Chương 8
Cỏ nội hoa hèn

Minh-Ðệ định kiếm xe trở về dinh Thái-hà cầu cứu với Thường-Kiệt, nhưng trời đã về khuya, không còn xe chở thuê nữa. Kinh hoàng, nàng nghĩ thầm:
– Nếu mình không về kịp đêm nay, thì sáng mai Dương đại ca với Ðỗ Oanh sẽ bị chém đầu. Làm sao bây giờ?
Thấy chỗ đang đứng không cách xa Thính-hương khách xá làm bao, một tia sáng lóe lên trong đầu nàng:
– Vậy ta trở về khách xá, viết một bài biểu, sáng sớm mai ta đến điện Cao-minh đánh chuông kêu oan. Phải rồi, theo như Dương đại ca nói, thì Chương-thánh Gia-khánh hoàng-đế là một hoàng-đế nhân từ, chí công. Ta khiếu oan, nhất định sẽ cứu được Dương đại ca.
Nàng hít một hơi, rồi vận khí, dùng khinh công trở về khách xá. Người trong khách xá vẫn còn thức. Không ai để ý đến nàng. Nàng đẩy cửa vào phòng. Giấy bút mua hôm trước hãy còn nguyên. Nàng mài mực, rồi cầm bút viết. Minh-Ðệ đã từng đọc hàng trăm bài biểu trong các bộ sử, nên việc viết một bài biểu với nàng không mấy khó khăn. Bài biểu bắt đầu kể từ biến cố chùa Từ-quang, cho đến những gì xẩy ra ở lộ Kinh-Bắc, ở Khu-mật viện, ở Thái-hà trang. Cuối cùng là việc xẩy ra ở Anh-hùng tửu quán. Viết xong, Minh-Ðệ đọc lại, sửa chữa mấy chỗ rồi chép vào mấy tờ giấy.
Nàng nhủ thầm:
– Kể ra từ hôm đến chùa Từ-quang tới giờ mình gặp không biết bao nhiêu nghi vấn chưa được sáng tỏ. Trước hết Quan-Âm là ai, mà Thường-Kiệt là một đại thần, lại hạ thể gọi mình là sư muội, chiều đãi mình như con gái, chỉ vì mình xử dụng thần công của ngài? Mình đã hỏi sư huynh rằng Quan-Âm có phải là tiên cô Bảo-Hòa không, thì người bảo không phải. Vả hôm mình xem hình vẽ tiên cô trong nhà tổ trang Thái-hà thì thấy hoàn toàn khác Quan-Âm. Tại sao sư huynh đã nhận mình làm sư muội, mà không chịu nói tên sư phụ ra cho mình? Rồi vụ án chùa Từ-quang, ai đã đứng trong bóng tối hại chư tăng? Làm thế nào mà họ đem quần áo của mình từ nhà đến bỏ vào phòng chư tăng để vu vạ? Vợ chồng quý nhân là ai, mà Siêu-loại hầu nhất định là Ưng-sơn song hiệp? Lại còn một vị lão nhân xưng là đại hiệp Trần-tự-An dạy Chu-sa huyền âm chưởng cho mình, phóng độc vào mình? Bọn Ðặng Vinh, Trịnh Phúc, Vũ Ðức đang đêm đột nhập nhà tù định làm gì mình? Tại sao tên Ðoàn Quang-Minh có thẻ bài là Hoài-đức hầu, ra lệnh cho An-vũ sứ Kinh-Bắc giải mình về Khu-mật viện, mà sư huynh Thường-Kiệt bảo rằng trong Khu-mật viện không có y. Cuối cùng Dương Tông là ai mà võ công thực không tầm thường. Hơn nữa tên gia đinh đánh xe, võ công cũng vào hàng thượng thừa? Ngày mai mình đánh chuông kêu oan, mình phải khai hết sự thực, mới mong cứu được Dương đại ca.
Nhưng nàng chợt thấy không ổn, vì có lần Thường-Kiệt cho nàng biết rằng, tất cả các cuộc xử tử trên đất Ðại-Việt đều phải thi hành trước giờ Dần. Trong khi giờ Mão thì hoàng đế mới lâm triều, bấy giờ nàng có kêu oan, người có xử thì Dương Tông đã chết rồi.
Trong khi mải suy nghĩ, chân nàng vẫn rảo bước, chợt nàng nhận ra mình đã tới bờ hồ. Nhìn ra bãi hồ, nàng thấy con thuyền của sư phụ nằm im lìm trong bóng đêm. Minh-Ðệ tự hỏi:
– Không biết thời gian qua ta vắng mặt, sư phụ có mong ta không? Người không thấy ta về, ắt là giận ta lắm. Hay ta cầu cứu với sư phụ, để người cứu Dương đại ca?
Nàng tiến tới chỗ con thuyền đậu, rồi lên tiếng gọi:
– Sư phụ! Sư phụ, đệ tử là Yến-Loan đây.
Không có tiếng trả lời. Nàng tung mình lên cao, tà tà đáp xuống mũi thuyền. Nàng gõ tay vào cánh cửa thuyền, cũng không có tiếng đáp lại. Nàng đẩy mạnh, mở tung cửa ra, một mùi hôi tanh kinh khủng bốc lên. Nàng dùng đá đánh lửa, rồi châm vào cái bổi. Dưới ánh sáng, cảnh tượng làm Minh-Ðệ kinh hoảng: sư mẫu của nàng nằm chết cong queo, máu ứa ra mũi, mắt, tai. Miệng dường như đang ăn cái gì. Vốn can đảm, nàng cố trấn tĩnh tinh thần kéo vật trong miệng sư mẫu, vật đó như bị vướng, nàng phải giật mạnh mới ra. Nàng nhìn kỹ thì đó là cái đùi chó thui luộc chín đã lóc hết thịt. Nàng xem xét khắp người bà, thì thấy lồng ngực bị đánh bằng chưởng âm nhu, nên xương nát hết.
Nàng nghĩ thầm:
– Cứ như tình trạng này, thì sư mẫu bị ai đó dùng chưởng âm nhu đánh trúng ngực, xương cùng tạng phủ nát hết. Rồi người đó nhét ngược cái đùi chó đã lóc hết thịt vào miệng. Hung thủ dùng sức khiến cái chân chó chọc thủng họng bà.
Nàng quan sát ở cuối thuyền, thì hai thuyền phu cũng bị đánh chết bằng chưởng lực âm nhu. Trong miệng mỗi người đều bị tọng một miếng thịt chó lớn.
Yến-Loan tìm tòi một lúc, không thấy gì khác lạ, nàng trở lên bờ, trong lòng suy nghĩ:
– Chắc chắn khi hung thủ tới hành thích thì sư phụ ta đi vắng, nên y sát hại sư mẫu với hai thuyền phu. Võ công hung thủ phải cao thâm lắm, nên y hạ sát sư mẫu với thuyền phu chỉ bằng một chiêu mà thôi. Chứ nếu có cuộc giao chiến, thì đồ đạc phải đổ vỡ ngổn ngang, chứ có đâu còn nguyên? Cứ tình trạng này, thì sư mẫu chết ít nhất hai ngày rồi, mà sao chưa thấy sư phụ về?
Chợt một tia sáng lỏe lên trong đầu nàng:
– Phải chăng hung thủ là Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa thượng? Ðúng rồi, hồi còn ở nhà, một hôm nàng cùng các bạn đang đào đất vét sông, bạn khuyên nàng cầu cứu với Mộc-Tồn hòa thượng. Lý-trưởng chỉ nghe đến danh hiệu, mà mặt đã tái xanh, cấm không cho nói đến tên. Rồi khi An-vũ-sứ khám chùa Từ-quang, một đội trưởng chỉ mỉa mai sư trong chùa là Mộc-Tồn hòa thượng thôi, mà An-vũ-sứ đã kinh sợ phải quát tháo bắt im lặng. Thế nhưng chỉ mấy hôm sau viên đội trưởng đó bị lân Phi-yến (5) ỷ tân trang.
Danh hoa khuynh quốc lưỡng tương hoan,
Trường đắc quân vương đới tiếu khan.
Giải thích xuân phong vô hạn hận,
Trầm-hương đình bắc ỷ lan can.
Ghi chú,
(1) Quần-ngọc, theo thần thoại Trung-quốc, đây là nơi Tây-vương mẫu ở.
(2) Dao-đài, cũng theo thần thoại Trung-quốc, là nơi chư tiên ở.
(3) Trần-trọng-San dịch:
Mặt tưởng là hoa, áo tưởng mây,
Hiên sương phơ phất gió xuân bay.
Nếu không gặp gỡ trên Quần-ngọc,
Dưới nguyệt Dao-đài sẽ gặp ai?
Một nhánh hồng tươi móc đọng sương,
Mây mưa Vu giáp uổng sầu thương.
Hỏi trong cung Hán, ai người giống,
Phi-Yến còn nhờ mới điểm trang.
Hoa trời sắc nước cả hai vui,
Luôn được quân vương ngắm nghía cười.
Mối hận gió xuân bay thoảng hết,
Bên đình nàng đứng tựa hiên chơi.
(Trích trong tập Lý-Bạch, Ðỗ-Phủ, Bạch-cư-Dịcủa Trần-trọng-San, Bắc-Ðẩu Canada xuất bản).
(4) Vu-sơn, tên núi ở phía Ðông tỉnh Tứ-xuyên. Tương truyền Sở Tương-vương đi chơi đến đất Cao-Dương nằm mơ thấy một thiếu phụ nói: "Thiếp là thần nữ ở núi Vu-sơn, sớm làm mây, tối làm mưa ở Dương-đài". Vì vậy chữ Vu-sơn sau để chỉ tình dục (Sexology). Khi tôi viết bộ Sexologie médicale Chinoise, rồi chuyển trở lại tiếng Việt là "Trung-quốc Vu-sơn học".
(5) Phi-Yến, tức Triệu Phi-Yến, hoàng hậu của vua Thành-đế nhà Hán. Thành-đế băng, con là Ai-đế lên nối ngôi, bà được phong làm hoàng-thái hậu. Ðời Hán Bình-đế, Vương Mãng chuyên quyền, bà bị biếm làm thường dân rồi tự sát.
Yến-Loan đã đọc thiên kinh vạn quyển, trong ba đại thi hào đời Ðường là Lý Bạch, Ðỗ Phủ, Bạch Cư-Dị; nàng không thích thơ Lý, vì Lý xuất thế. Trong khi nàng là người mơ tưởng làm chuyện kinh thiên động địa như vua Trưng, như Thánh-Thiên, như Lệ-hải bà vương Triệu Thị Trinh. Vì vậy tuy nàng hiểu ý tứ ba bài thơ trên, ngụ ý Dương Tông ca tụng sắc đẹp của nàng, mà không hiểu về xuất xứ của nó ra sao.
Nguyên vào niên hiệu Khai-nguyên, đời Ðường Minh-Hoàng. Nhân lúc hoa thược dược nở rực rỡ muôn mầu. Nhà vua cùng Dương quý-phi họp một số đệ tử của Lê-viên thưởng hoa. Khi Lý Quy-Niên định hát, vua phán: "Thưởng danh hoa, trước Phi-tử, thì dùng chi đến lời nhạc này?" Rồi sai Quy-Niên đi triệu Hàn-lâm học-sĩ Lý Bạch. Lý Bạch tới, cầm bút viết một hơi ba bài này để ca tụng sắc đẹp Dương quý-phi.
Yến-Loan lại uống thuốc ngủ qua đêm.
Yến-Loan qua một đêm với giấc ngủ yên tĩnh. Hôm sau Thường-Kiệt trở về vào lúc trời chập choạng tối, ông hỏi vú Dư:
– Má má ơi, ở nhà có chuyện gì lạ không?
– Thưa thái-bảo vẫn bình thường.
Ông hỏi Yến-Loan:
– Sư huynh đi vắng, muội muội ở nhà chắc buồn lắm nhỉ?
– Cũng không buồn lắm đâu, vì sư huynh có nhiều sách quá, đọc hoài, đọc mãi mà không hết. Giá sư huynh mượn tiểu muội làm con bé lau chùi, dọn dẹp thư phòng cho sư huynh thì tiểu muội hạnh phúc biết bao?
– Vậy thì huynh mời sư muội làm đại tiểu thư ở trang này, để sư muội đọc hết đám sách của huynh. Sau đó sư muội giả trai ứng thí, không thành trạng-nguyên, cũng thành thám-hoa, rồi vào tòa Bình-cương làm Chiêu-văn quan đại học sĩ, giám tu quốc sử. Tiếc quá!
– Huynh tiếc gì vậy?
– Huynh tiếc vì nước mình chưa mở khoa thi, thành ra người dân không có dịp tiến thân. Trường hợp sư muội mà ở vào thời loạn như thời Lĩnh-Nam, cam đoan sư muội sẽ là một Thánh-Thiên.
Mấy tháng qua Yến-Loan đã đọc đi đọc lại đến thuộc lầu hầu hết sách-sử Hoa-Việt liên quan đến hai nước. Nay nghe Thường-Kiệt nói, nàng lắc đầu:
– Ðất nước mình có bao giờ mà không loạn lạc đâu? Nguyên do cái loạn này là ở những gã văn gia cổ thời, tạo cho mọi người Hán đều nghĩ vua mình, tướng mình là người nhà trời. Các dân xung quanh là di, man, địch, nhung cả, cho nên họ luôn luôn nhìn sang các lân bang, hễ có sự là bàn đem quân sang xâm chiếm. Thời Thuận-Thiên, Ðại-Việt mình mạnh đến như vậy, mà họ còn kiếm đủ cách gây chiến. Rồi đến thời vua Thái-tông, Khai-Quốc vương phải khích cho tộc Nùng nổi dậy, chiếm lưỡng Quảng, làm cho Tống yếu đi, họ mới để mình yên. Mới đây, họ lại gây hấn, chính sư huynh phải mang quân lên trợ vua Bà đánh sang để thị uy, đập cho họ kinh hãi, nay tuy có yên, nhưng chỉ là tạm thời. Sư huynh nghĩ xem, em có thể lên Bắc-cương theo vua Bà đánh giặc không?
