rong ngắn ngủi đời người có lắm buổi chia ly và rất ít lần tái hợp, cuộc chia ly nào cũng thấm đầy nước mắt và nhiều nỗi đoạn trường. Ngay khi từ đứa trẻ sơ sinh thoát ra ngoài cái hang ổ ấm áp của lòng mẹ, cuộc tiếp xúc đầu tiên của nó với cuộc đời là cất lên tiếng khóc, cho đến cái ngày vĩnh biệt về với thiên thu, cũng tràn đầy tiếng khóc.Những lần vui hội ngộ thì thật hiếm hoi dù những lúc đó chỉ là để mở cửa cho một lần ly biệt mới. Hợp rồi tan, tan rồi tụ, luẩn quẩn trong dòng chảy đó biết bao cảnh đời đã qua, biết bao nhân ảnh còn để lại, có cảnh có người thì ta hoài niệm xót xa, nhưng cũng có cảnh có người thì ta mong đừng bao giờ tái hiện, dù chỉ là một thoáng mơ qua. Sống là một chuỗi chia biệt mà trong đời ai cũng phải trải qua: xa nhà xa quê, xa mẹ cha, anh chị em ruột thịt, người yêu, xa trường xa bạn, thầy cô... Tuổi trẻ thoáng qua rồi lăn trong cuộc kiếm sống đầy bon chen lừa lọc, danh vọng, địa vị, và của cải tiền bạc lúc lên như triều cường. Lúc được, ta hân hoan đắm đuối và lúc nó bỏ ta thì ta cũng tan tác như hoa giữa đường.Nếu không có liều thuốc lãng quên linh diệu thỉnh thoảng xuất hiện để cứu hộ con người, thì chỉ chuyện nhớ những lần mất mát chia tan cũng đủ não lòng. Nhiều người chắc hẳn cũng đồng ý với tôi: những lần nói từ biệt khó nhất trong cuộc đời là nói với mẹ mình. Cho đến bây giờ đã quá nửa đời người, mỗi lần nhớ về mẹ, tôi không ngăn nổi lệ tràn. Làm sao tôi có thể quên cái đêm trăng hôm ấy: Mẹ dẫn hai anh em tôi chạy ra bờ sông Bạch Yến, nhờ con đò nhỏ của một người làm nghề cá từ tâm che chở,để vượt sông thoát chạy lên Huế,mà đàng sau là một toán người làng cầm dao, gậy và cả súng các-bin... đang hung hăng gào thét lùng sục.Họ vừa đập phá ngôi nhà mới xây của cha tôi, hăm giết cả nhà, nhờ có người trong làng bảo bọc và thông báo trước nên cha tôi đã thoát chạy.Chuyện xảy ra mà tôi cũng như hầu hết người trong làng Thanh Lam Bồ còn nhớ rõ: Hồi đó trong xã, gia đình tôi là một gia đình giàu có. Cha tôi là một người thông minh và được nhiều họ tộc trong làng xã trọng vọng, ông là người đại diện cho họ trong nhiều lãnh vực ở địa phương. Năm xảy ra câu chuyện trên là năm cha tôi đang làm Đại diện xã. Sau khi được một vị linh mục đến nhà thăm viếng, rồi nhiều chức sắc khác trong họ đạo khuyên cha tôi " trở lại đạo " để đảm nhiệm chức vụ Quận trưởng trong kỳ sắp tới,mà mọi người cũng như chính quyền Tỉnh đã dồn hết tín nhiệm cho ông. Hồi đó việc " trở lại đạo " theo cách nói của người Thiên chúa giáo và " theo đạo " như cách nói của người lương, để chỉ những người bỏ ông bà tổ tiên theo một tôn giáo mà việc thờ cúng tổ tiên là điều cấm kỵ. Cha tôi đã từ chối lời khuyên " trở lại đạo " của phong trào Cách mạng quốc gia. Biết mình sức yếu thế cô chỉ dựa vào những người dân hiền lành tại địa phương thì cũng không làm trò trống gì được với thế lực đương quyền. Sau khi từ chối "theo đạo " vì lý do là không thể bỏ tổ tiên của mình thì cũng có nghĩa là ông đã từ chối làm Quận trưởng. Sự việc này làm mất uy tín một số chức sắc họ đạo địa phương. Vin vào một vụ tranh chấp đất đai nhỏ, những người ấy tổ chức một nhóm " dân vệ ", " thanh niên cộng hòa ", đến đập phá nhà và tìm bắt cha tôi với lý do: cha tôi là cán bộ Việt Minh được cài lại địa phương để phá hoại. Gia đình tôi phải bỏ lên Huế. Việc đầu tiên sau khi ổn định nhà cửa và học hành cho các con, cha gởi tôi đến học võ tại một thầy võ nổi tiếng ở Huế.Ngoài thời gian học ở trường, tôi bắt đầu luyện võ vào năm mười tuổi. Theo lời dặn dò của cha tôi là: Nam nhi sinh ra trong thời loạn phải học võ để bảo vệ bản thân chống lại áp bức, bênh vực người cô thế. Ngoài ra, ông còn nhắc khéo tôi về chuyện đã xảy ra khiến cả nhà phải bỏ cơ ngơi ruộng vườn ở quê, mà những kẻ gây ra chuyện đó đang còn sờ sờ ra đấy. Dù còn là một thiếu niên khờ dại, nhưng hồi đó trong lòng tôi đã đầy ắp một mối thù và hẹn ngày sẽ rửa sạch. Mối thù ấy cha tôi không nói ra nhưng tôi cũng đã hiểu và chuyên cần học võ, để một ngày nào đó sẽ cho những kẻ ác ấy nếm đủ mùi đòn thế, bắt chúng nhớ đến nhân quả. Trong đầu óc một đứa trẻ ngây thơ, tôi đã bắt đầu biết " nuôi sẹo " cho chuyện báo thù. Tôi đã đọc và cảm thông những nhân vật như: Lâm Xung, Võ Tòng... trong truyện Thủy Hử. Tôi mê hình ảnh một Kinh Kha bên bờ sông Dịch Thủy trong âm hưởng tiếng địch buồn tiễn biệt của người bạn Cao Tiệm Ly, khi sang đất Tần đầy bất trắc để ám sát Tần Thủy Hoàng. Tráng sĩ thề một đi không trở lại! Vì nghĩa cả quên thân mình, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng. Chết vì nghĩa lớn như Kinh Kha thì cũng như cánh chim bay về niềm ước mơ vĩnh cửu. Tôi thích thú những trang sử hào hùng Việt Nam.Nguyễn Thái Học với dũng khí ngửa mặt chờ lưỡi dao máy chém của bọn thực dân rơi xuống, miệng còn hô vang lừng khẩu hiệu " Việt Nam vạn tuế ". Phạm Hồng Thái với tiếng bom Sa Điện làm kinh hoàng giặc Pháp, quyết không để thân rơi vào tay giặc mà trầm mình xuống dòng Châu Giang xứ người, để Hoàng Hoa Cương vinh dự có đủ 72 mộ liệt sĩ cách mạng mà chính tay Hồ Hán Dân, Tỉnh trưởng Quảng Châu hồi đó đã viết trên bia tưởng niệm:" Việt Nam liệt sĩ Phạm Hồng Thái chi mộ ". Nguyễn Biểu hiên ngang mắng giặc với cỗ thịt người đãi sứ, chịu chết vinh chứ không sống nhục. Trần Bình Trọng thà làm dân nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc, những anh hùng liệt nữ, mà mỗi người là một quyển sử vàng mới chép đủ.Và trong số những bậc tiền nhân kỳ vĩ hiển hách công nghiệp ấy, tôi vẫn phục nhất là Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, người nắm binh quyền của cả nước từ hồi rất trẻ - người đã quên thù riêng với lời cha là An Sinh Vương Trần Liễu dặn dò trước lúc chết,quên cả ngai vàng mà lẽ ra với địa vị chính thống mình sẽ được hưởng, để lãnh đạo quân dân Đại Việt mấy lần chiến thắng Nguyên Mông, một thế lực phong kiến tàn bạo nhất thời đó mà cả nửa thế giới phải thuần phục. Trần Hưng Đạo vị danh tướng lẫy lừng của Đại Việt thời nhà Trần đã biến những chiến binh bách chiến bách thắng của Mông Cổ trở thành " giặc cỏ ". Trước đó những Hốt Tất Liệt, Toa Đô, Ô Mã Nhi từng tận hưởng niềm vui chiến thắng bằng cách: Phá thành giặc cho máu kẻ địch chảy thành sông,bắt con trai của kẻ địch làm nô lệ,biến vợ và con gái họ trở thành hầu thiếp, ca hát nhảy múa tưng bừng trong nước mắt của những chiến lợi phẩm biết đi đó.Nơi nào vó ngựa của họ đi qua thì cỏ không còn mọc nữa ". Gần trường tôi có một điện thờ Đức Thánh Trần, mỗi lần học sinh chúng tôi đi qua đều phải cất mũ cúi đầu, bởi vì oai linh của ngài cho đến nghìn đời sau con cháu vẫn còn kính ngưỡng. Nhớ những buổi trưa hè tôi năn nỉ với bác thủ từ điện Thánh cho vào chiêm ngưỡng dung nhan ngài qua bức tượng thạch cao trên bệ thờ và tượng của tà thần Nguyễn Nhan đang quỳ gối ( một tướng tài của