Minh-Ðệ định kiếm xe trở về dinh Thái-hà cầu cứu với Thường-Kiệt, nhưng trời đã về khuya, không còn xe chở thuê nữa. Kinh hoàng, nàng nghĩ thầm: – Nếu mình không về kịp đêm nay, thì sáng mai Dương đại ca với Ðỗ Oanh sẽ bị chém đầu. Làm sao bây giờ? Thấy chỗ đang đứng không cách xa Thính-hương khách xá làm bao, một tia sáng lóe lên trong đầu nàng: – Vậy ta trở về khách xá, viết một bài biểu, sáng sớm mai ta đến điện Cao-minh đánh chuông kêu oan. Phải rồi, theo như Dương đại ca nói, thì Chương-thánh Gia-khánh hoàng-đế là một hoàng-đế nhân từ, chí công. Ta khiếu oan, nhất định sẽ cứu được Dương đại ca. Nàng hít một hơi, rồi vận khí, dùng khinh công trở về khách xá. Người trong khách xá vẫn còn thức. Không ai để ý đến nàng. Nàng đẩy cửa vào phòng. Giấy bút mua hôm trước hãy còn nguyên. Nàng mài mực, rồi cầm bút viết. Minh-Ðệ đã từng đọc hàng trăm bài biểu trong các bộ sử, nên việc viết một bài biểu với nàng không mấy khó khăn. Bài biểu bắt đầu kể từ biến cố chùa Từ-quang, cho đến những gì xẩy ra ở lộ Kinh-Bắc, ở Khu-mật viện, ở Thái-hà trang. Cuối cùng là việc xẩy ra ở Anh-hùng tửu quán. Viết xong, Minh-Ðệ đọc lại, sửa chữa mấy chỗ rồi chép vào mấy tờ giấy. Nàng nhủ thầm: – Kể ra từ hôm đến chùa Từ-quang tới giờ mình gặp không biết bao nhiêu nghi vấn chưa được sáng tỏ. Trước hết Quan-Âm là ai, mà Thường-Kiệt là một đại thần, lại hạ thể gọi mình là sư muội, chiều đãi mình như con gái, chỉ vì mình xử dụng thần công của ngài? Mình đã hỏi sư huynh rằng Quan-Âm có phải là tiên cô Bảo-Hòa không, thì người bảo không phải. Vả hôm mình xem hình vẽ tiên cô trong nhà tổ trang Thái-hà thì thấy hoàn toàn khác Quan-Âm. Tại sao sư huynh đã nhận mình làm sư muội, mà không chịu nói tên sư phụ ra cho mình? Rồi vụ án chùa Từ-quang, ai đã đứng trong bóng tối hại chư tăng? Làm thế nào mà họ đem quần áo của mình từ nhà đến bỏ vào phòng chư tăng để vu vạ? Vợ chồng quý nhân là ai, mà Siêu-loại hầu nhất định là Ưng-sơn song hiệp? Lại còn một vị lão nhân xưng là đại hiệp Trần-tự-An dạy Chu-sa huyền âm chưởng cho mình, phóng độc vào mình? Bọn Ðặng Vinh, Trịnh Phúc, Vũ Ðức đang đêm đột nhập nhà tù định làm gì mình? Tại sao tên Ðoàn Quang-Minh có thẻ bài là Hoài-đức hầu, ra lệnh cho An-vũ sứ Kinh-Bắc giải mình về Khu-mật viện, mà sư huynh Thường-Kiệt bảo rằng trong Khu-mật viện không có y. Cuối cùng Dương Tông là ai mà võ công thực không tầm thường. Hơn nữa tên gia đinh đánh xe, võ công cũng vào hàng thượng thừa? Ngày mai mình đánh chuông kêu oan, mình phải khai hết sự thực, mới mong cứu được Dương đại ca.Nhưng nàng chợt thấy không ổn, vì có lần Thường-Kiệt cho nàng biết rằng, tất cả các cuộc xử tử trên đất Ðại-Việt đều phải thi hành trước giờ Dần. Trong khi giờ Mão thì hoàng đế mới lâm triều, bấy giờ nàng có kêu oan, người có xử thì Dương Tông đã chết rồi. Trong khi mải suy nghĩ, chân nàng vẫn rảo bước, chợt nàng nhận ra mình đã tới bờ hồ. Nhìn ra bãi hồ, nàng thấy con thuyền của sư phụ nằm im lìm trong bóng đêm. Minh-Ðệ tự hỏi: – Không biết thời gian qua ta vắng mặt, sư phụ có mong ta không? Người không thấy ta về, ắt là giận ta lắm. Hay ta cầu cứu với sư phụ, để người cứu Dương đại ca? Nàng tiến tới chỗ con thuyền đậu, rồi lên tiếng gọi: – Sư phụ! Sư phụ, đệ tử là Yến-Loan đây. Không có tiếng trả lời. Nàng tung mình lên cao, tà tà đáp xuống mũi thuyền. Nàng gõ tay vào cánh cửa thuyền, cũng không có tiếng đáp lại. Nàng đẩy mạnh, mở tung cửa ra, một mùi hôi tanh kinh khủng bốc lên. Nàng dùng đá đánh lửa, rồi châm vào cái bổi. Dưới ánh sáng, cảnh tượng làm Minh-Ðệ kinh hoảng: sư mẫu của nàng nằm chết cong queo, máu ứa ra mũi, mắt, tai. Miệng dường như đang ăn cái gì. Vốn can đảm, nàng cố trấn tĩnh tinh thần kéo vật trong miệng sư mẫu, vật đó như bị vướng, nàng phải giật mạnh mới ra. Nàng nhìn kỹ thì đó là cái đùi chó thui luộc chín đã lóc hết thịt. Nàng xem xét khắp người bà, thì thấy lồng ngực bị đánh bằng chưởng âm nhu, nên xương nát hết. Nàng nghĩ thầm: – Cứ như tình trạng này, thì sư mẫu bị ai đó dùng chưởng âm nhu đánh trúng ngực, xương cùng tạng phủ nát hết. Rồi người đó nhét ngược cái đùi chó đã lóc hết thịt vào miệng. Hung thủ dùng sức khiến cái chân chó chọc thủng họng bà. Nàng quan sát ở cuối thuyền, thì hai thuyền phu cũng bị đánh chết bằng chưởng lực âm nhu. Trong miệng mỗi người đều bị tọng một miếng thịt chó lớn. Yến-Loan tìm tòi một lúc, không thấy gì khác lạ, nàng trở lên bờ, trong lòng suy nghĩ: – Chắc chắn khi hung thủ tới hành thích thì sư phụ ta đi vắng, nên y sát hại sư mẫu với hai thuyền phu. Võ công hung thủ phải cao thâm lắm, nên y hạ sát sư mẫu với thuyền phu chỉ bằng một chiêu mà thôi. Chứ nếu có cuộc giao chiến, thì đồ đạc phải đổ vỡ ngổn ngang, chứ có đâu còn nguyên? Cứ tình trạng này, thì sư mẫu chết ít nhất hai ngày rồi, mà sao chưa thấy sư phụ về? Chợt một tia sáng lỏe lên trong đầu nàng: – Phải chăng hung thủ là Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa thượng? Ðúng rồi, hồi còn ở nhà, một hôm nàng cùng các bạn đang đào đất vét sông, bạn khuyên nàng cầu cứu với Mộc-Tồn hòa thượng. Lý-trưởng chỉ nghe đến danh hiệu, mà mặt đã tái xanh, cấm không cho nói đến tên. Rồi khi An-vũ-sứ khám chùa Từ-quang, một đội trưởng chỉ mỉa mai sư trong chùa là Mộc-Tồn hòa thượng thôi, mà An-vũ-sứ đã kinh sợ phải quát tháo bắt im lặng. Thế nhưng chỉ mấy hôm sau viên đội trưởng đó bị lân Phi-yến (5) ỷ tân trang. Danh hoa khuynh quốc lưỡng tương hoan, Trường đắc quân vương đới tiếu khan. Giải thích xuân phong vô hạn hận, Trầm-hương đình bắc ỷ lan can. Ghi chú, (1) Quần-ngọc, theo thần thoại Trung-quốc, đây là nơi Tây-vương mẫu ở. (2) Dao-đài, cũng theo thần thoại Trung-quốc, là nơi chư tiên ở. (3) Trần-trọng-San dịch: Mặt tưởng là hoa, áo tưởng mây, Hiên sương phơ phất gió xuân bay. Nếu không gặp gỡ trên Quần-ngọc, Dưới nguyệt Dao-đài sẽ gặp ai? Một nhánh hồng tươi móc đọng sương, Mây mưa Vu giáp uổng sầu thương. Hỏi trong cung Hán, ai người giống, Phi-Yến còn nhờ mới điểm trang. Hoa trời sắc nước cả hai vui, Luôn được quân vương ngắm nghía cười. Mối hận gió xuân bay thoảng hết, Bên đình nàng đứng tựa hiên chơi. (Trích trong tập Lý-Bạch, Ðỗ-Phủ, Bạch-cư-Dịcủa Trần-trọng-San, Bắc-Ðẩu Canada xuất bản). (4) Vu-sơn, tên núi ở phía Ðông tỉnh Tứ-xuyên. Tương truyền Sở Tương-vương đi chơi đến đất Cao-Dương nằm mơ thấy một thiếu phụ nói: "Thiếp là thần nữ ở núi Vu-sơn, sớm làm mây, tối làm mưa ở Dương-đài". Vì vậy chữ Vu-sơn sau để chỉ tình dục (Sexology). Khi tôi viết bộ Sexologie médicale Chinoise, rồi chuyển trở lại tiếng Việt là "Trung-quốc Vu-sơn học". (5) Phi-Yến, tức Triệu Phi-Yến, hoàng