– Ðược chứ. Sư muội mà lên đó, chỉ cần gặp một trong Ngũ-long công chúa tổng trấn Bắc-cương là được trọng dụng làm đại tướng ngay.
– Ủa, mình có đến năm công chúa trấn Bắc sao?
– Ðúng thế. Lúc đầu thì Ngũ-long công chúa là Bảo-Hòa, Bình-Dương, Kim-Thành, Trường-Ninh, Thanh-Nguyên. Sau thì Ngũ-long đổi thành Kim-Thành, Trường-Ninh, Thanh-Nguyên, Thanh-Trúc, Phương-Hồng.
– Sao lại có vụ gạt công chúa Bảo-Hòa với Bình-Dương ra ngoài vậy?
– Ðâu có gạt. Nguyên do, khởi thủy, dân chúng tôn năm vị ấy là Ngũ-long; kể về vai vế thì sư phụ của anh là công chúa Bảo-Hòa đứng đầu. Ðệ nhị công chúa là vua bà Bình-Dương. Nhưng sư phụ của anh thành tiên, thành thánh, còn công chúa Bình-Dương thành vua, địa vị cực cao không ai có thể sánh, nên dân chúng đem hai vị ấy ra khỏi Ngũ-long công chúa. Vì hai vị ra ngoài Ngũ-long, nên dân chúng mới thêm hai công chúa Thanh-Trúc, Phương-Hồng vào thay thế.
– Sư huynh nói rõ về nguồn gốc Ngũ-long cho muội nghe đi.
– Ðệ nhất là công chúa Kim-Thành tức phu nhân của Thái-tử thiếu phó, Phong-châu tiết độ sứ, Long-nhương đại tướng quân, Trung-nghĩa quốc công Lê Thuận-Tông.
– Ái chà, muội đọc trong Nhân-Huệ hoàng đế kỷ sự có kể việc Công chúa với Quốc công tiến quân đánh Quảng-châu những trận long trời lở đất. Thế đệ nhị công chúa?
– Là Công-chúa Trường-Ninh, phu nhân của ngài Thái-tử thiếu-sư, Thượng-oai tiết độ sứ, Hổ-uy đại tướng quân, Thuần-tín quốc công Hà Thiện-Lãm.
– Em cũng đọc sự tích Công-chúa với Quốc-công trong sách rồi. Thế Công-chúa thứ ba?
– Thứ ba là Công-chúa Côi-sơn Trần Thanh-Nguyên, phu nhân của ngài Trấn-bắc đại tướng quân, Tiên-yên tiết độ sứ, Tản-viên hầu Tôn Mạnh.
– Công chúa là con của đại thần nào vậy?
– Công chúa tuy không phải cành vàng lá ngọc, nhưng lại có thế lực cực kỳ lớn, người là con út của Thái-sư phụ Trần Tự-An, nức tiếng thiên hạ.
– Úi chà.
– Yến-Loan cười thầm:
– Tưởng ai, hóa ra sư tỷ con út của sư phụ mình, tức em gái của đại hiệp Trần Thông-Mai, vương phi Khai-Quốc vương Thanh-Mai, và Kinh-Nam vương Tự-Mai.
Nàng hỏi tiếp:
– Thế còn công chúa thứ tư, thứ năm??
– Vị đệ tứ tên thực là Lâm Thanh-Trúc, tước phong công chúa Ôn-thuận, phu nhân của Ðại-tư-mã Bắc-biên, Hữu-kim ngô thượng tướng quân, Lạng-châu quốc-công Thân Thiệu-Cực. Thứ năm là công chúa Vạn-hoa, nhũ danh Ðào Phương-Hồng, nguyên người là Quận-chúa, ái nữ của công chúa An-Quốc với phò mã Ðào Cam-Mộc, sau vì có công nên được phong công chúa. Người là phu nhân của Bình-nam đại tướng quân, Khai-sơn hầu Tôn Trọng.
Yến-Loan nghĩ thầm:
– Những vị nữ lưu kia vì có tài, có công với đất nước, mà danh vang thiên hạ. Còn ta... văn học ta không thua ai, võ công ta không hèn. Dù nay ta đang bị tù đầy vì oan khuất, nhưng một mai ta cũng phải làm lên những việc như vua Trưng, như Lệ-Hải bà vương. Nhất định ta không chịu nát thân với cỏ cây; không chịu làm con ở trong nhà, để cho người chà đạp, muốn đánh là đánh, muốn giết là giết, muốn chửi là chửi.
Thế là chỉ trong một vài câu của Thường-Kiệt, đã làm cho Yến-Loan đang từ cô gái an phận, quê mùa, nảy ra hùng tâm tráng trí, khiến cho giang sơn Ðại-Tống nghiêng ngửa, với gần nửa triệu sinh linh Tống chết, tạo chiến tích huy hoàng nhất lịch sử tộc Việt. Ðó là chuyện sau.
Chợt nhớ lại những gì chép trong Thái-tông thực lục, nàng hỏi Thường-Kiệt:
– Sư huynh ơi, từ hôm gặp sư huynh đến giờ, muội muốn hỏi sư huynh một việc, song e đụng đến mối thương tâm của sư huynh, nên muội còn lưỡng lự. Bây giờ muội cả gan hỏi, nếu sư huynh có giận thì cứ coi muội là đứa con nít, mà bỏ qua cho.
Thường-Kiệt đã bị tĩnh thân, nên ông không úy kị nam nữ, ông ôm lấy đầu Yến-Loan:
– Cuộc đời huynh có gì bí mật đâu mà dấu diếm? Muội muốn hỏi gì huynh cũng trả lời hết. Huynh hiện quản Khu-mật viện, giữ hết cơ mật xã tắc, thế mà huynh đưa muội về đây ở, thì huynh phải tin muội lắm mới dám làm thế. Nào muội hỏi đi.
– Thế này.
Yến-Loan thỏ thẻ: Muội đọc trong sử thấy nói hồi trước huynh đã đính hôn với một thiếu nữ tên Tạ Thuần-Khanh, con gái Cổ-loa quốc-công Tạ Sơn. Giữa lúc chuẩn bị cưới xin, thì huynh bị gian nhân đánh thuốc mê, rồi đem tĩnh thân. Thế ai là thủ phạm hại sư huynh?
Thường-Kiệt đang vui vẻ, mặt ông sa sầm lại, hai hàm răng ông nghiến ken kẹt:
– Ðây là mối hận nhất đời của huynh. Sau khi huynh bị tĩnh thân, thì Ưng-sơn song hiệp, sư phụ Bảo-Hòa làm dữ lắm, đòi triều đình phải đem chính phạm tòng phạm ra xử ngay, bằng không người sẽ xử. Vua Thái-tông kinh hãi, nhờ Khai-Quốc vương điều tra. Sau khi tìm ra thủ phạm, Vương bàn với Ưng-sơn, với sư phụ anh không công bố tên thủ phạm. Cứ để tội y đấy như một án treo, bất cứ mình bảo gì, nói gì y cũng phải theo. Vì vậy cho đến nay chỉ Quốc-phụ, Quốc-mẫu, sư phụ, với Ưng-sơn song hiệp biết rõ thủ phạm là ai mà thôi. Huynh đã hỏi, nhưng các ngài không nói, vì sợ huynh giết ba họ nhà y, e người chết nhiều quá, mà huynh cũng có tội với triều đình.
Yến-Loan thề:
– Trọn đời muội, muội sẽ dùng hết khả năng để truy lùng thủ phạm hại sư huynh, và giết chết y thực thảm khốc.
– Ða tạ sư muội.
Yến-Loan chuyển câu chuyện qua vụ Dương Tông:
– À... sư huynh có người bạn, hay học trò nào tên là Dương Tông không?
– Dương Tông à? Sư muội gặp y ở đâu?
– Ðêm hôm trước, muội dạo quanh vườn xem hoa nở, thì thấy anh ta đứng tần ngần nhìn muội.
– Anh ta nói gì với muội?
Yến-Loan thuật chi tiết cuộc gặp gỡ, nhưng nàng dấu việc bị trúng Chu-sa huyền âm chưởng được Dương-Tông cho thuốc giải; mà chỉ nói bị đau đớn mà thôi. Mặt Thường-Kiệt cau lại, ông lắc đầu:
– Huynh không quen người nào có tên như thế cả. Y không phải là người trong trang, mà vượt tường vào đây được, thì võ công phải cao thâm lắm. Liệu đêm nay y có trở lại không? Huynh phải bắt y, đét vào đít mấy cái, vì tội dám vào hoa viên toan ăn trộm cô sư muội đem đi. Gan y lớn gớm. Sư muội của huynh xinh đẹp thế này thì nhất định huynh không để y trộm đi.
Yến-Loan xua tay:
– Ðừng, sư huynh đừng phạt y, vì y không dữ dằn, mà lại tốt với muội nữa. Chính y đem thuốc cho muội mà bị bệnh. Y còn cho muội nào son, nào phấn, nào nước hoa. Y lại chép ba bài thơ Thanh bình điệu của Lý Bạch tặng muội nữa.
Rồi nàng thuật chi tiết những lời Dương Tông nói với nàng. Nàng không kể việc y cho nàng ngọc, vì nàng nghĩ y cho mình đá xanh, mảnh sành chai thì xấu hổ chết. Thường-Kiệt cười thầm trong lòng:
– Tội nghiệp cô tiểu sư muội này. Cô thực là thông min giết.
Những lời của viên Ðề-điểm hình ngục Khắc-Dụng vẫn còn vang trong lòng nàng:
– Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa thượng chỉ giết bọn ác nhân, bọn lừa thầy phản bạn, bọn trốn chúa lộn chồng. Ông chưa bao giờ giết người vô cớ... Như vậy thì trung gian, sư phụ, sư mẫu ta là gian nhân ư?
Nàng trở về khách xá, leo lên dường nằm:
– Làm sao đây? Chỉ còn mấy giờ nữa thì Dương đại ca bị chém đầu. Ta phải làm bất cứ việc gì để cứu người. Nhưng làm gì??? Còn vụ sư mẫu bị giết, ta có nên đi báo quan không?
Bỗng nàng cảm thấy hai vai hơi nhức nhối, rồi cổ, đầu, rồi khắp người đau đớn không thể tưởng tượng nổi. Biết cơn đau hành hạ như sư phụ nói trước, nàng nghiến răng ngồi vận công chống đau. Cứ như vậy, cơn đau kéo dài gần một giờ mới hết, mồ hôi toát ra mùi cực kỳ khó chịu. Chợt nhớ sư phụ nói rằng nếu nàng vận công phát chiêu như người dạy, thì kẻ đối đấu sẽ bị trúng độc đau đớn như nàng. Một ý nghĩ thoáng qua:
– Hay ta bí mật đột nhập dinh tể tướng cứu Dương đại ca ra. Dù không cứu được, ta có chết cũng an lòng. Nhưng dù gì ta cũng nhất quyết không dùng Chu-sa huyền âm chưởng hại người.
Nghĩ đến đây thêm can đảm, nàng ngồi phắt dậy đi tắm. Tắm xong, nàng hướng dinh tể tướng đi tới. Dinh tể tướng ẩn hiện trong bóng đêm với ánh đèn từ trong chiếu ra. Ngoài cổng chỉ có một người lính đứng gác. Nàng đi một vòng quanh dinh, thấy hàng rào phía Bắc khá xa với những gian nhà, nàng tung mình lên cao, rồi đá gió một cái, người bắn vào trong. Nàng hướng phía căn nhà có ánh đèn đi tới. Nhưng nàng vừa bước đi mấy bước, thì có tiếng hú, rồi một đàn chó từ đâu nhảy xổ lại vây quanh nàng mà cắn. Bình tĩnh, nàng vận công phóng hai chưởng, hai con chó bắn tung vào tường. Chúng chỉ dẫy dụa được mấy cái rồi nằm im. Thấy hai đồng bạn bị giết, đám chó chỉ đứng xa xa mà xủa. Minh-Ðệ vội tung mình lên bờ tường, nhảy ra ngoài chạy trốn. Người nàng vừa rơi xuống đất, thì đã có năm võ sĩ cầm đao bao vây nàng vào giữa. Một người chĩa đao vào cổ nàng quát:
– Ðứng im chịu trói, bằng không chúng ta chặt đầu.
Minh-Ðệ trầm người xuống, rồi dùng một chiêu hổ trảo đoạt đao từ trên tay người kia, chân phóng cước đá vào mông y. Người ấy bắn tung lại phía sau. Lập tức bốn người còn lại vung đao chém nàng. Minh-Ðệ tung người lên cao tránh bốn thanh đao. Ở trên cao, nàng chĩa đao xuống dưới chân khoa một vòng. Bốn thanh đao chạm vào thanh đao của nàng kêu lên bốn tiếng loảng xoảng, rồi vượt khỏi tay bốn võ sĩ, văng ra xa.
