Lưu An thấy thế tử không tin, bèn cười rằng: - Phải chi thế tử tới trước đây vài ngày, mới thấy tài tiểu thơ thứ nhất. Cao Quân Bảo hỏi: - Như tới sớm thì thấy tài chi? Lưu An nói: - Bởi vì cõi bờ loạn ly, thiên hạ chia phôi, những trai võ nghệ quen cầm giáo múa đao, cậy mình là anh hùng, coi người như thảo giới. Họ chụm ba chụm bảy đi phá xóm làng, sáng ẩn núi rừng, tối ra thành thị. Canh ba, hôm kia, có năm trăm ăn cướp tên nào cũng thương búa, to nách lớn lưng, mắt sáng như sao, tiếng vang dường sấm, kéo tới dộng cửa. Tiểu thơ bèn lên ngựa cầm đao đánh một hồi như Triệu Tử trận Đương Dương, được mấy khắc chẳng khác Mã Siêu dạ chiến. Tiểu thơ đánh lũ ăn cướp tan tàn như hoa rơi lá rụng, đứa thì quì lạy xin tha, đứa thì gãy chân nằm vạ. Chủ tôi không nỡ giết, khuyên chúng nó ăn năn, vì người sẵn lòng nhơn tha hết như Thành Thang mở lưới. Phải khi ấy có thế tử, làm sao cũng ngợi khen, để hồi hôm mới vô, bọn gia tướng hồ nghi là chánh đảng! Cao Quân Bảo nghe thuật chuyện lấy làm lạ, bèn nói lớn: - Thiệt là con gái anh hùng đó! Chắc là trời có sanh trai cọp sánh duyên mới xứng gái rồng, lẽ nào hạc lộn bày gà, châu xen mắt cá? Vậy tiểu thơ đã có người dâng ngọc hay còn kén khách giao cầu? Hoặc là tu chín kiếp chưa thành, nên mới đặng ba sanh chẳng rủi đó! Lưu An cười nói: - Thế tử chớ hỏi thăm việc ấy, tôi nói ra nhắm ngài cũng không tin, dầu chẳng nghi nan cũng là biếm nhẽ. Cao Quân Bảo nói: - Nếu không duyên đằm thắm, lẽ nào tôi dám cười chê? Lưu An nói: - Xưa nay việc gả cưới tự nên cha mẹ, ấy là thiên hạ thường lệ. Chủ tôi còn đang kén rể đông sàng, xứng hương trời sắc nước. Cũng có nhiều chỗ cầu hôn, song còn chờ kẻ bắn binh tước mới đành. Còn tiểu thơ lại cầm duyên, chê kẻ nọ bất tài, chê người kia liệt nhược, nên có xin cha cho phép treo bảng chiêu phu. Chẳng luận hèn sang, ai đánh lại tiểu thơ, thì ông tôi bắt rể? Từ treo bảng tại non Song Tỏa, bốn phương hào kiệt đồng hay, anh hùng các xứ tới hoài, cậu nào cũng khoe tài võ nghệ. Mà tráng sĩ mọi nơi thua mãi, thảy đều sút miếng nữ lưu. Khi xưng tên thì gương mặt tươi như chong, lúc đấu lực thì mồ hôi nhỏ giọt, miễn đặng còn hồn, hết mong việc nọ, cho nên bảng chiêu phu ít kẻ dám nhìn, núi Song Tỏa không ai tìm đến! Sài Thiệu chưa ra mặt, Lý thị buồn cũng phải chờ duyên. Đinh San chẳng trổ tài, Lê Huê tức đã thành ở góa! Cao Quân Bảo nghe nói khích, tức thí nổi nóng ngứa nghề, bèn nói lớn: - Nếu trong đời có tướng gái hơn người, tôi xin học đường roi kẻo uổng. Vậy ngày mai tôi xin tỉ thí, kẻo hổ mặt anh hùng, song lại thắng tiểu thơ thì bị ông bắt rể, bày đặt cho rồi cuộc hoa chúc, thì trễ việc giải cuộc vây có phải làm mất thảo với cha, không ngay cùng chúa không? Quân Bảo còn nghĩ việc xa gần, cân điều nặng nhẹ, xảy ra gà gáy sáng, trống đã tan canh, vừa tạnh hột mưa, bóng hồng ló rạng. Cao Quân Bảo nóng lòng trung hiếu, cần việc chiến chinh, phần Lưu Nãi ngủ trưa, nếu đợi dậy giã từ thì e trễ việc, mới nói với Lưu An rằng: - Đáng lẽ đợi ông thức dậy, từ tạ mà đi, ngặt việc gấp quá chừng, nên chờ không đặng. Xin quản gia làm ơn nói lại, tôi cảm tình hậu đãi đến thác không quên, đợi thắng trận về trào, sẽ tính đến tạ ơn đáp nghĩa. Lưu An cố ý mời mọc nhiều phen mà Cao Quân Bảo kiếu hoài không chịu ở nán lại. Lưu An túng thế phải đem ngựa cho Cao Quân Bảo. Cao Quân Bảo cầm giáo lên yên từ giã vài lần rồi giục ngựa ra khỏi ngõ. Lưu An thế chủ đưa một đoạn đường, thấy Cao Quân Bảo đi ngay không quẹo qua núi Song Tỏa thì Lưu An kêu lớn nói: - Thế tử đi lạc đường rồi đó? Cao Quân Bảo dừng ngựa ngó lại nói: - Cám ơn quản gia, chẳng hay ngã nào đi xuống Nam Đường? Lưu An chỉ qua lộ bên tả, đặng đi ngang Song Tỏa sơn, là chỗ Kim Đính treo bảng chiêu phu. Ấy là mưu Kim Đính rập với Lưu An đặt lờ đuổi cá. Cao Quân Bảo nghe nhắc, hèn nóng họng ngứa nghề, quay ngựa qua Song Tỏa sơn, sẵn dịp thuận đường, coi bảng chiêu phu luôn thể. Xảy thấy trên núi tre cao tàn rậm, vượn hú chim kêu, dưới thì đồng