Mông Cổ theo truyền thuyết có tà thuật bị Trần Hưng Đạo bêu đầu ). Tôi đã khấn nguyện và hứa với ngài là sẽ trở thành một đại trượng phu, báo thù nhà xong sẽ quyết vì đất nước mà phơi thây ngoài cỏ nội non ngàn cũng cam lòng. Không biết tự bao giờ và lời nguyện cầu của tôi có đến với Đức Thánh Trần không? Từ một đứa trẻ ham chơi tôi trở nên chín chắn hẳn, không còn cười đùa vô tư như trước.Ngoài chuyện học chữ đêm về tôi luyện võ, đến nỗi thầy tôi cũng ngạc nhiên về sự tiến bộ của đứa học trò nhỏ. Cho đến một ngày, tôi còn nhớ rõ năm đó tôi học đệ thất trường Bồ Đề Thành nội Huế, thầy hướng dẫn lớp là một Đại đức hiền từ đã gọi tôi lại và ngỏ ý muốn nhận tôi làm đệ tử về ở chùa với thầy.Sau khi nghe thầy nói, câu đầu tiên mà tôi trả lời thầy là hỏi lại:" Thầy và mấy thầy tu ở chùa có võ Thiếu Lâm hay võ Ta không?". Thầy cười và trả lời:" Riêng thầy thì không biết võ nhưng chư huynh, đệ của thầy trong chùa thì ai cũng biết võ...". Thầy còn kể thầy là đệ tử của Ngài TL, một chùa lớn ở Huế, hòa thượng trụ trì chùa này không những võ nghệ cao cường như biết cách không điểm huyệt, phi thân mà còn biết trị cả tà ma. Hễ bất cứ người điên nào bị ma ám, quỷ theo, được thân nhân dẫn đến chùa xin hòa thượng trị bệnh đều sợ hãi quỳ lạy. Nhiều người điên đến chùa sau một thời gian thì lành hẳn, có người thì không còn quậy phá. Ngài hòa thượng TL nổi tiếng mà phật tử ai cũng biết, bất cứ tu sĩ nào phạm giới dù là rất nhỏ, nếu biết được ngài đều răn trị đến nơi đến chốn. Nghe chuyện thầy kể, tôi rất khoái và về thưa lại với cha mẹ.Cha tôi hẳn không vừa ý, riêng mẹ tôi thì nhỏ nhẹ nói với đại ý là:" Nếu nó muốn ở chùa là phước lớn của gia đình,chưa kể ở chùa nó còn được tu học trở thành người tốt thì tại sao lại ngăn cản con trẻ! Hơn nữa chùa chỉ cách nhà một con sông nhỏ thuận tiện việc theo dõi thăm viếng ". Thế là tôi trở thành điệu nhỏ ở chùa DĐ, một chùa lớn ở Huế. Bổn sư rất mực hiền lành, ngoài giờ dạy ở trường còn lại chỉ chuyên tâm nghiên cứu Phật pháp và chữ Hán.Thầy năm ấy chỉ mới ngoài ba mươi tuổi nhưng trong ý nghĩ của tôi thầy là một nhà sư đạo hạnh sâu dày.Thầy từ tốn dạy tôi từ cách ăn, uống cho đến lời nói, bước đi... theo oai nghi của một người xuất gia, chưa bao giờ Thầy la mắng, thậm chí một cái nhíu mày cũng chẳng thấy xuất hiện trên khuôn mặt hiền lành ấy. Thế nhưng,gần như là một sự thật oái ăm, trong cuộc đời những người hiền không ở lại lâu với chúng ta. Tôi sống với thầy chưa được một năm thì thầy lâm bệnh mà mất. Tôi còn nhớ: chiều thu ấy trước sân chùa lá rơi nhiều và có mưa nhẹ, thầy vĩnh biệt cuộc đời cũng nhẹ nhàng như đi ngủ sớm. Thầy còn một người chị cả ở đâu tận ngoài Quảng Trị, không kịp vào gặp em lần cuối. Hòa thượng trụ trì cũng không ngăn nổi cảm xúc trên khuôn mặt, ngài thở dài tay lần tràng hạt. Tôi như nghe rõ âm thanh của chuỗi hạt bồ đề trên tay ngài và tiếng thở dài ấy. Ngoài sân chùa lá vẫn rơi và mưa đã về trắng xóa cả hoàng hôn. Khi làm lễ tang và tụng kinh đến câu: Hoa khai kiến ngộ Phật vô sanh ", tôi không ngăn nổi tiếng khóc chợt vỡ òa, nên vội bước vào thiền phòng cũ của thầy ôm cái bồ đoàn và cái áo tràng của thầy mà khóc nức nở. Đó là lần chia tay đầu tiên của tuổi thơ tôi và cho đén bây giờ nụ cười và ánh mắt của thầy vẫn luôn về trong tâm tưởng, hình bóng ấy đã đi theo cuộc đời tôi như một vị thần hộ mệnh hiền lành, sẵn sàng an ủi khuyên bảo mỗi khi tôi động tâm sai trái hay lỡ làm điều gì không phải. Sau khi thầy mất, tôi được sự hướng dẫn dạy dỗ của một đại đức khác mà chúng điệu gọi là thầy phó. Thầy phó thường phạt tôi quỳ mỗi lần tôi có lỗi nhỏ, hay xách tai thức tôi dậy mỗi sáng để dộng chuông cho kịp thời công phu. Thật lòng là tôi không thích thầy, nhất là mỗi khi nhìn thấy thầy nói chuyện với các cô trong gia đình Phật tử đến chùa sinh hoạt vào cuối tuần. Mỗi lần như vậy tôi liên tưởng đến thầy tôi đã mất - Thầy tôi đẹp trai, là giáo sư Trung học nhưng chưa bao giờ nói chuyện riêng với phái nữ dù đó là học trò. Thầy thường kể cho các điệu nghe chuyện ngài A Nan một đại đệ tử của Đức Phật.Theo truyền thuyết thì A Nan là một người đẹp trai lại tài giỏi nên rất được phái nữ ngưỡng mộ. Mỗi lần A Nan đi khất thực thì được rất đông nữ tín đồ chờ đón và cúng dường, A Nan thường giữ giới hạnh rất tốt, nhưng có lần trên đường đi đã gặp một nữ thí chủ có dung mạo đẹp tuyệt vời, đến nỗi A Nan không làm chủ được mình trước sắc đẹp này. Lần ấy Đức Phật dùng từ bi thần thông để cho A Nan thấy cái vẻ đẹp mỹ miều bên ngoài của người thiếu nữ đó, lại chứa bên trong những máu mủ và cặn bã bất tịnh của thân người, dù nhan sắc hoàn mỹ đến mấy cũng chỉ là tấm áo che một thực thể cấu uế. Cái thân vốn bất tịnh và ta phải quán tưởng thân bát tịnh để biết giả chân, biết lẽ vô thường biến dịch và sự tạm bợ suy hoại của muôn loài và đồng thời để buông xả tham ái. Thầy tôi kết luận:" sinh, lão, bệnh, tử là lẽ thường tình, nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành cũng theo thời gian mà phai tàn, còn lại là một đống xương khô, chỉ duy tâm đức mới sáng mãi với thời gian ". Một thời gian ngắn sau khi thầy mất đi, tôi cũng bỏ tu xa chùa. Hồi đó tuy đang là một thiếu niên mới lớn nhưng tôi cũng có sức chịu khó khá tốt,những tháng ngày theo học võ làm tôi trở thành điềm tĩnh và cứng cỏi trước những nghịch cảnh. Tôi không ngại những lần chưa thuộc kinh, luật... phải bị quỳ. Tôi không oán trách thầy một chút nào, nhưng duy nhất có lần tôi phản ứng lại thầy và đó cũng là lần tôi ra khỏi chùa. Tôi nhớ lại đêm ấy trăng vừa lên, sân chùa đẹp lạ lùng với những mảng cây hoa lá huyền ảo. Trăng sáng mềm một màu lụa vàng trải từ mặt nước của dòng sông trước mặt phủ lên mái chùa cổ. Tôi và một vài điệu cùng bốn năm đứa bạn trẻ học cùng lớp ở chung quanh chùa tụ tập.Theo yêu cầu của chúng, tôi say sưa biểu diễn hai bài quyền Bát đoạn cẩm và Lão mai, cả bọn đang thích thú và say mê những động tác thuần thục của tôi, thì thầy phó đến tự hồi nào mà chúng tôi không hay ; sau một tiếng đằng hắng lạnh lùng, thầy kéo tôi vào phòng và răn đe tôi về chuyện luyện võ. Thầy phó bảo tôi từ nay về sau chỉ được học chữ ở trường và học kinh, luật mà thôi. Nếu thầy bắt gặp tôi " quyền cước " một lần nữa là đuổi ra khỏi chùa. Thế là hết! Ngay ngày sau tôi lạy Phật, lạy thầy và khăn gói ra khỏi chùa. Hòa thượng trụ trì lúc này đangcó Phật sự trong Nam, tôi cũng không có dịp gặp mặt, chỉ sau này mẹ tôi vào chùa thưa lại, nghe kể "ôn" chỉ cười và nói " chuyện đi hay ở của hắn đều tùy duyên ". Tôi nhớ "ôn " ( người Huế hay gọi những bậc chân tu tuổi lớn là ôn ) sâu đậm. Mỗi lần quỳ sau "ôn ", nhìn lưng "ôn " phẳng lì và rộng thẳng đứng như một bức tường chở che cho chúng tôi. Ngày "ôn " viên tịch, tôi đang ở Ý, nghe nhiều hãng tin nước ngoài loan báo về đám tang "ôn " ở Huế, Phật tử trong