Minh-Ðệ co chân bỏ chạy, nàng vừa cất bước, thì cảm thấy ngộp thở, một kình lực từ trên cao ụp xuống đầu nàng. Kinh hãi nàng vung tay phát chưởng đỡ. Bình một tiếng, nàng cảm thấy cánh tay tê rần, vội nhảy về trước bốn bước, rồi quay lại nhìn xem kẻ đánh mình là ai, thì có tiếng nói trầm trầm:
– Võ công Ðông-a! Người học ở đâu được bản lĩnh dường này mà lại đi ăn trộm ư? Người đừng chạy, hãy đứng lại cho ta xem mặt.
Ðuốc đã đốt lên sáng rực. Minh-Ðệ nhận ra người đối chưởng với mình là một thanh niên tuổi khoảng hai mươi lăm, hai mươi sáu. Thanh niên cũng đã nhìn thấy nàng:
– Thì ra người là con gái. Con gái mà công lực bằng người, e khắp Ðại-Việt chỉ đếm trên đầu ngón tay. Trông phong thái người thực khác phàm, dung nhan thuộc loại sắc nước hương trời mà lại đi ăn trộm ư?
Minh-Ðệ đáp:
– Tôi không phải kẻ trộm.
Thanh niên đổi cách xưng hô:
– À, thì cô nương là gian tế chăng?
– Tôi cũng không phải gian tế.
Thanh niên cau mày lại tỏ vẻ suy nghĩ:
– Thức khinh thân tung người lên tường của cô nương là của phái Ðông-a, còn mấy thức vung đao là do Ðông-a kiếm pháp biến ra. Rồi cô nương lại dùng một chiêu Ðông-hải lưu phong đỡ chưởng của tại hạ... Không biết cô nương là đệ tử của cao nhân nào trong phái Ðông-a?
Minh-Ðệ lắc đầu:
– Tôi không thể nói ra được
Thanh niên đưa cổ tay ra trước mặt Minh-Ðệ:
– Tôi có một điều thắc mắc là phái Ðông-a từ khi thành lập đến giờ vẫn đi theo chính đạo, đời đời lấy chủ đạo giúp dân cứu nước. Xưa kia Nhật-Hồ lão nhân mang Chu-sa độc chưởng vào Ðại-Việt, gây ra những trận phong ba trong võ lâm. Sau đại hiệp Trần Tự-An chế ra phản Chu-sa chưởng pháp, từ đó Chu-sa chưởng gần như tuyệt diệt, võ lâm đều hướng mặt về phái Ðông-a mà khâm phục. Tại sao cô nương lại luyện Chu-sa huyền âm công? Ban nãy cô nương tấn công tại hạ bằng Ðông-a chưởng, nhưng xử dụng nội lực âm nhu pha Chu-sa huyền âm công. Cô nương có hiểu tại sao tại hạ lại vô sự không?
– Tôi cũng không rõ.
Thanh niên cung tay:
– Dễ thôi, vì tại hạ xử dụng phản Chu-sa chưởng của quí phái đấy. Nhưng cô nương đã muốn dấu thân phận thì tại hạ cũng không dám cật vấn. Tại hạ họ Lê tên Văn-Thịnh hiện lĩnh chức trưởng sử trong phủ Gia-viễn quốc công. Việc đã như thế này, tại hạ xin kính mời cô nương dời gót ngọc vào yết kiến Quốc-công để người phát lạc.
Không đừng được, Minh-Ðệ phải theo Lê vào dinh. Trong dinh đèn đuốc đốt sáng như ban ngày, người đứng lố nhố trong sân đều hướng mắt nhìn nàng. Qua một dẫy nhà dài thì tới dinh thự cao hai tầng, cột sơn son thiếp vàng, vẽ phượng rất đẹp. Lê Văn-Thịnh chỉ vào một nữ tỳ:
– Cô nương, trước khi đưa cô nương vào yết kiến Tể-tướng, xin cô nương cho nữ tỳ khám xét trong người cô nương đã.
Không chờ Minh-Ðệ trả lời, người nữ tỳ khám nàng. Thị chỉ thấy trong túi có bộ Luận-ngữ, bộ Kinh-thi, ngoài ra không có gì khác. Lê Văn-Thịnh tiếp hai bộ sách mở ra xem, y thấy có tờ biểu Minh-Ðệ viết để khiếu oan, thì lấy ra đọc. Ðọc xong, y gật đầu:
– Thì sư huynh sẽ gả Yến-Loan cho người này. Bao nhiêu tai vạ của Yến-Loan sẽ được giải hết. Nghe sư huynh đi. Ðừng sợ gì.
Yến-Loan rộn lên niềm vui, chân tay nàng phát run. Nàng e lệ trả lời Dương Tông:
– Muội đã có lần thuê xe dạo một vòng Thăng-long, nhưng là ban ngày. Hôm nay trăng rằm thế này mà đi chơi thì thực hữu tình quá. Bây giờ chúng ta phải đi qua cổng chính, chứ em không chịu nhảy qua tường đâu.
– Ừ, chúng ta đi.
Yến-Loan sánh vai cùng Dương Tông ra cổng. Một đệ tử gác cổng cúi rạp người xuống mở cửa cho nàng với Dương Tông ra. Y hỏi:
– Thưa cô nương. Cô nương đi bao giờ sẽ trở về?
– Người cứ đóng cổng, khi ta về, ta sẽ gọi.
Tới cổng làng, đã có chiếc xe song mã chờ sẵn. Trên xe, một người to lớn lực lưỡng ngồi chờ. Người này cung cung, kính kính nhảy xuống xe. Y định nói gì, thì Dương Tông lên tiếng:
– Ðỗ Oanh này. Mi nên nhớ ta là nho-sinh, con nhà giầu đang học ở Thăng-long. Ta mời tiểu cô nương đây dạo một vòng đế đô. Mi phải đánh ngựa cho khéo, đừng để xe xóc. Tục ngữ có câu: "Có miệng thì nắp. Sợ cắp thì đậy". Tuyệt đối không nên nói nhiều. Nhớ không?
Tên phu xe khum người lại:
– Dạ, tiểu nhân ghi nhớ lời... công... tử dạy. Hôm nay tự nhiên trong miệng tiểu nhân mọc mấy cái mụn, nên không thể nói nhiều.
Yến-Loan tung mình nhảy lên xe, lưng nàng uốn cong trông thực đẹp. Dương Tông với Ðỗ Oanh đều bật lên tiếng ủa kinh ngạc. Hai người cùng nhìn nhau, như thông cảm một cái gì. Dương Tông lên xe ngồi cạnh Yến-Loan. Viên phu xe ngồi trước ra roi cho ngựa chạy.
Yến-Loan nói với Ðỗ Oanh:
– Phiền anh cho xe chạy ra Cổ-ngư dùm tôi. Tôi thăm bẩy đứa em của tôi một chút. Nghĩ tôi thực là đoảng, ai lại mình là chị, mà đến dinh Thái-hà gần năm không về thăm các em.
– Nhà Yến-Loan ở Cổ-ngư sao?
– Không. Nhà em ở Kinh-Bắc kia.
Rồi nàng tường thuật chi tiết về cuộc gặp gỡ bẩy đứa trẻ ăn mày trên bờ hồ cho Dương Tông nghe. Dương Tông nghĩ thầm:
– Cô gái này thực là người giầu lòng nhân ái. Thân đi tù tội, mà còn lo cho đám trẻ mồ côi ăn xin.
Xe tới Cổ-ngư. Yến-Loan chỉ cho anh ta đánh xe lại căn nhà của bẩy đứa trẻ. Không biết trong mấy tháng qua, nàng đi vắng, bọn nhỏ có học hành đàng hoàng không? Nàng chỉ căn nhà cho Ðỗ Oanh dừng xe lại. Yến-Loan kinh ngạc, đứng ngây người ra: căn nhà nàng mua cho đám trẻ ở, tường bằng gạch, mái lợp cỏ, xung quanh là khoảnh vườn nhỏ, hàng rào trúc con con. Bây giờ trước mặt nàng là một căn nhà lớn, mái lợp ngói đỏ. Phía sau có dãy nhà dọc nối với bếp. Góc vườn có chuồng ngựa, nhà để xe. Trong vườn cây cảnh trồng thành bốn khu nhỏ. Trước nhà hàng chục chậu cảnh với những kỳ hoa dị thảo. Phía trước, cái cổng hai cánh sơn mầu đỏ chói. Yến-Loan ngần ngừ một lát rồi cầm lấy dây giật chuông. Chuông đổ, tiếng Thu nhọ nồi hỏi:
– Ai đấy?
– Chị đây.
Bẩy đứa trẻ reo lên, rồi ra mở cổng. Chúng thấy ngoài Yến-Loan còn có hai người đàn ông. Thằng Y hói nói lớn:
– Chúng mày thấy không? Tao đã bảo mà. Khi không chị ý vắng mặt chắc là chị ấy đi lấy chồng.
Nó chỉ Dương Tông hỏi Yến-Loan:
– Chồng chị đấy hả?
Yến-Loan ngượng quá lắc đầu:
– Ðừng nói bậy. Anh ấy chỉ là anh của chị thôi.
Y hói không chịu:
– Hôm trước chị nói chị là con cả. Sao bây giờ lại nói rằng ông này là anh? Anh em mà sao khuôn mặt không giống nhau? Hì... hì... nói dối rồi.
Nó hỏi Dương Tông:
– Có phải anh là chồng chị Yến-Loan không?
– Phải mà không phải.
Duy lùn nhảy choi choi lên:
– À, phải tức là anh muốn làm chồng chị ấy; còn không phải là chị ấy chưa bằng lòng, có đúng thế không?
Yến-Loan ngượng quá, mà bọn trẻ cứ phá. Thằng Ức méo hỏi Dương Tông:
– Anh chị dạo chơi Thăng-long hả? Mùi quá ta!
Yến-Loan đánh trống lảng hỏi Di sậy:
– Tại sao nhà lại thay đổi thế này?
Bọn trẻ đi trước dẫn đường. Ỷ-Lan, Dương Tông, Ðỗ Oanh theo chúng vào phòng khách. Phòng khách khá lớn, với bàn ghế bằng gỗ trắc, khảm xà cừ. Trên tường treo mấy bức họa.
Bọn trẻ đi trước dẫn đường. Ỷ-Lan, Dương Tông, Ðỗ Oanh theo chúng vào phòng khách. Phòng khách khá lớn, với bàn ghế bằng gỗ trắc, khảm xà cừ. Trên tường treo mấy bức họa.
Tuy bỡ ngỡ, nhưng Yến-Loan vẫn làm chủ được, nàng mời Dương Tông, Ðỗ Oanh ngồi. Dương Tông không ngần ngại ngồi xuống. Còn Ðỗ Oanh khoanh tay đứng hầu sau lưng chủ.
Yến-Loan hỏi Di sậy:
– Mới chưa đầy một năm mà sao nhà thay đổi thế này?
Thằng Di sậy ngập ngừng một lúc rồi nói:
– Trong khi chị đi vắng, ở nhà có con lợn sứ thăm viếng.
Yến-Loan hỏi:
– Lợn sứ là cái gì? Nói cho đàng hoàng đi.
Di sậy kể:
– Lợn sứ là sự lớn. Khất hòa thượng tới đây chơi, rồi ngủ lại mấy đêm. Ông dạy chúng em thở, hít cho khoẻ. Chị có biết ông không?
– Biết chứ. Ðất Thăng-long này ai mà không biết ông. Các em có làm cơm cúng dàng thầy đàng hoàng không?
– Có chứ.
Thu đáp: Ông í là thầy bọn em mà. Một chiều ông đang ngồi giảng Thiền cho bọn em, thì có người đi xe song mã chạy qua. Trên xe có bốn con chó sói. Người đánh xe thấy thầy thì dừng lại hỏi "Thầy có phải là Khất hòa thượng không?". Ông trả lời "Phải mà không phải". Người đánh xe buồn rầu: "Tại sao phải mà không phải?". Hòa thượng đáp: "Phải vì bần tăng chính là gã thầy chùa ăn mày. Còn không phải vì tên bần tăng đâu có phải là Khất hòa thượng". Ông đó cung tay xá: "Bạch sư phụ, đệ tử có bốn con chó bị người ta bỏ bả sắp chết. Xin sư phụ mở từ tâm cứu cho. Ðệ tử muôn vàn cảm tạ". Hòa thượng nói: "Nhớ nhé". Rồi hoà thượng móc trong túi ra hộp kim. Người cắm kim lên khắp mình bốn con chó. Lát sau bốn con chó đều mửa thốc, mửa tháo ra. Hòa thượng trao cho người đó hộp thuốc, rồi dặn "Bao nhiêu bả độc, chó đã mửa ra hết. Bây giờ cần phải uống thuốc. Ðây, thí chủ cho chó uống, mỗi ngày ba viên. Mười ngày sau thì khỏe như thường". Người đánh xe cung tay: "Ða tạ đại sư, không biết đệ tử phải tạ đại sư như thế nào?". Hòa thượng chỉ bọn em: "Hồi nãy bần tăng hứa cứu bốn mạng cho thí chủ. Thí chủ hứa muôn vàn cảm tạ. Nay bần tăng không cần muôn, chẳng cần vạn, mà chỉ cần gấp đôi thôi. Bần tăng xin thí chủ nuôi, dạy bẩy đứa này cho thành người, dạy dỗ nó như dạy dỗ con cái vậy". Người ấy chắp tay "Ðệ tử tuân pháp chỉ của đại sư. Tuổi đệ tử còn nhỏ, không dám coi mấy trẻ này là con, mà chỉ nhận nuôi chúng như em mà thôi".