trống mênh mông, lộ ngay thẳng tắp, dựa núi có treo tấm bảng cao chừng hai thước bề dài, một thước bề rộng. Trên bảng có đề hai bài tứ tuyệt như sau: Bài thứ nhất: Gái rồng thường bữa múa đao thương Chưa gặp trai hùng sức dám đương, Huề đặng cũng đàng theo sửa tráp, Liệu thua làm rể, chớ phô trương! Bài thứ hai: Tài hay sẽ đến đấu đao thương Sức yếu đừng mơ tới chiến trường, E sĩ sa cơ mà uổng mạng. Thuốc hàn không có, khó liền xương. Cao Quân Bảo thấy lời nói xấc xược nên đỏ mặt phừng phừng, liền mắng: - Thiệt con nhỏ này phách quá! Dầu là trai hào kiệt cũng chưa dám đăng bảng như vậy. Sức con gái bao nhiêu, mà khinh khi anh hùng quá vậy. Nếu ta để lại lời kiêu ngạo, thì mất thể trượng phu? Nói rồi đấm một đấm khiến tấm bảng gãy làm hai khúc. Lưu An ngó thấy hèn la lớn rằng: - Cha chả! Thế tử báo hại rồi, về bữa nay chắc bị quở phạt. Cao Quân Bảo nói: - Tại tôi đấm gãy bảng mà chú bị quở phạt phải không? Lưu An nói: - Bữa nay nhằm phiên tôi gác, như có ai muốn thí võ thì về thưa lại với tiểu thơ, nay thế tử không quyết việc giao thương, mà lại làm hư tấm bảng, té ra tôi chẳng gìn giữ, không tội làm sao? Cao Quân Bảo nói: - Tôi thấy hai bài thơ nói phách, nổi xung đánh gãy lỡ rồi. Quản gia có sợ bị quở, thì tôi ở đây mà đợi, chú về mời tiểu thơ ra đặng tôi khuyên giải phân minh, chú khỏi tội lỗi. Lưu An nghe nói mừng lòng, lật đật chạy về. Ấy là trời khiến trai tài gái sắc gặp hội nhân duyên, vợ Bắc chồng Nam phải thời hào hiệp. Cái nợ tam sanh trời đã định trước, bài thơ tứ tuyệt quá lời mai? Lưu Kim Đính từ khi thấy Cao Quân Bảo diện mạo khôi ngô, hình dung tuấn tú, phải lòng vừa ý, mê mặt đồng tình. Nàng nghĩ tới thánh mẫu không sai, nhắm việc nhơn duyên đã xứng ngặt một điều là lòng đã quyết, tình khách khó dò. Thế thường phụng cầu hoàng, không lẽ hoa tìm bướm? Canh khuya không hề nháy mắt, sáng rạng vội vã điểm trang, tiểu thơ ngồi tủi phận hồng nhan lòng đau quặn quặn. Xảy thấy con đòi mặt mày hồ hải vào thưa: - Quản gia Lưu An về đó, hối tôi vào thưa với cô rằng cậu ngủ nhờ hồi hôm đi ngang núi Song Tỏa đấm gãy bảng chiêu phu, cậu ấy còn chờ cô, đặng thử tài cao thấp. Lưu Kim Đính nghe nói dường hạn gặp nước vào, liền đổi buồn làm vui. Biết Quân Bảo mắc kế mình, chắc nhân duyên tiền định song chẳng nên thố lộ, e miệng thế chê cười, nàng liền mặt giận mà nói: - Người này quả vô tình, đã phá cửa hồi hôm, nay lại đập bảng chiêu phu bể nữa! Nói rồi truyền bốn con đầy tớ tên là Xuân Đào, Hạ Liên, Đông Mai, Thu Cúc, bốn người này là tì nữ của Lưu tiểu thơ ca tập luyện. Bốn nàng vâng lệnh chủ nai nịt gọn gàng. Lưu Kim Đính cầm siêu, bốn tì nữ cầm song kiếm. Tớ đi chân, chủ cỡ ngựa, đồng ra núi Song Tỏa một lần. Lưu Kim Đính ngó thấy Cao Quân Bảo dừng ngựa đợi làm bộ hỏi: - Ông thân tôi bày bảng chiêu phu mà kén rể đông sàng việc ấy không can phạm tới công tử, sao công tử đập bảng bể đi? Thế công tử khi người quá! Cao Quân Bảo nói: - Xin tiểu thơ bớt giận nghe lời thẳng bày ngay, việc hôn nhơn do ở lệnh cha mẹ, tại nơi lời mai mối, không lẽ làm bia chọn rể, dựng bảng kén chồng? Thế thường trâu tìm cột chớ bao giờ cột lại tìm trâu. Vả lại tánh tôi ghét lời kiêu ngạo mà câu thơ trong bảng cậy mình có sức coi bốn biển không người. Tiểu thơ là phận khuê môn bất xuất, thêu rồng vẽ phụng, khảy nguyệt hoặc ngâm thi, là tài nghệ thục nữ, chớ như việc cầm đao lên ngựa ra trận giao thương, ấy là phận đàn ông, không phải nghề con gái. Tôi xin từ nay sắp tới, tiểu thơ phải nhớ câu tại gia tùng phụ, đừng dựng bảng chiêu phu nữa. Khi nào mẹ cha định đâu, thì con đành đó. Lưu Kim Đính nói: - Thấy thơ còn ngại thử sức mới tin, bởi công tử chưa bị ngọn đao của ta nên còn khinh suất! Cao Quân Bảo nói: - Cũng muốn vâng lời đó, song còn ngại dạ này, sợ mũi thương của ta chẳng biết vị tình mà miệng thế trách rằng bạc ngãi. Trước cám ơn ông thết đãi, sau là thương dáng đó mảnh mai, lẽ nào gái lại hơn trai, mà ve kia so chấu? Xin nàng trở ngựa, cho ta dời chân. Lưu