hậu của vua Thành-đế nhà Hán. Thành-đế băng, con là Ai-đế lên nối ngôi, bà được phong làm hoàng-thái hậu. Ðời Hán Bình-đế, Vương Mãng chuyên quyền, bà bị biếm làm thường dân rồi tự sát. Yến-Loan đã đọc thiên kinh vạn quyển, trong ba đại thi hào đời Ðường là Lý Bạch, Ðỗ Phủ, Bạch Cư-Dị; nàng không thích thơ Lý, vì Lý xuất thế. Trong khi nàng là người mơ tưởng làm chuyện kinh thiên động địa như vua Trưng, như Thánh-Thiên, như Lệ-hải bà vương Triệu Thị Trinh. Vì vậy tuy nàng hiểu ý tứ ba bài thơ trên, ngụ ý Dương Tông ca tụng sắc đẹp của nàng, mà không hiểu về xuất xứ của nó ra sao. Nguyên vào niên hiệu Khai-nguyên, đời Ðường Minh-Hoàng. Nhân lúc hoa thược dược nở rực rỡ muôn mầu. Nhà vua cùng Dương quý-phi họp một số đệ tử của Lê-viên thưởng hoa. Khi Lý Quy-Niên định hát, vua phán: "Thưởng danh hoa, trước Phi-tử, thì dùng chi đến lời nhạc này?" Rồi sai Quy-Niên đi triệu Hàn-lâm học-sĩ Lý Bạch. Lý Bạch tới, cầm bút viết một hơi ba bài này để ca tụng sắc đẹp Dương quý-phi. Yến-Loan lại uống thuốc ngủ qua đêm. Yến-Loan qua một đêm với giấc ngủ yên tĩnh. Hôm sau Thường-Kiệt trở về vào lúc trời chập choạng tối, ông hỏi vú Dư: – Má má ơi, ở nhà có chuyện gì lạ không? – Thưa thái-bảo vẫn bình thường. Ông hỏi Yến-Loan: – Sư huynh đi vắng, muội muội ở nhà chắc buồn lắm nhỉ? – Cũng không buồn lắm đâu, vì sư huynh có nhiều sách quá, đọc hoài, đọc mãi mà không hết. Giá sư huynh mượn tiểu muội làm con bé lau chùi, dọn dẹp thư phòng cho sư huynh thì tiểu muội hạnh phúc biết bao? – Vậy thì huynh mời sư muội làm đại tiểu thư ở trang này, để sư muội đọc hết đám sách của huynh. Sau đó sư muội giả trai ứng thí, không thành trạng-nguyên, cũng thành thám-hoa, rồi vào tòa Bình-cương làm Chiêu-văn quan đại học sĩ, giám tu quốc sử. Tiếc quá! – Huynh tiếc gì vậy? – Huynh tiếc vì nước mình chưa mở khoa thi, thành ra người dân không có dịp tiến thân. Trường hợp sư muội mà ở vào thời loạn như thời Lĩnh-Nam, cam đoan sư muội sẽ là một Thánh-Thiên. Mấy tháng qua Yến-Loan đã đọc đi đọc lại đến thuộc lầu hầu hết sách-sử Hoa-Việt liên quan đến hai nước. Nay nghe Thường-Kiệt nói, nàng lắc đầu: – Ðất nước mình có bao giờ mà không loạn lạc đâu? Nguyên do cái loạn này là ở những gã văn gia cổ thời, tạo cho mọi người Hán đều nghĩ vua mình, tướng mình là người nhà trời. Các dân xung quanh là di, man, địch, nhung cả, cho nên họ luôn luôn nhìn sang các lân bang, hễ có sự là bàn đem quân sang xâm chiếm. Thời Thuận-Thiên, Ðại-Việt mình mạnh đến như vậy, mà họ còn kiếm đủ cách gây chiến. Rồi đến thời vua Thái-tông, Khai-Quốc vương phải khích cho tộc Nùng nổi dậy, chiếm lưỡng Quảng, làm cho Tống yếu đi, họ mới để mình yên. Mới đây, họ lại gây hấn, chính sư huynh phải mang quân lên trợ vua Bà đánh sang để thị uy, đập cho họ kinh hãi, nay tuy có yên, nhưng chỉ là tạm thời. Sư huynh nghĩ xem, em có thể lên Bắc-cương theo vua Bà đánh giặc không? – Ðược chứ. Sư muội mà lên đó, chỉ cần gặp một trong Ngũ-long công chúa tổng trấn Bắc-cương là được trọng dụng làm đại tướng ngay. – Ủa, mình có đến năm công chúa trấn Bắc sao? – Ðúng thế. Lúc đầu thì Ngũ-long công chúa là Bảo-Hòa, Bình-Dương, Kim-Thành, Trường-Ninh, Thanh-Nguyên. Sau thì Ngũ-long đổi thành Kim-Thành, Trường-Ninh, Thanh-Nguyên, Thanh-Trúc, Phương-Hồng. – Sao lại có vụ gạt công chúa Bảo-Hòa với Bình-Dương ra ngoài vậy? – Ðâu có gạt. Nguyên do, khởi thủy, dân chúng tôn năm vị ấy là Ngũ-long; kể về vai vế thì sư phụ của anh là công chúa Bảo-Hòa đứng đầu. Ðệ nhị công chúa là vua bà Bình-Dương. Nhưng sư phụ của anh thành tiên, thành thánh, còn công chúa Bình-Dương thành vua, địa vị cực cao không ai có thể sánh, nên dân chúng đem hai vị ấy ra khỏi Ngũ-long công chúa. Vì hai vị ra ngoài Ngũ-long, nên dân chúng mới thêm hai công chúa Thanh-Trúc, Phương-Hồng vào thay thế. – Sư huynh nói rõ về nguồn gốc Ngũ-long cho muội nghe đi. – Ðệ nhất là công chúa Kim-Thành tức phu nhân của Thái-tử thiếu phó, Phong-châu tiết độ sứ, Long-nhương đại tướng quân, Trung-nghĩa quốc công Lê Thuận-Tông. – Ái chà, muội đọc trong Nhân-Huệ hoàng đế kỷ sự có kể việc Công chúa với Quốc công tiến quân đánh Quảng-châu những trận long trời lở đất. Thế đệ nhị công chúa? – Là Công-chúa Trường-Ninh, phu nhân của ngài Thái-tử thiếu-sư, Thượng-oai tiết độ sứ, Hổ-uy đại tướng quân, Thuần-tín quốc công Hà Thiện-Lãm. – Em cũng đọc sự tích Công-chúa với Quốc-công trong sách rồi. Thế Công-chúa thứ ba? – Thứ ba là Công-chúa Côi-sơn Trần Thanh-Nguyên, phu nhân của ngài Trấn-bắc đại tướng quân, Tiên-yên tiết độ sứ, Tản-viên hầu Tôn Mạnh. – Công chúa là con của đại thần nào vậy? – Công chúa tuy không phải cành vàng lá ngọc, nhưng lại có thế lực cực kỳ lớn, người là con út của Thái-sư phụ Trần Tự-An, nức tiếng thiên hạ. – Úi chà. – Yến-Loan cười thầm: – Tưởng ai, hóa ra sư tỷ con út của sư phụ mình, tức em gái của đại hiệp Trần Thông-Mai, vương phi Khai-Quốc vương Thanh-Mai, và Kinh-Nam vương Tự-Mai. Nàng hỏi tiếp: – Thế còn công chúa thứ tư, thứ năm?? – Vị đệ tứ tên thực là Lâm Thanh-Trúc, tước phong công chúa Ôn-thuận, phu nhân của Ðại-tư-mã Bắc-biên, Hữu-kim ngô thượng tướng quân, Lạng-châu quốc-công Thân Thiệu-Cực. Thứ năm là công chúa Vạn-hoa, nhũ danh Ðào Phương-Hồng, nguyên người là Quận-chúa, ái nữ của công chúa An-Quốc với phò mã Ðào Cam-Mộc, sau vì có công nên được phong công chúa. Người là phu nhân của Bình-nam đại tướng quân, Khai-sơn hầu Tôn Trọng. Yến-Loan nghĩ thầm: – Những vị nữ lưu kia vì có tài, có công với đất nước, mà danh vang thiên hạ. Còn ta... văn học ta không thua ai, võ công ta không hèn. Dù nay ta đang bị tù đầy vì oan khuất, nhưng một mai ta cũng phải làm lên những việc như vua Trưng, như Lệ-Hải bà vương. Nhất định ta không chịu nát thân với cỏ cây; không chịu làm con ở trong nhà, để cho người chà đạp, muốn đánh là đánh, muốn giết là giết, muốn chửi là chửi. Thế là chỉ trong một vài câu của Thường-Kiệt, đã làm cho Yến-Loan đang từ cô gái an phận, quê mùa, nảy ra hùng tâm tráng trí, khiến cho giang sơn Ðại-Tống nghiêng ngửa, với gần nửa triệu sinh linh Tống chết, tạo chiến tích huy hoàng nhất lịch sử tộc Việt. Ðó là chuyện sau. Chợt nhớ lại những gì chép trong Thái-tông thực lục, nàng hỏi Thường-Kiệt: – Sư huynh ơi, từ hôm gặp sư huynh đến giờ, muội muốn hỏi sư huynh một việc, song e đụng đến mối thương tâm của sư huynh, nên muội còn lưỡng lự. Bây giờ muội cả gan hỏi, nếu sư huynh có giận thì cứ coi muội là đứa con nít, mà bỏ qua cho. Thường-Kiệt đã bị tĩnh thân, nên ông không úy kị nam nữ, ông ôm lấy đầu Yến-Loan: – Cuộc đời huynh có gì bí mật đâu mà dấu diếm? Muội muốn hỏi gì huynh cũng trả lời hết. Huynh hiện quản Khu-mật viện, giữ hết cơ mật xã tắc, thế mà huynh đưa muội về đây ở, thì huynh phải tin muội lắm mới dám làm thế. Nào muội hỏi đi. – Thế này. Yến-Loan thỏ thẻ: Muội đọc trong sử thấy nói hồi trước huynh đã đính hôn với một thiếu nữ tên Tạ Thuần-Khanh, con gái Cổ-loa quốc-công Tạ Sơn. Giữa lúc chuẩn bị cưới xin, thì huynh bị gian nhân đánh thuốc mê, rồi đem tĩnh thân. Thế ai là thủ phạm hại sư huynh? Thường-Kiệt đang vui vẻ, mặt ông sa sầm lại, hai hàm răng ông nghiến ken kẹt: – Ðây là mối hận nhất đời của huynh. Sau khi huynh bị tĩnh thân, thì Ưng-sơn song hiệp, sư phụ Bảo-Hòa làm dữ lắm, đòi triều đình phải đem chính phạm tòng phạm ra xử ngay, bằng không người sẽ xử. Vua Thái-tông kinh hãi, nhờ Khai-Quốc vương điều tra. Sau khi tìm ra thủ phạm, Vương bàn với Ưng-sơn, với sư phụ anh không công bố tên thủ phạm. Cứ để tội y đấy như một án treo, bất cứ mình bảo gì, nói gì y cũng phải theo. Vì vậy cho đến nay chỉ Quốc-phụ, Quốc-mẫu, sư phụ, với Ưng-sơn song hiệp biết rõ thủ phạm là ai mà thôi. Huynh đã hỏi, nhưng các ngài không nói, vì sợ huynh giết ba họ nhà y, e người chết nhiều quá, mà huynh cũng có tội với triều đình. Yến-Loan thề: – Trọn đời muội, muội sẽ dùng hết khả năng để truy lùng thủ phạm hại sư huynh, và giết chết y thực thảm khốc. – Ða tạ sư muội. Yến-Loan chuyển câu chuyện qua vụ Dương Tông: – À... sư huynh có người bạn, hay học trò nào tên là Dương Tông không? – Dương Tông à? Sư muội gặp y ở đâu? – Ðêm hôm trước, muội dạo quanh vườn xem hoa nở, thì thấy anh ta đứng tần ngần nhìn muội. – Anh ta nói gì với muội? Yến-Loan thuật chi tiết cuộc gặp gỡ, nhưng nàng dấu việc bị trúng Chu-sa huyền âm chưởng được Dương-Tông cho thuốc giải; mà chỉ nói bị đau đớn mà thôi. Mặt Thường-Kiệt cau lại, ông lắc đầu: – Huynh không quen người nào có tên như thế cả. Y không phải là người trong trang, mà vượt tường vào đây được, thì võ công phải cao thâm lắm. Liệu đêm nay y có trở lại không? Huynh phải bắt y, đét vào đít mấy cái, vì tội dám vào hoa viên toan ăn trộm cô sư muội đem đi. Gan y lớn gớm. Sư muội của huynh xinh đẹp thế này thì nhất định huynh không để y trộm đi. Yến-Loan xua tay: – Ðừng, sư huynh đừng phạt y, vì y không dữ dằn, mà lại tốt với muội nữa. Chính y đem thuốc cho muội mà bị bệnh. Y còn cho muội nào son, nào phấn, nào nước hoa. Y lại chép ba bài thơ Thanh bình điệu của Lý Bạch tặng muội nữa. Rồi nàng thuật chi tiết những lời Dương Tông nói với nàng. Nàng không kể việc y cho nàng ngọc, vì nàng nghĩ y cho mình đá xanh, mảnh sành chai thì xấu hổ chết. Thường-Kiệt cười thầm trong lòng: – Tội nghiệp cô tiểu sư muội này. Cô thực là thông min giết. Những lời của viên Ðề-điểm hình ngục Khắc-Dụng vẫn còn vang trong lòng nàng: – Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa thượng chỉ giết bọn ác nhân, bọn lừa thầy phản bạn, bọn trốn chúa lộn chồng. Ông chưa bao giờ giết người vô cớ... Như vậy thì trung gian, sư phụ, sư mẫu ta là gian nhân ư? Nàng trở về khách xá, leo lên dường nằm: – Làm sao đây? Chỉ còn mấy giờ nữa thì Dương đại ca bị chém đầu. Ta phải làm bất cứ việc gì để cứu người. Nhưng làm gì??? Còn vụ sư mẫu bị giết, ta có nên đi báo quan không? Bỗng nàng cảm thấy hai vai hơi nhức nhối, rồi cổ, đầu, rồi khắp người đau đớn không thể tưởng tượng nổi. Biết cơn đau hành hạ như sư phụ nói trước, nàng nghiến răng ngồi vận công chống đau. Cứ như vậy, cơn đau kéo dài gần một giờ mới hết, mồ hôi toát ra mùi cực kỳ khó chịu. Chợt nhớ sư phụ nói rằng nếu nàng vận công phát chiêu như người dạy, thì kẻ đối đấu sẽ bị trúng độc đau đớn như nàng. Một ý nghĩ thoáng qua: – Hay ta bí mật đột nhập dinh tể tướng cứu Dương đại ca ra. Dù không cứu được, ta có chết cũng an lòng. Nhưng dù gì ta cũng nhất quyết không dùng Chu-sa huyền âm chưởng hại người. Nghĩ đến đây thêm can đảm, nàng ngồi phắt dậy đi tắm. Tắm xong, nàng hướng dinh tể tướng đi tới. Dinh tể tướng ẩn hiện trong bóng đêm với ánh đèn từ trong chiếu ra. Ngoài cổng chỉ có một người lính đứng gác. Nàng đi một vòng quanh dinh, thấy hàng rào phía Bắc khá xa với những gian nhà, nàng tung mình lên cao, rồi đá gió một cái, người bắn vào trong. Nàng hướng phía căn nhà có ánh đèn đi tới. Nhưng nàng vừa bước đi mấy bước, thì có tiếng hú, rồi một đàn chó từ đâu nhảy xổ lại vây quanh nàng mà cắn. Bình tĩnh, nàng vận công phóng hai chưởng, hai con chó bắn tung vào tường. Chúng chỉ dẫy dụa được mấy cái rồi nằm im. Thấy hai đồng bạn bị giết, đám chó chỉ đứng xa xa mà xủa. Minh-Ðệ vội tung mình lên bờ tường, nhảy ra ngoài chạy trốn. Người nàng vừa rơi xuống đất, thì đã có năm võ sĩ cầm đao bao vây nàng vào giữa. Một người chĩa đao vào cổ nàng quát: – Ðứng im chịu trói, bằng không chúng ta chặt đầu. Minh-Ðệ trầm người xuống, rồi dùng một chiêu hổ trảo đoạt đao từ trên tay người kia, chân phóng cước đá vào mông y. Người ấy bắn tung lại phía sau. Lập tức bốn người còn lại vung đao chém nàng. Minh-Ðệ tung người lên cao tránh bốn thanh đao. Ở trên cao, nàng chĩa đao xuống dưới chân khoa một vòng. Bốn thanh đao chạm vào thanh đao của nàng kêu lên bốn tiếng loảng xoảng, rồi vượt khỏi tay bốn võ sĩ, văng ra xa. Minh-Ðệ co chân bỏ chạy, nàng vừa cất bước, thì cảm thấy ngộp thở, một kình lực từ trên cao ụp xuống đầu nàng. Kinh hãi nàng vung tay phát chưởng đỡ. Bình một tiếng, nàng cảm thấy cánh tay tê rần, vội nhảy về trước bốn bước, rồi quay lại nhìn xem kẻ đánh mình là ai, thì có tiếng nói trầm trầm: – Võ công Ðông-a! Người học ở đâu được bản lĩnh dường này mà lại đi ăn trộm ư? Người đừng chạy, hãy đứng lại cho ta xem mặt. Ðuốc đã đốt lên sáng rực. Minh-Ðệ nhận ra người đối chưởng với mình là một thanh niên tuổi khoảng hai mươi lăm, hai mươi sáu. Thanh niên cũng đã nhìn thấy nàng: – Thì ra người là con gái. Con gái mà công lực bằng người, e khắp Ðại-Việt chỉ đếm trên đầu ngón tay. Trông phong thái người thực khác phàm, dung nhan thuộc loại sắc nước hương trời mà lại đi ăn trộm ư? Minh-Ðệ đáp: – Tôi không phải kẻ trộm. Thanh niên đổi cách xưng hô: – À, thì cô nương là gian tế chăng? – Tôi cũng không phải gian tế. Thanh niên cau mày lại tỏ vẻ suy nghĩ: – Thức khinh thân tung người lên tường của cô nương là của phái Ðông-a, còn mấy thức vung đao là do Ðông-a kiếm pháp biến ra. Rồi cô nương lại dùng một chiêu Ðông-hải lưu phong đỡ chưởng của tại hạ... Không biết cô nương là đệ tử của cao nhân nào trong phái Ðông-a? Minh-Ðệ lắc đầu: – Tôi không thể nói ra được Thanh niên đưa cổ tay ra trước mặt Minh-Ðệ: – Tôi có một điều thắc mắc là phái Ðông-a từ khi thành lập đến giờ vẫn đi theo chính đạo, đời đời lấy chủ đạo