Yến-Loan hỏi:
– Rồi sao?
– Hôm sau bọn em đi học về thì không thấy hòa thượng đâu. Còn ông đánh xe, thì ông xưng là Lý Chiêu-Văn. Ông trở lại với thợ nề, thợ mộc, phá căn nhà cũ, xây thành nhà mới khang trang như thế này. Ông mang đến hai thị nữ để nấu cơm, giặt quần áo cho bọn em. Ông lại cấp cho bọn em một chiếc xe song mã với mã phu. Tối tối ông dạy võ cho bọn em, ông mượn riêng một thầy đồ dạy bọn em học nữa.
Dương Tông chau mày hỏi:
– Cái ông Chiêu-Văn đó, độ bao nhiêu tuổi?
– Khoảng hai chục. Ông í đẹp trai hơn anh nhiều.
Dương Tông càng đăm chiêu:
– Bọn em đã học võ với ông đến đâu rồi?
– Nhiều lắm.
Dương Tông đưa mắt cho Ðỗ Oanh. Ðỗ Oanh hỏi:
– Bây giờ tôi thử vài chiêu với một em, xem võ các em có hiệu nghiệm hay không nghe!
Nói rồi y vung tay tát Ức méo một cái. Ức méo vội trầm người xuống tránh, chân đứng theo trung-bình tấn, rồi tay phải gạt tay phải Ðỗ Oanh, tay trái đấm thẳng vào sườn phải chàng. Ðỗ Oanh tung người lên cao, rồi đấm thẳng vào mặt Ức méo. Ức méo lại trầm người xuống, rồi dùng vai húc vào bụng Ðỗ Oanh. Ðỗ Oanh nhảy lui lại.
Cứ thế, Ðỗ Oanh đánh hết tám đòn chân, tám đòn tay, Ức méo đều đỡ được. Yến-Loan nhận ra võ công bọn nhỏ học được là võ công phái Ðông-a mà nàng đã học với vợ chồng quý nhân và sư phụ Tự-An.
Dương Tông tươi cười nói với Yến-Loan:
– Mừng cho em. Người nuôi dạy bẩy đứa trẻ này là một đại công tử có tư cách khác phàm. Em có thể yên tâm.
– Anh biết công tử đó ư?
– Biết, biết rất kỹ. Ta đi thôi.
Yến-Loan dặn bọn trẻ:
– Chị sẽ trở về với các em.
Yến-Loan cùng Dương Tông ra xe. Ðỗ Oanh đánh xe chạy vào trong thành.
Ðây là lần đầu tiên Yến-Loan đi chơi đêm, hơn nữa đi chơi đêm với một thanh niên phong lưu tiêu sái. Dương Tông luôn chỉ chỗ này, chỗ kia giảng giải cho nàng. Khi xe qua điện Cao-minh, Yến-Loan thấy cái chuông đồng treo trên một đài cao khoảng bốn thước (1m ngày nay). Cạnh đài có lính gác. Nàng hỏi:
– Chuông để làm gì vậy?
Dương Tông giảng giải:
– Chuông này mang tên Hồng-chung, được đúc vào niên hiệu Sùng-hưng Ðại-bảo năm thứ tư (1052). Ðức vua Thái-tông đã ban chỉ làm chuông để cho những ai bị oan ức, thì cứ đến đánh lên, người sẽ đích thân cứu xét cho.
– Thế từ hồi ấy đến giờ có ai đánh chuông kêu oan không?
– Nhiều lắm. Nhưng mấy năm gần đây dường như không còn vụ nào oan uổng nữa, nên đâu có ai đánh chuông khiếu nại? Muội bảo đức vua có đáng bậc nhân quân không?
– Không. Ông là hôn quân, ác quân. Thực chẳng xứng đáng làm chúa cõi trời Nam.
Dương Tông quát lên:
– Người không được nói lời phạm thượng, như vậy là phạm tội đại bất kính, phải chặt đầu.
Yến-Loan kinh hãi vô cùng, vì Dương Tông đang nhu nhã như vậy, mà thình lình nổi nóng chỉ vì một câu nói tầm thường của nàng. Nàng ngây người ra nhìn y. Dương Tông đã bình tĩnh trở lại:
– Xin lỗi em, anh sợ bị chặt đầu, nên nói hơi lớn.
– Chặt đầu thì chặt, nhưng sự thực là thế.
Dương Tông giật mình:
– Tại sao? Em đừng nói bậy.
– Không bậy một tẹo nào cả.
Yến-Loan kể nể: Những oan ức bất công đầy dẫy ra đấy. Nhưng nào ai dám đánh chuông kêu oan? Chẳng nói đâu xa, chính em đây đang bị hàm oan chồng chất, mà vua thì bị Tể-tướng bưng bít không biết gì, rồi ông ta xử oan xử ức. Vậy Chương-thánh Gia-khánh hoàng-đế nhân ở chỗ nào? Ðấy là nói về phạm luật hay không phạm luật. Còn như luật lệ đương thời là thứ luật bất nhân. Em hỏi anh câu này nhé: hiện vẫn còn biết bao nhiêu cô gái con nhà nghèo phải bán mình cho nhà giầu làm tôi tớ. Trong khi đó lại có biết bao trai trẻ không vợ? Hiện có biết bao nhiêu chủ điền bóc lột tá điền. Tại nông thôn bọn cường hào ác bá thi nhau áp chế dân. Như vậy là đức nhân ư?
Mặt Dương Tông tái nhợt:
– Thế em có biết thế nào là đức nhân không đã?
– Anh hỏi đức nhân của nhà Phật hay của nhà Nho?
– Nhà Nho mới nói nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, chứ đạo Phật chỉ nói từ bi, hỉ xả thôi.
Yến-Loan cười khúc khích:
– Thôi bỏ chuyện nhân đi, em hỏi chuyện khác. Hồi còn nhỏ, em có nghe kể chuyện Phật-bà chùa Hương-tích hay chuyện đức chúa Ba. Chuy sau màn. Hoàng-hậu dường như nhìn thấy cái hộp thì nổi cơn tam bành:
– Ái chà chà, ghê thực. Con này thực không vừa.
Rồi bà nguyền rủa những tiếng thô tục. Bà hỏi:
– Cái tên Dương Tông kia có hứa hẹn cưới mi làm vợ không?
Minh-Ðệ nổi máu gan lì, nàng im lặng không trả lời. Hoàng-hậu càng nổi cáu hơn:
– Mi có biết cái hộp vàng chạm hai con rồng là của Thượng-Dương hoàng hậu không? Những vòng ngọc, kim cương này cũng đều là của trân bảo trong hoàng cung không? Như vậy gã họ Dương đã ăn cắp từ trong cung mang ra tặng mi. Tuy mi không ăn trộm nhưng cũng mắc tội gian nhân hiệp đảng.
Lão già nói:
– Tội trộm vật ở hoàng cung thì không nặng. Nhưng tội nặng nhất là kết cấu với Kinh-Nam vương với phái Ðông-a làm gian tế cho Tống. Hừ!
Lão già chắp tay hướng lên trời vái ba vái:
– Tạ ơn trời phật hộ trì cho Ðại-Việt, cho người ngay, nên chúng ta đã khám phá ra manh mối vụ gian tế Tống định cho người làm nội ứng, để rồi đem quân qua xâm chiếm. Mà việc này lại chính là Kinh-Nam vương Tự-Mai với phái Ðông-a chủ xướng. Việc đầu tiên là chúng thấy nhà ta ba đời trung với triều đình, lại hết tâm cần lao chính sự, nên chúng ra tay vu oan giá họa, hại gia đình ta trước. Mai ta phải tâu lên Hoàng-thượng ngay để người kịp đề phòng.
Hoàng-hậu bảo Minh-Ðệ:
– Tên Tự-An mấy lần xui mi trốn đi phải không? Ta nói cho mi biết, Hoàng-thượng là đấng nhân từ, nếu người xử vụ này, thì chỉ mình mi bị tội mà thôi. Còn như mi muốn trốn đi thì cứ trốn, nhưng ta sẽ cho người về bắt bố mẹ mi, em mi, họ hàng nhà mi đem về đây tùng xẻo. Mi hiểu không?
Minh-Ðệ vẫn gan lì không nói, không rằng.
Hoàng-hậu nói vọng ra:
– Mi muốn được ta tha tội cũng không khó, chỉ cần mi thuật chi tiết vụ gặp Dương Tông ra sao nói cho ta biết mà thôi. Nếu như mi nói dối một câu, thì lập tức ta ra lệnh dùng dao rạch lên mặt mi mấy cái, thì mi sẽ biến thành con quỷ dạ xoa xấu xa kinh khiếp. Sau đó ta dong đi khắp kinh thành cho thiên hạ coi. Người ta sẽ trầm trồ chỉ chỏ: trời, bộ mặt quỷ kìa. Mi có chịu khai không?
Minh-Ðệ không trả lời.
Hoàng-hậu nổi giận quát:
– Bay đâu, đem Yến-Loan ra, rạch lên mặt mười vết, rồi lấy vôi bôi vào cho ta, xem nó có gan được không?
Võ sĩ dạ ran. Minh-Ðệ quả đã bị uy hiếp, nàng nghĩ:
– Ðằng nào thì ta cũng chết. Dù ta có chết, cũng đừng để khuôn mặt kinh tởm.
Nghĩ vậy, nàng nói:
– Tôi xin thuật.
Minh-Ðệ khoan thai thuật hết mọi chi tiết từ khi Dương Tông xuất hiện cho đến lúc lên Anh-hùng tửu lâu, không dấu một chút nào.
Hoàng-hậu thở phào một tiếng rồi nói:
– Mi đã thành khẩn khai thực, vậy ta cũng ban hồng ân mà tìm cách ân xá cho mi. Bây giờ ta cho mi chọn một trong hai điều.
– Xin lệnh bà cứ nói.
– Thứ nhất, sáng mai ta giải mi với Dương Tông về quê mi, bắt bố mi, các em mi cùng trói ở giữa chợ, rồi kể tội mi cùng kẻ gian vào cung ăn cắp. Sau đó đem mi với Dương Tông xẻo từng miếng thịt một cho đến chết. Còn bố mẹ, các em mi sẽ bị bán cho nhà giầu trong làng làm đầy tớ.
Minh-Ðệ run run:
– Còn điều thứ nhì?
– Ngay sáng mai, ta đem Dương Tông xung quân ở châu Quảng-nguyên. Còn mi, thì mi phải viết tờ cung khai rằng: mi trốn nhà đến chùa Từ-quang ở. Ðêm đêm mi bị ép lần lượt đến từng phòng cho các sư hành dâm. Chính mi âm thầm đi mua chó, mua gà, mua thịt về nấu nướng cho các sư ăn. Mi cũng phải khai thêm: vợ chồng Kinh-Nam vương Trần Tự-Mai thường âm thầm đến chùa bàn việc với sư Viên-Chiếu. Kinh-Nam vương trao cho Viên-Chiếu rất nhiều vàng bạc, để mua chuộc kết nạp các quan trong triều ngoài biên. Họ định rằng, khi quân Tống sang, thì sư Viên-Chiếu cùng chư đệ tử với các quan nhận vàng sẽ làm nội ứng. Vì vậy Kinh-Nam vương mới dạy võ công cho mi. Ðến khi việc bại lộ, tất cả bị bắt, thì Trần Tự-An lại xuất hiện dạy Chu-sa huyền âm độc chưởng cùng thu mi làm đệ tử. Chính y sai mi ăn cắp những cơ mật về võ công của Lý Thường-Kiệt trao cho y. Sau khi mi khai như vậy, thì ta kết án rằng mi là trẻ con, bị người ta dụ dỗ, ân xá cho mi. Ta sẽ gọi bố mẹ mi lên đây, trao mi cho bố mẹ mang về quê dạy bảo.
Bà ta im lặng một lát rồi nói:
– Bây giờ ta tạm giam mi lại. Trong phòng giam, ta cho mi đèn, cùng giấy bút. Mi suy nghĩ, rồi quyết định. Nếu mi chọn đường thứ nhì thì giấy bút đấy, mi viết tờ khai. Sáng mai, giờ Dần mà tờ khai không xong, thì ta sẽ cho giải mi với Dương Tông đi ngay.
Võ sĩ đem Minh-Ðệ đến một phòng đặc biệt khá sạch sẽ, nàng bị khóa hai chân bằng sợi xích sắt. Trong phòng có đèn đốt sáng, có án thư, với bút mực. Cạnh đó có chiếc giường.
Minh-Ðệ than thầm:
– Thôi thế là xong. Nhất định ta không chịu vu oan giá họa cho các thầy. Sáng mai Dương đại ca cùng ta sẽ bị giải về làng. Bố mẹ, các em ta đều bị nhục.
Nàng ôn lại chuyện cũ:
– Sao đời ta thực lắm gian truân. Ta có chết cũng chẳng ân hận gì. Bố ta thì coi ta như người dưng; mẹ ta, em ta coi ta như kẻ thù. Ta có sống cũng chẳng sung sướng gì, thì chi bằng chết đi cho rảnh.
Bỗng có tiếng mở khóa. Minh-Ðệ giật mình, Lê Văn-Thịnh xuất hiện. Thịnh cầm ngọn nến để lên đầu án thư. Minh-Ðệ đưa con mắt lạnh lùng nhìn y. Y nhìn trước, nhìn sau không có ai, sẽ hỏi nàng:
– Lê cô nương. Hồi chiều tôi có đôi điều thắc mắc muốn hỏi cô mà Tể-tướng không cho phép. Vậy cô nương có thể trả lời cho tôi một đôi câu không?
– Tôi sắp bị hành hình, thì sống cũng như chết. Anh muốn hỏi điều chi?
– Tôi đã đối chiêu với cô nương,n này hay lắm. Nghe đâu chép bằng chữ Khoa-đẩu, ngày nay không ai đọc được nữa. Tiếc quá. Anh là người đọc sách, anh có thuộc chuyện này không?
Dương Tông thấy đang nói về chữ nhân, mà Yến-Loan lại hỏi sang chuyện khác, chàng bật cười, nhưng cũng trả lời:
– Chuyện này khá hay, anh đọc hoài nên cũng nhớ được ít câu.
– Anh đọc cho em nghe thử xem nào!
Dương Tông đọc:
Chân như đạo Phật rất mầu,
Tâm trung chữ hiếu, niệm đầu chữ nhân.
Hiếu là độ được đấng thân,
Nhân là thoát khỏi trầm luân mọi loài.(7)
Ghi chú,
(7) Trích chuyện Phật bà chùa Hương, không rõ tác gỉa, không rõ thời gian viết. Nhưng tôi thấy cốt chuyện hơi giống việc công chúa Hồng-Châu em vua Lý Thái-tổ đi tu, sau là Tịnh-Huyền. Xin xem Anh hùng Tiêu-sơn của Yên-tử cư-sĩ.
Yến-Loan ngắt lời:
– Ủa, sao anh bảo đạo Phật không nói về chữ nhân mà?
Câu nói của Yến-Loan làm Dương Tông kinh ngạc, nghĩ thầm:
– Chết thực, mình tự cao, tự đại, coi thường cô bé nhà quê, bị cô ấy đưa vào bẫy rồi. Mình phải cẩn thận với cô mới được. Tiện đây mình thử hỏi ít câu, xem kiến thức của cô ấy ra sao đã.
Nghĩ vậy, chàng hỏi:
– Kiến thức của em thực không tầm thường. Anh không mấy chú ý đến chữ nhân trong Nho. Vậy theo Nho, chữ nhân nghĩa là gì? Chữ nhân có từ thời nào?
Yến-Loan suy nghĩ một lát rồi nói:
– Anh thử em đấy à? Này anh ơi, trước Khổng-tử ít thấy nói đến chữ nhân. Trong Kinh-thi, phần Nhã, Tụng, rồi sách Thượng-thư đều không thấy nói đến chữ nhân. Song tới Luận-ngữ thì chương nào cũng nói đến nhân, coi như cái đạo lớn của loài người "nhân sinh chi đạo". Nếu em nhớ không lầm thì những chương nói về chữ nhân nhiều nhất là Nhan Uyên, Tử-Lộ, Dương Hóa, Hiến-vấn, Ung Dã. Còn nhân là gì, thì thiên Ung-Dã, Khổng-tử đã nói rồi:
".. Tử-Cống hỏi Khổng-tử, tỉ như có người thi ân, bố đức cho khắp nhân gian, mà có thể giúp cho dân chúng, thì người ấy ra sao? Gọi là người nhân được không?
Khổng-tử đáp: sao lại chỉ gọi là người nhân thôi? Phải gọi là bậc thánh mới đúng. Ðến như vua Nghiêu, vua Thuấn, còn làm không nổi nữa là. Người nhân là người tự lập, mà cũng giúp cho người tự lập. Mình muốn thông đạt, mà cũng giúp cho người thông đạt; lấy cách đối đãi với mình mà đối đãi với người, làm người nhân chỉ có thế thôi". (8) Như vậy chữ nhân ở đây có nghĩa là lấy cái thành của mình mà giúp cho kẻ khác; thấp hơn một chút là điều mình không muốn thì đừng làm cho người khác.
Ghi chú,
(8) Nguyên văn:
...Tử-Cống viết: Như hữu bác thí ư dân, nhi năng tế chúng, như hà? Khả vị nhân hồ?
Tử viết: "Hà sự ư nhân? Tất dã thánh hồ! Nghiêu, Thuấn kỳ do bệnh chư! Phù nhân giả, kỉ dục lập nhi lập nhân, kỉ dục đạt nhi đạt nhân. Năng cận thủ thí, khả vị nhân chi phương dã dĩ". (Luận-ngữ, Ung-dã )
Ðỗ Oanh xen vào:
– Thưa cô nương, thế thì nhân của Khổng với Phật cũng giống nhau sao? Phật dạy ta tu hành, rồi độ cho người "nguyện độ chúng nhân giai thành Phật đạo".
– Ðâu có! Phật dạy ta phải nhân, phải thương xót cả kẻ có tội, thương mọi người như nhau. Khổng-tử bắt ta phải kính người nhân, xa lánh kẻ ác. Khác nhau xa lắm. Như thiên Lý-nhân người nói:
"...Chỉ có bậc nhân mới biết yêu người, ghét người..." (9)
Ghi chú,
(9) Nguyên văn:
...Duy nhân giả năng hiếu nhân, năng ố nhân. (Luận-ngữ, Lý nhân)
Yến Loan lại tiếp:
– Ông lại khuyên môn đệ: "... trong nhà thì hiếu, ra ngoài thì đễ, cẩn thận cung kính mà chân tình thật ý, yêu mọi người mà thân với bậc nhân..." (10) Khi Tử-cống hỏi ông: "Người quân tử có ghét ai không?. Ông đáp: Có ghét, ghét kẻ bêu chuyện xấu của người; ghét kẻ dưới mà nói gièm người trên; ghét kẻ có sức mạnh mà không biết lễ phép; ghét kẻ ương ương làm liều để đi đến hỏng việc..." (11)
Ghi chú,
(10) Nguyên văn:
... nhập tắc hiếu, xuất tắc đễ, cẩn nhi tín, phiếm ái chúng nhi thân nhân. (Luận-ngữ, Lý nhân)
(11) Nguyên văn:
... Tử-Cống viết: Quân tử diệc hữu ố hồ? Tử viết: Hữu ố. Ố xưng nhân chi ác giả; ố cư hạ lưu nhi sán thượng giả; ố dũng nhi vô lễ giả; ố quả cảm nhi bất trất giả. (Luận-ngữ, Dương-Hóa)
Dương Tông im lặng nghe Yến-Loan nói về nhân, gương mặt tỏ ra đăm chiêu, suy nghĩ. Yến-Loan kết luận:
– Thu gọn lại chữ nhân của Nho có thể tóm lược trong thiên Dương-Hóa như sau: "..Tử-Trương hỏi Khổng-tử về nhân. Khổng-tử đáp: Làm được năm điều trong thiên hạ thì là nhân. Tử-Trương hỏi: xin thầy cho biết đó là những điều gì? Ðáp: Năm điều ấy là cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Nếu mình cung kính nghiêm trang thì chẳng ai dám khinh mình. Nếu mình khoan hồng thì phục được lòng người. Nếu mình có đức tín thì người ta tin cậy mình. Nếu mình cần mẫn thì làm được việc. Nếu mình thi ân bố đức thì đủ sai khiến được người..." (12)
Ghi chú,
(12) Nguyên văn:
... Tử-trương vấn nhân ư Khổng-tử. Khổng-tử viết: "Năng hành ngũ giả ư thiên hạ, vi nhân hỹ". "Thỉnh vấn chi". Viết "Cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Cung tắc bất vũ. Khoan tắc đắc chúng. Tín tắc nhân niệm yên. Mãn tắc hữu công. Huệ tắc túc dĩ sử nhân". (Luận-ngữ, Dương-Hóa)
Nàng nói bâng quơ:
– Này, anh nghĩ ngày mai em có nên đx;'>
– Im cái mồm. Ðây là dinh tể tướng, không phải chợ hàng tôm hàng cá, mà mụ phun ra những lời đầu đường xó chợ như thế. Ta chưa tính cái tội mi với con gái tên Minh-Can giết chết con bé này. Mi biết đấy, cha mẹ giết con, thì bị tội chém đầu. Em giết chị thì bị tội chém ngang lưng. Nếu như từ nay mi với con Minh-Can còn ác độc với con bé này thì đừng trách ta. Nay ta có lời dạy dỗ mụ.
– Dạ, dạ con xin nghe lời cụ lớn.
– Mi đem con gái về, quản chế trong nhà, rồi kiếm người tử tế mà gả chồng. Nội trong một năm, mà mi chưa gả chồng cho nó, thì ta sẽ bỏ tù mi. Mi hiểu chưa?
– Dạ, dạ, con hiểu.
– Thôi vợ chồng mi đem con đi.
Vợ chồng ông Thiết với Minh-Ðệ lạy ba lạy rồi lui khỏi dinh Gia-viễn quốc công.
Ðã gần tháng nay rồi, Minh-Ðệ lại trở về với công việc hàng ngày của mấy năm trước: dã bèo, nấu cám lợn, giặt quần áo. Lý trưởng Thổ-lội đem con trâu mộng mà nàng mua năm trước của trường Trung-nghĩa trả nàng. Con trâu gặp lại ân nhân, nó vẫy đuôi, gầm lên mấy tiếng tỏ vẻ mừng rỡ. Từ đấy, sáng sáng nàng cỡi trâu đi quanh làng, rồi cắt cỏ cho nó ăn. Còn bà Thiết vì sợ oai Dương tể tướng, mà không dám hành hạ nàng nữa. Tuy nhiên bà bắt nàng ngủ dưới chuồng lợn, chứ không cho ngủ trên nhà. Mụ Sửu với Minh-Can thấy Minh-Ðệ xinh đẹp tuyệt trần, thì lòng thù hận càng tăng lên. Hơi tý là diếc móc, nói cạnh, nói khóe. Nhưng cả hai đều biết rằng võ công của nàng rất cao thâm, nên sợ nàng như sợ cọp, không dám đánh nàng nữa.
Bà Thiết vốn ghét Minh-Ðệ, nên từ hôm nàng trở về nhà, bà không nhìn mặt, không nói với nàng một câu. Vì Gia-viễn quốc công chỉ kết tội bà với Minh-Can giết Minh-Ðệ, mà tuyệt không nói cho ông bà Thiết biết những việc xẩy ra từ khi Minh-Ðệ rời nhà, thành ra bà Thiết chỉ hiểu lờ mờ rằng sau khi Minh-Ðệ bị vứt xuống chuống hôi, thì nàng chạy đến chùa Từ-quang, rồi được sư cụ cưu mang. Nhưng vì sư cụ cùng chư tăng bị tội phạm giới, nên quan tể tướng cho nàng về với cha mẹ.
Những lúc ngồi suy nghĩ lại chuyện mấy năm xa nhà, mà nàng rùng mình kinh hồn. Càng nghĩ, nàng càng thâm cảm ơn Gia-viễn quốc công Dương Ðạo-Gia đã cứu nàng thoát chết, thoát khỏi tay tên đại đạo Dương Tông.
Minh-Ðệ là người ôn nhu văn nhã, nên hầu hết các thiếu nữ ngang tuổi trong làng đều chơi thân với nàng. Việc Minh-Ðệ bị ném xuống cầu tiêu, rồi đến chùa Từ-quang, ngoài Minh-Can với bà Thiết, trong làng không ai hay. Bạn bè tìm đến nhà hỏi tin nàng, thì Minh-Can ngoạc mồm ra nói: nàng hư đốn bị mẹ đuổi đi rồi. Ðôi khi ả còn ác miệng: thị ngủ với sáu nhà sư ở chùa Từ-quang, bị kết án voi dầy rồi.
Bây giờ đột nhiên họ thấy nàng trở về, nhan sắc mặn mà hơn xưa, kiến thức quảng bác, họ kéo nhau tới chơi với nàng. Vì bà Thiết khó tính, không muốn cho bạn Minh-Ðệ tới chơi, nên nàng thường hẹn với họ ở miếu thổ thần, hoặc ngoài đồng, rồi nàng mượn cớ chăn trâu ra chơi với họ. Bốn người bạn thân nhất của nàng là Thanh-Thảo, Ngọc-Nam, Trinh-Dung, Ngọc-Huệ. Ðối với bốn người này, nàng không dấu diếm một chi tiết nào. Nàng kể cho họ nghe về cuộc viễn du kỳ lạ trong hai năm qua.
Trinh-Dung góp ý kiến rằng trong vụ án Dương Tông dường như ẩn tàng một điều gì bí mật cực kỳ. Nàng nêu lý do:
– Một là cái bà ngồi sau màn ở dinh tể-tướng là ai? Chưa chắc bà đã là Hoàng-hậu. Có khi ông Tể-tướng cho ai đó giả đóng kịch? Nếu Dương Tông là trộm cướp, thì dễ gì Thái-bảo Thường-Kiệt lại xui Minh-Ðệ đi chơi với chàng! Nếu chàng là trộm cướp sao lại có tên đánh xe ngựa kiến thức rộng mênh mông cùng võ công cao như thế?
Ngọc-Huệ góp ý kiến:
– Mình nghĩ chị nên tìm cách liên lạc với quan Thái-bảo Lý Thường-Kiệt, rồi kể hết mọi chuyện cho ngài nghe. Ngài là anh hùng đời nay, thì ngài có thể giải đoán ra tất cả những bí mật trong vụ này.