Kim Đính nói: - Thiếp dựng bảng kén duyên, người người đều thua tài chạy mặt. Công tử chẳng xét mình thiếu sức, cứ quen tánh khinh người, làm oai đánh bảng lỡ rồi, kiếm chuyện nói cho khỏi đánh! Nay thiếp cũng dung người lầm lỗi, song đừng xưng đấng anh hùng, e khi gặp gái chẳng lành mà phải làm ma oan mạng! (Tiểu thơ nói khích cho công tử nổi xung) Cao Quân Bảo nghe nói giận lắm, bèn đáp lại: - Sao, sao tiểu thơ cũng muốn thí võ với ta à! ấy là tại nhà ngươi sanh sự, chớ trách ta chẳng vị tình! Nói dứt lời, Cao Quân Bảo hèn đâm một giáo. Lưu Kim Đính đưa siêu ra đỡ. Hai người đánh ẩu đả một hồi, ban đầu Cao Quân Bảo thấy Lưu tiểu thơ, mặt hoa tươi trắng vóc liễu dịu dàng, ngỡ là con gái tầm thường, học võ nghệ được đôi ba miếng, giỏi đá mấy thằng ăn cướp, không lẽ nào sánh với trai anh hùng? Chẳng ngờ đánh sáu mươi hiệp có dư, gái rồng không thua trai cọp, múa siêu đao sáng giới gạt lưỡi giáo ngả ngang. Chừng ấy Cao Quân Bảo mới khen gái anh hùng, hết ỷ mình hào kiệt, hèn chi nói kiêu cũng phải, sức mạnh khá khen! Lưu Kim Đính thấy ngọn thương của Cao Quân Bảo như rồng, tài cao khó sánh, sức mạnh không đương, nếu thầy không dạy đao vàng, thì mình khó ngăn mũi bạc. Vả lại công tử da vàng mặt ngọc, mắt phụng mày tằm, lại là cháu của vua, con dòng thao lược, người trong hàng rồng cọp, khách trên giống phụng hoàng. Nếu đánh ráng thì mệt thêm, thà giả thua làm phép đặng bắt sống cho nên duyên, bỏ đi thì uổng lắm! Nghĩ rồi Lưu tiểu thơ trá bại chạy dài, Cao công tử ỷ tài đuổi riết, và kêu lớn mà nói: - Bớ tiểu thơ! Chuyến này đã biết sức, khi khác chớ khoe danh! Quân Bảo rượt tiểu thơ chạy trối chết, vừa rượt vừa nói: - Chẳng phải tôi cậy tài đuổi cô nương một cách bức xúc, mà chỉ muốn cô nương xuống ngựa chịu thua, biết tài kẻ dũng sĩ, nếu để lòng cô nương bất phục, e sinh ra tính khinh người. Lưu Kim Đính nhìn lại, liếc mắt cười nói: - Nay đã thấy công tử rồi, tôi rất vừa ý, muốn chịu phục tùng, nhưng phải theo lời trong bảng chiêu phu, đến thưa với thân phụ mà tính việc cho xong. Cao Quân Bảo đã rõ lòng Kim Đính, ngặt vì nóng việc giải vây cho chúa, chuộc tội cho cha, trong bụng rối như tơ vò đâu còn tưởng đến chuyện se duyên kết toc. Vả lại, chưa biết lòng cha mẹ có chấp thuận hay không, nên không dám tự chuyên. Cao Quân Bảo nghĩ thầm: - Nếu cứ ở đây lo việc vợ chuồng, thì lỗi niềm cha chúa. Chi bằng ta kiếm lời nói cho nó mắc cỡ bỏ đi cho rồi, để ta còn đi giải vây cứu chúa kẻo trễ thời gian. Nghĩ lại, Cao Quân Bảo kêu Lưu Kim Đính nói: - Tôi rất tiếc cho tiểu thơ, mặt hoa mày liễu, má phấn môi son mà không biết giữ nếp nhà. Vả lại đạo làm con không thể mặc áo qua khỏi đầu. Ta cùng nàng gặp gỡ, chưa có tiếng mối mai, cũng không có ý kiến cha mẹ, nếu nói việc vợ chồng thì khác nào như kẻ trêu hoa ghẹo nguyệt. Tôi chưa từng thấy một người con gái nào lại dựng bảng kén chồng. Vậy xin tiểu thơ xét lại cho mạt tướng chịu thua. Kim Đính giận hét lớn: - Thất phu! Ta dùng lời lễ phép đối xử, đó trả lại bằng cách kiêu ngạo, thật là người vô lễ, không phải khách hữu tình. Phen này ta quyết đánh thẳng tay cho nhà ngươi biết sức. Nói rồi vung đao chém tới. Cao Quân Bảo cũng trở lại giao tranh, nhưng lần này rất dữ dội. Lưu Kim Đính nói: - Xin công tử bớt giận, duyên trời xui khiến gặp nhau, chúng ta không thù oán, chẳng phải đánh giặc mà quyết lấy đầu. Để thiếp về thưa lại với cha, rồi cùng chàng gầy duyên cầm sắt. Cao Quân Bảo nói: - Nay ta đã biết sức nhau, vậy xin giã từ để nàng ở lại kén chồng, còn tôi qua Nam Đường cứu chúa. Lưu Kim Đính thấy Cao Quân Bảo quay ngựa bỏ đi, hèn nắm đuôi ngựa kéo lại làm cho Cao Quân Bảo thất kinh hồn vía, không dè sức con gái mà mạnh hơn voi, nên la hoảng: - Ôi chao? Thật là bậc kỳ tài, trên đời chưa từng thấy. Kim Đính giả giận, nói: - Chàng chê thiếp thì thôi, không lẽ ép duyên. Song phải bồi thường tấm bảng rồi mới đi. Lúc đó mặc sức đến Thọ Châu cứu giá. Cao Quân Bảo nghe mấy lời biết nàng quyết hơn thua, nên