Củng đạo nhân, không có tên tự, cũng không biết là người ở đâu, có lần đến xin ra mắt Lỗ vương, nhưng người canh cổng không cho vào. Có người thân tín trong vương phủ đi ra, đạo nhân vái chào và ngỏ ý muốn. Thân tín thấy ông xấu xa bẩn thỉu, lại xua đuổi thêm. Ông đi rồi trở lại. Thân tín nổi giận sai thủ hạ vừa đuổi vừa đánh. Đến chỗ vắng vẻ không ai, đạo nhân cười và đưa ra cho trăm lượng vàng, nhờ kẻ đuổi theo nói hộ với vị thân tín kia rằng: - Bản tâm ta không cần giáp mặt vương đâu, chỉ nghe tiếng vườn hoa sau vương phủ có cây cối lâu đài, đẹp nhất thế gian, nếu sẵn lòng dẫn ta đi xem một phen là đủ mãn nguyện. Nói xong lại móc tiền bạc ra đút lót người đuổi theo mình. Anh này thấy tiền mừng rỡ, quay về thưa lại thân tín. Thân tín cũng mừng, liền dẫn đạo nhân vào cửa sau, xem đủ mọi cảnh, rồi bước lên lầu. Thân tín đang đứng dựa bên cửa sổ, đạo nhân xô một cái, tự nhiên thấy mình té xuống bên ngoài, may có dây leo vướng bụng, thành ra treo tòn teng lơ lửng giữa trời. Ngó xuống thấy sâu thăm thẳm mà nghe dây leo kêu rắc rắc, dường như sắp đứt, sợ hoảng hồn xám mặt, thân tín kêu la vang trời. Mấy tên thái giám chạy đến, trông thấy cũng sợ khiếp đảm, vì nhắm thân tín thấy cách xa mặt đất cao quá. Họ chạy tuốt lên lầu cùng xem, thì ra đầu dây cột vào bao lơn, muốn cởi ra để cứu nhưng thấy dây leo vấn vít cả nùi, nhắm bề không thể dùng sức mà tháo gỡ nổi. Đi tìm đạo nhân thì đạo nhân đã biệt tăm dạng, họ nghĩ bó tay hết kế, bèn chạy tâu cho Lỗ vương hay. Lỗ vương đến mục kích lấy làm lạ, đành sai lính tráng rải cỏ khô và bông gòn dưới đất, rồi sẽ chặt đứt dây leo cho thân tín rớt xuống khỏi bể đầu nhừ xương. Công việc dự bị vừa xong, thì dây leo tự đứt mà chỉ cách mặt đất không đầy một thước thôi, ai nấy cùng tức cười. Xong đó Lỗ vương sai người đi tìm xem đạo sĩ ở đâu. Nghe tin ông ở đậu nhà thầy tú tài họ Thượng, lính đến đó hỏi, thì ông đi ngao du chưa về. Họ thất vọng, bảo nhau trở về, may gặp ông ở giữa đường, liền dẫn tới trước mặt Vương. Vương mời ngồi ăn tiệc, và yêu cầu đạo sĩ làm trò lạ cho xem. Đạo sĩ thưa: - Thần là người quê mùa, chẳng có tài giỏi chi, nay ngài thương đến mà sai bảo, vậy xin dâng nữ nhạc để chúc thọ ngài. Nói đoạn, mò trong tay áo ra một mĩ nhân đặt xuống đất; nàng cúi đầu chào vương rồi đạo sĩ sai diễn tuồng Dao Trì tứ yến, chúc vương muôn năm. Nàng vừa ra sân khấu hát mấy câu, đạo sĩ lại thò vào tay áo lấy ra một người nữa, tự bạch là Tây Vương Mẫu. Giây lát nào Đổng Tiên Nga, nào Hứa Phi Quýnh, cả đám tiên cô trên trời, lần lượt xuất hiện. Sau hết tới Chức Nữ ra trò, hiến Lỗ vương một bộ áo trên trời, màu vàng rực rỡ, chói rạng khắp nhà. Lỗ vương nghĩ là đồ giả, đòi xem tận nơi. Đạo sĩ vội vàng cản ngăn, nói rằng không nên. Vương không nghe, cứ việc lấy xem, quả nhiên áo trời liền lạc một mảnh, không có đường may nào hết, thật sức người không sao làm đặng. Đạo sĩ không