nước về chùa để tang cả vài vạn người, linh tháp của "ôn " phụng lập ở chùa Thiên Mụ, đến nay ngày nào cũng có người hành hương đến cúng bái. Năm mười ba tuổi, tôi xin thụ giáo với thầy Choji Suzuki tại võ đường Linh Trường Không Thủ Đạo. Trong ký ức của tôi cũng như những đồng môn khác, không ai không khỏi nhớ về Thầy-Cô, với những tình cảm tốt đẹp nhất của quãng đời hoa niên của mình. Nhờ sự dạy bảo của Thầy, anh em chúng tôi mới hiểu được cái đạo của võ và cái hồn của võ đạo. Tôi từng ngày thấm thía nhận ra rằng: Học võ ngoài sự chuyên luyện cho thân thể mình cương kiện, đòn thế, công thủ hợp với âm dương, hài hòa thể nhập trong khí hạo nhiên của trời đất, còn phải luyện Tâm, điều Tâm và tu Tâm. Tâm nương vào Thân, Thân hòa điệu với Tâm để Thân Tâm trở thành một hợp thể nhất như. Một ngày kia cái thân cát bụi sẽ trở về với cát bụi nhưng cái Tâm còn mãi và ta sẽ trở lại trong biến dịch, không từ đâu đến - không đến từ đâu, không sanh - không diệt. Với Tâm vô ngại thì đảo điên mộng tưởng xa lìa, trí tuệ phát sinh năng lực vô biên vô lượng dẫn đường đến giải thoát. Hơn một năm ở chùa và dù thầy tôi đã mất, nhưng vẫn còn đó các lời khuyên nhủ của thầy. Nhớ lại những ngày xách túi vải theo hầu thầy đến các danh lam để tham vấn học hỏi Phật pháp. Hoa Tâm trong tôi như bắt đầu hé nở nụ xanh. Vết thù nuôi dưỡng mấy năm qua trong lòng tôi như mất dần theo thời gian. Tuy còn nhỏ nhưng tôi cũng đã nghiệm ra:" Oán thù nên cởi chứ không nên buộc ", nếu mãi nuôi thù thì sân hận tràn ngập lòng ta, biến ta thành thú dữ, không còn biết đâu là bến bờ của chân thiện mỹ. Võ đạo đã biến vết hận thù còn đọng lại trong trái tim đứa trẻ thơ ngây ngày nào thành hoa Tâm, một loài hoa có sắc màu lóng lánh của hiểu biết và thương yêu. Công ơn thầy dạy ở chùa, thầy dạy ở Võ đường và tấm lòng hiền lành chân thật của mẹ tôi, những nguồn lực ấm áp đó có khả năng giúp tôi cởi được mối thù ly hương với cảnh cửa nát nhà tan một cách nhẹ nhàng không gợn chút hận lòng. Mấy năm về sau khi tôi gặp lại những kẻ ác độc ấy trong lúc đã thất thế, nhìn ánh mắt run sợ của họ mà lòng tôi dậy lên một niềm thương hại mà tiếc là chưa đủ sự lân mẫn sâu xa để có thể vỗ về an ủi. Họ đã hối hận và nhờ người đến hòa giải với cha tôi. Mối thù xưa trong lòng cha tôi rồi cũng được rửa sạch mà không tốn công sức của ai, chỉ nhờ sự nuôi tâm từ bi của Phật đạo và lòng nhân hậu của mẹ tôi - một người mẹ hiền đúng nghĩa. Sau này khi ở hẳn Sài Gòn, cha tôi cũng đã dành một số tiền lớn để đem về làng cũ tu sửa đình, chùa và đắp con đường đất đỏ đi quanh làng, cho bà con đi lại được thuận tiện. Ông còn mong ước sửa lại cây cầu cho dân làng mà ông đã làm mấy chục năm về trước. Cây cầu mà chiều nào, đêm nào của thời thanh bình không bao giờ vắng người đến soi mình dưới dòng nước chảy - nguồn thủy lợi cho cánh đồng quê tôi vốn trước là một vùng đất pha cát cằn cỗi. Thế là tôi đã có gần mười năm mê say võ nghiệp, từ võ Thiếu Lâm, võ Ta cho đến Không Thủ Đạo. Ngày tôi nhận đai đen đệ nhị đẳng cũng là lúc tôi nhận trọng trách Trưởng tràng đời thứ II của võ phái Linh Trường Không Thủ Đạo. Tôi cũng bắt đầu viết cuốn sách đầu tiên về kỹ thuật đai đen Karaté trong thời gian này. Hai mươi tuổi đầu có chiều cao trên một mét tám mươi, cân nặng hơn tám mươi ký, về nội ngoại công phu tôi có thể đấm vỡ 10 viên gạch thẻ, cước công phá có thể làm vỡ tan một tấm gỗ dày, hai tay có thể bóc và vo tròn một cái nắp trên chai bia trong chưa đầy nửa phút, dừa tươi, dừa khô gì tôi cũng có thể chặt vỡ bằng hai bàn tay. Hồi đó tôi tự hào về công phu của mình, các sư đệ của tôi cũng tự hào về người sư huynh của mình. Tôi có thể đá bay qua đầu bốn năm người.Ở Huế những người biết võ đều cho tôi là một cao thủ võ lâm mình đầy huyền công tuyệt kỹ. Bây giờ nghĩ lại tôi thấy buồn cười cho sự thiếu khiêm tốn của mình và bạn bè hồi đó. Chao ôi võ học là bến bờ vô hạn không có nấc thang cuối, như nhãn giới càng đi tới, chân trời càng lùi xa. Giờ đây đã qua tuổi năm mươi, tôi chưa bao giờ mảy may hối tiếc về chuyện học võ của mình. Nhờ có võ đạo tôi mới biết đến y lý Đông phương và các phương pháp thực hành của nền y học cổ truyền mấy ngàn năm ấy, để sau này có dịp gần gũi và học tập thêm ở một người anh, một người thầy như bác sĩ Trương Thìn, cùng tận tụy cứu chữa bệnh nhân trong những năm đầu giải phóng, khi mà thuốc Tây quý hơn vàng trong buổi đầu cơ cực ấy. Từ võ đạo tôi mới thấy công năng, công dụng của khí công, một di sản văn hóa quý giá của người Á Đông. Khí công góp phần đem lại sức khỏe hạnh phúc cho mọi người không riêng ai nếu chịu khó luyện tập, khả năng phòng chống bệnh tật của một người luyện khí được tăng cường không ngừng. Thực chất của việc luyện tập khí công không ngoài tập trung điều hòa chân khí để tạo ra nguyên khí và duy trì chính khí. Từ khí công tôi bắt đầu đến với thiền quán, đến với Đại thừa Phật pháp, nói nôm na là đi tìm lại Tâm mình và như người tiều phu năm xưa khi nghe kinh Kim Cương: Ưng vô sở trú sinh nhi kỳ tâm ° " mà thấy được con đường mình phải đi, mà thở được cái hơi thở tự tại hồn nhiên vô ngại của phương quãng đại thừa, mà "ngộ " ra các phương trời giải thoát lộ hiện, cho dù đang đốn củi, nấu cơm, gánh nước... rồi một ngày kia trong lẩn khuất tận cùng tâm thức của mình, anh ta đã tìm kiếm được, tự tâm chiêm nghiệm được ý nghĩa cứu cánh của trí tuệ bát nhã. Tôi hoàn toàn không đánh bóng hoặc đề cao để viết trong hồi ức này rằng: Võ phái Không Thủ Đạo tại Huế đã đào tạo ra nhiều võ sư danh tiếng và làm rạng rỡ tông môn. Những người ở nước ngoài như Hạ Quốc Huy, Ngô Đồng, Bảo Trai, Trần Đình Tùng, Vĩnh Tung, V.Đ. Vạn, Hồ Văn Ngọc, Nguyễn Thành Vinh, Hoàng Châu... Trong nước thì có Lê Văn Thạnh, Nguyễn Văn Dũng, Hoàng Như Bôn, Ngô Văn Thanh, Khương Công Thêm, Trương Đình Hùng, Đoàn Đình Long, Nguyễn Tấn Kiệt, Nguyễn Ngọc Thạo...những người đã xây dựng môn võ học Không Thủ Đạo cho đất nước trong thời gian qua. Họ đã đóng góp công không nhỏ, để gặt hái những kết quả mà các môn sinh, võ phái gần đây mang về những tấm huy chương vàng, bạc cho nền thể thao đất nước. Không những thế, với hơn vạn môn sinh hiện nay ở Việt Nam, hầu hết những người ấy đều được hình thành nhân cách ban đầu từ Đạo đường bên chân cầu Đông Ba bé nhỏ, trực tiếp hay gián tiếp từ sự dạy bảo của thầy Suzuki. Từ khi mang trong mình một ít võ công, tôi chỉ có hai lần sử dụng nắm đấm của mình. Lần đầu tiên vào năm 1966, khi người bạn của tôi là Điền ôm cái đầu đầy máu chạy đến trước lớp mà tôi đang ngồi học. Điền bị một nhóm du đãng ở Huế thời bấy giờ chặn đánh trước cổng vào trong sân trường, lý do đơn giản là chúng muốn " dằn mặt " những học sinh có võ. Điền tự vệ chính đáng và bị chúng dồn vây vào trường, và đánh một búa vào đầu. Tôi không kịp xin phép thầy vội nhảy ra cửa sổ dìu Điền... và tự nhiên cơn nộ khí xung thiên ập đến, bất ngờ tôi chạy xuống cầu thang đến nơi bọn đó còn đang tụ tập. Tôi tả xung hữu đột trong vòng vây của gần ba mươi tên du đãng, đánh cho chúng một trận kinh hoàng, dù chúng có đủ loại vũ khí trong tay nhưng phải tháo chạy tứ tán. Sau này tôi nghe Sáu Trí - một người bạn cùng lớp kể lại và ví von:" như Thường Sơn Triệu Tử Long phò ấu chúa đánh quân Tào Tháo ở trận Đương Dương Trường Bản trong truyện Tam Quốc Chí, Sáu Trí cường điệu thêm: thật là lực bạt sơn hề khí cái thế, tụi nó chạy như vịt mà đứa nào cũng có hung khí trong tay ". Khi tôi đưa Điền đến phòng cấp cứu bệnh viện Trung ương Huế, thì nhóm ấy cũng đưa mấy tay bị thương vào phòng cấp cứu. Chúng tôi nhìn nhau, hình như không khí trong phòng cấp cứu đầy bệnh nhân rên rỉ đau đớn, với máu, bông băng, mùi cồn... lòng ai cũng dịu xuống, bao nhiêu giận dữ căm hờn một tiếng đồng hồ trước đó giờ đã lắng xuống và nguội lạnh như tro tàn. Nhìn những đứa bị tôi đánh chấn thương đau đớn, tôi không khỏi hối hận về hành động vừa qua của mình. Tôi nhớ TH, tên trùm nhóm du đãng ấy lê bước chân về phía tôi,hắn cười ngượng ngùng và nhỏ nhẹ làm lành:" Thôi ông hỉ! Bên tôi bị ông đánh thành thương tích cũng nhiều, huề nhé ". Tôi cũng cười đáp lại và thấy nhẹ nhõm cả lòng. Lần thứ hai mà tôi phải dụng võ: một đêm đi về trên đường Hàng Bè, tôi chứng kiến tận mắt cảnh năm bảy tên thanh niên đang lôi tóc và đánh đập tàn nhẫn một thiếu nữ.Tôi đến khuyên can không ngờ trong bọn một tay móc súng nổ xoẹt trên đầu tôi, đó là khẩu súng pháo hiệu mà viên đạn có pha chất lân tinh của nó đủ để làm chết người một cách đau đớn. Tôi vung tay và đánh bay súng của tên đó, cả bọn nhào vô, xáp đấu... một mình tôi hạ mấy đứa đủ thời gian cho cô gái chạy thoát. Sau này nghe người ở Vạn Đò kể lại:" Cô gái ấy phải bán thân nuôi mẹ và con nhỏ, bị bọn chúng hành hạ cưỡng hiếp không trả tiền, lại còn lấy đi số tiền mà cô ki cóp bấy lâu. Cô than khóc và kêu cứu nhưng không ai dám can thiệp và còn bị chúng đánh đập đến mang thương tích.". Cũng may đêm đó tối trời nhìn không rõ mặt, vì về sau bọn chúng cố truy tìm tôi để trả thù nhưng không được như ý. Tôi đã nhịn nhục rất nhiều lần đối với những trường hợp gây hấn của nhiều người, trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Những lần tránh được xung đột lòng tôi thư thới, cái tự ái nhỏ nhen, sự thiệt thòi đôi chút trong lời nói trao đổi, mà mình biết tương nhượng sau này mới thấy đáng quý. Tuy nhiên những trường hợp ức hiếp phụ nữ, trẻ em như vừa kể trên là tôi không thể dằn lòng được. Biết bao nhiêu cảnh đời thương tâm bị đày ải vào trong những hoàn cảnh trái ngang, khốn khó, thương không hết mà nhẫn tâm ra tay vùi dập thì còn gì là đạo lý. Nguyễn Trãi, bậc khai quốc công thần của nhà Hậu Lê, người yêu nước thương dân đến:" đêm ngày cuồn cuộn sóng triều đông " đã dạy bảo chúng ta trong Gia Huấn Ca mấy ai nhớ để mà:" Thương người như thể thương thân! " Nhứng ý tưởng súc tích về chữ Tâm rất đời thường đầy trong sách cổ Việt Nam, mấy ai còn nhớ để dạy bảo con cháu. Nền đạo học Việt Nam là học làm người - học làm dân để giữ nước và dựng nước, lấy nền tảng văn hóa truyền thống làm chỗ dựa. Thế nhưng ngày nay, với cái học khô cứng, sáo mòn và giáo điều, Nhân học đã không còn chỗ đứng. Sử học, Văn học, Mỹ học dường như bị lãng quên và chỉ dành riêng cho một số ít người, còn đa số là học những ngành dễ kiếm tiền, để mong cầu những vị trí béo bở, ngồi chiếu trên kẻ khác. Cảm thán thế sự không chỉ là riêng cá nhân tôi mà trở thành một xu hướng chung, như là sự thể hiện phản ứng của xã hội trức những suy thoái về văn hóa đạo đức. Dù đó là căn bệnh chung của mọi xã hội nhất là ở những xã hội đang hội nhập và phát triển, nhưng nếu chúng ta không kịp thời có liệu pháp để ngăn ngừa thì hậu quả to lớn của sự lấy " ngọn làm gốc " sẽ không tránh khỏi. Giới trẻ ngày nay có đủ phương tiện để nắm bắt thông tin khoa học công nghệ... đó là điều đáng mừng. Bên cạnh đó là họ thờ ơ và không hiểu gì về nền văn hóa dân tộc, để giữ gìn bản sắc và truyền thống, sẽ trở thành bi kịch nếu các em bị tha hóa trước đồng tiền và những quyến rũ vật chất khác. Trong cảnh " kẻ ăn không hết, người lần không ra " hoặc " ngồi mát ăn bát vàng " thì ước vọng thực hiện công bằng xã hội sẽ trở thành yêu cầu cấp thiết của đa số nhân dân. Tôi vào Nam năm chưa tròn hai mươi tuổi. Trong suy nghĩ của nhiều thanh niên chúng tôi thời ấy - Sài Gòn đất rộng người đông, chính là nơi khởi nghiệp cho những người có nhiệt huyết, bản lĩnh để hoàn thành hoài bão hoặc tâm nguyện của mình. Con người ở đây dễ hòa nhập trong dòng chảy của đời sống, vô danh trong sinh hoạt đời thường và có nhiều môi trường thích hợp để vươn lên, không như ở Huế - một thành phố cổ, đất của học hành nhưng lại không có môi trường thi thố tài năng. Ở một thành phố mà mọi người đều có thể quen nhau, trong nhà chưa tỏ ngoài ngõ đã hay, phương tiện giao thông khó khăn ( trước năm 1975 ) thì thật không dễ cho việc sinh cơ lập nghiệp. Sài Gòn - Gia Định mà chùa Lá là nơi dừng chân của tôi trong một thời gian ngắn. Từ một nhân duyên, tôi quyết chọn Lâm Đồng - Đà Lạt như một miền sơn cước xa xăm để làm một gã sơn tăng. Tùng Môn Trang là nơi tôi đến ẩn tu với những công việc rất bình thường của một người làm vườn - trông núi giữ đồi. Trong thảo am ở chốn tùng lâm ấy tôi không miệt mài như một học giả để tìm hiểu, chú giải những diệu nghĩa của kinh luận, mà sở nguyện qua năng lực trực giác để thâm nhập vào ý nghĩa chân thật của sơ tâm! Nhưng trong chiến tranh, tôi cũng như mọi người đều không có tự do chọn lựa. Tôi phải đối mặt với cơm áo đời thường, còn có bổn phận để phụng dưỡng mẹ già nuôi nấng em dại, chưa kể phải bị buộc cầm súng bắn giết đồng bào của mình. Nghịch duyên khởi đến trùng trùng, không còn an tâm trong sơn cốc được nữa, tôi xót xa gởi lại đạo bào để trở lại bình nguyên -về trong cuộc phong trần điên đảo. Năm 1970, được sự đồng ý của Thầy Suzuki và nhờ sự giúp đỡ nhiệt tình của anh H.T.Giác tôi mở võ đường Bảo Quốc tại Tân Phú - Gia Định. Đây là vùng ven đô nên vẫn còn cảnh quan của một vùng quê Việt Nam với những khoảnh ruộng, tre xanh, hàng rào dâm bụt với những hàng cau thưa... Môn sinh trên cả trăm người mà phần lớn là sinh viên học sinh nghèo, nhiều anh chị từ Sài Gòn cũng lặn lội trên mười cây số về đây theo học. Trở lại thành đô, ngoài nỗi nhớ Tùng Môn Trang mà hình bóng vẫn trọn vẹn trong lòng tôi như mới ngày nào, nhiều người bạn khác như Phú, Trí của Huế lúc này cũng đã lưu lạc về đây để " cùng một lứa bên trời lận đận ". Trí người bạn học thời niên thiếu của tôi ở Huế, người nổi tiếng "ham chơi " một thuở, mới được Thầy Thanh Văn làm lễ thí phát tại chùa Lá, không lâu sau Trí được cử lên Lâm Đồng. Chia tay tôi Trí nói sẽ đến Tùng