giúp dân cứu nước. Xưa kia Nhật-Hồ lão nhân mang Chu-sa độc chưởng vào Ðại-Việt, gây ra những trận phong ba trong võ lâm. Sau đại hiệp Trần Tự-An chế ra phản Chu-sa chưởng pháp, từ đó Chu-sa chưởng gần như tuyệt diệt, võ lâm đều hướng mặt về phái Ðông-a mà khâm phục. Tại sao cô nương lại luyện Chu-sa huyền âm công? Ban nãy cô nương tấn công tại hạ bằng Ðông-a chưởng, nhưng xử dụng nội lực âm nhu pha Chu-sa huyền âm công. Cô nương có hiểu tại sao tại hạ lại vô sự không? – Tôi cũng không rõ. Thanh niên cung tay: – Dễ thôi, vì tại hạ xử dụng phản Chu-sa chưởng của quí phái đấy. Nhưng cô nương đã muốn dấu thân phận thì tại hạ cũng không dám cật vấn. Tại hạ họ Lê tên Văn-Thịnh hiện lĩnh chức trưởng sử trong phủ Gia-viễn quốc công. Việc đã như thế này, tại hạ xin kính mời cô nương dời gót ngọc vào yết kiến Quốc-công để người phát lạc. Không đừng được, Minh-Ðệ phải theo Lê vào dinh. Trong dinh đèn đuốc đốt sáng như ban ngày, người đứng lố nhố trong sân đều hướng mắt nhìn nàng. Qua một dẫy nhà dài thì tới dinh thự cao hai tầng, cột sơn son thiếp vàng, vẽ phượng rất đẹp. Lê Văn-Thịnh chỉ vào một nữ tỳ: – Cô nương, trước khi đưa cô nương vào yết kiến Tể-tướng, xin cô nương cho nữ tỳ khám xét trong người cô nương đã. Không chờ Minh-Ðệ trả lời, người nữ tỳ khám nàng. Thị chỉ thấy trong túi có bộ Luận-ngữ, bộ Kinh-thi, ngoài ra không có gì khác. Lê Văn-Thịnh tiếp hai bộ sách mở ra xem, y thấy có tờ biểu Minh-Ðệ viết để khiếu oan, thì lấy ra đọc. Ðọc xong, y gật đầu: – Thì sư huynh sẽ gả Yến-Loan cho người này. Bao nhiêu tai vạ của Yến-Loan sẽ được giải hết. Nghe sư huynh đi. Ðừng sợ gì. Yến-Loan rộn lên niềm vui, chân tay nàng phát run. Nàng e lệ trả lời Dương Tông: – Muội đã có lần thuê xe dạo một vòng Thăng-long, nhưng là ban ngày. Hôm nay trăng rằm thế này mà đi chơi thì thực hữu tình quá. Bây giờ chúng ta phải đi qua cổng chính, chứ em không chịu nhảy qua tường đâu. – Ừ, chúng ta đi. Yến-Loan sánh vai cùng Dương Tông ra cổng. Một đệ tử gác cổng cúi rạp người xuống mở cửa cho nàng với Dương Tông ra. Y hỏi: – Thưa cô nương. Cô nương đi bao giờ sẽ trở về? – Người cứ đóng cổng, khi ta về, ta sẽ gọi. Tới cổng làng, đã có chiếc xe song mã chờ sẵn. Trên xe, một người to lớn lực lưỡng ngồi chờ. Người này cung cung, kính kính nhảy xuống xe. Y định nói gì, thì Dương Tông lên tiếng: – Ðỗ Oanh này. Mi nên nhớ ta là nho-sinh, con nhà giầu đang học ở Thăng-long. Ta mời tiểu cô nương đây dạo một vòng đế đô. Mi phải đánh ngựa cho khéo, đừng để xe xóc. Tục ngữ có câu: "Có miệng thì nắp. Sợ cắp thì đậy". Tuyệt đối không nên nói nhiều. Nhớ không? Tên phu xe khum người lại: – Dạ, tiểu nhân ghi nhớ lời... công... tử dạy. Hôm nay tự nhiên trong miệng tiểu nhân mọc mấy cái mụn, nên không thể nói nhiều. Yến-Loan tung mình nhảy lên xe, lưng nàng uốn cong trông thực đẹp. Dương Tông với Ðỗ Oanh đều bật lên tiếng ủa kinh ngạc. Hai người cùng nhìn nhau, như thông cảm một cái gì. Dương Tông lên xe ngồi cạnh Yến-Loan. Viên phu xe ngồi trước ra roi cho ngựa chạy. Yến-Loan nói với Ðỗ Oanh: – Phiền anh cho xe chạy ra Cổ-ngư dùm tôi. Tôi thăm bẩy đứa em của tôi một chút. Nghĩ tôi thực là đoảng, ai lại mình là chị, mà đến dinh Thái-hà gần năm không về thăm các em. – Nhà Yến-Loan ở Cổ-ngư sao? – Không. Nhà em ở Kinh-Bắc kia. Rồi nàng tường thuật chi tiết về cuộc gặp gỡ bẩy đứa trẻ ăn mày trên bờ hồ cho Dương Tông nghe. Dương Tông nghĩ thầm: – Cô gái này thực là người giầu lòng nhân ái. Thân đi tù tội, mà còn lo cho đám trẻ mồ côi ăn xin. Xe tới Cổ-ngư. Yến-Loan chỉ cho anh ta đánh xe lại căn nhà của bẩy đứa trẻ. Không biết trong mấy tháng qua, nàng đi vắng, bọn nhỏ có học hành đàng hoàng không? Nàng chỉ căn nhà cho Ðỗ Oanh dừng xe lại. Yến-Loan kinh ngạc, đứng ngây người ra: căn nhà nàng mua cho đám trẻ ở, tường bằng gạch, mái lợp cỏ, xung quanh là khoảnh vườn nhỏ, hàng rào trúc con con. Bây giờ trước mặt nàng là một căn nhà lớn, mái lợp ngói đỏ. Phía sau có dãy nhà dọc nối với bếp. Góc vườn có chuồng ngựa, nhà để xe. Trong vườn cây cảnh trồng thành bốn khu nhỏ. Trước nhà hàng chục chậu cảnh với những kỳ hoa dị thảo. Phía trước, cái cổng hai cánh sơn mầu đỏ chói. Yến-Loan ngần ngừ một lát rồi cầm lấy dây giật chuông. Chuông đổ, tiếng Thu nhọ nồi hỏi: – Ai đấy? – Chị đây. Bẩy đứa trẻ reo lên, rồi ra mở cổng. Chúng thấy ngoài Yến-Loan còn có hai người đàn ông. Thằng Y hói nói lớn: – Chúng mày thấy không? Tao đã bảo mà. Khi không chị ý vắng mặt chắc là chị ấy đi lấy chồng. Nó chỉ Dương Tông hỏi Yến-Loan: – Chồng chị đấy hả? Yến-Loan ngượng quá lắc đầu: – Ðừng nói bậy. Anh ấy chỉ là anh của chị thôi. Y hói không chịu: – Hôm trước chị nói chị là con cả. Sao bây giờ lại nói rằng ông này là anh? Anh em mà sao khuôn mặt không giống nhau? Hì... hì... nói dối rồi. Nó hỏi Dương Tông: – Có phải anh là chồng chị Yến-Loan không? – Phải mà không phải. Duy lùn nhảy choi choi lên: – À, phải tức là anh muốn làm chồng chị ấy; còn không phải là chị ấy chưa bằng lòng, có đúng thế không? Yến-Loan ngượng quá, mà bọn trẻ cứ phá. Thằng Ức méo hỏi Dương Tông: – Anh chị dạo chơi Thăng-long hả? Mùi quá ta! Yến-Loan đánh trống lảng hỏi Di sậy: – Tại sao nhà lại thay đổi thế này? Bọn trẻ đi trước dẫn đường. Ỷ-Lan, Dương Tông, Ðỗ Oanh theo chúng vào phòng khách. Phòng khách khá lớn, với bàn ghế bằng gỗ trắc, khảm xà cừ. Trên tường treo mấy bức họa. Bọn trẻ đi trước dẫn đường. Ỷ-Lan, Dương Tông, Ðỗ Oanh theo chúng vào phòng khách. Phòng khách khá lớn, với bàn ghế bằng gỗ trắc, khảm xà cừ. Trên tường treo mấy bức họa. Tuy bỡ ngỡ, nhưng Yến-Loan vẫn làm chủ được, nàng mời Dương Tông, Ðỗ Oanh ngồi. Dương Tông không ngần ngại ngồi xuống. Còn Ðỗ Oanh khoanh tay đứng hầu sau lưng chủ. Yến-Loan hỏi Di sậy: – Mới chưa đầy một năm mà sao nhà thay đổi thế này? Thằng Di sậy ngập ngừng một lúc rồi nói: – Trong khi chị đi vắng, ở nhà có con lợn sứ thăm viếng. Yến-Loan hỏi: – Lợn sứ là cái gì? Nói cho đàng hoàng đi. Di sậy kể: – Lợn sứ là sự lớn. Khất hòa thượng tới đây chơi, rồi ngủ lại mấy đêm. Ông dạy chúng em thở, hít cho khoẻ. Chị có biết ông không? – Biết chứ. Ðất Thăng-long này ai mà không biết ông. Các em có làm cơm cúng dàng thầy đàng hoàng không? – Có chứ. Thu đáp: Ông í là thầy bọn em mà. Một chiều ông đang ngồi giảng Thiền cho bọn em, thì có người đi xe song mã chạy qua. Trên xe có bốn con chó sói. Người đánh xe thấy thầy thì dừng lại hỏi "Thầy có phải là Khất hòa thượng không?". Ông trả lời "Phải mà không phải". Người đánh xe buồn rầu: "Tại sao phải mà không phải?". Hòa thượng đáp: "Phải vì bần tăng chính là gã thầy chùa ăn mày. Còn không phải vì tên