vui, nói: - Thần hết lòng tôn kính đại vương cho nên mượn bộ áo trời của Thiên tôn đem xuống, nay bị trọc khí nhuốm vào rồi, làm sao trả lại nguyên chủ được đây? Lỗ vương lại nghĩ những nàng ca hát, tất đều là tiên cô, cho nên muốn giữ lại vài cô, nhưng khi nhìn kĩ, thì không ai khác hơn là con hát thường ngày trong phủ mình. Vương xoay ra ngờ khúc hát họ chưa từng học qua sao mà hát được? Hỏi ra chính họ mù mịt chẳng biết tại sao. Đạo sĩ lấy bộ áo trời châm lửa mà đốt, rồi mới bỏ vào trong tay áo mình. Mới đó mà người ta khám xét, chẳng thấy dấu tích gì cả mới kì. Từ đó, Vương rất trọng đạo sĩ, giữ ở trong phủ. Nhưng đạo sĩ từ chối, lấy cớ mình quen tính bình dân, ở cung điện xem như ở trong lồng chậu, không bằng ở nhà thầy tú tài quen, được tự do hơn. Thế rồi ban ngày vô phủ Lỗ vương, nhưng thế nào tối cũng về nhà Thượng tú tài. Có lần Vương nài ép lắm thì cũng ngủ lại trong phủ. Mỗi khi giữa yến tiệc thường đảo lộn hoa cỏ bốn mùa để làm trò chơi. Vương hỏi: - Ta nghe nói người tiên cũng chẳng khỏi động tình thích gái, có quả thế chăng? Đạo sĩ đáp: - Không chừng người tiên mới thế, còn tôi không phải người tiên, cho nên lòng như cây khô héo vậy. Một đêm, ông ngủ lại trong phủ, Vương sai một ả đào non đến rình xem. Nàng vào phòng, kêu mấy tiếng không nghe thưa, thắp đèn soi thấy đạo sĩ nhắm mắt ngồi trên giường. Lay gọi, ông hé mắt một chút lại nhắm nghiền lại. Lay gọi nữa thì tiếng ngáy khò khò. Xô đẩy thì liền thấy ngã lăn xuống giường mà vẫn ngủ say và ngáy vang như sấm. Gõ trên trán, chỉ thấy ngón tay mình đau như gõ vào nồi gang hũ sắt vậy. Nàng trở về phục mạng, kể rõ tình đầu cho Vương nghe. Vương sai lấy kim mà đâm. Kim đâm không vào. Người ta cố sức xô đẩy, thấy nặng không thể lung lay. Thêm mười mấy người nữa, xúm nhau khiêng ông quăng xuống chân giường, nghe có tiếng nặng trịch như tảng đá ngàn cân rơi huỵch xuống đất vậy. Sáng ngày đến dòm, ông vẫn ngủ nguyên dưới đất. Tỉnh dậy cười và nói: - Một giấc ngủ say, rơi xuống chân giường mà không biết. Lần khác, Vương sai lũ con gái trẻ măng sắc đẹp, nhè lúc nằm ngồi, đến bên véo thịt ông làm vui. Nhưng bận đầu véo còn thấy thịt mềm, qua bận sau đã cứng như sắt đá rồi. Đạo sĩ ở nhà Thượng tú tài, thường khi suốt đêm không thấy về, tú tài khoá cửa đi ngủ, tới sáng đã tháy ông ng lại nhà tôi chơi đi. Từ lúc cô bỏ đi, cô chủ nhà tôi rầu rĩ mong đợi muốn chết. Phong nói: - Chính ta cũng nhớ cô mày đáo để, nhưng ta không muốn để cho người nhà biết, vậy mi về trước mở sẳn cửa vườn, tự ta đến. Con hầu về nói chuyện cho cô Mười Một biết, cô mừng quá giục nó đi mở cửa vườn, té ra nó chưa kịp đi đã thấy Phong vào trong vường lúc nào rồi. Hai người tay bắt mặt mừng, cùng kể lể lòng thương nỗi nhớ, hết chuyện nọ qua chuyện kia liên miên không ngủ. Phong dòm thấy con hầu đã ngủ say rồi, bèn trỗi dậy đến nằm chung gối với cô Mười Một, tỉ tê nói nhỏ: - Chị