Môn Trang và đúng như lời đã hứa, Trí về chùa LP. Ở đấy anh đã gặp Giải Lập và trong tình huynh đệ họ trở lại Tùng Môn Trang. Chúng tôi kẻ lên người xuống, riêng tôi không hẹn sẽ quay về. Ngày chia tay Trí có nhờ tôi trao lại bản đánh máy cuốn Áo Nghĩa Thư ( Upanishad ) do giáo sư Thạch Trung Giả dịch và chú giải ( giáo sư viết tay nhờ Trí sửa morát và đánh máy ). Thạch Trung Giả lúc này đang dạy ở Đại học Vạn Hạnh, ngoài thời gian lên lớp cho sinh viên ông về tá túc tại chùa Lá. Ở đây giáo sư vùi đầu vào nghiên cứu, diễn dịch cũng như viết các cuốn luận về triết học cổ Ấn Độ. Giáo sư là người lặng lẽ không phô trương sở học cao vời của mình, không mầy khi tiếp xúc với ai ngoài anh Nguyên. Chỉ duy Trí và tôi là hai người mà ông mến nhất - người có thể vào phòng ông uống trà, cà phê... Mỗi lần thăm nhà từ Nha Trang trở vào ông đều dành cho hai anh em vài con khô mực, cây thuốc Bastos... Giữa chúng tôi nảy sinh tình thầy trò một cách tự nhiên với niềm say mê chung là sử học, nhất là lịch sử thời nhà Trần. Giáo sư có thể ngồi nhàn đàm với chúng tôi suốt buổi từ lãnh vực này sang lãnh vực khác, nhiều đề tài mà đến bây giờ tôi cũng còn nhớ như: Thiền phái Trúc Lâm, môn vật Việt Nam, thủy quân nhà Trần. Anh em chúng tôi may mắn được giáo sư dạy bảo rất nhiều. Là người đa tài nhưng rất khiêm tốn, có gốc gác tại phủ Thiên Trường ( Nam Định ) nơi nhà Trần khởi nghiệp, nên mỗi lần nói đến tiền nhân là như sống lại với những giấc mơ cố hương một thuở. Hai mươi sáu năm sau tôi mới gặp lại Trí, còn giáo sư thì đã ra người thiên cổ. Bước ra cửa văn phòng của ông giám đốc nhà xuất bản Khai Trí, với số tiền một trăm ngàn đồng nhận từ chính tay ông, tôi thấy nhẹ cả người. Đối với tôi cảnh quang hôm ấy trên đại lộ Lê Lợi thật dễ thương và đẹp đẽ làm sao! Cũng ồn ào náo nhiệt xe người như thường lệ, nhưng lòng tôi tràn đầy nỗi hân hoan vô hạn, tất cả đều trở nên đáng yêu vô cùng. Mấy ngày trước gặp ông, dù hết sức tự tin nhưng tôi vẫn có phần hồi hộp và lo lắng nhất là khi đưa tập bản thảo cuốn sách võ học đầu tiên mà tôi viết hơn hai năm trước, khi chưa tròn hai mươi tuổi. Sau khi xem qua, ông hẹn tôi quay lại rồi sẽ quyết định. Bây giờ cầm món tiền lớn giá trị bằng sáu lượng vàng theo thời giá năm 1969, tôi nhớ đến công ơn Thầy cô, cha mẹ, là những người bồi đắp cho sự thành công nhỏ đầu tiên của mình. Từ lâu tôi đã biết nhà xuất bản Khai Trí rất có uy tín và gần như độc tôn trong lãnh vực xuất bản các văn hóa phẩm với chất lượng cao, nhất là sách giáo khoa. Ngoài việc kinh doanh ông giám đốc còn là một nhà thẩm định tác phẩm đầy uy tín.Sách nào đã qua mắt và tay ông phát hành đều trở thành những tác phẩm được ưa thích của người đọc. Tôi còn nhớ khi hỏi về giá mua trọn bản quyền của cuốn Huyền Đai Karate thấy tôi băn khoăn không biết tính toán giá cả như thế nào, ông nghiêm chỉnh đưa ra một con số, con số mà tôi chỉ biết thầm cảm ơn và mừng như mở cờ trong bụng. Ước mơ đầu của tôi đã thành sự thật! Cuốn sách kỹ thuật về Karate mà tôi riêng kính tặng Thầy sẽ được xuất bản và nay mai nó sẽ đến tay nhiều người, đó là điều quan trọng nhất. Tôi hoàn toàn không nghĩ đến việc kiếm sống bằng nghề võ, nhưng như bất cứ một võ sư nào khi đã chiêm nghiệm được cái thiện mỹ của võ đạo, đều mong muốn truyền lại những tinh túy của hồn võ cho những người đi sau. Theo tôi việc làm rạng danh võ phái là mục tiêu chung của những cao đồ,nhằm đáp lại công ơn của Thầy tôi - một Samurai xứ hoa Anh đào đã chọn Việt Nam làm quê hương thứ hai của mình, đã nhiệt tình truyền thụ võ công cho chúng tôi với bao tâm huyết. Trong nhận thức của mình về lịch sử dựng và giữ nước của dân tộc, tôi thấy rõ truyền thống thượng võ hào hùng của cha ông từ ngàn xưa để lại. Nếu không có những anh hùng liệt nữ dùng võ nghiệp để đánh quân thù bảo vệ nhân dân thì còn đâu giang san gấm vóc ngày nay! Võ nghiệp gắn liền với sự hy sinh quên mình, với dũng khí để nhìn thẳng vào kẻ thù và sẵn sàng đối đầu với nó, dù kẻ thù có mạnh hơn ta trăm lần. Dụng võ không chỉ đơn thuần là đối kháng tay đôi mà còn ứng dụng thời cơ mưu thế. Rất nhiều người quan niệm học võ là để đối kháng cá nhân, giỏi hơn là đánh đỡ được đôi ba người. Quan niệm này thật sai lầm hoặc chỉ đúng cho những lò võ luyện môn sinh đi đả lôi đài. Đòn thế võ có khi tiến khi thối, công rồi thủ,từ nhu qua cương rồi tả xung hữu đột, dùng đòn nghi, đòn nhử dương đông kích tây, lả lướt như nước chảy mây trôi để rồi dũng mãnh như hổ vồ rồng múa. Từ võ nghệ đến võ đạo tiền nhân đã sáng tác những pho binh pháp truyền đời, sử dụng cho đến ngày nay vẫn còn hiệu nghiệm. Binh pháp của Tôn Tử, Võ Mục di thư của Nhạc Phi, Binh thư yếu lược, Vạn Kiếp tông bí truyền thư của Trần Hưng Đạo...đều từ những con người thiên tài nghiên cứu võ công, để thấy có thể Binh pháp, binh thư không hẳn chỉ dùng riêng cho quân sự, mà còn ứng dụng vào nhiều lãnh vực khác trong xã hội. Vậy người học võ không phải là kẻ hữu dũng vô mưu, học võ là học để hình thành nhân cách của bậc trượng phu quân tử. Xuất xử ở đời tùy thời, tùy hoàn cảnh mà ứng phó, lúc nào cũng điềm tĩnh tự tin và biết rõ mục tiêu đạt đến của mình. Ngày trước khi đất nước bị nạn ngoại xâm, nhân dân rên xiết trong cảnh đời nô lệ đày ải, biết bao nhiêu người phải dẹp bút nghiên theo nghiệp võ. Những sĩ phu văn thân sức trói gà không chặt, nhưng cũng cầm gươm đeo kiếm luyện tập để xung trận diệt thù và sẵn sàng lấy máu đào tô thắm non sông. Những văn nhân như Nguyễn Trãi, Nguyễn Thiệp, Ngô Thời Nhiệm, Phan Huy Ích, Trần Văn Kỹ... sinh ra trong thời loạn đã đem tài thao lược của mình theo phò những anh hùng áo vải như Lê Lợi, Quang Trung...Dụng văn phò võ trong thời tao loạn chính là con đường phải đi, dù chịu chết ở pháp trường như nhà thơ thiên tài Cao Bá Quát. Bởi thế đến nay chúng ta mới có những áng thiên cổ hùng văn như: Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, Chiếu lên ngôi của Hoàng đế Quang Trung, Văn tế các nghĩa sĩ Cần Giuộc của cụ Đồ Chiểu... Đời nhà Trần có Phạm Ngũ Lão, một thanh niên yêu nước nồng nàn, sôi sục máu hờn căm quân xâm lược Nguyên Mông bạo tàn. Một hôm ngồi bên đường đan sọt, mãi tập trung suy nghĩ về những trận pháp trong binh thư đến nỗi quên cả ngoại cảnh. Đoàn quân mã hộ giá Trần Hưng Đạo đến gần mà ông cũng không biết, có kẻ lấy giáo đâm vào đùi máu chảy khi đó ông mới thức tỉnh.Trần Hưng Đạo cho là chuyện lạ gọi lại hỏi, mới biết Phạm Ngũ Lão là một thanh niên có tài, bèn cho theo kiệu về trong quân trướng của mình. Nhiều người cho đây là kế ra mắt của ông đối với một nguyên soái đương quyền, có thể vậy, vì ước mong của ông chỉ là cầm gươm giết giặc. Khi được nhận vào hàng ngũ các tùy tướng của Trần Hưng Đạo, ông thường bị các tướng khác chế giễu cho là võ công thấp kém không bằng họ, chỉ được chút tài mọn về binh