bần tăng đâu có phải là Khất hòa thượng". Ông đó cung tay xá: "Bạch sư phụ, đệ tử có bốn con chó bị người ta bỏ bả sắp chết. Xin sư phụ mở từ tâm cứu cho. Ðệ tử muôn vàn cảm tạ". Hòa thượng nói: "Nhớ nhé". Rồi hoà thượng móc trong túi ra hộp kim. Người cắm kim lên khắp mình bốn con chó. Lát sau bốn con chó đều mửa thốc, mửa tháo ra. Hòa thượng trao cho người đó hộp thuốc, rồi dặn "Bao nhiêu bả độc, chó đã mửa ra hết. Bây giờ cần phải uống thuốc. Ðây, thí chủ cho chó uống, mỗi ngày ba viên. Mười ngày sau thì khỏe như thường". Người đánh xe cung tay: "Ða tạ đại sư, không biết đệ tử phải tạ đại sư như thế nào?". Hòa thượng chỉ bọn em: "Hồi nãy bần tăng hứa cứu bốn mạng cho thí chủ. Thí chủ hứa muôn vàn cảm tạ. Nay bần tăng không cần muôn, chẳng cần vạn, mà chỉ cần gấp đôi thôi. Bần tăng xin thí chủ nuôi, dạy bẩy đứa này cho thành người, dạy dỗ nó như dạy dỗ con cái vậy". Người ấy chắp tay "Ðệ tử tuân pháp chỉ của đại sư. Tuổi đệ tử còn nhỏ, không dám coi mấy trẻ này là con, mà chỉ nhận nuôi chúng như em mà thôi". Yến-Loan hỏi: – Rồi sao? – Hôm sau bọn em đi học về thì không thấy hòa thượng đâu. Còn ông đánh xe, thì ông xưng là Lý Chiêu-Văn. Ông trở lại với thợ nề, thợ mộc, phá căn nhà cũ, xây thành nhà mới khang trang như thế này. Ông mang đến hai thị nữ để nấu cơm, giặt quần áo cho bọn em. Ông lại cấp cho bọn em một chiếc xe song mã với mã phu. Tối tối ông dạy võ cho bọn em, ông mượn riêng một thầy đồ dạy bọn em học nữa. Dương Tông chau mày hỏi: – Cái ông Chiêu-Văn đó, độ bao nhiêu tuổi? – Khoảng hai chục. Ông í đẹp trai hơn anh nhiều. Dương Tông càng đăm chiêu: – Bọn em đã học võ với ông đến đâu rồi? – Nhiều lắm. Dương Tông đưa mắt cho Ðỗ Oanh. Ðỗ Oanh hỏi: – Bây giờ tôi thử vài chiêu với một em, xem võ các em có hiệu nghiệm hay không nghe! Nói rồi y vung tay tát Ức méo một cái. Ức méo vội trầm người xuống tránh, chân đứng theo trung-bình tấn, rồi tay phải gạt tay phải Ðỗ Oanh, tay trái đấm thẳng vào sườn phải chàng. Ðỗ Oanh tung người lên cao, rồi đấm thẳng vào mặt Ức méo. Ức méo lại trầm người xuống, rồi dùng vai húc vào bụng Ðỗ Oanh. Ðỗ Oanh nhảy lui lại. Cứ thế, Ðỗ Oanh đánh hết tám đòn chân, tám đòn tay, Ức méo đều đỡ được. Yến-Loan nhận ra võ công bọn nhỏ học được là võ công phái Ðông-a mà nàng đã học với vợ chồng quý nhân và sư phụ Tự-An. Dương Tông tươi cười nói với Yến-Loan: – Mừng cho em. Người nuôi dạy bẩy đứa trẻ này là một đại công tử có tư cách khác phàm. Em có thể yên tâm. – Anh biết công tử đó ư? – Biết, biết rất kỹ. Ta đi thôi. Yến-Loan dặn bọn trẻ: – Chị sẽ trở về với các em. Yến-Loan cùng Dương Tông ra xe. Ðỗ Oanh đánh xe chạy vào trong thành. Ðây là lần đầu tiên Yến-Loan đi chơi đêm, hơn nữa đi chơi đêm với một thanh niên phong lưu tiêu sái. Dương Tông luôn chỉ chỗ này, chỗ kia giảng giải cho nàng. Khi xe qua điện Cao-minh, Yến-Loan thấy cái chuông đồng treo trên một đài cao khoảng bốn thước (1m ngày nay). Cạnh đài có lính gác. Nàng hỏi: – Chuông để làm gì vậy? Dương Tông giảng giải: – Chuông này mang tên Hồng-chung, được đúc vào niên hiệu Sùng-hưng Ðại-bảo năm thứ tư (1052). Ðức vua Thái-tông đã ban chỉ làm chuông để cho những ai bị oan ức, thì cứ đến đánh lên, người sẽ đích thân cứu xét cho. – Thế từ hồi ấy đến giờ có ai đánh chuông kêu oan không? – Nhiều lắm. Nhưng mấy năm gần đây dường như không còn vụ nào oan uổng nữa, nên đâu có ai đánh chuông khiếu nại? Muội bảo đức vua có đáng bậc nhân quân không? – Không. Ông là hôn quân, ác quân. Thực chẳng xứng đáng làm chúa cõi trời Nam. Dương Tông quát lên: – Người không được nói lời phạm thượng, như vậy là phạm tội đại bất kính, phải chặt đầu. Yến-Loan kinh hãi vô cùng, vì Dương Tông đang nhu nhã như vậy, mà thình lình nổi nóng chỉ vì một câu nói tầm thường của nàng. Nàng ngây người ra nhìn y. Dương Tông đã bình tĩnh trở lại: – Xin lỗi em, anh sợ bị chặt đầu, nên nói hơi lớn. – Chặt đầu thì chặt, nhưng sự thực là thế. Dương Tông giật mình: – Tại sao? Em đừng nói bậy. – Không bậy một tẹo nào cả. Yến-Loan kể nể: Những oan ức bất công đầy dẫy ra đấy. Nhưng nào ai dám đánh chuông kêu oan? Chẳng nói đâu xa, chính em đây đang bị hàm oan chồng chất, mà vua thì bị Tể-tướng bưng bít không biết gì, rồi ông ta xử oan xử ức. Vậy Chương-thánh Gia-khánh hoàng-đế nhân ở chỗ nào? Ðấy là nói về phạm luật hay không phạm luật. Còn như luật lệ đương thời là thứ luật bất nhân. Em hỏi anh câu này nhé: hiện vẫn còn biết bao nhiêu cô gái con nhà nghèo phải bán mình cho nhà giầu làm tôi tớ. Trong khi đó lại có biết bao trai trẻ không vợ? Hiện có biết bao nhiêu chủ điền bóc lột tá điền. Tại nông thôn bọn cường hào ác bá thi nhau áp chế dân. Như vậy là đức nhân ư? Mặt Dương Tông tái nhợt: – Thế em có biết thế nào là đức nhân không đã? – Anh hỏi đức nhân của nhà Phật hay của nhà Nho? – Nhà Nho mới nói nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, chứ đạo Phật chỉ nói từ bi, hỉ xả thôi. Yến-Loan cười khúc khích: – Thôi bỏ chuyện nhân đi, em hỏi chuyện khác. Hồi còn nhỏ, em có nghe kể chuyện Phật-bà chùa Hương-tích hay chuyện đức chúa Ba. Chuy sau màn. Hoàng-hậu dường như nhìn thấy cái hộp thì nổi cơn tam bành: – Ái chà chà, ghê thực. Con này thực không vừa. Rồi bà nguyền rủa những tiếng thô tục. Bà hỏi: – Cái tên Dương Tông kia có hứa hẹn cưới mi làm vợ không? Minh-Ðệ nổi máu gan lì, nàng im lặng không trả lời. Hoàng-hậu càng nổi cáu hơn: – Mi có biết cái hộp vàng chạm hai con rồng là của Thượng-Dương hoàng hậu không? Những vòng ngọc, kim cương này cũng đều là của trân bảo trong hoàng cung không? Như vậy gã họ Dương đã ăn cắp từ trong cung mang ra tặng mi. Tuy mi không ăn trộm nhưng cũng mắc tội gian nhân hiệp đảng. Lão già nói: – Tội trộm vật ở hoàng cung thì không nặng. Nhưng tội nặng nhất là kết cấu với Kinh-Nam vương với phái Ðông-a làm gian tế cho Tống. Hừ! Lão già chắp tay hướng lên trời vái ba vái: – Tạ ơn trời phật hộ trì cho Ðại-Việt, cho người ngay, nên chúng ta đã khám phá ra manh mối vụ gian tế Tống định cho người làm nội ứng, để rồi đem quân qua xâm chiếm. Mà việc này lại chính là Kinh-Nam vương Tự-Mai với phái Ðông-a chủ xướng. Việc đầu tiên là chúng thấy nhà ta ba đời trung với triều đình, lại hết tâm cần lao chính sự, nên chúng ra tay vu oan giá họa, hại gia đình ta trước. Mai ta phải tâu lên Hoàng-thượng ngay để người kịp đề phòng. Hoàng-hậu bảo Minh-Ðệ: – Tên Tự-An mấy lần xui mi trốn đi phải không? Ta nói cho mi biết, Hoàng-thượng là đấng nhân từ, nếu người xử vụ này, thì chỉ mình mi bị tội mà thôi. Còn như mi muốn trốn đi thì cứ trốn, nhưng ta sẽ cho người về bắt bố mẹ mi, em mi, họ hàng nhà mi đem về