vốn biệt em chưa nhận lời ưng thuận đám nào, con người tài sắc dòng dõi như em lo gì chẳng lấy được một người chồng sang trọng. Như lũ công tử bột không thèm kể, nếu em muốn được một người chồng tử tế, thì chớ phân bì giàu nghèo chi hết. Cô Mười Một cho lời nói ấy đúng. Phong nói tiếp: - Cách chùa chúng ta gặp hồi năm ngoái, năm nay họ làm chay rất to, ngày mai em đi với chị đến xem, chị sẽ cho thấy mặt một người đáng làm chồng em. Từ nhỏ, chị đã đọc sách tướng đã nhiều, quyết không sai lầm đâu. T\ Tảng sáng, Phong đi trước, hẹn đợi nhau ở chùa. Chặp sau cô Mười Một đến chùa đã thấy Phong ở đó trước rồi. Chị em dắt nhau đi dạo quanh chùa một vòng rồi mời cô Phong cùng đi xe về. Khi dắt tay ra cửa, thấy một vị tú tài lối mười bảy, mười tám tuổi bận áo xềnh xoàng và dáng dấp đứng đắn. Phong khều cô và nói nhỏ: - Con người mai sau thành đạt lớn đó. Cô Mười Một liếc qua rồi Phog từ giã đi riêng: - Em cứ đi về trước đi, tối chị sẽ đến. Quả nhiên buổi tối Phong đến nói: - Chị đã dò kỹ càng rồi. Anh chàng ấy tức là Mạnh An Nhân, người cùng xóm này mà. Cô biết chàng nghèo tỏ ý không thích. Phong thở dài: - Cơ khổ, em mảng vướng phải thói đời như thế ư? Phải biết con người đó nếu như suốt đời nghèo hèn thì chị tự khoét mắt mình đi, không xem tướng ai nữa. Cô hỏi: - Nhưng biết làm thế nào bây giờ? - Em cứ đưa một món chi, để chị đem lại trao cho chàng đính ước hôn nhân. - Chị định làm dễ dàng quá vậy? Em còn cha mẹ sờ sờ, nếu cha mẹ không ưng ý thì sao? - Ấy chỉ vì Phong sợ không được toại nguyện cho nên mới đính ước ngay bây giờ. Nếu như chị em cương quyết, thì dù có sống chết ai mà cướp được. Cô Mười Một khăng khăng cho là không nên. Phong nói: - Nhân duyên của em đã nảy ra manh mối rồi nhưng nghiệp chướng vẫn còn vương vít trong lòng chưa tiêu, cho nên hôm nay chị đến là cốt se duyên cho em để báo đáp cái tình tử tế bấy lâu. Thôi để chị đi, tự lấy cành thoa vàng của em tặng chị năm ngoái vâng lệnh em mà đưa tặng chàng làm tin cũng được. Cô Mười Một còn ngần ngừ suy nghĩ, Phong đã bước ra ngoài cửa đi tuốt. Lúc đó Mạnh sinh nhà nghèo nhưng học cực giỏi, ý muốn kén vợ thật xứng đáng mới lấy, cho nên tuổi đã mười tám chưa dạm hỏi đám nào. Ngày hôm đó đi chơi chùa được dịp trông thấy hai cô gái về nhà đâm ra tơ tưởng vẩn vơ. Mới tan canh một, Phong Tam Nương gõ cửa bước vào, chàng thắp sáng đèn nhìn mặt té ra một trong hai mỹ nữ mình may mắn trông thấy ban ngày, chàng mừng rỡ chào hỏi. Phong nói: - Tôi họ Phong, bạn gái của tôi cô Mười Một họ Phạm. Chàng mừng quá không gạn hỏi chi nhiều lời, vội vàng tiến đến, muốn ôm lấy Phong. Phong cự hẳn hoi: - Cậu này! Tôi chẳng phải là Mao Toại đem thân đến hiến nhé, mà chỉ đóng vai Tào Khâu đem tin đi mối cho người ta đó thôi. Số là cô Mười Một họ Phạm, muốn kết nhân duyên với cậu, cho nên tôi xin làm mụ mối cho cô cậu nên vợ nên chồng mà! Chàng ngạc nhiên không rtin, Phong