Ngọc-Nam kể về những điều phách lối của Minh-Can đối với con gái trong tổng, trong hai năm Minh-Ðệ vắng mặt cho nàng nghe rồi kết luận:
– Bây giờ, mình nghĩ chị nên chờ dịp bố mẹ đi vắng, nện cho nó một trận nhừ tử càng ra rồi cấm không được mách bố mẹ, bằng không sẽ đập chết. Như vậy từ nay chị muốn sai gì nó cũng phải nghe. Còn cái con mụ Sửu, nếu nó nói kháy, nói xa nói gần gì đến chị, chị đập cho nó một trận trước mặt bố mẹ, để bố mẹ cũng biết rằng chị không phải là con chó ghẻ.
Ngọc-Huệ đề nghị:
– Cái đám học trò trường Trung-nghĩa thường hợm hĩnh rằng võ công cao, văn học giỏi, lên mặt thầy ta là trung là nghĩa. Trong khi bề trong thì tên Trịnh Quang-Thạch là một thứ thái giám, tôi đòi của hậu cung, làm những chuyện phi pháp. Mình nghĩ chị nên âm thầm dạy võ cho bọn này. Ðợi một dịp nào đó, thình lình bọn này đập cho chúng nó bò lê, bò càng ra như Minh-Ðệ đập bọn Trịnh Phúc, Vũ Ðức, Vũ Ðạt, Minh-Can để chúng hết làm phách.
Ý kiến đó, Minh-Ðệ nhận lời ngay. Từ đấy, mỗi đêm nàng âm thầm dạy võ cho Thanh-Thảo, Ngọc-Nam, Ngọc-Huệ, Trinh-Dung. Trinh-Dung đề nghị đặt cho năm người cái tên gì hay hay. Cuối cùng tất cả đều đồng ý với tên Hồng-hà ngũ-long.
Từ hôm về nhà, mỗi tháng Minh-Ðệ vẫn lên cơn đau đớn cùng cực trong hai ngày: mồng một và ngày rằm. Nàng phải áp dụng phương pháp vận công của Tự-An để chống đau. Sau khi chịu đủ 49 lần vận công chống đau vào nửa đêm, Minh-Ðệ lấy ba viên thuốc của Thường-Kiệt uống. Nàng nghĩ thầm:
– Lão trượng dạy võ cho mình là ai? Tại sao với bản lĩnh cao như vậy mà người phải giả danh đại hiệp Trần Tự-An. Người nói rằng, mỗi đêm ta lên cơn, phải vận công chống đau, đó chính là phép luyện công. Sau 49 ngày thì coi như tiểu thành, tiếp theo mỗi tháng mồng một, mười rằm lại lên cơn, trải 49 ngày thì trung thành. Ðến đây nếu không có thuốc uống thì chết. Bằng như có thuốc uống thì một năm sau cũng phải tìm người mà xin thuốc, nếu không sẽ đau trong 49 ngày rồi chết. Khi ta trốn biệt, người tưởng ta không có thuốc, ắt chết rồi. Ðâu ngờ ta vẫn sống nhăn. Nhưng ta phải làm sao giải vĩnh viễn cái ách này, chứ không thì ma chướng sẽ nhập vào ta, ta sẽ hành xử theo đường tà.
Hôm ấy, vào ngày rằm, giữa đêm nàng đang ngủ, thì giật mình thức giấc vì có tiếng người lạ rón rén từ vườn đi lại phía nhà nàng. Nội công Minh-Ðệ hiện đã đến mức cao thâm. Nàng nhổm dậy nhìn ra: một bóng đen tiến đến cửa chính nhà nàng sẽ gõ hai tiếng. Có tiếng mở cửa, nàng nhìn rõ Minh-Can khép cửa, rồi cùng bóng đen dùng khinh công chạy ra sau nhà. Nàng kinh hãi vô cùng khi hai con chó Tâm-Ðức và Ðức-Tâm không xủa, mà lại vẫy đuôi mừng bóng đen. Nàng nghĩ thầm:
– Thì ra tên này đến đây nhiều lần ban ngày, khiến hai con chó tưởng y là người nhà, nên không xủa nữa.
Minh-Ðệ theo hai người bén gót. Tới gốc cây khế, bóng đen hỏi:
– Thế nào? Việc đó ra sao?
Minh-Ðệ nhận ra tiếng của đệ nhất thái-bảo trường Trung-nghĩa Ðoàn Quang-Minh. Tiếng Minh-Can trả lời:
– Túi thuốc mà sư huynh đưa, muội đã bỏ vào bát canh của nó. Nó ăn hồi chiều rồi. Sáng mai nó có chết hay không mới biết được.
Minh-Ðệ kinh hãi:
– Không biết con này nó đánh thuốc độc ai đây?
Tiếng Quang-Minh:
– Phải cẩn thận lắm mới được. Không biết nó học võ với ai, mà năm trước sư huynh bại về tay nó ở dinh kinh-lược sứ Kinh-Bắc. Muội thử dò xem.
– Việc gì phải dò. Sáng mai nó chết rồi. Chết là hết chuyện.
Minh-Ðệ hoảng sợ:
– Thì ra chúng đánh thuốc độc mình. Nhưng may mắn mình luyện Chu-sa huyền âm chưởng, nên bách độc không hại được mình.
Quang-Minh nói:
– Nếu quả đúng như sư muội nói, thì giờ này nó chết rồi. Vậy sư muội thử về dò xem.
– Sư huynh chờ đó.
Minh-Can chạy về phía chuồng lợn, thị vừa bước vào trong thì Minh-Ðệ phóng tay điểm vào huyệt Ðại-trùy của thị. Lập tức thị ngã lăn ra. Nàng khẽ đỡ thị đặt nằm xuống, hồi hướng ra ngoài hú một tiếng. Quang-Minh nghe tiếng hú, y chạy vào. Tới cửa chuồng lợn y hỏi:
– Gì vậy?
Minh-Ðệ lại phóng tay điểm một chỉ. Quang-Minh ngã lăn ra.
Minh-Ðệ túm hai đứa băng mình về miếu thổ thần. Tới nơi, nàng lấy đá đánh lửa lên đốt vào ngọn đèn. Nàng điểm hai huyệt Khúc-trì, Dương-lăng-tuyền cho chân tay chúng tê liệt rồi giải huyệt Ðại-trùy cho chúng. Nàng nhìn hai đứa, miệng cười nhạt:
– Ta không thù, không oán với bọn bay, hà cớ bay đánh thuốc độc định giết ta?
Minh-Can vẫn ngang ngạnh:
– Con đĩ ngựa, mi... mi điểm huyệt tao hả? Tao mách mẹ, mẹ sẽ trói mày lại cho tao đánh mày đến chết.
Thị vừa nói đến đây thì phát rùng mình, rồi kêu lên tiếng ái, chân tay run rẩy, nhưng không cử động được. Tên Ðoàn cũng phát rùng mình rồi kêu lên tiếng ái. Cả hai cùng tỏ vẻ quật cường, nghiến răng để chịu đựng. Nhưng người vẫn run rẩy. Minh-Ðệ thấy tình trạng hai đứa giống hệt tình trạng của nàng hôm trước thì kinh hãi tự hỏi:
– Tại sao hai đứa lại bị trúng Chu-sa huyền âm độc chưởng? Ai đã đánh chúng? Từ nãy đến giờ, chỉ có mình ta ở bên chúng, chứ có ai đâu?
Nhưng nàng chợt hiểu rằng nàng đã điểm huyệt, độc tố theo chân khí của nàng nhập cơ thể chúng. Bản tính Minh-Ðệ hiền hậu, lại thâm nhiễm Phật-giáo, nên dù giết con sâu cái kiến nàng cũng không nỡ, huống hồ làm người ta đau đớn.
Mạnh-tử nói: Nhân chi sơ, tính bản thiện (Con người ta sinh ra tính vốn thiện), như nước chảy chỗ trũng, nhưng sau nhiễm tính của người đời mà thành ác. Câu này đúng với trường hợp Minh-Ðệ. Từ những ngày thơ ấu bị hành hạ, làm nhục đến cùng cực, nhưng nàng vẫn chịu đựng được. Cuộc hành hạ chấm dứt khi nàng bị chết, bị vứt xuống chuồng hôi. Rồi những ngày bị hiếp đáp ở Kinh-Bắc, ở Thăng-long, đã thay đổi tính tình của nàng. Bây giờ hai kẻ thù định đánh thuốc độc cho nàng chết, bị nàng kiềm chế mà còn muốn đe dọa nàng, hỏi sao nàng có thể mủi lòng?
Minh-Ðệ thản nhiên ngồi nhìn hai kẻ thù đau đớn quằn quại, rên siết. Ðến lúc đau quá không chịu được, tên Ðoàn Quang-Minh năn nỉ:
– Em... em... em.. lạy... chị, em cắn cỏ lạy chị, xin chị tha cho em.
Minh-Can quát lên:
– Ðại sư huynh, tại sao đại sư huynh lại phải xuống nước với con ngẫn ngờ, con khốn kiếp này... Ối...ối... con khốn nạn kia, mày có thôi đi không?
Minh-Ðệ thấy Minh-Can đau đến chết đi sống lại, mà còn hách dịch, nàng nghĩ thầm:
– Bây giờ võ công ta không hèn, văn học ta không dở, kiến thức ta lại rộng, ta không thể là đứa con "ngu hiếu" như Tăng-tử xưa kia nữa. Ta phải làm cho vụ này đến nơi đến chốn mới được.
Nghĩ vậy nàng ngồi im nhìn hai ác nhân rên rỉ. Một lát Ðoàn Quang-Minh lại năn nỉ:
– Ðại cô nương, xin đại cô nương tha cho tiểu nhân.
Vốn thông minh tuyệt đỉnh, khi một sự việc gì xẩy ra, chỉ liếc mắt là Minh-Ðệ đã nắm được những lẽ chính yếu, rồi biến đổi đi, thành hành động của mình. Nàng ở tù hơn năm, bị tra khảo hàng chục lần, thẩm vẩn hằng trăm lần, rồi lại bị đưa về Khu-mật viện thẩm cung, cuối cùng bị bắt bị điều tra ở phủ Gia-viễn quốc công. Bây bây giờ gặp hai ác nhân định giết mình, nàng quyết định phải hỏi cung hai đứa cho ra ba sự việc: môt là tại sao quần áo mình lại bị đem đến chùa Từ-quang hại chư tăng? Tại sao tên Minh lại có thẻ bài của Khu-mật viện? Tại sao chúng lại đánh thuốc độc giết mình?
Mặc hai đứa rên rỉ, nàng nói chậm rãi:
– Tha thì tha, nhưng mi phải khai hết sự thực. Bây giờ ta hỏi câu nào, mi phải nói cho đúng. Bằng không ta cứ để hai đứa bay nằm đây cho đau đớn đến chết. Mi hiểught:10px;'>
– Như vậy là em tự ý ăn chay, chứ không phải em phát nguyện mà?
– Vâng.
– Vậy thì hôm nay ta ăn mặn nhé?
– Xin chiều lòng quân tử.
Dương Tông gọi tửu bảo:
– Bây giờ là tháng một đang mùa rươi, người cho ta đĩa chả rươi, hai con chim bồ câu quay, hai bát canh vi yến.
Tửu bảo vừa ra khỏi phòng thì có tiếng người quát tháo, tiếng người biện luận vọng vào. Tiếng quát tháo dường như của người còn trẻ:
– Ta bảo ta thích cái phòng này, thì dù có Diêm-la lão tử, Ngọc-hoàng đại đế cũng phải nhường cho ta. Tại sao mi cứ lải nhải mãi vậy?
Ðến đây thì sáu người xuất hiện. Họ gồm ba trai, ba gái và lão chủ. Lão chỉ vào trong phòng có Dương Tông, Minh-Ðệ:
– Tiểu nhân đâu dám nói dối công tử. Xin công tử thử nhìn xem, trong phòng đã có khách ngồi rồi.
Một thiếu niên trẻ, đi giữa hai thiếu niên và ba thiếu nữ khác quát:
– Thì mi đuổi hai đứa này đi, rồi lau chùi bàn ghế sạch sẽ cho chúng ta ăn uống. Bằng chậm trễ thì đừng có trách ta.
Lão chủ quán quay lại nói với Dương Tông, Minh-Ðệ:
– Xin hai vị di đại giá sang phòng bên cạnh. Dương đại công tử đã ưa phòng này, thì chúng tôi đành phải chiều người.
Nghe đến Dương đại công tử, Yến-Loan lại nhớ đến Dương tam công tử cùng vợ phóng xe như bay, đụng phải Khất hòa thượng hôm nàng dạo chơi Thăng-long. Yến-Loan nghĩ thầm:
– Anh em nhà họ Dương thực giống nhau, dựa thế ông cha, không coi ai ra gì nữa.
Yến-Loan nhìn lại, Dương Tông nghe Dương công tử đe dọa, mà vẫn bình tĩnh, lắc đầu:
– Xin lỗi, tôi đến trước rồi, ông đem khách tới sau sang phòng bên kia có được không?
Một trong ba thiếu nữ trẻ ra vẻ thành thạo, chỉ vào thiếu niên nói:
– Tên hủ nho kia, người có biết công tử gia đây là ai không?
Dương Tông vẫn ôn tồn:
– Nước có luật, làng có lệ, nhà có quy. Như chủ nhân vừa nói, Anh-hùng tửu lâu này đã định rằng ai có tiền thì được vào ăn. Ai tới trước thì được chọn phòng trước. Công tử nhà cô nương dù là con quan, con dân, cũng phải tuân theo quy tắc đó. Chúng tôi tới trước, chọn bàn trước, đã gọi món ăn rồi; hà cớ công tử của nhà cô nương lại đòi đuổi chúng tôi đi?