nạt lớn: - Để ta bắt đền cho nàng một ngọn giáo là xong. Lưu Kim Đính hèn niệm chú cho cây giáo Quân Bảo nặng đến độ dỡ lên không nổi. Quân Bảo xấu hổ, không biết nói sao còn Lưu Kim Đính thì cười mỉa mai, nói: - Bởi tôi biết công tử là con nhà danh giá, nên muốn trao thân gởi phận, chớ thiệt tình công tử đánh sao cho lại tôi. Bởi muốn giao hòa nên tôi mấy phen trá bại. Sao công tử thấy ngữ lành lại phụ, gặp châu sáng không ham, tưởng rằng sức gái hơn trai, nên phụ tình cầm sắt. Cao Quân Bảo nói: - Xin nàng chớ giận để tôi bày rõ thiệt hơn. Chúng ta tuy đã thuận, nhưng còn ba điều chưa an. Một là: Cha tôi là em rễ Tống trào, còn bác nhà là người thân của Bắc Hớn. Chuyện tuy cũ nhưng oán hận chưa nguôi, không lẽ trở thành thông gia. Hai là: Nếu nay mạt tướng hứa lời kết tóc, sau song thân nặng tiếng quở la, có phải là mang câu bất hiếu không? Ba là: Thiên tử đang bị vây, thân phụ đang bị bắt, lúc này phải xông vào trận chiến cho trọn tiếng hiếu trung, có rảnh đâu mà tính việc vợ chồng, hưởng vui với mối tình gặp gỡ. Bởi có ba điều chẳng tiện đó nên không thể làm vừa ý nàng. Còn tiểu thơ là hoa thơm ngàn dặm, sắc chói mười phương, thiếu gì anh hùng hào kiệt, đừng thấy đá mà tưởng làm ngọc, thấy mắt mà tưởng là châu. Lưu Kim Đính nghe mấy lời càng yêu quý mười phần, yêu quý chừng nào lại không muốn buông tha chừng ấy, nên nói: - Xét lời công tử đáng bậc hiền lương. không có lòng say đắm nguyệt hoa, cũng chẳng có dạ phụ tình bạc ngài. Thật nên trang quân tử, đáng mặt trượng phu. Duyên nợ tôi với công tử là do Nguyệt lão đã se. Thánh Mẫu biết trước trời xui gió bấc mưa cầm, nếu không duyên nợ ba sinh, chưa dễ vấn vương dường ấy. Xin công tử chớ chấp nhất mà lỗi đạo xướng tùy. Vả lại, Dư Hồng pháp thuật rất cao, công tử làm sao đánh lại. Nếu không có tôi trợ giúp, chắc công tử bị Dư Hồng bắt nữa. Nếu công tử không chê thiếp hư hèn, thiếp nguyện theo chàng phò chúa cứu cha. Cao Quân Bảo nói: - Nàng là gái nghiêng thành đổ nước, lại thêm võ giỏi văn hay, ai lại không kính mến. Tuy chúng ta đã quyết, e cha mẹ không vừa lòng làm cho sau này hai ta cùng đeo dạ thảm, mua sầu, thì chẳng khổ tâm lắm sao? Kim Đính nghe nói nổi giận liền ném dây hồng tươi sách lên không và niệm thần chú hào quang chiếu sáng, trói Quân Bảo treo trên cây, lửng lơ trước gió. Quân Bảo nhìn lại thấy tiểu thơ đã biến đi mất, trong rừng xuất hiện một tướng mặt mũi đen sì, cầm siêu lớn tiếng, hét: - Cao Quân Bảo phụ bạc duyên trời, cho nên ta là thần núi phải ra đây, chém một đao cho bõ ghét. Cao Quân Bảo thất kinh năn nỉ: - Xin sơn thần bớt giận, tiểu tướng xin vâng lời. Thần núi mắng cho mấy lời, rồi bỏ vào rừng. Xảy thấy tiểu thơ ngồi trên ngựa lướt ngang qua, rồi biến mất. Cao Quân Bảo hèn kêu lớn: - Tiểu thơ ơi! Nỡ nào làm phép hại ta, rồi khoanh tay ngồi ngó, mặc kệ cho rơi xuống nát thân sao? Lưu Kim Đính đáp: - Thiếp đã nói hết lời mà chàng không nghe. Phận vô duyên nên đành giục ngựa về nhà, ai có phước ở đó chờ ngươi cứu mạng. Nói rồi giục ngựa bỏ đi. Cao Quân Bảo kêu lớn: - Tiểu thơ ơi? Tôi Chịu! tôi Chịu! Xin mở sợi dây oan gia! Lưu Kim Đính nói: - Chàng đừng năn nỉ uổng công, thiếp đã cạn lời mà chàng một mực phũ phàng. Dứt lời Kim Đính niệm chú mở dây. Cao Quân Bảo sa xuống như một tàu lá. Mừng được thoát nạn, Cao Quân Bảo nói: - Cám ơn tiểu thơ cứu mạng, ngày sau trở lại đền ơn. Nói rồi cầm giáo lên ngựa bỏ đi. Lưu Kim Đính thấy vậy trở về gọi bốn con tỳ nữ, trao cho phù phép tàng hình đuổi theo. Bấy giờ Cao Quân Bảo mừng được thoát nạn giục ngựa thẳng một nước, chạy năm sáu dặm đường không hề ngó lại. Người hết hơi, ngựa hết sức, bụng thì đói, quán xá thì không, rờ vào túi không có một đồng tiền, nên buông lời than: - Chao ôi! Hai lượng bạc đem theo bỏ quên trên giường. Nếu trở lại không dám, còn đi biết lấy chi làm lộ phí? Đang lo lắng, bỗng thấy xa xa có một quán rượu, chàng vội giục ngựa chạy tới, thấy trong quán không có đàn ông, chỉ thấy ba cô gái đang ngồi