đây tùng xẻo. Mi hiểu không? Minh-Ðệ vẫn gan lì không nói, không rằng. Hoàng-hậu nói vọng ra: – Mi muốn được ta tha tội cũng không khó, chỉ cần mi thuật chi tiết vụ gặp Dương Tông ra sao nói cho ta biết mà thôi. Nếu như mi nói dối một câu, thì lập tức ta ra lệnh dùng dao rạch lên mặt mi mấy cái, thì mi sẽ biến thành con quỷ dạ xoa xấu xa kinh khiếp. Sau đó ta dong đi khắp kinh thành cho thiên hạ coi. Người ta sẽ trầm trồ chỉ chỏ: trời, bộ mặt quỷ kìa. Mi có chịu khai không? Minh-Ðệ không trả lời. Hoàng-hậu nổi giận quát: – Bay đâu, đem Yến-Loan ra, rạch lên mặt mười vết, rồi lấy vôi bôi vào cho ta, xem nó có gan được không? Võ sĩ dạ ran. Minh-Ðệ quả đã bị uy hiếp, nàng nghĩ: – Ðằng nào thì ta cũng chết. Dù ta có chết, cũng đừng để khuôn mặt kinh tởm. Nghĩ vậy, nàng nói: – Tôi xin thuật. Minh-Ðệ khoan thai thuật hết mọi chi tiết từ khi Dương Tông xuất hiện cho đến lúc lên Anh-hùng tửu lâu, không dấu một chút nào. Hoàng-hậu thở phào một tiếng rồi nói: – Mi đã thành khẩn khai thực, vậy ta cũng ban hồng ân mà tìm cách ân xá cho mi. Bây giờ ta cho mi chọn một trong hai điều. – Xin lệnh bà cứ nói. – Thứ nhất, sáng mai ta giải mi với Dương Tông về quê mi, bắt bố mi, các em mi cùng trói ở giữa chợ, rồi kể tội mi cùng kẻ gian vào cung ăn cắp. Sau đó đem mi với Dương Tông xẻo từng miếng thịt một cho đến chết. Còn bố mẹ, các em mi sẽ bị bán cho nhà giầu trong làng làm đầy tớ. Minh-Ðệ run run: – Còn điều thứ nhì? – Ngay sáng mai, ta đem Dương Tông xung quân ở châu Quảng-nguyên. Còn mi, thì mi phải viết tờ cung khai rằng: mi trốn nhà đến chùa Từ-quang ở. Ðêm đêm mi bị ép lần lượt đến từng phòng cho các sư hành dâm. Chính mi âm thầm đi mua chó, mua gà, mua thịt về nấu nướng cho các sư ăn. Mi cũng phải khai thêm: vợ chồng Kinh-Nam vương Trần Tự-Mai thường âm thầm đến chùa bàn việc với sư Viên-Chiếu. Kinh-Nam vương trao cho Viên-Chiếu rất nhiều vàng bạc, để mua chuộc kết nạp các quan trong triều ngoài biên. Họ định rằng, khi quân Tống sang, thì sư Viên-Chiếu cùng chư đệ tử với các quan nhận vàng sẽ làm nội ứng. Vì vậy Kinh-Nam vương mới dạy võ công cho mi. Ðến khi việc bại lộ, tất cả bị bắt, thì Trần Tự-An lại xuất hiện dạy Chu-sa huyền âm độc chưởng cùng thu mi làm đệ tử. Chính y sai mi ăn cắp những cơ mật về võ công của Lý Thường-Kiệt trao cho y. Sau khi mi khai như vậy, thì ta kết án rằng mi là trẻ con, bị người ta dụ dỗ, ân xá cho mi. Ta sẽ gọi bố mẹ mi lên đây, trao mi cho bố mẹ mang về quê dạy bảo. Bà ta im lặng một lát rồi nói: – Bây giờ ta tạm giam mi lại. Trong phòng giam, ta cho mi đèn, cùng giấy bút. Mi suy nghĩ, rồi quyết định. Nếu mi chọn đường thứ nhì thì giấy bút đấy, mi viết tờ khai. Sáng mai, giờ Dần mà tờ khai không xong, thì ta sẽ cho giải mi với Dương Tông đi ngay. Võ sĩ đem Minh-Ðệ đến một phòng đặc biệt khá sạch sẽ, nàng bị khóa hai chân bằng sợi xích sắt. Trong phòng có đèn đốt sáng, có án thư, với bút mực. Cạnh đó có chiếc giường. Minh-Ðệ than thầm: – Thôi thế là xong. Nhất định ta không chịu vu oan giá họa cho các thầy. Sáng mai Dương đại ca cùng ta sẽ bị giải về làng. Bố mẹ, các em ta đều bị nhục. Nàng ôn lại chuyện cũ: – Sao đời ta thực lắm gian truân. Ta có chết cũng chẳng ân hận gì. Bố ta thì coi ta như người dưng; mẹ ta, em ta coi ta như kẻ thù. Ta có sống cũng chẳng sung sướng gì, thì chi bằng chết đi cho rảnh. Bỗng có tiếng mở khóa. Minh-Ðệ giật mình, Lê Văn-Thịnh xuất hiện. Thịnh cầm ngọn nến để lên đầu án thư. Minh-Ðệ đưa con mắt lạnh lùng nhìn y. Y nhìn trước, nhìn sau không có ai, sẽ hỏi nàng: – Lê cô nương. Hồi chiều tôi có đôi điều thắc mắc muốn hỏi cô mà Tể-tướng không cho phép. Vậy cô nương có thể trả lời cho tôi một đôi câu không? – Tôi sắp bị hành hình, thì sống cũng như chết. Anh muốn hỏi điều chi? – Tôi đã đối chiêu với cô nương,n này hay lắm. Nghe đâu chép bằng chữ Khoa-đẩu, ngày nay không ai đọc được nữa. Tiếc quá. Anh là người đọc sách, anh có thuộc chuyện này không? Dương Tông thấy đang nói về chữ nhân, mà Yến-Loan lại hỏi sang chuyện khác, chàng bật cười, nhưng cũng trả lời: – Chuyện này khá hay, anh đọc hoài nên cũng nhớ được ít câu. – Anh đọc cho em nghe thử xem nào! Dương Tông đọc: Chân như đạo Phật rất mầu, Tâm trung chữ hiếu, niệm đầu chữ nhân. Hiếu là độ được đấng thân, Nhân là thoát khỏi trầm luân mọi loài.(7) Ghi chú, (7) Trích chuyện Phật bà chùa Hương, không rõ tác gỉa, không rõ thời gian viết. Nhưng tôi thấy cốt chuyện hơi giống việc công chúa Hồng-Châu em vua Lý Thái-tổ đi tu, sau là Tịnh-Huyền. Xin xem Anh hùng Tiêu-sơn của Yên-tử cư-sĩ. Yến-Loan ngắt lời: – Ủa, sao anh bảo đạo Phật không nói về chữ nhân mà? Câu nói của Yến-Loan làm Dương Tông kinh ngạc, nghĩ thầm: – Chết thực, mình tự cao, tự đại, coi thường cô bé nhà quê, bị cô ấy đưa vào bẫy rồi. Mình phải cẩn thận với cô mới được. Tiện đây mình thử hỏi ít câu, xem kiến thức của cô ấy ra sao đã. Nghĩ vậy, chàng hỏi: – Kiến thức của em thực không tầm thường. Anh không mấy chú ý đến chữ nhân trong Nho. Vậy theo Nho, chữ nhân nghĩa là gì? Chữ nhân có từ thời nào? Yến-Loan suy nghĩ một lát rồi nói: – Anh thử em đấy à? Này anh ơi, trước Khổng-tử ít thấy nói đến chữ nhân. Trong Kinh-thi, phần Nhã, Tụng, rồi sách Thượng-thư đều không thấy nói đến chữ nhân. Song tới Luận-ngữ thì chương nào cũng nói đến nhân, coi như cái đạo lớn của loài người "nhân sinh chi đạo". Nếu em nhớ không lầm thì những chương nói về chữ nhân nhiều nhất là Nhan Uyên, Tử-Lộ, Dương Hóa, Hiến-vấn, Ung Dã. Còn nhân là gì, thì thiên Ung-Dã, Khổng-tử đã nói rồi: ".. Tử-Cống hỏi Khổng-tử, tỉ như có người thi ân, bố đức cho khắp nhân gian, mà có thể giúp cho dân chúng, thì người ấy ra sao? Gọi là người nhân được không? Khổng-tử đáp: sao lại chỉ gọi là người nhân thôi? Phải gọi là bậc thánh mới đúng. Ðến như vua Nghiêu, vua Thuấn, còn làm không nổi nữa là. Người nhân là người tự lập, mà cũng giúp cho người tự lập. Mình muốn thông đạt, mà cũng giúp cho người thông đạt; lấy cách đối đãi với mình mà đối đãi với người, làm người nhân chỉ có thế thôi". (8) Như vậy chữ nhân ở đây có nghĩa là lấy cái thành của mình mà giúp cho kẻ khác; thấp hơn một chút là điều mình không muốn thì đừng làm cho người khác. Ghi chú, (8) Nguyên văn: ...Tử-Cống viết: Như hữu bác thí ư dân, nhi năng tế chúng, như hà? Khả vị nhân hồ? Tử viết: "Hà sự ư nhân? Tất dã thánh hồ! Nghiêu, Thuấn kỳ do bệnh chư! Phù nhân giả, kỉ dục lập nhi lập nhân, kỉ dục đạt nhi đạt nhân. Năng cận thủ thí, khả vị nhân chi phương dã dĩ". (Luận-ngữ, Ung-dã ) Ðỗ Oanh xen vào: – Thưa cô nương, thế thì nhân của Khổng với Phật cũng giống nhau sao? Phật dạy ta tu hành, rồi độ cho người "nguyện độ chúng nhân giai thành Phật đạo". – Ðâu có! Phật dạy ta phải nhân, phải thương xót cả kẻ có tội, thương mọi người như nhau. Khổng-tử bắt ta phải kính người nhân, xa lánh kẻ ác. Khác nhau xa lắm. Như thiên Lý-nhân người nói: "...Chỉ có bậc nhân mới biết yêu người, ghét người..." (9) Ghi chú, (9) Nguyên văn: ...Duy nhân giả năng hiếu nhân, năng ố nhân. (Luận-ngữ, Lý nhân) Yến Loan lại tiếp: – Ông lại khuyên môn đệ: "... trong nhà thì hiếu, ra ngoài thì đễ, cẩn thận cung kính mà chân tình thật ý, yêu mọi người mà thân với bậc nhân..." (10) Khi Tử-cống hỏi ông: "Người quân tử có ghét ai không?. Ông đáp: Có ghét, ghét kẻ bêu chuyện xấu của người; ghét kẻ dưới mà nói gièm người trên; ghét kẻ có sức mạnh mà không biết lễ phép; ghét kẻ ương ương làm liều để đi đến hỏng việc..." (11) Ghi chú, (10) Nguyên văn: ... nhập tắc hiếu, xuất tắc đễ, cẩn nhi tín, phiếm ái chúng nhi thân nhân. (Luận-ngữ, Lý nhân) (11) Nguyên văn: ... Tử-Cống viết: Quân tử diệc hữu ố hồ? Tử viết: Hữu ố. Ố xưng nhân chi ác giả; ố cư hạ lưu nhi sán thượng giả; ố dũng nhi vô lễ giả; ố quả cảm nhi bất trất giả. (Luận-ngữ, Dương-Hóa) Dương Tông im lặng nghe Yến-Loan nói về nhân, gương mặt tỏ ra đăm chiêu, suy nghĩ. Yến-Loan kết luận: – Thu gọn lại chữ nhân của Nho có thể tóm lược trong thiên Dương-Hóa như sau: "..Tử-Trương hỏi Khổng-tử về nhân. Khổng-tử đáp: Làm được năm điều trong thiên hạ thì là nhân. Tử-Trương hỏi: xin thầy cho biết đó là những điều gì? Ðáp: Năm điều ấy là cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Nếu mình cung kính nghiêm trang thì chẳng ai dám khinh mình. Nếu mình khoan hồng thì phục được lòng người. Nếu mình có đức tín thì người ta tin cậy mình. Nếu mình cần mẫn thì làm được việc. Nếu mình thi ân bố đức thì đủ sai khiến được người..." (12) Ghi chú, (12) Nguyên văn: ... Tử-trương vấn nhân ư Khổng-tử. Khổng-tử viết: "Năng hành ngũ giả ư thiên hạ, vi nhân hỹ". "Thỉnh vấn chi". Viết "Cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Cung tắc bất vũ. Khoan tắc đắc chúng. Tín tắc nhân niệm yên. Mãn tắc hữu công. Huệ tắc túc dĩ sử nhân". (Luận-ngữ, Dương-Hóa) Nàng nói bâng quơ: – Này, anh nghĩ ngày mai em có nên đx;'>
– Im cái mồm. Ðây là dinh tể tướng, không phải chợ hàng tôm hàng cá, mà mụ phun ra những lời đầu đường xó chợ như thế. Ta chưa tính cái tội mi với con gái tên Minh-Can giết chết con bé này. Mi biết đấy, cha mẹ giết con, thì bị tội chém đầu. Em giết chị thì bị tội chém ngang lưng. Nếu như từ nay mi với con Minh-Can còn ác độc với con bé này thì đừng trách ta. Nay ta có lời dạy dỗ mụ. – Dạ, dạ con xin nghe lời cụ lớn. – Mi đem con gái về, quản chế trong nhà, rồi kiếm người tử tế mà gả chồng. Nội trong một năm, mà mi chưa gả chồng cho nó, thì ta sẽ bỏ tù mi. Mi hiểu chưa? – Dạ, dạ, con hiểu. – Thôi vợ chồng mi đem con đi. Vợ chồng ông Thiết với Minh-Ðệ lạy ba lạy rồi lui khỏi dinh Gia-viễn quốc công. Ðã gần tháng nay rồi, Minh-Ðệ lại trở về với công việc hàng ngày của mấy năm trước: dã bèo, nấu cám lợn, giặt quần áo. Lý trưởng Thổ-lội đem con trâu mộng mà nàng mua năm trước của trường Trung-nghĩa trả nàng. Con trâu gặp lại ân nhân, nó vẫy đuôi, gầm lên mấy tiếng tỏ vẻ mừng rỡ. Từ đấy, sáng sáng nàng cỡi trâu đi quanh làng, rồi cắt cỏ cho nó ăn. Còn bà Thiết vì sợ oai Dương tể tướng, mà không dám hành hạ nàng nữa. Tuy nhiên bà bắt nàng ngủ dưới chuồng lợn, chứ không cho ngủ trên nhà. Mụ Sửu với Minh-Can thấy Minh-Ðệ xinh đẹp tuyệt trần, thì lòng thù hận càng tăng lên. Hơi tý là diếc móc, nói cạnh, nói khóe. Nhưng cả hai đều biết rằng võ công của nàng rất cao thâm, nên sợ nàng như sợ cọp, không dám đánh nàng nữa. Bà Thiết vốn ghét Minh-Ðệ, nên từ hôm nàng trở về nhà, bà không nhìn mặt, không nói với nàng một câu. Vì Gia-viễn quốc công chỉ kết tội bà với Minh-Can giết Minh-Ðệ, mà tuyệt không nói cho ông bà Thiết biết những việc xẩy ra từ khi Minh-Ðệ rời nhà, thành ra bà Thiết chỉ hiểu lờ mờ rằng sau khi Minh-Ðệ bị vứt xuống chuống hôi, thì nàng chạy đến chùa Từ-quang, rồi được sư cụ cưu mang. Nhưng vì sư cụ cùng chư tăng bị tội phạm giới, nên quan tể tướng cho nàng về với cha mẹ. Những lúc ngồi suy nghĩ lại chuyện mấy năm xa nhà, mà nàng rùng mình kinh hồn. Càng nghĩ, nàng càng thâm cảm ơn Gia-viễn quốc công Dương Ðạo-Gia đã cứu nàng thoát chết, thoát khỏi tay tên đại đạo Dương Tông. Minh-Ðệ là người ôn nhu văn nhã, nên hầu hết các thiếu nữ ngang tuổi trong làng đều chơi thân với nàng. Việc Minh-Ðệ bị ném xuống cầu tiêu, rồi đến chùa Từ-quang, ngoài Minh-Can với bà Thiết, trong làng không ai hay. Bạn bè tìm đến nhà hỏi tin nàng, thì Minh-Can ngoạc mồm ra nói: nàng hư đốn bị mẹ đuổi đi rồi. Ðôi khi ả còn ác miệng: thị ngủ với sáu nhà sư ở chùa Từ-quang, bị kết án voi dầy rồi. Bây giờ đột nhiên họ thấy nàng trở về, nhan sắc mặn mà hơn xưa, kiến thức quảng bác, họ kéo nhau tới chơi với nàng. Vì bà Thiết khó tính, không muốn cho bạn Minh-Ðệ tới chơi, nên nàng thường hẹn với họ ở miếu thổ thần, hoặc ngoài đồng, rồi nàng mượn cớ chăn trâu ra chơi với họ. Bốn người bạn thân nhất của nàng là Thanh-Thảo, Ngọc-Nam, Trinh-Dung, Ngọc-Huệ. Ðối với bốn người này, nàng không dấu diếm một chi tiết nào. Nàng kể cho họ nghe về cuộc viễn du kỳ lạ trong hai năm qua. Trinh-Dung góp ý kiến rằng trong vụ án Dương Tông dường như ẩn tàng một điều gì bí mật cực kỳ. Nàng nêu lý do: – Một là cái bà ngồi sau màn ở dinh tể-tướng là ai? Chưa chắc bà đã là Hoàng-hậu. Có khi ông Tể-tướng cho ai đó giả đóng kịch? Nếu Dương Tông là trộm cướp, thì dễ gì Thái-bảo Thường-Kiệt lại xui Minh-Ðệ đi chơi với chàng! Nếu chàng là trộm cướp sao lại có tên đánh xe ngựa kiến thức rộng mênh mông cùng võ công cao như thế? Ngọc-Huệ góp ý kiến: – Mình nghĩ chị nên tìm cách liên lạc với quan Thái-bảo Lý Thường-Kiệt, rồi kể hết mọi chuyện cho ngài nghe. Ngài là anh hùng đời nay, thì ngài có thể giải đoán ra tất cả những bí mật trong vụ này. Ngọc-Nam kể về những điều phách lối của Minh-Can đối với con gái trong tổng, trong hai năm Minh-Ðệ vắng mặt cho nàng nghe rồi kết luận: – Bây giờ, mình nghĩ chị nên chờ dịp bố mẹ đi vắng, nện cho nó một trận nhừ tử càng ra rồi cấm không được mách bố mẹ, bằng không sẽ đập chết. Như vậy từ nay chị muốn sai gì nó cũng phải nghe. Còn cái con mụ Sửu, nếu nó nói kháy, nói xa nói gần gì đến chị, chị đập cho nó một trận trước mặt bố mẹ, để bố mẹ cũng biết rằng chị không phải là con chó ghẻ. Ngọc-Huệ đề nghị: – Cái đám học trò trường Trung-nghĩa thường hợm hĩnh rằng võ công cao, văn học giỏi, lên mặt thầy ta là trung là nghĩa. Trong khi bề trong thì tên Trịnh Quang-Thạch là một