Thiếu nữ trẻ chỉ vào Dương nhị công tử, cùng hai thiếu niên::
– Vị này là đệ nhị công tử của Chiêu-văn-quan đại học sĩ, Gia-viễn quốc công.
Lại chỉ vào thanh niên lực lưỡng:
– Vị này họ Trịnh, danh Quang-Liệt, đệ nhị thái bảo của trường Trung-nghĩa Kinh-Bắc, hiện đang lĩnh chức Vũ-vệ hiệu úy cung Long-thụy.
Lại chỉ vào một thanh niên mặt mũi coi bạc nhược:
– Vị này là một vị công công tổng lĩnh thái giám cung Long-thụy, tên Nguyễn Quý-Toàn.
Yến-Loan nghĩ thầm:
– Hôm ta bị bắt đến dinh Trung-nghĩa thì không thấy thằng này, có lẽ nó làm quan xa, nên vắng mặt, bằng không nó đã nhận ra ta. Còn tên Nguyễn Quý-Toàn kia là hoạn quan. Chúng là thị-vệ, thái-giám, hèn chi hách dịch quá.
Dương Tông nghe giới thiệu gia thế, địa vị của bọn mới đến mà vẫn rửng rưng coi như không có chúng vậy. Chàng vẫy tay:
– Dù công-tử, dù thị-vệ, dù thái-giám thì xin chờ chúng tôi ăn xong, mới có thể vào đây.
Gã họ Dương đưa mắt cho tên Quang-Liệt. Quang-Liệt tiến tới vung tay chụp cổ áo Dương Tông định nhắc bổng chàng lên. Bỗng Ðỗ Oanh xuất hiện. Y nhìn bọn họ Dương, miệng cười khành khạch, rồi quát:
– Buông tay. Không được vô lễ!
Rồi y ra chiêu ưng trảo chụp vào vai Quang-Liệt, y ra chiêu sau, mà lại tới trước. Lập tức cánh tay Quang-Liệt mất kình lực. Y vội nhảy lùi lại phía sau, đưa mắt gườm gườm nhìn Ðỗ Oanh. Tên họ Dương chỉ mặt Ðỗ Oanh:
– Mi là ai, ban nãy ta chưa cho bắt mi về tội ăn cắp ngựa, cùng vô lễ, bây giờ mi lại can thiệp vào chuyện chúng ta, thì mi tới số rồi.
Ðỗ Oanh chỉ vào Dương Tông:
– Ta là tùy tùng của chủ nhân đây.
Ðến đó tửu bảo bưng một cái mâm với bát đĩa, thức ăn, cùng rượu lên. Gã Quý-Toàn vung chân đá vào chiếc mâm, miệng quát:
– Tụi bay vô phép thì không được ăn.
Chiếc mâm bay tung lên cao. Ðỗ Oanh phất nhẹ một chiêu, bao nhiêu bát, đũa, thức ăn văng vào mặt tên Quý-Toàn, mặt mũi, y phục của y tẩm nước canh, nước mắm, rượu, trông thực thảm thiết.
Lập tức gã họ Dương, gã Quang-Liệt, Quý-Toàn cùng nhảy vào tấn công Ðỗ Oanh. Ðỗ Oanh như đùa bỡn với cả ba người. Y xuyên bên Ðông, lượn bên Tây vung tay tát tên Quý-Toàn một cái, rồi dùng ưng-trảo xé áo gã họ Dương, sau đó lượn một vòng, quét chân một cái làm gã Quang-Liệt ngã chổng vó lên trời. Khoảng nhai dập miếng trầu, thì quần áo cả ba người rách bươm, trông thực thảm thiết.
Nhìn qua thân thủ Ðỗ Oanh, Yến-Loan kinh ngạc, nghĩ thầm:
– Ta tưởng y chỉ là tên đánh xe, không ngờ võ công y cao thâm thực. Những chiêu số y dùng, thì đúng là của phái Tản-viên. Cái tên Hồng-Liệt kia, võ công đâu có thua sư huynh y. Còn tên họ Dương, thì chiêu số rất kỳ lạ, ta chưa hề thấy qua!
Ba thiếu nữ đi cùng gã họ Dương chạy xuống nhà một lát sau, cả ba ả xuất hiện với một đội võ sĩ khoảng hơn mười người. Viên chỉ huy đội võ sĩ dáng người to lớn kềnh càng. Ði theo y còn có một lão già gầy gò, nhưng tuổi đã cao. Tên đội trưởng ra hiệu cho đội võ sĩ vây lấy bọn Dương Tông. Còn lão già thì chắp tay sau lưng đứng nhìn trận đấu. Giữa lúc đó Ðỗ Oanh tát gã công tử họ Dương một cái, gã đội trưởng vội xỉa ngón tay vào giữa Ðỗ Oanh với gã họ Dương. Nếu Ðỗ Oanh đánh tới thì huyệt Lao-cung trên bàn tay y bị thương. Ðỗ Oanh vội biến cái tát thành quyền, gã đội trưởng lại biến thành cầm nã, bắt tay y. Hai tay đụng nhau đến bộp một tiếng. Ðỗ Oanh bật lui liền hai bước, còn gã đội trưởng thì tỏ vẻ đau đớn, ôm tay đứng tần ngần nhìn Ðỗ.
Ba tên Quang-Liệt, Quý-Toàn và gã họ Dương cùng nhảy lui lại.
Gã họ Dương nói lớn với lão già như ra lệnh:
– Lão sư, xin lão sư bắt hai thằng ôn con này đem về phủ cho tôi.
Lão già ra chiêu hổ trảo chụp Ðỗ Oanh. Ðỗ Oanh trầm người tránh, nhưng tay lão cũng trầm theo, rồi túm được cổ áo Ðỗ Oanh nhắc bổng lên, lão ném y xuống đất cho bộ hạ trói lại.
Dương Tông quát lên một tiếng, tay phải chàng phẩy nhẹ một cái, tên võ sĩ đang trói Ðỗ Oanh bật tung lại sau, ngã lộn đi hai vòng. Lão già phát một chưởng hướng Dương Tông, chiêu số chưa ra hết, mà mọi người đã cảm thấy nghẹt thở. Dương Tông lùi lại ba bước, tay phải quay hai vòng, rồi đẩy về trước một chưởng. Hai chưởng chạm nhau đến bùng một tiếng. Cả hai đều bật lui lại.
Mặc cho lão già kinh hãi đến đờ người ra, Dương Tông trở lại bàn ngồi với Yến-Loan. Lão già biết có đấu, chưa chắc đã thắng Dương Tông. Y tảng lờ quay lại hỏi tên họ Dương:
– Thưa công tử, cái gì đã xẩy ra?
Gã họ Dương chỉ vào Dương Tông, với Ðỗ Oanh:
– Hai tên này đồng bọn đã ăn cắp xe của tôi. Y còn giết chết con trai của kinh-lược An-vũ sứ Kinh-Bắc, rồi nhét đùi chó vào miệng nạn nhân.
Dương Tông khoan thai đứng dậy, nói với gã họ Dương:
– Dường như ban nãy tiểu cô nương đây giới thiệu công tử là cháu đích tông của Tả bộc-xạ, Chiêu-văn quan đại học sĩ, giám tu quốc sử, Dương Ðạo-Gia. Như vậy công tử là con trai của Trường-yên tiết độ sứ, Kinh-Nam hầu chăng?
– Mi nói không sai.
– À, tôi biết công tử rồi. Công tử có tên là Dương Ðức-Huy phải không? Nhà họ Dương phú quý trải đã ba đời. Xưa kia ông cố nội của công tử đã làm Tể-tướng dưới thời vua Thái-tông, rồi thái cô của công tử được phong là Thiên-Cảm hoàng hậu. Bây giờ ông nội công tử làm tể-tướng, phụ thân làm tiết-độ-sứ tước phong hầu; cô của công tử cũng được phong là Thượng-Dương hoàng-hậu. Có đúng thế không?
Dương Ðức-Huy nghe Dương-Tông nói, y hơi chột dạ:
– Người biết cũng khá nhiều đấy.
Dương Tông hừ một tiếng:
– Hiện Dương tể-tướng đang vận động với Thiên-Cảm hoàng-hậu, để công tử được giữ chức Ðô-thống chỉ huy một đạo Thiên-tử binh, nhưng triều đình dị nghị về đức hạnh của công tử, nên việc còn dang dở. Thế mà hôm nay công tử lại đến đây lấn át lương dân. Về đạo lý, coi đã không thuận, huống chi về luật pháp? Tôi xin rửa tai nghe lời công tử dạy dỗ, bằng không tôi phải đánh chuông khiếu oan lên Thiên-tử.
Dương Ðức-Huy chỉ vào Ðỗ Oanh:
– Tên gia đinh nhà ngươi ăn cắp xe ngựa của ta, cùng giết biểu đệ của ta. Ta phải bắt hết bọn mi đem về cho phủ thừa Thăng-long trị tội mới được.
Dương Tông thầy Ðức-Huy lờ vụ đòi chiếm phòng ăn của mình mà nói lảng sang chuyện khác, chàng hỏi Ðỗ Oanh:
– Sự việc ra sao?
– Thưa chủ nhân, ban nãy chiếc xe lạ chở phẩn đụng phải xe mình. Chủ nhân bảo thuộc hạ ở lại giải quyết. Thuộc hạ lôi con ngựa kéo xe chở phẩn sang bên cạnh, thì mấy người này xuất hiện chửi bới thuộc hạ ăn cắp ngựa, giết người. Thuộc hạ phân trần rằng rõ ràng đó là thủ đoạn của Mộc-tồn hòa thượng, thế nhưng họ không nghe, cứ đòi bắt cho được thuộc hạ. Có ai vô lý như vậy không? Rõ ràng xe họ đụng xe mình, mình không nói gì thì thôi, đây ngược lại họ trịch thượng kết tội mình ăn cắp xe.
Dương Tông gật đầu:
– Ðược rồi, chúng ta cùng đến quan tổng trấn Thăng-long để người xử.
Dương Ðức-Huy chỉ Dương Tông, Ðỗ Oanh bảo đám võ sĩ:
– Bọn người hãy trói hai tên này lại đã.
Ðám võ sĩ đã thấy võ công của Dương Tông, chúng đang tỏ ý ngần ngừ, thì Ðỗ Oanh cười nhạt:
– Này anh em võ sĩ của Dương gia. Anh em còn nhớ vụ người nhà họ Dương bang bạnh ở bến Bắc-ngạn thời vua Thái-tông không? Kết quả hai mạng họ Dương chết thảm, mà hai vị Ðô-thống chỉ vì nghe lời họ Dương, rồi đi đến bị băm xương ở Tây-nhai. Các vị hãy nhìn gương cũ, để khỏi chết oan. Các vị nên nhớ Mộc-tồn hòa thượng đang ở rất gần các vị đấy.(13)
Ghi chú,
(13) Biến cố Bắc-ngạn xẩy ra như sau: Khai-Hoàng vương (nay là Chương-thánh Gia-khánh hoàng đế) cùng với Lý Thường-Kiệt qua Bắc-ngạn Thăng-long thì gặp Dương-hồng-Hạc (Nay là Thượng-Dương hoàng hậu) cùng anh trai. Hai người hách dịch, bang bạnh ra lệnh cho hai đô thống Ðinh, Phùng bắt trói vương với Thường-Kiệt, việc vày đưa đến cha và anh của Hồng-Hạc là Dương Ðức-Uy, Dương Ðức-Thao bị Ưng-sơn song hiệp giết chết. Xin đọc Anh linh thần võ tộc Việt cùng tác giả.
Nghe Ðỗ Oanh nói, viên lĩnh đội võ sĩ nói với Ðức-Huy:
– Thưa công tử, tiểu nhân đề nghị công tử đưa những người này về phủ thừa Thăng-long, để quan phủ Thăng-long phát lạc. Khi họ chưa có tội rõ ràng, thì ta chẳng nên trói họ.
Dương Tông quay lại nói với Yến-Loan:
– Muội muội ngồi đây chờ ta một lát nghe.
Rồi chàng cùng Ðỗ Oanh khoan thai đi với bọn võ sĩ xuống dưới nhà.
Nghe Dương Tông dặn, Yến-Loan ngồi yên trong phòng chờ tin tức. Ðể giết thời giờ, Yến-Loan lấy bộ Luận-ngữ cùng bộ Kinh-thi trong túi ra đọc. Thời gian không biết bao nhiêu lâu, Yến-Loan đã đọc hết bộ Luận-ngữ, mà vẫn chưa thấy hai người về. Chợt tửu bảo chạy lên nói với nàng:
– Này chị, xin chị raải không? Nhưng sao sư phụ mi lại hại đại sư Viên-Chiếu?
– Cô nương không biết ư?
– Ta hỏi mi mà!
– Vì Viên-Chiếu là cháu của Mai Hựu, cháu gọi Mai thái hậu bằng cô ruột. Chính nhờ đại sư Viên-Chiếu, mà hầu hết chư tăng ở Ðại-Việt đều có cảm tình với phe Mai.
