêm ấy bờ đêCó người ngồi gỡ lời thề cỏ may V. CHợ BUồNĐồng Đức Bốn đã là tác giả của hai tập thơ dày dặn mà trong đó phần lớn là thơ lục bát. Dường như lục bát là thể thơ sở trường của anh. Anh viết rất nhuần nhuyễn, điêu luyện. Nếu ví thi sĩ như một người thợ kim hoàn mà bậc cao nhất là 7/7, thì Đồng Đức Bốn là ông thợ vàng có tay nghề ở bậc 9/7. Giời hảo tâm, phóng khoáng trao cho anh đôi tay lão luyện nhà nghề, nhưng lại hại anh, chẳng cho anh một chút nguyên liệu vàng nào. Đi vào thế giới thơ anh, tôi có cảm giác bước vào một toà lâu đài sáng choang những vàng thoi, vàng nén, nhìn chỗ nào cũng óng ánh cả, ánh vàng ấy có thể làm loá mắt, choáng ngợp nhiều người, Nhưng nếu cứ bình tĩnh, nhắm mắt lại mà nhìn, và lấy đầu bút khẽ gõ vào toà lâu đài của anh thì thấy chúng không phát ra những âm thanh của kim ngân. Hoá ra đó là thứ vàng mạ. Anh mang đồng, chì, kẽm, và đôi khi, anh vác cả đất sét ra để mạ vàng. Tuy nhiên, mạ được vàng những thứ ấy, đâu phải là dễ. Chợ buồn đem bán nhưng vuiĐã mua được cái ngậm ngùi chưa em Chợ buồn bán nhớ cho quênBán mưa cho nắng, bán đêm cho ngày Chợ buồn bán tỉnh cho sayBán thương suốt một đời này cho yêu Tôi giờ xa cách bao nhiêuĐem thơ đổi lấy những chiều tương tư... Đến đây, chắc có bạn hỏi: Vì sao trong thơ lục bát Việt Nam, tôi lại chọn 5 bài thơ này? Cũng như 5 ngón tay trên một bàn tay, mỗi người sẽ có một cách giâi thích khác nhau, Vì thế, mới sinh ra khoa bói tay. Chỉ có điều, tôi rất yêu bàn tay của mình. Và bạn ngắm lại xem, có thể cũng chính là bàn tay của bạn đấy. Còn nếu muốn ư? Tôi muốn các ngón tay đều thon thả búp măng, in những đường vân dành cho các đấng vua chúa... Tết 1996