liền trao cành thoa vàng làm chứng. Chàng mừng hết sức, cảm tạ và thề nguyền: - Cô có lòng quyến chỉ giùm tôi như thế, xin thề nếu không lấy được cô Mười Một, thà cam ở góa trọn đời. Phong từ giã đi. Sáng ngày, chàng cậy bà cụ lối xóm đến nói với Phạm phu nhân. Quả nhiên phu nhân chê nghèo không cần hỏi ý kiến con gái, cứ việc lập tức từ chối lập tức. Cô Mười Một nghe chuyện như vậy, hết sức thất vọng, trở lại oán Phong báo hại mình, kimh thoa đã lỡ trao, khó nỗi đòi về, chỉ có cách thề chết giữ trọn lời nguyền thôi. Một hôm sau có người con ông quan nọ đến cầu hôn, trong ý còn lo không thành, cho nên cậy quan huyện đứng ra làm mối. Lúc đó ông quan nọ đang ở chức trọng quyền to. Phạm công có ý kiêng sợ, hỏi cô Mười Một, cô tỏ vẻ không vui. Bà mẹ dỗ dành gạn hỏi, cô làm thinh không nói câu gì, chỉ khóc sướt mướt rồi cậy người nói riêng cho phu nhân biết rằng: không phải Mạnh sinh đến chì chết không lấy chồng nào cả. Phạm công càng giận, cứ hứa gả cho người con ông quan nọ, trong ý lại ngờ cô có tư tình với Mạn sinh nên chi càng gấp chọn ngày lành tháng tốt, thành lễ cho mau. Cô Mười Một phẫn uất bỏ ăn, ngày chỉ nằm kiệt, mãi đến hôm trước ngày cưới, tự dưng cô trở dậy soi gương trang điểm, phu nhân mừng thầm. Giây lát thị nữ tức tốc chạy vào nói tiểu thư đã tự thắt cổ. Nội nhà kinh hãi khóc, ăn năn đã muộn. Ba ngày làm lễ táng. Nói về Mạnh sinh, từ hôm bà cụ lối xóm trở về trả lời không xong, chàng ấm ức muốn chết nhưng vẫn xa xa theo dõi tin tức, còn mơ tưởng cuộc nhân duyên có thể vãn hồi. Chừng nghe tin danh hoa đã gần có chủ, ngày cưới đến nơi, bấy giờ chàng mới phẫn hận như lửa đốt ruột gan, từ đây muôn sự mong mỏi đều tiêu tan, không còn trông đợi gì nữa. Không bao lâu nghe tin ngọc vỡ, hương vùi, nàng đã tự sát, Mạnh sinh càng đau đớn thảm thương, tức mình không được cùng mỹ nhân chết cho rồi đời. Chập tối ch vùi trên giường hồi nào. Nguyên trước, Thượng tú tài nhân tình với đào hát Huệ Kha, đôi bên thề thốt lấy nhau. Huệ hát cực hay, đường tơ giọng hát vang dậy một thời. Lỗ vương nghe tiếng, vời nàng vào ở trong phủ hầu hạ, vì thế Thượng tú tài với nàng dứt tuyệt đi lại, nhiều khi thương nhớ muốn chết, mầ không có cách nào thông tin được với nhau. Một đêm, Thượng hỏi đạo sĩ vào phủ có trông thấy Huệ Kha lần nào không? Đạo sĩ nói: - Đào hát trong phủ đều thấy, duy không biết Huệ Kha là cô nào. Thượng tả hình dung và cỡ tuổi, đạo sĩ mới nhớ ra. Nhân đó Thượng cầu nhắn giùm một đôi lời. Đạo sĩ cười nói: - Tôi là người tu hành, không làm chim xanh cho ông đặng. Thượng nằn nì mãi, đạo sĩ đưa tay áo lên và nói: - Nếu nhất định muốn thấy mặt người yêu một phen thì chui vào đây, tôi đưa đi. Thượng dòm bên trong thấy rộng rãi như cả gian nhà, liền chui mình vào, lại thấy lộng lẫy sáng sủa, bàn ghế, giường mùng, chẳng thiếu thứ gì, cho nên ở trong thấy sung sướng, không buồn rầu chút nào. Đạo sĩ vào