Minh-Ðệ như người mù được mở mắt ra. Nàng ớn da gà: chính vì muốn hại họ Mai, nên việc đầu tiên họ Dương sai tên Trịnh Quang-Thạch ra tay vu hãm chư tăng chùa Từ-quang. Nhân việc ta cứu con trâu, mà chúng biết ta là chị Minh-Can, chúng sai Minh-Can lấy quần áo của ta, rồi âm thầm dấu vào phòng chư tăng; lại cũng bọn chúng đem xương, lông chó, gà, trâu, thịt chó dấu vào chùa, rồi cũng chính phe họ Dương là kinh-lược sứ Phạm Anh, con rể Dương tể tướng đem quân vây chùa Từ-quang. Hèn gì vụ án phạm giới nhỏ như vậy, đúng lý chỉ do lý trưởng đem các sư ra đình đánh đòn, rồi đuổi về dân dã, mà chúng cố ý vu hãm ra chuyện nhận vàng của Tống để đưa về triều cho nhà vua xử. Dù không có chứng cớ rõ ràng, nhưng ít ra triều đình cũng nghi ngờ đám võ quan thân phe Mai. Chà! Ðộc thực.
Minh-Ðệ hỏi:
– Thế còn chuyện hai quý nhân tới chùa dạy võ, cho vàng ta, họ là ai?
– Việc này tiểu nhân không rõ.
Minh-Ðệ độ chừng việc này quá lớn, chắc họ Dương với Siêu-loại hầu làm mà không cho tên Quang-Minh biết. Nàng nghĩ thầm:
– Chắc họ Dương bố trí hai người nào đó, chờ sư phụ vắng nhà, rồi đến chùa xưng là bạn của người, thi ân bố đức cho ta. Ta nào biết địa ngục nhân gian, vô tình đi vào, rồi chắc vụ đuổi trâu chạy vào chùa cũng do chúng bố trí... rồi trước mấy trăm môn sinh trường Trung-nghĩa, lý dịch trong làng, Siêu-loại hầu cố tình đề cao Ưng-sơn song hiệp, cố ghép Ưng-sơn song hiệp là hai quý nhân đến chùa dạy võ, tặng vàng cho ta. Khi vụ án xẩy ra, thì có mấy trăm môn đệ trường Trung-nghĩa với bọn lý dịch đồn đại ra ngoài vụ này rằng Siêu-loại hầu biết ta học võ với Ưng-sơn song hiệp, mà phải rét run, rồi kính trọng ta.
Bất giác nàng rùng mình:
– Phải rồi, lúc ta đang ở chùa Từ-quang là lúc vua Bà cùng phò mã Thân Thiệu-Thái đem quân vượt biên, Kinh-Nam vương Tự-Mai đang có mặt ở Trường-sa, sao có thời giờ ngao du Ðại-Việt mà dạy võ, cho vàng ta. Họ mượn ta làm nhân chứng về việc đại sư Viên-Chiếu nhận vàng của Kinh-Nam vương Tự-Mai để làm gian tế cho Tống. Nhưng thực lạ lùng! Trong vụ tranh chấp biên giới vừa rồi, Kinh-Nam vương đứng về phía Ðại-Việt, sao chúng lại vu cho Vương mua chuộc võ lâm Ðại-Việt làm gian tế cho Tống?
Nàng hỏi:
– Còn vụ tên Ðặng Vinh, Trịnh Phúc, Vũ Ðức đột nhập vào phòng ta ở dinh kinh-lược để làm gì?
Quang-Minh ấp úng một lúc rồi nói:
– Kinh-lược sứ cho sư phụ biết vụ vu hãm chư tăng thông dâm với cô nương không ổn, vì cô nương còn đồng trinh. Nên sư phụ sai ba đứa đột nhập vào dinh kinh-lược, thổi thuốc mê cô nương, rồi... rồi... hại đời con gái. Như vậy khi giải cô nương về kinh, triều đình cho cô mụ khám cô nương, thì quả cô nương không còn là xử nữ nữa.
Minh-Ðệ rùng mình hỏi:
– Còn việc lão già xưng là Trần Tự-An bí mật dạy võ cho ta, cũng do sư phụ mi bố trí phải không?
– Ðiều này chắc không. Bởi sư phụ sai người theo dõi cô nương, nên biết việc hằng đêm cô nương ra thuyền bên sông luyện võ với một sư phụ lớn tuổi, nên người sai tiểu nhân đột nhập dinh An-vũ-sứ hầu tìm rõ nguồn gốc võ công cô nương. Không ngờ cô nương biết xử dụng độc chưởng, nên tiểu nhân bị bại.
– Thế thẻ bài chứng nhận mi là Tả-thiên ngưu-vệ thượng tướng quân, Hoài-đức hầu ở đâu mà mi lại có trong mình đến độ kinh-lược sứ cũng tin?
– Thưa cô nương đó là thẻ bài thực mà giả.
– Tại sao thực mà lại giả?
– Dạ, thực vì chính Tể-tướng Dương Ðạo-Gia ký. Còn giả vì tiểu nhân không hề làm tướng, làm hầu. Kinh-lược sứ cũng biết thế, nhưng người giả vờ tin là thực, để có cớ giải cô nương về triều cho Khu-mật viện điều tra, mà Ðề-điểm hình ngục Hoàng Khắc-Dụng không thể cản trở.
Minh-Ðệ chợt hiểu ra:
– Thì ra thế, chúng muốn tách vụ chư tăng phạm giới với vụ làm gian tế cho Tống ra làm hai. Vụ chư tăng coi như xong. Còn vụ gian tế cho Tống, chúng nghĩ rằng với chứng cớ chúng tạo ra như vậy, thì khi Khu-mật-viện điều tra ra, sẽ tâu lên triều đình, khiến triều đình nghi ngờ phái Ðông-a. Phái này mất uy tín, thì phe họ Mai cũng bị liên lụy, mất chỗ dựa. Ðộc! Ðộc thực.
Minh-Ðệ tra khảo tên Quang-Minh để tìm hiểu về sư phụ Tự-An, cùng Dương Tông, nhưng y không biết gì hơn. Nàng nhủ thầm:
– Ta còn bằng này bí mật: có thực Quan-âm dạy nội công thượng thừa âm nhu cho ta là do lòng tốt không? Bà là ai? Cụ già dạy võ cho ta có thực là Trần Tự-An không? Nếu không thì do ai bố trí với mục đích gì? Dương Tông là ai? Có phải do Dương gia bố trí hại sư huynh Thường-Kiệt không?
Nàng hỏi:
– Việc mi với Minh-Can đánh thuốc độc hại ta là do ai sai khiến?
– Dạ, mọi việc do sư phụ chủ trương cả.
Minh-Ðệ nghĩ thầm:
– Mình phải làm cho vụ án này sáng tỏ để giải oan cho sư phụ với chư tăng chùa Từ-quang, cũng để giải oan vụ ta bị vu hãm phạm giới dâm với chư tăng. Trước hết ta bắt chúng khai để có chứng cớ đã.
Ðộ chừng cơn đau hơn hai giờ của Quang-Minh với Minh-Can đã qua, Minh-Ðệ giải khai huyệt đạo cho chúng, rồi nàng nói:
– Hai đứa mi có biết tại sao lại bị đau đớn như thế này không?

Xem Tiếp: Chương 9

Truyện Q8- Nam Quốc Sơn Hà Lời mở đầu Chương 1 Chương 2 Chương 3 Chương 4 Chương 5 Chương 6 Chương 7 Chương 8 Chương 9 Chương 10 Chương 11 Chương 12 Chương 13 Chương 14 Chương 15 Chương 16 Chương 17 Chương 18 Chương 19 Chương 20 Chương 21 Chương 22
Yến-Loan mừng quá chắp tay:
– Dạ, dạ. Xin thầy xem cho con ngay.
– Thế thí chủ sinh giờ, ngày, tháng năm nào?
– Bạch thầy con sinh ngày 30 tháng năm, năm Ất-Dậu, giờ Thìn.
Nhà sư bấm tay tính toán một lúc rồi nói:
– Bần tăng coi Tử-vi cho thí chủ. Vậy thí chủ trả tiền đi chứ?
Yến-Loan móc trong túi không còn đồng nào, nàng luống cuống chưa biết trả lời sao, thì nhà sư đã nói:
– Thôi. Khỏi cần trả bây giờ. Sau này trả cũng chưa muộn.
Nhà sư lại tính toán một lúc rồi nói:
– Chà, số của thí chủ tốt quá. Mệnh thí chủ lập tại Dần; Thiên-đồng, Thiên-lương thủ mệnh. Thiên-đồng là phúc tinh, Thiên-lương là ấm-tinh, nên thí chủ sinh ra tâm tính lương thuần, thích đem của mình cho người, lòng luôn hòa hoãn. Ðã vậy còn được Hoá-quyền phụ trợ, nên học một biết mười, bút mặc văn chương hiếm có, võ công lại cao thâm khôn lường. Vì sinh tháng năm, giờ Thìn, hội đủ Tả, Hữu, Xương, Khúc chiếu cho nên sau này sự nghiệp của thí chủ vĩ đại vô cùng.
– Thưa thầy liệu con có được như công chúa Kim-Thành, Trường-Ninh không?
– Hơn nhiều.
– Bằng vua bà Bình-Dương, tiên-cô Bảo-Hòa chăng?
– Hơn nữa.
– Bằng công chúa Thánh-Thiên, Phùng Vĩnh-Hoa không?
– Cao hơn bậc nữa.
– Thưa thầy còn ai đâu?
– Sự nghiệp của thí chủ chỉ nhường vua Trưng mà thôi.
– Thầy có dậy quá không?
– Ðược! Thí chủ nhớ nhé, sau này nếu sự nghiệp thí chủ quả như bần tăng đoán, thì thí chủ phải làm bẩy mươi hai ngôi chùa để trả nợ đấy nhé.
– Bạch thầy con không quên đâu.
Quả nhiên sau này Yến-Loan lên làm Linh-Nhân hoàng thái hậu, cầm quyền cai trị Ðại-Việt; bà nhớ lại lời nguyện xưa, bỏ tiền riêng xây 72 ngôi chùa. Lại có thuyết nói rằng: bà xây 72 ngôi chùa để xám hối việc bức tử Thượng-Dương thái hậu cùng 72 cung nữ. Cũng có thể việc xây chùa này gốc ở cả hai thuyết trên.
– Cung huynh đệ của thí chủ có Thiên-hình. Thiên-hình là hung tinh, hóa hình là thanh kiếm, chủ chém giết. Thời thơ ấu thí chủ bị em đánh đập khổ sở, có lần giết thí chủ, mà thí chủ vẫn thoát chết.
– Dạ đúng ạ.
– Cung phụ mẫu có Vũ-khúc, Thất-sát, vốn xấu, lại còn thêm Ðịa-kiếp nữa, thì thí chủ bị mẹ coi như kẻ thù, luôn tìm cách hại thí chủ. Dù thí chủ vô tội, nếu như có ai đâm chém thí chủ thì bà sướng lắm.
– Dạ đúng ạ.
– Ðại hạn thứ nhất ở cung Mão, ngộ Vũ, Sát, Kiếp, thì ôi thôi, suốt thời gian từ lúc sinh ra (1045) đến năm mười lăm tuổi (1045-1059), thí chủ sống như tôi đòi, như trâu, như chó. Dù thí chủ muốn sống đã không nổi, mà muốn chết cũng không xong.
– Dạ, đúng ạ.
– Từ năm mười lăm tuổi, đại hạn sang cung Thìn ngộ Thái-dương miếu địa, cuộc đời thí chủ bắt đầu thay đổi. Thí chủ được gặp đại quý nhân thu làm đệ tử. Cái khổ dần bớt đi. Nhưng năm mười sáu tuổi, năm Canh-Tý (1060) tiểu hạn ngộ Vũ, Sát, Kiếp. Lưu Thái-tuế ngộ Cự-môn, lưu Tang-môn nhập mệnh. Cự-môn chủ miệng lưỡi, Tang-môn chủ tàn phá; nên bị vu hãm, bị tù đầy. Năm nay, tiểu hạn nhập cung Sửu, ngộ Thiên-tướng, Ðịa-kiếp, thì xấu tốt lẫn lộn. Ðầu năm bị vu hãm, nhưng không sao. Bởi đại hạn có Thái-dương, tiểu hạn có Thiên-tướng, Long-trì, Phượng-các đều bất kị Thiên-hình, Ðịa-kiếp. Như vậy thí chủ thanh vân đắc lộ, sẽ gặp ý trung nhân, rồi được đại quý nhân chí tôn phối ngự. Từ nay, thênh thang đại mệnh phụ, cao sang tột đỉnh.
– Thưa thầy...
Nhà sư chỉ phía trước:
– Kìa thí chủ nhìn kìa.
Yến-Loan nhìn theo tay nhà sư, nhưng không thấy có sự gì lạ. Nàng hỏi:
– Thưa thầy...
Nhưng nhà sư đã biến đâu mất, chỉ còn bóng đêm che phủ mà thôi.
--!!tach_noi_dung!!--

Đánh máy : CDDLT
Nguồn: CDDLT
Được bạn: NHDT đưa lên
vào ngày: 15 tháng 2 năm 2005

--!!tach_noi_dung!!--
Chương 6
--!!tach_noi_dung!!--
Chương 8
--!!tach_noi_dung!!--
Truyện Cùng Tác Giả Q1 - Anh Hùng Lĩnh Nam Q2 - Động Đình Hồ Ngoại Sử Q3 - Cẩm Khê Di Hận Q4- Anh Hùng Tiêu Sơn Q5- Thuận Thiên Di Sử Q6- Anh Hùng Bắc Cương Q7- Anh Linh Thần Võ Tộc Việt Q8- Nam Quốc Sơn Hà Q9- Anh Hùng Đông-A Dựng Cờ Bình Mông