đong rượu. Cao Quân Bảo đem ngựa cho uống nước, rồi nghĩ thầm: - Bây giờ ta phải ăn giựt một bữa mới xong. Quán toàn đàn bà ta không sợ. Cao Quân Bảo liền xông vào. Ba cô gái ân cần chào hỏi: - Khách vào đây uống rượu phải chăng? Cao Quân Bảo gật đầu, nói: - Phải? Hãy dọn đồ ăn ngon và đem rượu thượng hạng ra đây! Một trong ba cô gái nói: - Rượu thịt ngon đã có sẵn, song tiền bạc phải cho phân minh, bởi chốn này là rừng núi, không ai dám buôn bán, chỉ có mình ba chị em tôi một chợ, nên giá đắt mười phần. Có đành thì dọn, không muốn thì thôi. - Các người hãy dọn cơm trắng cá tươi, món ngon vật núi, ăn rồi sẽ hay, và cho con ngựa của tôi nó ăn nữa rồi tính tiền luôn thể. Ba cô gái nghe nói liền dọn đồ ăn ra, rượu thịt ê chề. Cao Quân Bảo cứ việc ăn no, uống rượu như uống nước, chỉ một bữa mà đồ ăn còn nửa quán. Ba cô gái dọn dẹp đồ thừa thấy chẳng còn bao nhiêu. Ăn rồi Cao Quân Bảo tính lên ngựa bỏ đi, thì ba người đàn bà chặn lại, nói: - Xin khách tính tiền ăn uống rồi sẽ lên yên. Cao Quân Bảo nói: - Tính hết là bao nhiêu đó? Một cô gái nói: - Tất cả là tám mươi hai lượng. Cao Quân Bảo biết mình không có tiền, túng phải nói đỡ: - Hãy biên vào sổ để cho nhớ. Tôi đi có việc quan, lúc trở về sẽ trả đủ. Một cô bèn nói: - Chị em tôi với khách không quen. Thuở nay quán cơm không ai biên sổ. Cứ theo tục lệ cháo múc là tiền phải trao, nếu liệu trong người không có tiền thì đừng bước vào quán. Công tử coi bộ là người ăn học, sao xử sự theo lối bợm đường. Không thấy đôi liễn trước quán sao. Cao Quân Bảo ngó lên, thấy hai câu liễu như vầy: Trong lưng có bạc thời kêu rượu, Nhắm túi không tiền chớ hỏi cơm. Cao Quân Bảo coi rồi làm thinh. Một cô gái nói tiếp: - Công tử tưởng của không vốn nên ăn liều lĩnh, bây giờ tính sao? Cao Quân Bảo túng phải nói thật: - Tôi là Cao Quân Bảo cháu vua Tống Thái Tổ, con của Đông Bình Vương, vì gấp rút đi giải vây, quên đem theo tiền lệ phí. Vậy cho xin thiếu ngày sau trả đủ, chớ tôi không phải là người ăn giựt. Một cô gái nói: - Người này thật là điếm đàng, đã ăn giựt lại mạo con vua cháu chúa mà hăm dọa bọn đàn bà chúng tôi, chúng tôi không biết con cháu nhà ai, hễ thiếu tiền cơm thì phải trả, nếu không để con ngựa lại đây, rồi sẽ đem tiền mà chuộc. Cao Quân Bảo thấy ba cô gái quyết bắt ngựa để thế chân, nếu đi bộ đường rừng biết chừng nào mới tới? Nghĩ như vậy, Cao Quân Bảo liều mạng rút gươm ra, ba nàng thấy Quân Bảo làm dữ, bèn nói: - Không xong! Phải thỉnh bà ra mới được. Nói rồi ba cô gái chạy thẳng vào nhà trong. Tức thì có một bà già hình thù cổ quái bước ra hét lớn: - Ngươi có biết ta là người nước nào không? Ta vâng lệnh vua Nam Đường giả lập quán tại nơi đây, chờ tướng Tống lỡ bước ghé vào chém lấy đầu mà nạp cho vua. Nay nhà ngươi đã sa vào đây, thật số trời đã định! Nói rồi truyền mấy cô gái, khóa cửa ngõ, bắt tên giặc ăn giựt nạp cho vua lãnh thưởng. Cao Quân Bảo biết mình mắc kế, tính bỏ ngựa chạy bộ, ngặt cửa ngõ khóa rồi, mụ đàn bà lại cầm dao rượt theo muốn chém. Cao Quân Bảo thấy hình thù bà già ấy mà ghê: Da mặt tổ than hồng' con mắt sâu tợ giếng, cái miệng hỏa lò, cặp nanh rắn hổ. Cao Quân Bảo bị ba nàng kia áp lại bắt trói khiêng vào quán. Mụ già nói: - Tội thằng này đã đáng, đừng nạp đến vua làm chi. Hãy làm thịt để bán hàng, thấy thịt trừ tiền cũng đủ. Ba đứa bay hãy sửa soạn bắt nước mài dao cho sẵn. Cao Quân Bảo nghe nói thất kinh nghĩ thầm: - Lúc trước Kim Đính trói mình, bởi có tình thương nên năn nỉ được, nay gặp lũ ác nhơn này, chắc là phải thịt nát xương tan. Uổng công ăn học, nợ nước chưa đền, tình nhà chưa báo. Dẫu chết tấm thân không tiếc, chỉ phiền mất chữ hiếu trung. Mụ đàn bà thấy Quân Bảo khóc, thì cười lớn nói: - Thấy quân ăn giựt cũng giận,thấy kẻ than khóc cũng thương. Thôi, nếu nghe lời ta thì việc dữ cũng lành, cãi lời thì sẽ chết yểu. Cao Quân Bảo nói: - Chuyện gì tôi cũng chịu, xin cứ nói ra. Mụ đàn bà nói: Hãy nghe lời này thì đã khỏi họa e lại sướng thân, chồng ta đã bỏ mình, phận thiếp hai mươi năm trường cô phòng lạnh lẽo muốn chọn người xứng sức mà không gặp kẻ vừa lòng. Nay thấy chàng có sắc có tài, nên xui thiếp nở gan nở ruột. Lời tục người hằng nói: "Vợ già chồng trẻ là tiên". Nếm mùi đời chưa đủ thiệt quê, gặp cuộc biến phải quyền mới trí! Chết sống một bên con mắt, mất còn cũng tại trái tim. Thuận thời mở trói vào phòng, nghịch ắt khiêng thây xuống bếp! Cao Quân Bảo nghe nói càng tức tối, nghĩ cũng lạ lùng, tuổi tác này mà còn muốn thế này, xuân sanh nọ há đành duyên ấy. Bị bà kia hỏi thét nên công tử đáp rằng: - Tôi đến nước này lẽ nào dám cãi. Nghe nói phòng loang lạnh lẽo tình cũng khá thương. Song xem qua tóc bạc phất phơ lẽ đâu dám loạn? Chết thân là việc nhỏ, trái lẽ ấy tội dày. Bằng thương, dung mạng tôi nhờ, như ghét, nát thân cũng chịu. Bà ấy giận nói lớn rằng: - Trước sợ chết mà than khóc, nay nói cứng chẳng kiên gì? Tánh ở không chừng, nói càng vô ích. Vậy chúng bay cứ việt thọc huyết, rồi cứ việc làm hàng. Cao Quân Bảo xem thấy ngọn đao, chắc hồn về chín suối: Xảy thấy một con nhỏ vào hớt hải, nói với bà ấy rằng: Lầm rồi mẹ ơi? Người này là chồng của Lưu tiểu thơ, mình không biết bắt lỡ. Nay Kim Đính hay tin đến tiếp, đang phá cửa xông vào? Bà ấy nghe nói thì thất kinh, than với mấy người kia rằng: - Ba đứa bây phải trốn theo ta, kẻo Kim Đính giết luôn bốn mạng. Nói rồi cả bọn bỏ Quân Bảo ngồi đó, ra cửa sau trốn đi mất. Lưu Kim Đính dắt thế nữ xông vào, thấy Quân Bảo trói mèo nằm đó thì Kim Đính cười nói: - Tôi đi tiếp trễ, để cho công tử bị gia hình. Người ép duyên, tình nặng hơn tôi, sao chàng nỡ phũ phàng không chịu. Đã là trai tài gái sắc, sao không phụng chả loan chung? Chớ như phận tôi là: Bị gạt đã nhiều phen, mắc mớp đà hai thứ. Chàng chê cũng phải, thiếp dám trách đâu. Trắc trở đã đành phận thiếp, thày lai dám cướp duyên người. Thôi, giả chàng nằm đó nghỉ ngơi, cho thiếp gia trung trở lại. Nói rồi, Kim Đính cười chúm chím lên yên giục ngựa trở về. Cao Quân Bảo hổ thẹn trăm bề, làm thinh sượng mặt, thấy Kim Đính đi thẳng, mới kêu lớn: - Tiểu thư ôi! Tôi biết lỗi rồi, xin mở dây này, thì đành duyên nợ! Lưu Kim Đính nghe nói, trả lời rằng: - Chàng hay nói gạt, tôi chẳng dám tin? Cao Quân Bảo nói: - Nếu nàng chẳng tin lòng, tôi thề cho biết mặt. Lưu tiểu thơ nói: - Xin chàng thề độc, thiếp mới chịu tin. Cao Quân Bảo thề rằng: - Trên có trời soi xét, dưới có đất chứng minh, bằng tôi phụ tình nàng thì thác nơi giếng lạng. Kim Đính thấy thề thốt, bèn mở trói. Cao quân Bảo đặng mở trói, mới nói rằng: - Nay tôi phải đến Nam Đường cứu giá, công thành rồi về thưa với cha mẹ ta, dùng sáu lễ dâng sang, đem xe loan rước lại. Nói rồi Quân Bảo cầm giáo lên ngựa dông thẳng, chạy một hồi ngó lại, không thấy quán lều chi hết. Xuân Đào nói với tiểu thơ: - Tôi coi bộ công tử vô tình đi chẳng nói trả ơn một tiếng. Thiệt là thề mắc, thắt rối cho đặng mà đi! Lưu Kim Đính cười nói: - Lời thề ăn trượt ta chẳng biết hay sao? Giếng lạng khô rơm, không nước làm sao mà chết? Bởi công tử lánh khẳng khái, nói êm chẳng biết nghe. Phải làm cho cơ cực nhiều phen, mới cảm tình chịu phép! Nếu muốn cho nó mắc lời thề nọ, thì ta phải dụng phép này. Lưu Kim Đính bèn họa phù cho bốn con đòi, tới trước chậm đầu đào giếng. Quân Bảo vừa đi vừa thấm thía nực cười, nói: - Gặp dâm phụ bất nhơn, tưởng ta đà tận số! Nhờ tiểu thư giải cứu, nên ta đặng toàn sanh. Nàng thiệt đấng hữu tình, ta là người bạc ngài, như tiểu thơ hình dung tợ ngọc, nhan sắc như hoa, biết phép thần thông, thêm tài võ nghệ, vị tình hết sức, cứu mạng nhiều phen. Ta mấy thứ trớ trinh nàng một lòng tin cậy. Mình chẳng phải là săn cỏ, lẽ nào không nghĩa không tình, lại duyên đã xứng duyên, phận đà đẹp phận? Song còn ba điều ngăn trở nên đôi lứa dở dang, bây giờ xin phụ tình nàng, ngày sau sẽ đền ơn nghĩa ấy. Nghĩ mình thề dối mà nàng vẫn tin lòng, ai đời té giếng khô mà chết bao giờ. Mãi còn ngẫm nghĩ, mặt trời đã xế về Tây, Quân Bảo cứ đi tầm quầng trong