pháp trên đầu môi. Lặng thinh trước những thách đố và bình thản trước thái độ xem thường của kẻ khác, ông vẫn tận tụy với công việc hàng ngày. Một dịp nhân có chuyện tang khó của gia đình ông xin phép về quê một thời gian. Chính trong thời gian đó ông chuyên cần múa đao luyện võ không lúc nào ngơi nghỉ để đạt đến thượng thừa. Ngày trở lại quân doanh ông càng tự tin và luôn giữ mối quan hệ bình thường tốt đẹp gắn bó với mọi người, nhất là những người dưới quyền. Sử viết ông gắn bó với binh sĩ thuộc hạ như tình cha con. Không biết do duyên cớ nào hay từ chính bản thân nhân cách của một võ tướng tài năng đã hiển lộ mà không còn ai dám chê bai ông, những kẻ ngày trước đòi tỷ thí với ông, giờ cũng không dám nhắc lại chuyện cũ. Ông lập nhiều chiến công vang dội trong sự nghiệp của mình để từ một tùy tướng nhỏ của Trần Hưng Đạo trở thành một đại tướng của triều đình, thống lãnh đại quân nhà Trần sau này. Niềm đam mê võ của tôi đến từ những câu chuyện trên và võ đạo chính là phương cách đi vào đời sống huyền vi của tâm đạo. Mọi lý luận, sách vở dều trở thành vô ích khi nói đến Thiền. Làm thế nào để đạt giải thoát chân thực trong đời sống hiện tại? Làm thế nào để an tâm - an trú trong chánh định? Tôi may mắn được khai tâm với hai người Thầy, trong đó Thầy Suzuki là người đã cho tôi hiểu và biết về võ đạo một cách đích thực trong gần mười lăm năm trời. Thật là đáng buồn nếu là một con người ăn no đến tận cổ, uống đầy bụng, đi đứng nằm ngồi đều mệt mỏi, rũ rượi không biết cách thở đúng phép, không luyện tập thân thể để bạc nhược như một lão ông dù tuổi chưa qua thanh niên.Tôi đã gặp rất nhiều người như vậy trong cuộc đời và không biết họ sống vì mục đích gì? Hay là sống để đi đến cái chết, đày đọa xác thân mình trong yếu ớt bệnh tật. Võ đạo là một nỗ lực điều khiển thân xác theo tự nhiên, giữ gìn nó đừng rơi vào mềm yếu là nguồn gốc của mọi bệnh hoạn. Tập trung trong võ học là yếu tố quan trọng và sự canh thức này sẽ theo ta đời đời, rồi một lúc nào đó đột nhiên bừng nở niềm an lạc tuyệt vời để đón nhận tin mừng, vì mình có thể vận dụng khí lực bất cứ lúc nào. Mình đã không nghĩ đến mình, không mong cầu mà tràn đầy tỉnh thức. Người võ sư khi đạt đến huyền công thì hữu chiêu thành vô chiêu, kiếm chiêu cũng trở thành kiếm ý, đến đi tự tại giữa non ngàn, tâm có cũng như không, ở khắp nơi và cũng không ở chốn nào. Từ số tiền bản quyền cuốn sách võ đầu tay, tôi mạnh dạn thuê ngay một mặt bằng lớn ở 193 Trần Hưng Đạo, Sài Gòn và mở võ đường. Từ năm 1972 tức là năm mới hai mươi bốn tuổi tôi là giám đốc đại võ đường Champion Karate, môn sinh lên đến hơn ngàn. Trong đó có nhiều người Mỹ, Nhật làm việc ở Sài Gòn đến học và mời tôi làm cố vấn võ thuật và huấn luyện cho đại sứ quán Nhật Bản. Nhiều người cho đến bây giờ vẫn còn ngạc nhiên bởi một người trẻ tuổi như tôi hồi đó dám mở võ đường ngay tại Sài Gòn, lúc mà những võ phái như Thái cực đạo, Nhu đạo, Thiếu lâm Vovinam đã phát triển cực thịnh tại đây. Tôi là một gã liều lĩnh coi trời bằng vung ư? Thưa, thật sự khi tôi tự tin với hoài bão và tâm niệm của mình thì không gì cản nổi! Với lại tâm không nghĩ chuyện tranh hùng xưng bá, thì võ đường cũng là đạo tràng thanh tịnh, như trong thảo am trên đồi Tùng dạo ấy mà thôi! Mùa xuân năm 1975 tôi trở về Huế thăm bạn bè nhưng không gặp ai cả. Lúc này chính là những ngày đất nước đang thay da đổi thịt,những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh dài gần hai mươi năm trời. Những ngày cuối tháng ba lính tráng và dân thường hớt hãi chạy nháo nhác khắp nơi từ Quảng Trị đến Huế.Những đoàn quân nhiều phiên hiệu như nhảy dù, thủy quân lục chiến, biệt động quân, bộ binh, địa phương quân... đang dồn về thành phố Huế và bãi biển Thuận An chờ di tản chiến thuật. Thành phố Huế thật hỗn loạn, chợ Đông Ba bị bọn cướp của hôi đồ đốt cháy. Thỉnh thoảng tiếng pháo cầm canh của bộ đội lại dội về, lúc thì nổ ở Mang Cá, lúc thì ngã ba Sình, Bao Vinh, Kim Long,Chợ Nọ... Những ai quen mùi chiến trận mới biết giá trị của những đợt pháo cầm canh này, nó không mãnh liệt hung hãn để sát thương hàng loạt, nhưng lại đe dọa và trấn áp tinh thần một cách ghê gớm, làm sa sút ý chí đối phương. Tôi nghĩ đây là những loạt đạn pháo chiến thuật làm quân Cộng hòa tại tỉnh giới tuyến này tan hàng, rã đám một cách nhanh chóng. Không còn chỉ huy, quan quân mạnh ai nấy chạy, giành giật nhau từng phương tiện vận chuyển để rồi tự nổ súng vào nhau,nhiều người đã chết vì những viên đạn của đồng đội họ ngày nào. Con đường quốc lộ huyết mạch từ Huế đến Đà Nẵng đã bị cắt từ đoạn La Sơn đến đèo Hải Vân. Trước đó, đây là con đường mà hàng vạn người từ dân đến công chức, lính hậu phương đã nườm nượp từ Quảng Trị, Huế chạy vào Đà Nẵng, cảnh thương tâm nhiều không kể xiết. Những ai ở Huế, Đà Nẵng trong những ngày tháng lịch sử đó đều không thể nào quên cái cảnh tao loạn diễn ra trên con đường tháo thân đầy máu và nước mắt ấy. Như mọi người, tôi về Thuận An để đợi những chuyến tàu chở dòng người di tản giờ lên đến hàng vạn. Không khí ở đây hỗn loạn vô cùng, người ta dành nhau từng chiếc thuyền để qua bãi tắm, số còn lại đợi chờ vô vọng ở cầu cảng, xô đẩy nhau, tìm nhau trong chốn ba quân, thỉnh thoảng lại vọng lên vài loạt súng tiểu liên lẻ tẻ...đâu đó có nhiều người chết vì dành nhau một chút hy vọng thoát thân. Đại pháo cầm canh của bộ đội vẫn nổ ầm ì chung quanh. Một hai chiếc xà lan há mỏ vừa cập cảng thì đã có hàng ngàn người xô đẩy nhau tràn lên, bây giờ không kể phiên hiệu sắc lính, không còn ai chỉ huy, súng lại nổ... nhiều người chưa kịp lên thì cửa tàu kéo khép và rời bờ. Một số bám theo rớt lả tả xuống biển lạnh. Rồi người ta lại dồn nhau qua bãi tắm vì nghe đâu tàu vận tải không thể vào cầu cảng, người bên này nhìn qua bờ bên kia tuyệt vọng. Nhiều người vất súng ống,áo quần lội qua phá. Một hai chiếc thiết giáp vượt phá, số người bu bám quá nhiều nên chìm lỉm, lại chết oan uổng. Trên bãi biển Thuận An tôi chứng kiến một anh lính bộ binh Trung đoàn 1 khóc tức tưởi bên xác một người bạn vừa bị bắn, thây còn tươi rói. Anh lặng lẽ nâng khẩu súng phóng lựu nhắm thẳng vào chiếc xà lan vận tải vừa rời bến, cũng may anh xạ thủ này bắn tồi nên quả đạn chỉ sướt qua mạn tàu, không trúng vào đám lính lố nhố đen kịt ở trên. Trên tàu xả súng bắn vào, lại người chết, bãi biển rộng đâu đâu cũng thấy xác người. Nhiều cái chết oan uổng ở đây, một sĩ quan thủ quỹ bị bắn ngay trên bãi vì ôm theo cái cặp đầy tiền, một sĩ quan khác tự sát vì tuyệt vọng. Theo một vài người địa phương tôi đi ngược bãi tắm đến mấy cây số, đến làng Hòa Duân và thuê được một chiếc ghe đánh cá, giá thuê ở đây vào Đà Nẵng không rẻ, phải trả hơn cây vàng, chủ ghe mới miễn cưỡng cho chiếc ghe rời biển trong đêm tối. Ghe rẽ sóng xa bờ, sao đầy trời lấp lánh. Những chùm sao vời vợi và mênh