phủ, ngồi đánh cờ với Lỗ vương, thừa dịp Huệ Kha tới gần, giả vờ phe phẩy tay áo để giũ bụi. Huệ Kha bị thu hút vô trong, mà chẳng một người nào trông thấy. Khi đó, Thượng đang ngồi tơ tưởng một mình, chợt nghe có vật gì từ mái nhà rơi xuống, nhìn lại té ra Huệ Kha. Hai người sửng sốt mừng rỡ, kể lể tình xưa. Thượng nói: - Cái duyên lạ lùng của đôi ta hôm nay, không lẽ không ghi nhớ bằng văn chương. Vậy tôi với mình làm thơ liên cú để kỉ niệm nhé. Chàng nói rồi viết câu mở đầu trên vách tường: Hầu môn thăm thẳm bấy lâu nay Huệ Kha nối theo: Ai ngỡ chàng Tiêu lại gặp đây Thượng tiếp câu thứ ba: Tay áo mênh mông trời đất rộng Huệ Kha đọc câu kết: Trai thương gái nhớ được sum vầy. Viết bài thơ vừa xong, bỗng có năm sáu người áp vào, bịt khăn đầu rìu, mặc áo màu hường, nhìn ra đều không quen biết, mà họ cũng lẳng lặng không nói gì, chỉ bắt Huệ Kha dẫn đi. Thượng kinh hãi chẳng hiểu nguồn cơn tự đâu. Về nhà đạo sĩ gọi Thượng ở trong tay áo ra, hỏi chuyện tình tự có hả lòng chưa, Thượng còn giấu giếm không nói hết, đạo sĩ mỉm cười, cởi áo lộn bên trong đưa cho chàng xem. Chàng nhìn kĩ thấy có tự tích lờ mờ, nhỏ tí, tức là bài thơ tình tự hai người liên cú hồi nãy. Cách sau mười mấy hôm, chàng lại xin chui vào tay áo lần nữa. Trước sau gồm ba lần. Huệ Kha bảo Thượng: - Em nghe trong bụng cục cựa, nghĩ mà lo quá, thường ngày em lấy lụa buộc bụng thắt lại, còn có thể giấu nhẹm được, nhưng trong vương phủ tai mắt rất nhiều, một mai ở cữ, làm sao giấu được đứa trẻ khóc oa oa, vậy chàng phải bàn tính với đạo sĩ, chừng nào em sinh đẻ, thì ông ra tay cứu cho mới đặng. Thượng nghe lời, đêm ấy trở về quỳ mọp trước mặt đạo sĩ, chưa kịp nói chi, đạo sĩ đã nâng đỡ trở dậy và nói: - Thôi mà, anh chị căn dặn nhau những gì, tôi biết dư rồi. Xin ông đừng lo, dòng giống nhà ông nhờ có một chút đó, lẽ nào tôi chẳng hết sức giúp đỡ. Nhưng từ nay trở đi chớ đòi chui vô tay áo nữa nhé! Tôi muốn báo đáp ông, chẳng phải nguyên ở tự tình mà thôi đâu. Mấy tháng sau, một hôm đạo sĩ ở ngoài về, tươi cười và nói: - Tôi đã rước cậu bé về đây, sửa soạn tã lót mau! Người vợ Thượng vốn hiền lành, ngoài ba chục tuổi sinh nở mấy lần, chỉ nuôi được một đứa con trai, vừa lại sinh con gái, đầy tháng thì bỏ, nay nghe chồng báo tin, vui mừng khôn xiết, tức tốc chạy ra đón rước đứa bé. Đạo sĩ thò vào tay áo, lấy đứa bé ra; nó đang ngủ say và rốn chưa cắt. Vợ Thượng đón lấy bồng trên tay, bấy giờ nó mới khóc oa oa. Đạo sĩ cởi áo và nói: - Máu đẻ vấy dơ cả áo thế này, đạo môn kị nhất. Nay vì sự giúp đỡ ông, mà vật cũ hai chục năm, bỗng chốc phải bỏ đi. Thượng đưa áo khác cho đạo sĩ thay. Đạo sĩ căn dặn: - Cái áo cũ của tôi, chớ nên bỏ uổng. Để làm thuốc trị bệnh hay lắm đó. Chỉ xé một miếng độ một chỉ mà đốt, hoà với nước nóng, có thể cứu được truỵ thai và sinh đẻ khó. Thượng xin vâng lời. Đạo sĩ ở một thời gian lâu nữa, chợt bảo Thượng: - Chiếc áo