rừng, không biết chỗ nào mà nghỉ. Cao Quân Bảo thấy trời đã tốt, trong lòng thầm nghĩ: - Hôm qua bị đụt mưa mà sanh ra nhiều việc. Nay chẳng nên ngủ đỡ nhà ai, vì sách có câu: "họa vô đơn chí", e bị hại một lần nữa. Vậy ta phải tìm đường cái mà đi. Thật là mang sao đôi nguyệt, chải gió dầm sương, trông đến chốn thị thành, sẽ tìm nơi nương tựa. Vừa đi vừa nghĩ, đương kiếm nẻo kiếm đường, phần trời tối mập mờ, nào dè cả người cả ngựa đồng sa xuống giếng lạng. Cao Quân Bảo ngỡ là sa xuống địa ngục, té ra là cái giếng khô nhắm bề sâu ba chục thước có dư, trên miệng giếng thấy trời bằng cái chén, Cao Quân Bảo mới than rằng: - Mới nói gạt vừa rồi, mắc lời thề lập tức! Những tưởng khôn ngoan thề thốt, nào hay quỉ thần chứng minh, nếu trời mưa xuống một đám, uống nước chắc cũng chết. Phải chi có ai đi ngang dòng dây mà kéo mình lên, hoặc may sống đặng. Phần không cơm không nước, ắt ở đây chờ ngày mà ra mắt Diêm vương! Than rồi, Quân Bảo hèn xuống ngựa mà ngồi, hơi ra lạnh lắm. Bỗng thấy có ngọn đèn nhấp nháy ở đằng xa. Cao Quân Bảo đoán rằng: - Có lẽ hầm rộng mênh mông nên có người ta ở? Khi ấy Quân Bảo đành mò theo chỗ đèn sáng, thủng thẳng bò lần không vật chi ngăn cản. Giây lâu gặp đường hẻm, Cao Quân Bảo mới nghĩ: - Đường hẻm vừa một người đi, chắc ngõ ấy có khi lên đặng! Không biết chỗ gì lạ vậy? Thôi Chẳng cần gì ngựa, miễn đặng còn hồn. Quân Bảo bèn cầm giáo mà đi, đi khoảng chừng một dặm trường mới khỏi đường chẹt, thấy lộ cái trước mặt, sao mọc trên trời trăng tỏ làu làu, hương bay thơm phức, trăm hoa rực rỡ, năm sắc rõ ràng. Cao Quân Bảo thấy cảnh vui lòng, đi hoài không mỏi. Xảy thấy một tòa cao lớn, dường thể đền vua, khác nào tiên động. Cao Quân Bảo xem xét lại kỹ lưỡng thì không phải đền vua, cũng chẳng phải dinh miếu. Chỗ không người ở, thì đây có phải dinh quan. Một là động tiên, hai là đền vua thập điện? Quân Bảo bèn đến ngõ, nghe tiếng giày nhẹ nhẹ, giọng nói thanh thanh, thì nghĩ là con gái đàn bà, song chưa rõ người tiên hay kẻ tục. Nghĩ rồi Quân Bảo làm gan gõ cửa, coi thử thế nào? Xảy thấy một nàng, tay cầm phất chủ, dung nhan có vẻ, cất cách tợ tiên, tiếng hỏi dịu dàng rằng: - Khách ở đâu đến đây vậy? Cao Quân Bảo thưa tự sự mình lạc đường sa xuống giếng, xin làm ơn chỉ ngả trở về, đặng qua cứu giá tại Thọ Châu thành. Nàng ấy cười chúm chím và nói: - Chàng đến đây chẳng khác Lưu Thần và Nguyễn Triệu, lạc lối thiên thai mà kết duyên cùng tiên nữ. Chắc là số trời đã định, nên khiến người lạc bước lỡ đường như vậy? Chớ đây không phải là đền vua, cũng đừng tưởng rằng cảnh phật. Ấy là tiên động của Thánh Mẫu ở núi Lê Sơn. Thánh Mẫu có nói trước rằng: Ngày này tháng này, có công tử Cao Quỳnh tới đây. Còn ngươi tên chữ là Quân Bảo phải không? Thánh Mẫu lại dặn nữa: Quân Bảo là kẻ vô tình, thề liều mạng. Khi lòng, ấy là khi chúng, dối người tức là dối trời. Vậy nên Thánh Mẫu có để bốn câu thơ, dặn đưa cho nhà ngươi xem thử. Cao Quân Bảo nghe nói trúng tên thì thất kinh, mọc ốc rùng mình, run en phát rét, gượng đọc bài thơ, lời lẽ như vầy: Hang sâu người ngựa phải sa ngay Cái giống vô tình thật đáng thay! Cho biết thề sao thì có vậy, Giữ lời vàng đá, khỏi tai bay. Nàng ấy kêu Quân Bảo mà hỏi rằng: - Bốn câu thơ đó Thánh Mẫu viết đã lâu. Công tử quả như vậy không? Xin nói cho tôi biết. Cao Quân Bảo nghe nói như ngó thấy, nên không dám giấu tình, mới thuật hết đầu đuôi và xin mở đường chỉ nẻo. Nàng ấy cười nói: - Nếu vậy thì Kim Đính hửu tình hết sức, còn Cao Quỳnh bạc ngãi quá chừng! Chẳng những trượng phu quân tử đều chê, dẫu cho con nít đàn bà cũng ghét. Thề thì mắc, thắt thì rối, chạy sao cho khỏi, trốn sao cho xong, ai chỉ ngõ làm chi, giếng lạng ấy là huyệt tốt! Tuy vậy mà Thánh Mẫu có dặn: "Ta mắc đi chầu Thượng Đế, như Quân Bảo có đến đây phải ở chờ”, vậy công tử ở đây mà chờ, hoặc may Thánh Mẫu có tha về thì là phước đức mười đời để lại. Cao Quân Bảo nghe nàng ấy hỏi tội thì mặt mũi sượng trân tức mình hết sức, biết là ưng tội nên