mông như vô tận. Một vầng trăng sớm cao dần bên chân trời, một vầng trăng có màu đỏ nhạt giống như màu trăng trong tác phẩm nói về nỗi tuyệt vọng của con người trong chiến tranh của Erich Maria Remarque.Huế đang xa dần theo từng cơn sóng đại dương, mới hôm qua mà quê hương bây giờ sao mà diệu vợi niềm ly biệt. Nhiều bạn cũ của tôi đang ở lại Huế với cuộc đổi đời, họ hân hoan vì ước vọng quê hương hết chiến tranh sắp trở thành hiện thực. Họ ở lại chờ đón cái mới, được dệt bởi huyền sử từ những ngày sơ khai của một thuở " mang gươm đi giữ nước ". Còn tôi lại phải bỏ quê hương trôi nổi trên muôn trùng sóng nước. Cha mẹ và các em tôi chắc còn hoang mang phiêu dạt theo dòng người di tản, lại thêm người vợ hiền của tôi đang chờ tôi từng ngày trong cơn binh lửa..Tôi không đủ cứng lòng để ở lại Huế với bạn bè - những người bạn một thời nổi lửa đầy ắp nhiệt tình, những người bạn được tôi luyện bằng lòng yêu nước và tình tự dân tộc, thù ghét bất cứ sự cong lưng quỳ gối nào. Họ luôn đứng về số đông nhân dân đói khổ và bất hạnh. Những ngày ở Huế vừa qua, tôi được biết anh N.Kha đã bị giết chết không tìm ra xác, nhớ người anh kết nghĩa với những ngày thắp nến ngồi đọc thơ cho tôi nghe trên căn gác nhỏ ở đường Bạch Đằng, nhớ những lúc ngồi uống cà phê với anh ở Lạc Sơn cùng C.Sơn, L.K.Cầm, Võ Đông để trông chiều đi suốt phố. Một người hiền lành đã không còn nữa, chỉ còn những vần thơ anh trải trên quê hương rực lửa trong lòng những người trẻ tuổi. Thơ đã làm khăn liệm đắp mặt cho đời anh, đắp trên những nỗi đau cùng cực của nhân dân với khát vọng hòa bình. Đà Nẵng không hơn gì Huế trong những ngày cuối tháng 3/75 lịch sử đó. Những kho lương thực, quân tiếp vụ, cửa hàng bị cướp phá, trên đường phố, đâu cũng có cảnh người ta nhốn nháo khuân vác, cướp giật...Những ngày đầu còn có quân cảnh, lính tráng súng ống giữ gìn trật tự, rồi sau đó khi nghe tin ông tướng Tư lệnh vùng đã bỏ trốn thì thành phố biến thành hỗn loạn như trong chảo lửa. Người ta dồn về Sơn Trà, cảng cạn, cảng sâu, phi trường để chờ di tản. Lính và dân, kẻ giàu có thì đến cảng thuê thuyền tàu ra khơi hoặc chạy vào phi trường tìm chỗ cho mình và gia đình trên những chuyến bay vận tải quân sự, đã có người bám theo càng máy bay để rồi rơi chết, có nhiều chiếc trực thăng rơi vì quá tải. Súng nổ loạn xạ... Con người như điên cuồng trong địa ngục, nỗi tuyệt vọng bám trên khuôn mặt, trên đôi mắt họ, những đứa trẻ sợ hãi ngơ ngác bám theo người lớn. Đâu đây đã có cảnh giết người cướp của và hãm hiếp, nạn nhân cũng là những người dân vô tội không có gì để tự vệ trong cơn gió bụi này. Đi giữa cuộc đời mà như đi trong một cơn lốc, không biết đi đâu, về đâu, ngày mai sẽ ra sao? Chiếc chiến hạm treo cờ Hoa Kỳ phất phới nằm đợi ngoài kia cách cầu cảng vài cây số. Tôi nhớ rõ tên tàu Henry Miller - tên một nhà văn nổi tiếng của Hoa Kỳ và cả thế giới. Tên của ông sơn trên chiếc chiến hạm lớn của hạm đội số 7 đang thả neo ngoài kia. Trong này trên cầu cảng là cả vài ba vạn người đang chờ đợi được xuống những chiếc xà lan cặp mạn chiến hạm rồi leo lên tàu bằng những chiếc thang dây. Lên được trên boong tàu đó là sống, là thoát được cơn cuồng phong và những cuộc tắm máu - như phần lớn trong suy nghĩ những người di tản hồi đó. Người ta đổ về Sài Gòn như một cứ điểm cuối cùng của chế độ, ở đó họ chờ đợi sự ứng cứu cuối cùng của người Mỹ và đồng minh để hà hơi thở cho một chế độ không còn sinh khí, đang hấp hối mà cả tổng thống, các tướng lĩnh chỉ huy, công chức chóp bu,đang tìm cách mang theo của cải tháo chạy ra nước ngoài. Miền Nam hơn hai mươi năm qua dưới một thể chế chắp vá có quá nhiều đổi thay và thường xuyên bị chi phối, điều khiển từ những thế lực phương Tây muốn rũ bỏ tâm thức bao đời cũng không dễ gì, để hôm nay: Những ngày cuối nhưng vẫn còn là mùa xuân năm 1975, quân tan như băng tảng gặp nắng thiêu, cơ sở hạ tầng chính trị từ thôn ấp đến dinh tổng thống tựa như xây nhà trên cát, một cơn thủy triều lên là biến mất không còn dấu vết. Chỉ còn lại những vết thương hằn sâu khó nguôi ngoai trong lòng một số người để gặm nhấm nỗi oan cừu vô nghĩa chưa thể cởi bỏ. Nhưng vẫn còn nhân dân Việt Nam, ở họ ngọn lửa thiêng linh hiển từ mấy ngàn năm vẫn sẵn sàng rực sáng.Trong âm thầm an phận, dù đói nghèo vì bị tước đoạt vẫn không khuất phục trước bạo quyền với khát vọng tự do, công bằng ngàn đời không bao giờ phai. Trên những chiếc thang dây đu đưa trước gió, nối khoảng cách từ xà lan lên boong chiến hạm cao như một căn nhà lầu năm tầng, nhiều người đã rớt xuống biển chết, phần lớn là phụ nữ, trẻ con và người già cả. Những tiếng thét kinh hoàng trong gió và sóng biển dập dồn gào thét, biển xám đen lạnh lùng như một cửa mồ thăm thẳm, đón nhận sự vô vọng, vô danh của kiếp người. Biển nhận chìm sự sống đang còn tươi tắn vùng vẫy kêu gào rồi im nghỉm trong mịt mù thinh lặng. Có ánh đèn pha từ trên tàu rọi xuống, những đầu người và những cánh tay nhỏ mù mờ tuyệt vọng nhấp nhô lên xuống. Con tàu rời cảng, những cuộn nước vô tình toa rập cùng tiếng sóng đại dương, cái lạnh vô bờ, đói khát và mệt lả, những con người bất hạnh đành buông tay vào lòng biển sâu. Từng dòng người trên thang dây trông như bầy kiến đang bám đuôi nhau đi tìm sự sống. Trong số người ấy lại xảy ra cảnh đạp, đổ rồi bám vào nhau để rơi xuống - chết. Những người lính mạnh mẽ đè lên những người dân yếu ớt, nhiều kẻ chịu không nổi lại buông tay, người ta giẫm đạp lên nhau để tìm sự sống cho riêng mình. Nhiều người không thể dìu nổi vợ con mình trên thang dây, họ dùng tay đẩy người thân để leo lên tàu, không còn thì giờ để khóc thương, có người khi lên tàu rồi nhìn lại mới bàng hoàng biết vợ con, người thân mình đã chìm dưới biển sâu.Họ kêu gào la khóc... âm thanh đó truyền qua những sóng người đen nhập nhòa trên boong tàu, cộng với tiếng gió đại dương, tiếng súng nổ vang trong thành phố, tiếng còi tàu rên rỉ, làm nên âm thanh của chiến tranh như tiếng rít lạnh lùng của lưỡi hái trên tay thần chết đang há miệng đen ngòm đầy máu, cười man rợ vì sự ngu ngơ khờ khạo của con người. Cho đến bây giờ mỗi lần nhớ lại, vẻ tang thương chất ngất của khung cảnh đó như còn in trong tâm trí của tôi. Trong nỗi khát khao tìm gặp những người thân yêu ruột thịt của mình đang ở miền Nam, tôi có mặt trên chiến hạm ấy. Trước khi tìm được một chỗ đứng trên boong tàu đầy ắp người, tôi phải níu cho được cái thang bằng dây như mắc lưới từ chiến hạm thả xuống. Nhờ có sức khỏe nên khi lên tôi cõng thêm được trẻ em hoặc phụ nữ, hoặc đẩy những người già đong đưa trên thang dây từ dưới xà lan lên tàu mà không khỏi rùng mình.Trông thấy người khác sắp chết vì hiểm nạn, thì phải ra tay cứu vớt không cần nghĩ ngợi so đo gì. Đó là lẽ sống của người võ sĩ đạo đã thấm trong tim óc tự bao giờ. Dùng công lực và mưu thế của một người