cũ nên để dành nhiều ít, về sau tự mình cần dùng, điều đó sau khi tôi chết cũng không nên quên, nghe! Thượng cho là lời nói bất tường, nhưng đạo sĩ lẳng lặng ra đi, vào phủ Lỗ vương nói: - Tôi muốn chết bây giờ. Vương thất kinh hỏi tại sao. Đạo sĩ thưa: - Đó là số trời đã định còn phải nói chi! Vương không tin, cố giữ lại chơi, đánh xong một ván cờ, đạo sĩ vội vàng đứng lên. Vương lại ngăn cản. Chừng xin phép ra nhà ngoài, Vương mới y cho. Đạo sĩ ra đó nằm vật mình xuống, xem lại thì ông đã chết rồi. Vương sắm sửa quan tài chôn cất đủ lễ. Thượng rất thảm, bấy giờ mới hiểu lời ông nói hôm nào tức là báo trước vậy. Cái áo cũ ông để lại làm thuốc cho đàn bầ đẻ mau, thật là linh nghiệm. Người đến xin, chen vai nối gót ở trước cửa. Ban đầu còn cho cái tay áo có vấy máu, lần hồi xé tới cổ áo, bất cứ chỗ nào làm thuốc cũng hay. Sau nhớ lại câu đạo sĩ căn dặn, e chính vợ mình sẽ có tai vạ vì sinh sản, cho nên cắt lấy một miếng vải có máu, to chừng bàn tay, cất kĩ để dành. Gặp hồi Lỗ vương có nàng ái phi chuyển bụng ba ngày không đẻ, bao nhiêu lương y đều bó tay. Có người mách Thượng có cách chữa tuyệt diệu. Vương gọi Thượng vào, quả thật chỉ một chén thuốc là ái phi sinh đẻ dễ dàng. Vương mừng hết sức, trả lễ bằng tiền bạc gấm vóc cực nhiều. Nhưng món gì Thượng cũng từ chối không nhận. Vương hỏi: - Vậy anh muốn chi? - Thưa, tôi không dám nói ra. Vương gạn hỏi đôi ba lần, Thượng cúi đầu nói: - Nếu đại vương ban ơn cho, tôi xin người đào hát cũ Huệ Kha là đủ. Lập tức, Vương gọi nàng ra hỏi bao nhiêu tuổi. Nàng thưa: - Thiếp vô trong phủ từ hồi 18 tuổi, trái 14 năm nay rồi. Vương thấy tuổi nàng đã lớn, bèn cho phép Thượng chọn lựa trong đám đào hát son trẻ, muốn lấy cô nào cũng cho. Thượng không chọn cô nào cả, khăng khăng chỉ chọn cô đào già Huệ Kha mà thôi. Vương cười nói: - Anh học trò này khờ quá, Hay là đôi bên đã đính hôn từ mười năm về trước chăng? Thượng kể chuyện thật từ trước đến sau. Vương liền sai thắng xe ngựa chở cả Huệ Kha và những tiền bạc gấm vóc đã cho, để làm tư trang cho nàng đi về nhà chồng. Đứa con trai Huệ Kha đẻ lúc trước tên là Tú Sinh, có ẩn nghĩa là đẻ trong tay áo, lúc này đã được 11 tuổi. Hàng ngày vợ chồng nhớ ơn đạo sĩ, năm nào đến tiết thanh minh cũng đi viếng mộ. Có người ở Tứ Xuyên lâu năm, gặp đạo sĩ ở giữa đường trao cho một quyển sách và nói đó là sách trong phủ Lỗ vương, vì đi vội vàng, quên chưa nộp lại, nay phiền đem về trả giùm. Người đó về, nghe tin đạo sĩ đã chết, thành ra không dám tâu bày cùng Lỗ vương. Sau nhờ Thượng trả quyển sách và tâu hộ tự sự, Lỗ vương mở ra coi thì quả là một quyển sách của mình đã cho đạo sĩ mượn coi năm xưa. Nhân đó, Vương sinh nghi, đào mả đạo sĩ lên xem, thì ra chỉ còn cái hòm trống rỗng. Về sau, chính thằng con trai của vợ Thượng sinh ra chẳng may chết yểu, nhờ có Tú Sinh nối dõi tông môn, đúng lời tiên tri của đạo sĩ. Đào Trinh Nhất dịch