thứ thái giám, tôi đòi của hậu cung, làm những chuyện phi pháp. Mình nghĩ chị nên âm thầm dạy võ cho bọn này. Ðợi một dịp nào đó, thình lình bọn này đập cho chúng nó bò lê, bò càng ra như Minh-Ðệ đập bọn Trịnh Phúc, Vũ Ðức, Vũ Ðạt, Minh-Can để chúng hết làm phách. Ý kiến đó, Minh-Ðệ nhận lời ngay. Từ đấy, mỗi đêm nàng âm thầm dạy võ cho Thanh-Thảo, Ngọc-Nam, Ngọc-Huệ, Trinh-Dung. Trinh-Dung đề nghị đặt cho năm người cái tên gì hay hay. Cuối cùng tất cả đều đồng ý với tên Hồng-hà ngũ-long. Từ hôm về nhà, mỗi tháng Minh-Ðệ vẫn lên cơn đau đớn cùng cực trong hai ngày: mồng một và ngày rằm. Nàng phải áp dụng phương pháp vận công của Tự-An để chống đau. Sau khi chịu đủ 49 lần vận công chống đau vào nửa đêm, Minh-Ðệ lấy ba viên thuốc của Thường-Kiệt uống. Nàng nghĩ thầm: – Lão trượng dạy võ cho mình là ai? Tại sao với bản lĩnh cao như vậy mà người phải giả danh đại hiệp Trần Tự-An. Người nói rằng, mỗi đêm ta lên cơn, phải vận công chống đau, đó chính là phép luyện công. Sau 49 ngày thì coi như tiểu thành, tiếp theo mỗi tháng mồng một, mười rằm lại lên cơn, trải 49 ngày thì trung thành. Ðến đây nếu không có thuốc uống thì chết. Bằng như có thuốc uống thì một năm sau cũng phải tìm người mà xin thuốc, nếu không sẽ đau trong 49 ngày rồi chết. Khi ta trốn biệt, người tưởng ta không có thuốc, ắt chết rồi. Ðâu ngờ ta vẫn sống nhăn. Nhưng ta phải làm sao giải vĩnh viễn cái ách này, chứ không thì ma chướng sẽ nhập vào ta, ta sẽ hành xử theo đường tà. Hôm ấy, vào ngày rằm, giữa đêm nàng đang ngủ, thì giật mình thức giấc vì có tiếng người lạ rón rén từ vườn đi lại phía nhà nàng. Nội công Minh-Ðệ hiện đã đến mức cao thâm. Nàng nhổm dậy nhìn ra: một bóng đen tiến đến cửa chính nhà nàng sẽ gõ hai tiếng. Có tiếng mở cửa, nàng nhìn rõ Minh-Can khép cửa, rồi cùng bóng đen dùng khinh công chạy ra sau nhà. Nàng kinh hãi vô cùng khi hai con chó Tâm-Ðức và Ðức-Tâm không xủa, mà lại vẫy đuôi mừng bóng đen. Nàng nghĩ thầm: – Thì ra tên này đến đây nhiều lần ban ngày, khiến hai con chó tưởng y là người nhà, nên không xủa nữa. Minh-Ðệ theo hai người bén gót. Tới gốc cây khế, bóng đen hỏi: – Thế nào? Việc đó ra sao? Minh-Ðệ nhận ra tiếng của đệ nhất thái-bảo trường Trung-nghĩa Ðoàn Quang-Minh. Tiếng Minh-Can trả lời: – Túi thuốc mà sư huynh đưa, muội đã bỏ vào bát canh của nó. Nó ăn hồi chiều rồi. Sáng mai nó có chết hay không mới biết được. Minh-Ðệ kinh hãi: – Không biết con này nó đánh thuốc độc ai đây? Tiếng Quang-Minh: – Phải cẩn thận lắm mới được. Không biết nó học võ với ai, mà năm trước sư huynh bại về tay nó ở dinh kinh-lược sứ Kinh-Bắc. Muội thử dò xem. – Việc gì phải dò. Sáng mai nó chết rồi. Chết là hết chuyện. Minh-Ðệ hoảng sợ: – Thì ra chúng đánh thuốc độc mình. Nhưng may mắn mình luyện Chu-sa huyền âm chưởng, nên bách độc không hại được mình. Quang-Minh nói: – Nếu quả đúng như sư muội nói, thì giờ này nó chết rồi. Vậy sư muội thử về dò xem. – Sư huynh chờ đó. Minh-Can chạy về phía chuồng lợn, thị vừa bước vào trong thì Minh-Ðệ phóng tay điểm vào huyệt Ðại-trùy của thị. Lập tức thị ngã lăn ra. Nàng khẽ đỡ thị đặt nằm xuống, hồi hướng ra ngoài hú một tiếng. Quang-Minh nghe tiếng hú, y chạy vào. Tới cửa chuồng lợn y hỏi: – Gì vậy? Minh-Ðệ lại phóng tay điểm một chỉ. Quang-Minh ngã lăn ra. Minh-Ðệ túm hai đứa băng mình về miếu thổ thần. Tới nơi, nàng lấy đá đánh lửa lên đốt vào ngọn đèn. Nàng điểm hai huyệt Khúc-trì, Dương-lăng-tuyền cho chân tay chúng tê liệt rồi giải huyệt Ðại-trùy cho chúng. Nàng nhìn hai đứa, miệng cười nhạt: – Ta không thù, không oán với bọn bay, hà cớ bay đánh thuốc độc định giết ta? Minh-Can vẫn ngang ngạnh: – Con đĩ ngựa, mi... mi điểm huyệt tao hả? Tao mách mẹ, mẹ sẽ trói mày lại cho tao đánh mày đến chết. Thị vừa nói đến đây thì phát rùng mình, rồi kêu lên tiếng ái, chân tay run rẩy, nhưng không cử động được. Tên Ðoàn cũng phát rùng mình rồi kêu lên tiếng ái. Cả hai cùng tỏ vẻ quật cường, nghiến răng để chịu đựng. Nhưng người vẫn run rẩy. Minh-Ðệ thấy tình trạng hai đứa giống hệt tình trạng của nàng hôm trước thì kinh hãi tự hỏi: – Tại sao hai đứa lại bị trúng Chu-sa huyền âm độc chưởng? Ai đã đánh chúng? Từ nãy đến giờ, chỉ có mình ta ở bên chúng, chứ có ai đâu? Nhưng nàng chợt hiểu rằng nàng đã điểm huyệt, độc tố theo chân khí của nàng nhập cơ thể chúng. Bản tính Minh-Ðệ hiền hậu, lại thâm nhiễm Phật-giáo, nên dù giết con sâu cái kiến nàng cũng không nỡ, huống hồ làm người ta đau đớn. Mạnh-tử nói: Nhân chi sơ, tính bản thiện (Con người ta sinh ra tính vốn thiện), như nước chảy chỗ trũng, nhưng sau nhiễm tính của người đời mà thành ác. Câu này đúng với trường hợp Minh-Ðệ. Từ những ngày thơ ấu bị hành hạ, làm nhục đến cùng cực, nhưng nàng vẫn chịu đựng được. Cuộc hành hạ chấm dứt khi nàng bị chết, bị vứt xuống chuồng hôi. Rồi những ngày bị hiếp đáp ở Kinh-Bắc, ở Thăng-long, đã thay đổi tính tình của nàng. Bây giờ hai kẻ thù định đánh thuốc độc cho nàng chết, bị nàng kiềm chế mà còn muốn đe dọa nàng, hỏi sao nàng có thể mủi lòng? Minh-Ðệ thản nhiên ngồi nhìn hai kẻ thù đau đớn quằn quại, rên siết. Ðến lúc đau quá không chịu được, tên Ðoàn Quang-Minh năn nỉ: – Em... em... em.. lạy... chị, em cắn cỏ lạy chị, xin chị tha cho em. Minh-Can quát lên: – Ðại sư huynh, tại sao đại sư huynh lại phải xuống nước với con ngẫn ngờ, con khốn kiếp này... Ối...ối... con khốn nạn kia, mày có thôi đi không? Minh-Ðệ thấy Minh-Can đau đến chết đi sống lại, mà còn hách dịch, nàng nghĩ thầm: – Bây giờ võ công ta không hèn, văn học ta không dở, kiến thức ta lại rộng, ta không thể là đứa con "ngu hiếu" như Tăng-tử xưa kia nữa. Ta phải làm cho vụ này đến nơi đến chốn mới được. Nghĩ vậy nàng ngồi im nhìn hai ác nhân rên rỉ. Một lát Ðoàn Quang-Minh lại năn nỉ: – Ðại cô nương, xin đại cô nương tha cho tiểu nhân. Vốn thông minh tuyệt đỉnh, khi một sự việc gì xẩy ra, chỉ liếc mắt là Minh-Ðệ đã nắm được những lẽ chính yếu, rồi biến đổi đi, thành hành động của mình. Nàng ở tù hơn năm, bị tra khảo hàng chục lần, thẩm vẩn hằng trăm lần, rồi lại bị đưa về Khu-mật viện thẩm cung, cuối cùng bị bắt bị điều tra ở phủ Gia-viễn quốc công. Bây bây giờ gặp hai ác nhân định giết mình, nàng quyết định phải hỏi cung hai đứa cho ra ba sự việc: môt là tại sao quần áo mình lại bị đem đến chùa Từ-quang hại chư tăng? Tại sao tên Minh lại có thẻ bài của Khu-mật viện? Tại sao chúng lại đánh thuốc độc giết mình? Mặc hai đứa rên rỉ, nàng nói chậm rãi: – Tha thì tha, nhưng mi phải khai hết sự thực. Bây giờ ta hỏi câu nào, mi phải nói cho đúng. Bằng không ta cứ để hai đứa bay nằm đây cho đau đớn đến chết. Mi hiểught:10px;'>