có võ nghệ, tôi đã cứu được một số người trong cơn nguy hiểm. Giữ chừng ấy thôi, mãi mãi trong mọi nguy khó để cứu người, sẽ không phụ cái công theo thầy học đạo, học võ từ những ngày tóc còn xanh. Trên boong tàu lúc này đã đen nghịt người, không còn chỗ cho một con ruồi có thể bay. Tiếng loa điện từ đài chỉ huy kêu gọi ổn định trật tự. Tàu từ từ ra khơi, nhìn lại trên bờ vẫn còn đông người từng cụm lố nhố đen kịt trong màu xám hoàng hôn... Đà Nẵng đã khuất dần sau màn sương nhẹ mênh mông và một biển trời xanh biếc. Lòng người hoang mang trên con tàu vô định. Trong tự sự này tôi không giấu giếm hoặc cường điệu thêm thảm cảnh một chút nào, chỉ muốn đoạn phim ký ức của tôi được chiếu lại cho những người chưa biết, những người không ở cùng cảnh ngộ để cảm thông được hai ba phần trong trăm nỗi đoạn trường lúc ấy. Trên boong tàu cạnh tôi đã có người chết đứng - đó là một thiếu nữ chết ngạt vì quá yếu. Người mẹ ôm xác con không dám khóc vì sợ người ta quăng xác con mình xuống biển. Tôi đứng cạnh mấy đứa trẻ và che chắn cho bọn chúng vì sợ bị đạp, xô đẩy. Bây giờ là đói và nhất là khát,trong cái hừng hực hơi người với cái đói khát,lạnh lùng, thêm nhiều người đã chết. Tôi nhìn cái vòi rồng đang phun nước cứu tinh và hàng ngàn cái miệng há ra chờ làn nước ngọt. Trong đêm tôi nghe có tiếng hét gào thê thảm của ai đó, những cơn động kinh chăng? hay là để tránh nổi loạn trên tàu, người ta phải giết chết rồi thả xuống biển một vài người nào đó. Trong chiến tranh, mạng người như cỏ rác và chuyện gì cũng có thể xảy ra. Một ngày nữa dưới nắng lửa đại dương, chiến hạm Henry Miller cặp quân cảng Cam Ranh, lũ lượt từng đoàn người lê thê lếch thếch rời tàu xuống cảng. Khác với lòng mong đợi của mọi người, chiếc tàu chiến không cập bến Vũng Tàu mà lại ghé cảng Cam Ranh. Lại một chặng dừng chân nữa rồi tháo chạy. Dòng người chiến nạn lủi thủi xuống tàu. Cam Ranh, Phan Rang đang lập một tuyến phòng thủ để ngăn quân giải phóng tiến vào Sài Gòn, nghe đâu vị tướng tư lệnh không quân ở đây đã chỉ huy cuộc di tản rất tốt. Máy bay vận tải quân sự khi trở lại Sài Gòn chỉ được chở theo thường dân, đa số là gia đình binh sĩ, còn lại những tàn quân của các binh chủng được tập họp lại để nhận súng đạn tiếp tục chiến đấu. Sự việc diễn ra trong trật tự chỉ được hai ngày đầu, đến ngày thứ ba thì Cam Ranh - Phan Rang đã hỗn loạn. Dòng người tị nạn nhào vô phi trường Phan Rang, máy bay không đủ để chở người, có chiếc chở nặng bị rơi ngay ngoài hàng rào sân bay, rồi máy bay không còn hạ xuống được nữa vì phi trường đã bị pháo kích, xe tăng quân giải phóng đã đến cận kề. Tôi về được Sài Gòn nhờ một người bạn cũ là phi công của một vận tải cơ, anh nhờ tôi cõng một cụ già đang ốm nặng lên phi cơ, nghe đâu ông cụ là cha của một sĩ quan chỉ huy phi đoàn vận tải, nhờ vậy mà tôi lên phi cơ trót lọt không bị ai cản trở hay hỏi han gì. Khi chiếc vận tải cơ C123, một trong hai chiếc cuối cùng cất cánh khỏi phi trường Phan Rang, nhìn qua ô cửa tôi thấy nhiều cột khói và đám cháy ở sân bay vì đạn pháo kích. Chiếc phi cơ tròng trành ra biển, cơ trưởng ra lệnh cho thả những hàng hóa cồng kềnh trên máy bay xuống vì quá tải không thể bay nổi. Nhiều người ngẩn ngơ tiếc nuối nhìn những va ly đồ đạc, tủ lạnh, tivi... của mình bị đạp xuống biển nhưng họ cũng thừa biết của cải bây giờ không quý bằng mạng sống. Con đường di tản từ Huế đến Sài Gòn của tôi trong những ngày cuối tháng 3 và đầu tháng 4 vang rền tiếng súng, đẫm máu và nước mắt. Tôi đã từng nhìn mặt từng thây người chết trên biển và mong không phải là người thân ruột của mình. Đúng là con đường của xác người và biển máu. May mắn thay gia đình tôi vẫn còn nguyên vẹn đã cùng nhau sum họp tại Sài Gòn. Trong những ngày binh lửa tang tóc này, đứa co gái đầu lòng của tôi được hai tuổi và đứa con trai thứ hai được bốn tháng, vừa mừng vừa thương khi nhìn các con bé bỏng trong thời loạn lạc. Tôi thấy mình đang bị dán chặt vào đôi mắt thơ dại và đôi bàn tay nhỏ nhít của con. Qua một chặng đường khổ ải đầy bất trắc bây giờ là bến bờ bình yên tạm thời trong mắt trẻ thơ. Rồi đây tôi phải đương đầu gánh vác bổn phận bảo vệ vợ con mình trước những giông bão của cuộc đời mới. Sài Gòn lại hỗn loạn với những dòng người di tản, những đợt cứu trợ dân tị nạn từ miền Trung vào. Trong khi đó xe tăng và đại pháo của quân giải phóng đang gầm rú ở Long Khánh, phi trường Biên Hòa, Tân Sơn Nhất bị pháo kích, lại di tản.Nhưng bây giờ không còn biết đi đâu trong đất nước này nữa, nhiều người tìm cách chạy ra nước ngoài bằng mọi phương tiện và như phần lớn đồng bào, tôi và gia đình dứt khoát ở lại. Chiến tranh rồi sẽ chấm dứt, đất nước sẽ bình yên và dù ở chế độ nào dân cũng là gốc, dân cũng là nước, khoan sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, mới thịnh trị lâu dài. Như phần lớn mọi người ở miền Nam trong những năm đầu giải phóng,vợ tôi phải bán lần hồi những đồ dùng quý giá trong nhà kể cả những món nữ trang cuối cùng để lấy tiền trang trải cho sinh hoạt gia đình hàng ngày. Vợ tôi là một giáo sư trung học đệ nhị cấp trường Sương Nguyệt Ánh. Tôi hàng ngày đến làm việc tại trung tâm cai chữa ma túy Bình Triệu, nơi giải quyết tệ nạn lớn tàn dư của xã hội. Công việc của tôi làm là cùng với các bác sĩ Sơn, Long, Tuấn Phong, Thiện giảng dạy những phương pháp cai nghiện ma túy bằng châm cứu, bấm huyệt, thuốc nam, và khí công trị liệu. Lúc này thuốc tây chữa bệnh đắt như vàng, những người nghiện ngập lại chưa tìm đâu ra nguồn ma túy để hút xách, chích choác... do đó số người đến cai nghiện rất nhiều.Chúng tôi làm việc không kể ngày đêm dưới sự chỉ bảo tận tình của bác sĩ Thìn. Bác sĩ là người Huế, anh có công lớn vì đã trực tiếp đề ra chương trình cai nghiện ma túy bằng Đông y và chính anh cũng là người đứng ra chữa trị cho con nghiện. Tôi giúp việc cho anh như một tình nguyện viên, hàng tháng chưa ai được lãnh lương mà chỉ có khi được trợ cấp một ít gạo, thuốc lá, rau thịt... Trong thời gian ấy một số môn sinh cũ đã tìm đến tôi,nhiều người đề nghị tôi cùng họ đi buôn thuốc tây, đồng hồ, xe máy... là những mặt hàng có thể kiếm lãi rất mau để nuôi sống gia đình. Tôi chưa kịp nhận lời thì gặp một môn sinh đã học với tôi trong những ngày đầu thành lập võ đường. T. tâm sự với tôi về chuyện gia đình sắp vượt biên bằng tàu, chiếc tàu mà T. vừa cùng mấy người bạn đóng xong đang đợi ngày thuận tiện để lên đường, T. ngỏ ý muốn cho vợ chồng tôi đi cùng mà khỏi phải nộp vàng, trong khi những người khác muốn có chỗ lên tàu này để vượt biên thì ít nhất cũng phải nộp từ 8 đến 10 lượng. Vợ chồng mất mấy ngày suy nghĩ để rồi khi nhìn tương lai hai đứa con nhỏ dại đang khát sữa và những người thân đang long đong với ngày hai bữa cơm độn sắn, tôi quyết định thuyết phục nhà tôi ra đi. Đó là những ngày u buồn giữa năm 1978.