mới làm thinh, chờ Thánh Mẫu trở về hoặc thương hại mà cho chỗ nghỉ. Đứng một hồi mỏi quá, xảy câu nghe tiếng nhạc vang trời, thì nàng ấy nói: - Thánh Mẫu chầu trời về đó! Giây lâu nàng ấy ra nói: - Thánh Mẫu đòi Quân Bảo vào hầu. Cao Quân Bảo theo vào tới trước sân, thấy phía tả trồng tùng xanh, bên hữu trồng lựu đỏ, nhiều thứ hoa tươi cỏ tốt, thiếu chi cây lạ có một bà ngồi chính giữa, có mang xâu chuỗi hột bồ đề, tóc bạc phơ như bông, đầu đội mão thất tinh, mà mặt là mặt con gái. Cao Quân Bảo bước vào bèn lạy. Thánh Mẫu nói: - Thôi, công tử hãy đứng dậy, đặng ta khuyên bảo vài lời. Quân Bảo quì và bẩm: - Bởi tôi lạc đường nên mới sa xuống giếng lạng, đến cảnh tiên, vậy xin Thánh Mẫu lòng thương cho người đưa lại phàm trần, tôi đội ơn cứu mạng. Thánh Mẫu nói: - Ngươi dầu không nói ra, ta cũng biết rồi? Khen cho trí cả hơn người, lòng ngay vì nước, anh hùng đệ nhất, trung hiếu lưỡng toàn. Song yêu đạo phép cao, công tử đánh sao cho lại, người cự yêu sao nổi, tài đánh phép đặng nào, nếu có Kim Đính giúp công, trừ Dư Hồng mới đặng! Học trò ta muốn nâng khăn sửa tráp, sao nhà ngươi cứ chê ngọc bỏ châu, nhà ngươi coi tác hãy xuân xanh, khá khen bì Hạ Huệ. Đến nay lửa hương chưa bén, cầm sắc không hòa, tại cớ làm sao nhà ngươi cư xử như vậy, hãy nói thử? Cao Quân Bảo đọc lại ba điều trở ngại đã nói với Kim Đính cho Thánh Mẫu nghe và nói: - Bởi cho nên khó nổi vị tình, sợ không vẹn trước sau, chớ dám nào phụ bạc. Thánh mẫu nói: - Suy ba điều rất phải, song phải biết tùng quyền. Lời xưa có nói: "Đời thái bình lấy đức làm quan, cơn bát loạn trổ tài làm tướng". Tánh sao hay chấp nhất, lòng lại chẳng tùng quyền? Nay hai nước đua tranh phải nhờ người tài phép. Nam Đường có Di Hồng mới thắng, Đại Tống không Kim Đính sao xong? Vả lại nội nhà công tử đều hưng binh liều mình báo chúa, song đến đó mà dâng thủ cấp cho Dư trồng, chớ đánh sao cho lại? Nếu để đến chừng đó ăn năn sao kịp? Chi bằng trước vầy duyên nữ hiệp sau giải nạn mình rồng, sẵn có kẻ trừ yêu, mới vẹn bề cứu giá. Cao Quân Bảo còn giục giặc, Thánh mẫu thấy vậy mới nói nữa rằng: - Bởi duyên trời đã định, chẳng phải ta là người làm mối mà ép việc nhơn duyên! Nếu công tử không tin thì ta mời bà Nguyệt ông Tơ tới đây, người soạn bộ chồng vợ cho ngươi coi. Quân Bảo nghe nói liền dạ thưa rằng: - Nhắm đó đây rất xứng đôi vừa lứa, dám đâu phụ nghĩa bạc tình, chỉ e sầu cha mẹ tôi trách rằng không thưa mà cưới. Cho nên chắc là chẳng nhậm ngôn có phải lỡ việc nhơn duyên thiệt lòng thục nữ! Thánh Mẫu nói: - Công tử lo chi cho mệt! Chừng đôi ba tháng nữa, Kim Đính tới Thọ Châu cũng làm tôi một triều, cha mẹ lẽ nào chê mà không dụng. Lời Bàn. Tài năng và pháp thuật khi nó sử dụng đúng tâm lý cũng có thể chinh phục tình yêu giữa trai gái. Trong cốt truyện, tác giả vận dụng tài năng và pháp thuật tranh tài nơi chiến trận, nhưng ở đây, tác giả đã sử dụng tài năng và pháp thuật để chinh phục tình yêu. Đó là một câu chuyện khá ly kỳ làm độc giả thích thú theo dõi. Lưu Kim Đính lập bảng chiêu phu, con gái lập bảng kén chồng là điều hiếm thấy, nhưng rất sôi động, làm cho anh hùng hào kiệt phải nể mặt. Nhưng xét ra, Lưu Kim Đính kén chồng đã chọn ba điểm: - Thứ nhất: Tài năng, điểm này nàng chọn lựa bằng cách giao đấu. - Thứ hai: Dòng giống, nàng chọn bằng cách dò xét tâm ý và công việc làm của Cao Quân Bảo. Thứ ba: Tâm hồn, điểm này nàng chọn bằng cách dụ dỗ bướm ong, và lòng trung hiếu của Cao Quân Bảo. Ở đây điểm khó khăn nhất đối với Lưu Kim Đính là tìm hiểu tâm hồn. Khi đã biết Cao Quân Bảo không chê nhan sắc của nàng chỉ vì lo đi giải vây và cứu cha nên không màng đến việc nhân duyên, làm cho Lưu Kim Đính càng kính phục. Cái giá trị của Cao Quân Bảo là ở chỗ đó, mà tác giả đã diễn tả một cách tế nhị từ lời nói, cử chỉ của Cao Quân Bảo. Lưu Kim Đính dùng pháp thuật để ràng buộc tình nhân của mình cũng để thăm dò đạo nghĩa và tâm hồn của người mình yêu. Lối kén chồng như vậy quả là bậc nữ lưu trong thiên hạ.